Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

QUOC PHONG AN NINH K15

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.97 KB, 16 trang )

QUỐC PHỊNG-AN NINH
1. Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X của đảng chỉ rõ: “Xây dựng nền quốc phịng tồn dân
và an ninh nhân dân vững mạnh tồn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa...”. Bằng
kiến thức mơn quốc phịng an ninh đã học anh, chị hãy làm sáng tỏ quan điểm trên. Liên hệ thực
tế địa phương các anh, chị?
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ TQVN- XHCN cần phải có sức mạnh tổng hợp, một trong những
yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp đó là phải có được nền QPTD - ANND vững mạnh toàn diện. Sức
mạnh tổng hợp của cả nước chỉ có được khi mọi cơng dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp, mọi
ngành ý thức đầy đủ được nghĩa vụ, trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng nền QPTD- ANND. Từ
đó vận dụng vào thực tiễn thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc TQVNXHCN trong thời kỳ mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của đảng chỉ rõ: “Xây dựng nền quốc
phịng tồn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa...”.Vậy, quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân hiểu như thế nào là đúng?
Quốc phịng tồn dân là nền quốc phịng mang tính chất “vì dân, của dân”, phát triển theo phương
hướng tồn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ
kinh tế với quốc phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, do
nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hồ bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng đánh bại mọi hành động
xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc, phản động, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt nam
xã hội chủ nghĩa. “Nền quốc phịng tồn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước được xây dựng
trên nền tảng nhân lực, tinh thần mang tính chất toàn dân, toàn diện độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.”
An ninh nhân dân là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân tiến hành, lực lượng an ninh nhân dân
làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước. Kết hợp phong trào toàn dân bảo
vệ an ninh Tổ quốc với các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng chuyên trách, nhằm đập tan mọi âm
mưu và hành động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, cùng vói tồn dân bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa. “Bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân Việt nam có vai
trị nịng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. An ninh quốc gia có nhiệm vụ đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu của hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ Đảng, chính quyền, các lực lượng vũ trang và nhân dân”. Nền an ninh là sức mạnh về tinh thần,vật
chất, sự đoàn kết và truyền thống dựng nước, giữ nước của toàn dân tộc được huy động vào sự nghiệp
bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh nhân dân làm nịng cốt.


Ngày nay, trong tình hình mới đứng trước u cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Nhận thức và trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp, các ngành, các tổ chức
chính trị -xã hội đối với cơng tác quốc phịng, an ninh và xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận
QPTD, thế trận an ninh nhân dân đã có bước chuyển biến tích cực. Nội dung, phương thức xây dựng
thế trận QP-AN được tổ chức chuẩn bị và triển khai tương đối toàn diện cả về tiềm lực và thế trận. Vì
vậy, thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn địa phương, khu vực đã được tổ
chức, xây dựng bằng sức mạnh tổng hợp từng bước tạo thế trận vững chắc trên từng hướng, từng khu
vực phòng thủ.
Tuy vậy, nhận thức và trách nhiệm của một số bộ, ban, ngành, địa phương, đoàn thể chưa thật đầy
đủ về xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD và thế trận QP-AN trong tình hình mới. Cơ chế chỉ đạo,
điều hành, quản lý chưa thống nhất, thiếu đồng bộ; tổ chức thế trận QP-AN trên từng khu vực phòng
thủ địa phương chưa thật hợp lý. Vai trị nịng cốt của Qn đội và Cơng an trong xây dựng thế trận
QP-AN trên các hướng (khu vực) trọng điểm chiến lược chưa được phát huy đầy đủ; sự phối hợp hoạt
động giữa công tác bảo đảm an ninh trật tự an toàn xã hội tại chỗ với các ngành KT -XH chưa đáp ứng
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

1


yêu cầu nhiệm vụ mới. Tiềm lực và thế trận QP-AN để BVTQ chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nhiệm
vụ quốc phịng.
Trong giai đoạn cách mạng mới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức
tạp, tiềm ẩn những yếu tố khó lường. Đối với nước ta, các thế lực thù địch đang ráo riết chống phá sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta, chủ yếu bằng chiến lược "Diễn biến hịa bình", “bạo loạn lật đổ”
kết hợp với can thiệp… nhằm xoá bỏ chế độ CNXH ở Việt Nam, xố bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, chuyển hoá cách mạng nước ta đi chệch hướng XHCN. Các hành động xâm hại chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của nước ta vẫn tiếp diễn dưới nhiều hình thức, âm mưu và thủ đoạn hết sức tinh vi...
Điều đó đặt ra cho nhiệm vụ xây dựng nền QPTD, thế trận QPTD và thế trận QP-AN để BVTQ là rất
nặng nề.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng cũng khẳng định vai trò của QP-AN với tư cách là từng

mặt trận cũng như là các lực lượng tạo thành một thế trận cách mạng. Xây dựng nền QPTD, thế trận
ANND; xây dựng tiềm lực và thế trận QP-AN phải dựa vào thế và lực của đất nước, trên cơ sở đó góp
phần làm tăng thêm tiềm lực QP-AN cho đất nước.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn hiện nay là: “ Bảo vệ vững chắc
tổ quốc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã
hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an tồn xã hội; giữ vững ổn định chính trị đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi
và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”. Từ đó, đưa
ra mục tiêu cụ thể là:
Thứ nhất, về chính trị. Bảo vệ vai trị lãnh đạo của Đảng CSVN và hiệu lực quản lý của nhà nước
đối với toàn xã hội, bảo vệ mục tiêu và con đường phát triển theo định hướng XHCN mà Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn ;
Thứ hai, về kinh tế xã hội. Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững và có hiệu quả theo định hướng
XHCN ;
Thứ ba, về tư tưởng văn hóa. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của cách mạng và của Đảng là chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh ;
Thứ tư, về đối ngoại. Đảm bảo giữ vững độc lập, tự chủ và lợi ích quốc gia, dân tộc trong q
trình mở rộng hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế ;
Thứ năm, về quốc phòng an ninh. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất và tòan vẹn
lãnh thổ; bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực: bao gồm cả an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, chủ
quyền lãnh thổ, dân cư, mơi trường...của quốc gia.
Thực tế những năm qua cho chúng ta thấy, sự kết hợp hoạt động của Quân đội và Công an đã trở
thành chiến lược tổng thể, thống nhất giữa nhiệm vụ phát triển KT -XH với bảo vệ an ninh, trật tự, an
tồn xã hội và củng cố quốc phịng bảo vệ đất nước. Bảo vệ tốt an ninh, trật tự xã hội, giữ vững ổn
định chính trị là đảm bảo vững chắc cho quốc phịng, xóa bỏ những yếu tố có thể dẫn đến xung đột vũ
trang, bạo loạn….
Xây dựng thế trận QP-AN vừa là nhiệm vụ, vừa là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và
BVTQ Việt Nam XHCN, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn dân, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó Cơng an nhân dân và Quân đội nhân dân là lực lượng nòng
cốt. Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là xây dựng đất nước vững bước tiến lên

CNXH, đồng thời bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng đã đạt được.
Nguyên tắc trong xây dựng thế trận QP-AN của Đảng và Nhà nước ta là phát huy nội lực, giữ vững
sự ổn định chính trị, khơng dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, giải quyết các bất đồng và tranh chấp
bằng thương lượng hồ bình, chống mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Phương châm của Đảng và Nhà nước ta trong hội nhập quốc tế là chủ động, có lộ trình thích hợp để
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

2


đảm bảo các yêu cầu về QP-AN giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, phù hợp với sự phát triển
của đất nước.
Những nguyên tắc và phương châm nêu trên thể hiện rõ sự coi trọng các yêu cầu về tăng cường sức
mạnh QP-AN trong điều kiện mới. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa QP-AN sẽ góp phần giữ vững và
củng cố độc lập tự chủ, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc trước mọi điều kiện, đồng
thời vững bước tiến lên trên con đường đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước và hội nhập
quốc tế. Việc xây dựng nền quốc phòng tòan dân và an ninh nhân dân không chỉ là sự liên quan mật
thiết với nhau, mà cịn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi lẽ, chỉ có thể tạo ra được sức mạnh
tổng hợp khi thực sự coi và vận dụng chặt chẽ mối quan hệ giữa QP-AN với phát triển KT-XH là thành
tố của một thể thống nhất, đó là chiến lược phát triển và bảo vệ đất nước trong tình hình mới.
Để tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, trong việc xây
dựng nền QP-AN bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới, cần tiếp tục kế thừa những
kinh nghiệm trước đó và phấn đấu thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, xác định rõ nhiệm vụ xây dựng nền quốc phịng tồn dân gắn với thế trận quốc phòng, an
ninh trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân để tăng cường tiềm lực
quốc phòng của đất nước.
Ba là, xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh trong mối liên hệ giữa hội nhập quốc tế và giữ vững
độc lập tự chủ, bản sắc dân tộc.
Bốn là, xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh sao cho phát huy được nội lực, tranh thủ được sức

mạnh của thời đại và kết hợp sức mạnh thời đại với sức mạnh dân tộc.
Năm là, trên cơ sở xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân để tạo dựng
và tham gia vào những hình thức tập hợp lực lượng có lợi cho sự phát triển toàn diện của đất nước.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng từ trước đến nay, thế trận QPTD ln đóng vai trị quan trọng và
có đóng góp xứng đáng vào thành quả của cách mạng, luôn phục vụ đắc lực cho nhiệm vụ bảo vệ
BVTQ, luôn sát cánh cùng các lực lượng vũ trang dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Bài học
thành công ấy sẽ được tiếp tục và phát huy trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước, trong q
trình tồn Đảng, tồn dân và tồn quân ta đang thi đua thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nước trong xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
Liên hệ trong tỉnh Tây Ninh, những năm qua công tác quốc phòng - an ninh đã đạt được một số
thành tựu, đó là:
Nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phòng tòan dân và thế trận an ninh nhân dân tiếp tục củng
cố vững chắc. Xây dựng lực lượng Quân sự, Cơng an, Biên phịng vững mạnh theo hướng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại. Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, triển khai thực hiện
đạt kết quả một số cơng trình, dự án xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh giai đoạn 2003 – 2010.
Thực hiện tốt cơng tác quốc phịng địa phương, chính sách hậu phương quân đội và công tác dân
vận của lực lượng vũ trang; thực hiện tốt cơng tác tìm kiếm, quy tập, an táng hài cốt liệt sĩ quân tình
nguyện Việt Nam hy sinh trong các thời kỳ ở Campuchia về nước.
Coi trọng việc xây dựng, huấn luyện, tổ chức diễn tập cho các lực lượng thường trực, lực lượng dự
bị động viên và dân quân tự vệ. Xây dựng, củng cố các tổ chức quần chúng làm công tác an ninh ở cơ
sở; đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, tai nạn, tệ nạn xã hội, tạo sự chuyển
biến tích cực; đã kiềm chế kéo giảm một số loại tội phạm, tệ nạn xã hội và kéo giảm mạnh tai nạn giao
thông trên cả ba mặt. Bảo đảm an ninh nông thôn, an ninh tôn giáo, an ninh dân tộc.
Quan hệ đối ngoại và hợp tác với các tỉnh Campuchia có chung đưởng biên giới được củng cố, mở
rộng, ngày càng đi vào chiều sâu. Công tác phân giới cắm mốc được tập trung chỉ đạo và đạt kết quả
tích cực.
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15
3



Tuy nhiên, cơng tác An ninh - Quốc phịng trong tỉnh vẫn cịn một số hạn chế yếu kém, đó là:
Cơng tác quốc phịng địa phương có mặt cịn hạn chế; cơng tác tun truyền, giáo dục kiến thức
quốc phịng chưa đẩy mạnh thường xuyên rộng khắp; chất lượng lực lượng dự bị động viên, dân quân
tự vệ có mặt chưa cao; sự phối hợp giữa các lực lượng chức năng trên biên giới có lúc chưa chặt chẽ.
Tiến độ thực hiện dự án khu vực phòng thủ tỉnh giai đoạn 2003 – 2010 cịn chậm.
Tình hình tội phạm, tai nạn, tệ nạn xã hội có lúc, có nơi diễn biến phức tạp. kết quả thực hiện
chương trình mục tiêu “4 giảm” có mặt cịn hạn chế, chưa kéo giảm đồng bộ cả bốn mục tiêu. Tai nạn
giao thông tuy được kéo giảm mạnh song chưa thật sự vững chắc, số người chết cịn ở mức cao.
An ninh nơng thơn cịn tiềm ẩn những yếu tố bất ơn chưa giải quyết triệt để, nhất là tình trạng tranh
chấp, bất đồng trong nhân dân, tình trạng thanh thiếu niên hư hỏng có xu hướng gia tăng. Cơng tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo còn những mặt hạn chế, yếu kém; một số vụ việc tồn đọng, kéo dài giải quyết
chưa dứt điểm quyền của từng ngành, từng cấp.
Từ những thực trạng về cơng tác quốc phịng an ninh của tỉnh, trước những địi hỏi cáp bách về
đảm bảo cơng tác quốc phòng tòan dân và thế trận an ninh nhân dân hiện nay, tỉnh Tây Ninh cần phải
có những giải pháp thiết thực để tăng cường, củng cố quốc phòng an ninh vững chắc, đó là:
Một là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an
ninh cho các đối tượng, nhằm nâng cao nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an tịan xã hội trong tình hình mới trong mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và các tầng lớp nhân
dân. Tăng cường cơng tác giáo dục, nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng trong cán bộ, chiến sĩ các lực
lượng vũ trang địa phương. Nâng cao tính kỷ lưật, kỷ cương trong các đơn vị lực lượng vũ trang.
Hai là, củng cố nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân
và thế trận lòng dân vững chắc. Quan tâm củng cố, xây dựng và nâng cao chất lượng họat động của lực
lượng dân quân, tự vệ, bảo vệ dân phố, các tổ dân cư tự quản ở địa phương.
Ba là, Xây dựng tiềm lực quốc phòng - an ninh; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng
cố quốc phòng - an ninh trong hoạch định chính sách cũng như trong triển khai thực hiện các dự án
phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Tiếp tục thực hiện đẩy mạnh có hiệu quả dự án xây dựng tỉnh thành
khu vực phòng thủ vững chắc.
Bốn là, quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện cho các
lực lượng quân sự, công an, biên phòng từng bước đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.
Năm là, tăng cường, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, diễn tập, phối hợp, hiệp đồng, nâng

cao khả năng cơ động, sẵn sàng chiến đầu cao của các lực lượng qn sự, cơng an, biên phịng.
Sáu là, đẩy mạnh và nâng cao công tác vận động quần chúng, công tác đối ngoại của lực lượng vũ
trang địa phương.
Bảy là, đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng; tăng gia, sản xuất, gióp phần cải thiện, nâng cao
đời sống cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang.
Tóm lại, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ TQVN- XHCN cần phải có sức mạnh tổng hợp, một trong
những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp đó là phải có được nền QPTD - ANND vững mạnh toàn diện.
Sức mạnh tổng hợp của cả nước chỉ có được khi mọi công dân, mọi tổ chức, mọi lực lượng, mọi cấp,
mọi ngành ý thức đầy đủ được nghĩa vụ, trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng nền QPTD- ANND.
Từ đó vận dụng vào thực tiễn thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc
TQVN- XHCN trong thời kỳ mới./.

Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

4


2. Anh, chị hãy làm sáng tỏ quan điểm đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của đảng:” Tăng
cường quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh trên phạm vi cả nước và từng địa phương, cơ
sở, đưa nhiệm vụ đó vào chương trình chính khóa đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức”. Liên hệ
thực tế địa phương các anh, chị?
Quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, một bộ phận rất quan trọng trong tổng thể quản lý quốc
gia của nhà nước XHCN. Trách nhiệm quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh khơng chỉ thuộc về
Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an mà là của các bộ, ngành và chính quyền từ trung ương đến địa phương.
Chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phịng, an ninh có vai trị hết sức quan trọng đối với sự
nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân
dân bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Thấy rõ tầm quan trọng đó tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ IX của Đảng khẳng định: “Tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng và an ninh trên phạm vi
cả nước và từng địa phương, cơ sở, đưa nhiệm vụ đó vào chương trình chính khóa đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, cơng chức”.

Quản lý nhà nước về quốc phịng-an ninh là q trình nắm và điều hành bằng pháp luật, chính sách,
kế hoạch và các công cụ khác của Nhà nước trong mọi lĩnh vực, mọi họat động xã hội có quan hệ đến
việc giữ gìn, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia, do hệ thống các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ,
phạm vi quyền hạn của mỗi cơ quan.
Chủ thể quản lý về QP-AN bao gồm các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, trong đó
nịng cốt là các cơ quan quản lý nhà nước. Tồn dân và các đồn thể chính trị - xã hội tích cực tham gia
vào các hoạt động quản lý nhà nước về QP-AN dưới nhiều hình thức khác nhau theo cơ chế Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Khách thể quản lý Nhà nước về QP-AN bao gồm tổng thể
các lĩnh vực, các hoạt động xây dựng nền QPTD, nền ANND và đấu tranh quốc phòng, đấu tranh an
ninh và tất cả các hoạt động xã hội có liên quan đến việc giữ gìn, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, của các cơ quan nhà nước và của nhân dân. Lĩnh vực QP-AN có những nét đặc
thù riêng như: Tính nghiêm túc, khẩn trương, tính thống nhất, tập trung, tính bí mật cao, tính biến
động, phức tạp lớn, tính đối kháng quyết liệt, tính pháp lệnh cao. Các đặc điểm trên địi hỏi cơng tác
quản lý nhà nước phải hết sức khoa học, đồng bộ, cụ thể, chặt chẽ và nghiêm túc.
Quản lý nhà nước về QP-AN là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của quản lý nhà nước nói
chung là vấn đề rất quan trọng của sự nghiệp xây dựng và BVTQ, là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị và của tồn Đảng, tồn dân, trong đó Qn đội nhân dân và Cơng an nhân dân có vai trị đặc biệt
quan trọng.
Những u cầu trong cơng tác quản lý nhà nước về an ninh-quốc phịng:
Một là, nắm vững bản chất chính trị, bản chất giai cấp của quản lý nhà nước về quốc phòng-an
ninh;
Hai là, quản lý nhà nước về quốc phòng-an ninh phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt của Đảng CSVN; phải ln qn triệt, cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng về quốc
phòng-an ninh trong tịan bộ q trình quản lý nhà nước về quốc phòng-an ninh;
Ba là, quản lý nhà nước về quốc phòng-an ninh phải được thường xuyên kết hợp một cách chặt chẽ
với tổ chức, quản lý cácv mặt khác, trong lĩnh vực trong xã hội;
Bốn là, quản lý nhà nước về quốc phịng-an ninh phải nhằm mục tiêu ln đảm bảo cho đất nước
hịa bình, ổn định trên mọi lĩnh vực, khơng bị bất ngờ trong mọi tình huống, sẵn sàng đánh thắng mọi
âm mưu phá hoại của kẻ địch, mọi cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực phảnm động đối với

nước ta;
Năm là, quản lý nhà nước về quốc phòng-an ninh phải thực hiện trên cơ sở luật pháp, kế hoạch,
chính sách thống nhất; có sự phân cơng, phân nhiệm rõ ràng ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương.
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

5


Quốc phòng, an ninh được thể hiện ở đây rất nhiều nội dung, nhiều công việc, nhiều hiện tượng.
QP-AN mang bản chất chính trị, giai cấp sâu sắc. Chính vì vậy, nội dung quản lý nhà nước về QP-AN
cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc. Quản lý nhà nước về QP-AN ở nước ta mang bản chất giai cấp
công nhân, do các cơ quan nhà nước của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thực hiện, dưới sụ lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay bản chất đó được biểu hiện ở mục
tiêu quản lý làm sao bảo vệ vững chắc công cuộc đổi mới, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ
độc lập dân tộc và CNXH ở Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay là: " bảo vệ
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN” là một
trong hai nhiện vụ chiến lược. Nghị quyết cũng khẳng định: "Tăng cường quốc phòng, giữ vững an
ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân, trong đó Qn đội nhân dân và Cơng an nhân dân là lực lượng nòng cốt”.
Nhiệm vụ QP-AN hiện nay được hoàn thành tốt phụ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan, chủ
quan. Để góp phần vào thắng lợi của nhiệm vụ quản lý nhà nước về QP-AN cần nắm vững những nội
dung cơ bản của công tác quản lý sau đây:
Thứ nhất, các cơ quan chức năng kịp thời ban hành, hướng dẫn các văn bản pháp luật liên quan
đến đến quản lý nhà nước về QP-AN trên phạm vi cả nước cũng như đối với từng ngành, từng cấp, bảo
đảm tính nhất quán và thống nhất.
Thứ hai, xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch quản lý nhà nước về QP-AN trên phạm vi cả
nước cũng như đối với từng bộ, ngành, từng cấp.
Thứ ba, xác định trách nhiệm quản lý nhà nước về QP-AN đối với các cơ quan quản lý nhà nước,
các cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước về QP-AN, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách thực

hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về QP-AN.
Thứ tư, hoàn thiện cơ chế, luật pháp tổ chức quản lý nhà nước về QP-AN. Tiến hành thanh tra,
kiểm tra thường xuyên hoặc định kỳ công tác quản lý nhà nước về QP-AN. Sơ kết, tổng kết công tác
quản lý nhà nước về QP-AN theo định kỳ ở các cấp, các bộ, nghành cũng như ở Trung ương và địa
phương.
Quản lý nhà nước về QP-AN có vai trị hết sức quan trọng trong nâng cao chất lượng, hiệu quả sự
nghiệp xây dựng nền QPTD, ANND và có vai trị hết sức quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và
BVTQ Việt Nam XHCN trong tình hình mới. Mỗi cán bộ của Đảng, Nhà nước, qn đội, cơng an, các
ban, ngành, đồn thể cần nắm vững những mục tiêu, yêu cầu, nội dung, cơ chế tổ chức quản lý nhà
nước về QP-AN; nắm vững bốn phương pháp quản lý như: phương pháp tổ chức, phương pháp kinh tế,
phương pháp hành chính và phưong pháp giáo dục thuyết phục để quản lý theo ngành, theo địa phương
hoặc kết hợp giữa quản lý ngành và địa phương. Bốn phương pháp này cần phải có sự kết hợp chặt
chẽ, trong đó phưong pháp giáo dục thuyết phục là hàng đầu cần sử dụng thường xuyên và rộng rãi.
Các biện pháp tổ chức, kinh tế, hành chính là quan trọng, cần vận dụng cho thích hợp trong những điều
kiện, trường hợp cụ thể.
Đối với địa phương việc thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về quốc phòng-an ninh phải đảm
bảo các yếu tố sau:
Tổ chức quản lý nhà nước về quốc phòng an ninh trong hệ thống quân sự, công an các cấp trong
tỉnh với chức năng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và trực tiếp tổ chức thực hiện mọi công tác quân
sự cũng như quản lý nhà nước về quốc phòng-an ninh tại địa phương. Quán triệt, triển khai thực hiện
tốt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quốc phòng.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác giáo dục quốc phịng- an ninh. Tăng cường tiềm lực quốc
phòng, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ quốc phòng với xây dựng phát triển kinh tế- xã hội. xây dựng lực
lượng vũ trang địa phương và công tác động viên, tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ. Tăng cường hiệu
lực quản lý Nhà nước về quốc phòng Bảo đảm ngân sách chi nhiệm vụ quốc phòng.
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

6



Đảm bảo mối quan hệ giữa Bộ quốc phòng, Bộ công an với các bộ, ngành, địa phương. Cơ quan
quân sự địa phương các cấp có trách nhiệm chấp hành chế độ xin ý kiến, báo cáo với Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp và cơ quan quân sự cấp trên theo quy chế làm việc của Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân mỗi cấp và quy định của Bộ quốc phịng.
Cơng tác giáo dục quốc phòng-an ninh giữ vai trò rất quan trọng để thực hiện cơng tác quốc phịng
- an ninh và quản lý nhà nước về quốc phòng an ninh. Trong thời gian qua cơng tác giáo dục quốc
phịng-an ninh đã được triển khai ở các cấp, các ngành, các địa phương bước đầu đạt kết quả, góp phần
nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng và trách nhiệm bảo vệ tổ quốc. Để đáp ứng với yêu cầu sự
nghiệp quốc phòng-an ninh trong thời kỳ mới, cần tăng cường công tác giáo dục quốc phịng-an ninh
cho tồn dân, cho cán bộ các cấp, các ngành, đưa công tác này vào nề nếp, thường xuyên nhằm nâng
cao nhận thức và trách nhiệm đối với mọi người trong công tác này.
Hiện nay việc tổ chức thực hiện Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 3/5/2007 của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác giáo dục quốc phịng - an ninh trong tình hình mới; Nghị
định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10/7/2007 của Chính phủ về giáo dục quốc phịng - an ninh. Nhận thức
là cơ sở của hành động. Vì vậy, tuyên truyền, phổ biến các văn bản QPPL về quốc phịng, làm cho mọi
cơng dân hiểu rõ, tin tưởng và tự giác chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước về quốc phịng, là một nội dung rất quan trọng. Để làm tốt nội dung này, trên cơ sở có sự tham
mưu của cơ quan quân sự cùng cấp, chính quyền các cấp cần chủ động xây dựng và triển khai thực
hiện kế hoạch tuyên truyền, phổ biến các văn bản QPPL về quốc phòng. Về nội dung tuyên truyền cần
phải chú ý, như: Luật Quốc phòng, Luật An ninh quốc gia, Luật Dân quân tự vệ, Luật Nghĩa vụ quân
sự, Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước…, từng địa phương còn phải bám sát đặc điểm, nhiệm vụ, yêu
cầu về QP-AN của địa phương mình để xây dựng nội dung tuyên truyền cho phù hợp. Chẳng hạn, với
các tỉnh biên giới cần phải đặc biệt chú trọng Luật Biên giới và Pháp lệnh Bộ đội Biên phịng; các địa
phương có đồng bào theo đạo cần tập trung tuyên truyền Pháp lệnh Tôn giáo; các tỉnh ven biển và các
đơn vị, tổ chức thường xuyên hoạt động trên biển thì nội dung tuyên truyền phải tập trung vào Pháp
lệnh Cảnh sát biển Việt Nam. Công ước về Luật Biển của Liên hợp quốc năm 1982,v.v.
Đi đơi với xây dựng nội dung, chương trình học tập trung, ngồi việc tổ chức các lớp học về quốc
phịng an ninh cho các đối tượng từ 1 đến 5 (từ lãnh đạo cấp tỉnh đến cán bộ công chức) thì việc kết
hợp nhiều phương thức tuyên truyền, phổ biến các văn bản QPPL về quốc phòng là rất cần thiết.
Phương thức tuyên truyền, phổ biến các văn bản QPPL về quốc phịng như thơng qua các phương tiện

truyền thơng, báo chí và các phương thức khác như: Thi tìm hiểu, mở diễn đàn, thi kể chuyện, in "tờ
rơi”, lập tủ sách pháp luật…, cũng mang lại hiệu quả tốt. Trên thực tế, nhiều địa phương đã làm tốt
công tác này bằng cách gắn liền với nhiệm vụ và thời điểm cụ thể, nhất là vào trước các thời điểm: gọi
thanh niên nhập ngũ, diễn tập khu vực phòng thủ, diễn tập trị an, diễn tập chuyên ngành, diễn tập
phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn.
Liên hệ tỉnh Tây Ninh thì cơng tác quản lý nhà nước về quốc phịng là một trong những nội dung
quan trọng, có ý nghĩa trực tiếp, quyết định đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Nhận thức rõ điều đó, những năm qua, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh đã
lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các cấp thực hiện nghiêm túc những chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, quy định của Nhà nước về quốc phịng; trong đó, cơng tác quản lý nhà nước về quốc phòng là
một nhiệm vụ trọng tâm. Theo đó, cơng tác quan trọng này đã được tỉnh thực hiện nghiêm túc, ngày
càng nền nếp, ổn định; vai trò tham mưu của cơ quan quân sự các cấp được phát huy; ý thức chấp hành
pháp luật Nhà nước và các quy phạm pháp luật về quốc phòng được thực hiện có chất lượng, góp phần
duy trì nghiêm kỷ cương pháp luật; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, Với
sự tham mưu đắc lực của cơ quan quân sự, Tây Ninh đã ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện và
giao chỉ tiêu cụ thể cho cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành tổ chức triển khai việc học tập, bồi
dưỡng kiến thức về pháp luật, về QP-AN cho các đối tượng cán bộ theo quy định. Thông qua việc ban
hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện, công tác giáo dục QP-AN đạt được nhiều tiến bộ, góp
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

7


phần tạo sự đồng thuận của toàn xã hội đối với nhiệm vụ quốc phòng, quân sự ở địa phương. Cán bộ,
đảng viên và nhân dân đã có chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động.
Tuy nhiên, cơng tác quốc phịng địa phương có mặt cịn hạn chế; cơng tác tun truyền, giáo dục
kiến thức quốc phịng chưa đẩy mạnh thường xuyên rộng khắp; chất lượng lực lượng dự bị động viên,
dân quân tự vệ có mặt chưa cao; sự phối hợp giữa các lực lượng chức năng trên biên giới có lúc chưa
chặt chẽ.
Tiến độ thực hiện dự án khu vực phòng thủ tỉnh giai đoạn 2003 – 2010 cịn chậm.

An ninh nơng thơn cịn tiềm ẩn những yếu tố bất ôn chưa giải quyết triệt để, nhất là tình trạng tranh
chấp, bất đồng trong nhân dân, tình trạng thanh thiếu niên hư hỏng có xu hướng gia tăng. Công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo còn những mặt hạn chế, yếu kém; một số vụ việc tồn đọng, kéo dài giải quyết
chưa dứt điểm quyền của từng ngành, từng cấp.
Giải pháp thiết thực để tăng cường, củng cố quốc phòng an ninh vững chắc ở Tây Ninh, đó là:
Một là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an
ninh cho các đối tượng, nhằm nâng cao nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an tịan xã hội trong tình hình mới trong mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và các tầng lớp nhân
dân. Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng trong cán bộ, chiến sĩ các lực
lượng vũ trang địa phương. Nâng cao tính kỷ lưật, kỷ cương trong các đơn vị lực lượng vũ trang.
Hai là, củng cố nền quốc phòng tòan dân, thế trận quốc phòng tòan dân, thế trận an ninh nhân dân
và thế trận lòng dân vững chắc. Quan tâm củng cố, xây dựng và nâng cao chất lượnmg họat động của
lực lượng dân quân, tự vệ, bảo vệ dân phố, các tổ dân cư tự quản ở địa phương.
Ba là, Xây dựng tiềm lực quốc phòng,an ninh; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố
quốc phòng,an ninh trong hoạch định chính sách cũng như trong triển khai thực hiện các dự án phát
triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Tiếp tục thực hiện đẩy mạnh có hiệu quả Dự án xây dựng tỉnh thành khu
vực phòng thủ vững chắc.
Bốn là, quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện cho các
lực lượng qn sự, cơng an, biên phịng từng bước đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.
Năm là, tăng cường, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, diễn tập, phối hợp, hiệp đồng, nâng
cao khả năng cơ động, sẵn sàng chiến đầu cao của các lực lượng quân sự, công an, biên phịng.
Sáu là, đẩy mạnh và nâng cao cơng tác vận động quần chúng, công tác đối ngoại của lực lượng vũ
trang địa phương.
Bảy là, đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng; tăng gia, sản xuất, gióp phần cải thiện, nâng cao
đời sống cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang.
Tóm lại, quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, một bộ phận rất quan trọng trong tổng thể quản
lý quốc gia của nhà nước XHCN. Trách nhiệm quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh khơng chỉ
thuộc về Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an mà là của các bộ, ngành và chính quyền từ trung ương đến địa
phương. Chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước về quốc phịng, an ninh có vai trị hết sức quan trọng
đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phịng tồn dân, thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an

ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới./.

Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

8


3. Anh, chị hãy làm sáng tỏ quan điểm đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của đảng : “Kết
hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh theo phương châm phát triển kinh tế - xã
hội là nền tảng để bảo vệ tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc phịng, an ninh vững mạnh là
điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội...”. Liên hệ thực tế địa phương các anh, chị?
Kinh tế, quốc phòng, an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia, dân tộc có độc lập,
chủ quyền, mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động và quy luật riêng, song giữa chúng có mối
quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Ăngghen đã khẳng định “Thất bại hay thắng lợi của
chiến tranh đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế”. Vì vậy, để xây dựng quốc phịng - an ninh vững
mạnh thì phải xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Quan điểm đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của đảng: “Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh theo phương châm phát triển
kinh tế - xã hội là nền tảng để bảo vệ tổ quốc; ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh vững
mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội...”.
Kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng-an ninh là tất yếu khách quan. Chủ
nghiã Mác-Lênin đã chỉ rõ: kinh tế và quốc phòng-an ninh là hai lĩnh vực hoạt động khác nhau và tuân
theo quy luật khác nhau, nhưng giữa chúng ln có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau,
hỗ trợ và tạo điều kiện cho nhau cùng tồn tại, phát triển trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp,
đấu tranh dân tộc. Trong mối quan hệ đó, kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò quyết định; quốc phòng-an
ninh chịu sự chi phối và phụ thuộc vào kinh tế nhưng cũng có tác động tích cực trở lại đối với kinh tế,
bảo vệ và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Đối với nước ta, Đảng ta đã chỉ rõ Cách mạng Việt Nam ngày nay có hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với
tăng cường quốc phòng-an ninh về thực chất là sự cụ thể hóa trên thực tế việc quán triệt và thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược đó. Trong mối quan hệ về phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường

quốc phịng-an ninh thì xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm và giữ vai trò quyết
định, tạo tiền đề và làm cơ sở để củng cố, tăng cường quốc phòng-an ninh cho bảo vệ Tổ quốc. Ngược
lại, củng cố quốc phòng an ninh vững mạnh sẽ là điều kiện giữ vững hịa bình ổn định, tạo mơi trường
thuận lợi cho xây dựng đất nước, phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, an
ninh quốc gia và chế độ XHCN.
Quan điểm chỉ đạo kết hợp kinh tế với quốc phòng-an ninh theo tư tưởng Đại hội IX là kết hợp
phải tòan diện, cơ bản, lâu dài ngay từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
với tăng cường quốc hòng-an ninh trên phạm vi cả nước, từng vùng, từng ngành và từng địa phương.
Tập trung trọng điểm vào các địa bàn chiến lược trọng yếu và ngay cả trong thời bình nhưng vẫn sẵn
sàng điều chỉnh thích` ứng với thời chiến. Xem công tác kết hợp này là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý điều hành với hệ thống pháp luật, chính sách đồng bộ, phù hợp trong
thời kỳ mới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011) vừa được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ rõ: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một trong những mối quan hệ lớn mà Đảng ta phải đặc biệt chú trọng nắm
vững và giải quyết. Nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như vậy đã đưa tới
những chủ trương nhất quán và không ngừng phát triển của Đảng ta về sự kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong thời kỳ mới.
Trước hết, sự phát triển đó được thể hiện ở quan điểm của Đảng ta về “Sự ổn định và phát triển
bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh ”. Trong
thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, kinh tế - xã hội phát triển, tăng trưởng kinh tế không
chỉ tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực kinh tế cho tăng cường tiềm lực quốc phịng, mà cịn tạo cơ
sở chính trị - xã hội thuận lợi cho việc nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn dân đối với nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đại hội Đảng lần thứ XI đã phát triển nhận thức đó ở chỗ, coi sự ổn
định và phát triển bền vững của đất nước là nền tảng của quốc phòng - an ninh. Chúng ta hiểu rằng, sự
ổn định và phát triển bền vững đòi hỏi tăng trưởng kinh tế phải trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô, kết
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15
9



hợp hài hịa với phát triển văn hóa, thực hiện cơng bằng xã hội. Vì thế, xét cho cùng sự ổn định và phát
triển bền vững đời sống kinh tế - xã hội đã tạo điều kiện để giải quyết tốt vấn đề lợi ích của dân, bảo
đảm sự thống nhất lợi ích giữa cá nhân với cộng đồng và toàn xã hội, tăng cường sự cố kết nhà - làng nước trong thời đại mới, do đó nó cho phép huy động được sức mạnh của toàn dân trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc.
Để tăng cường mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh, Đảng ta kiên định
thực hiện “Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong
từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”. Đây
là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Theo đó, các bộ ngành, địa phương phải quán triệt và xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội kết hợp với quốc phòng - an ninh theo chức năng, nhiệm vụ của từng bộ, ngành và địa phương
mình; đồng thời cơ quan quân sự các cấp phải tham gia thẩm định các kế hoạch, quy hoạch và dự án
kinh tế - xã hội của bộ, ngành liên quan đến quốc phịng, tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền lập kế
hoạch động viên nhân lực, phương tiện, vật chất phục vụ nhiệm vụ quốc phòng và xây dựng khu vực
phòng thủ vững mạnh cả về lực lượng, tiềm lực và thế trận, thực sự phát huy tác dụng trong phát triển
kinh tế - xã hội và bảo vệ địa phương.
Thực trạng kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng-an ninh hầu hết ở các Bộ
ngành, địa phương trong xây dựng chiến lược, lập quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội đều đã
thể hiện được nội dung kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh trên một
số lĩnh vực quan trọng như trong xây dựng vùng kinh tế đã gắn với xây dựng vùng chiến lược quốc
phòng-an ninh. Hiện nay, các địa phưong trên cả nước đã có nhiều cơng trình trọng điểm được đầu tư
xây dựng và đưa vào sử dụng có ý nghĩa cả về kinh tế và quốc phòng-an ninh, trên địa bàn và vùng
lãnh thổ trọng yếu đã hình thànyh được thế bố trí chiến lược về kinh tế gắn với thế bố trí chiến lược về
quốc phịng-an ninh.
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu kết quả đạt được nói trên, việc thực hiện kết hợp phát triển
kinh tế -xã hội với tăng cường quốc phòng-an ninh thời gian qua ở nước ta cũng còn bộc lộ nhiều hạn
chế, tồn tại cần được khắc phục trong thời gian tới. Về nhận thức về quan điểm kết hợp chưa thật đầy
đủ sâu sắc, chưa thấy hết được tính cấp thiết phải tự kết hợp, tự bảo vệ. Nội dung và phương thức kết
hợp chưa xác định đầy đủ, phù hợp với sự thay đổi phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Chính sách thực hiện kết hợp vẫn chưa xác lập đồng bộ. Cơ chế lãnh đạo, quản lý điều hành
còn nhiều sơ hở, thiếu chặt chẽ và nghiêm túc.

Tình hình thế giới và khu vực là những vấn đề đặt ra hiện nay như dự báo của Đại hội X đã xác
định sẽ tác động mạnh mẽ đến đất nước ta. Cách mạng nước ta đứng trước những cơ hội và thách thức
lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng đã từng chỉ ra trước đây, đến nay đã trở thành những thách thức và diễn
biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ thách thức nào. Ngày nay, độc lập chủ
quyền, tòan vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN của nước ta vẫn bị đe dọa, các thế lực thù địch tiếp tục thực
hiện chiến lược “Diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đỗ trên mọi lĩnh vực và khi có thời cơ điều kiện thì
sẵn sàng tiến hành can thiệp vũ trang, chiến tranh xâm lược để xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng và chế
độ XHCN ở nước ta. Trong thời gian tới, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lợi ích của ta trên vùng
biển, đảo sẽ có những diễn biến phức tạp, vì vậy Đại hội Đảng lần thứ XI đã chỉ rõ phải “ Phát triển
mạnh kinh tế đảo, khai thác hải sản xa bờ gắn với tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và giữ vững chủ quyền
vùng biển quốc gia”. Điều đó sẽ cho phép tổ chức, phối hợp chặt chẽ hơn giữa lực lượng quần chúng
nhân dân với các lực lượng vũ trang trong tham gia quản lý, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo, sẵn
sàng ứng phó với mọi bất trắc về thiên tai, địch họa, góp phần đẩy lùi, ngăn chặn, làm thất bại âm mưu,
hành động xâm phạm chủ quyền, bảo vệ lợi ích kinh tế biển, đảo của ta.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh thực chất là bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng
tiềm lực của quốc gia với xây dựng thực lực quốc phòng, quân sự; giữa xây dựng thế trận quốc phịng
tồn dân với xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng, nước ta vẫn thuộc
hàng các nước đang phát triển, cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước mới đạt được những
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

10


kết quả bước đầu, thu nhập tính theo GDP/đầu người cịn thấp… Vì vậy, việc huy động tiềm lực kinh
tế kỹ thuật và tài chính của đất nước để phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng sẽ gặp khơng ít
khó khăn, địi hỏi phải xử lý hài hồ giữa nhu cầu của phát triển kinh tế, đảm bảo “khoan sức dân” và
tăng cường sức mạnh quân sự, quốc phịng. Vì vậy, Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI xác định phải
“Xây dựng Quân đội nhân dân và Cơng an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân....Xây dựng Quân đội nhân
dân với quân số thường trực hợp lý, có sức chiến đấu cao, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân

quân tự vệ rộng khắp”. Phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân trên đây thể hiện việc xử lý một
cách tài tình của Đảng ta về “bài tốn” số lượng và chất lượng của lực lượng vũ trang nhằm bảo đảm
cho Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đủ sức làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh, nhưng đồng thời bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn lực của đất nước để tạo điều kiện
tốt nhất cho kinh tế phát triển nhanh và bền vững.
Liên hệ Tây Ninh sau hơn 4 năm thực hiện Quy chế phối hợp số 26-QC/PH ngày 25.2.2007 giữa
Tỉnh uỷ Tây Ninh và Đảng uỷ Bộ đội Biên phòng Việt Nam, đặc biệt là việc lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng cơ sở chính trị địa bàn biên giới. Đến nay, các tổ chức Đảng, quần chúng, chính trị - xã hội ở các
xã biên giới đều được củng cố, kiện tồn và hoạt động có hiệu quả, phân loại hằng năm đều đạt loại
khá trở lên. Năm 2010 có 15/20 đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh, 05/20 đảng bộ hoàn thành tốt
nhiệm vụ; 130/181 chi đoàn đạt vững mạnh, 50/181 chi đoạn đạt khá, 102/111 chi hội phụ nữ đạt vững
mạnh, 09/111 chi hội đạt khá.
UBND tỉnh thành lập Ban chỉ đạo phát triển KT-XH tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia, chỉ
đạo các ngành lập Đề án phát triển KT- XH 20 xã biên giới. Trong 3 năm (2008 - 2010), giá trị sản
xuất nông nghiệp tăng bình qn hằng năm 6%, diện tích gieo trồng tăng bình quân hằng năm 3,5%.
Vốn đầu tư được lồng ghép từ các nguồn ngân sách địa phương, Đề án 160, Chương trình 135, Chương
trình mục tiêu quốc gia, vốn Trái phiếu chính phủ, vốn Trung ương hỗ trợ có mục tiêu… trong 3 năm
hơn 342 tỷ đồng. Ngồi Khu kinh tế cửa khẩu Mộc Bài và Xa Mát đang kêu gọi đầu tư, trên địa bàn
các xã biên giới cịn có các cụm cơng nghiệp được quy hoạch gồm cụm CN cơ khí xi măng, cụm CN
Tân Hà (Tân Châu), cụm CN Tiên Thuận, cụm CN Khu KTCK Mộc Bài (Bến Cầu), cụm CN Ninh
Điền, cụm CN Mía đường Tây sông Vàm Cỏ Đông (Châu Thành). Hiện nay trên các huyện biên giới
cịn có Nhà máy xi măng FICO với công suất 1,5 triệu tấn sản phẩm/ năm và 428 cơ sở công nghiệp
đang hoạt động.
Tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 ở các xã vùng biên giới còn 8,27%, trong đó hộ nghèo theo tiêu chuẩn
Trung ương năm 2010 là 2,63%. Năm 2010 và 7 tháng đầu năm 2011, MTTQ tỉnh đã xây dựng 329
căn nhà Đại đoàn kết cho các hộ nghèo ở 20 xã biên giới. Bộ chỉ huy BĐBP Tây Ninh phối hợp cới các
cơ quan, ban, ngành tỉnh xây dựng 14 căn nhà tặng đồng bào nghèo biên giới; xây dựng 03 phòng
khám quân dân y kết hợp, 208m đường giao thông nông thôn, mỗi đồn biên phịng thực hiện 01 mơ
hình giúp dân phát triên KT- XH. Tỉnh cũng đang triển khai Đề án bố trí, sắp xếp, ổn định 03 khu dân
cư biên giới Bắc Tây Ninh. Bước đầu tập trung xây dựng Khu dân cư Chàng Riệc (huyện Tân Biên)

nhằm hình thành khu kinh tế quốc phòng, kết hợp phát triển kinh tế, ổn định, nâng cao đời sống của
người dân và bảo vệ đường biên giới.
Duy trì tốt mối quan hệ đồn kết hữu nghị với chính quyền, LLVT và nhân dân Campuchia các tỉnh
giáp biên. Hằng tháng các đồn biên phịng, chính quyền địa phương huyện, xã biên giới tổ chức gặp
gỡ, hội đàm với các đồn cảnh sát bảo vệ biên giới, chính quyền địa phương các huyện, xã biên giới của
Campuchia để thơng báo tình hình có liên quan và thống nhất biện pháp giải quyết những vấn đề xảy
ra trên biên giới. Tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện tố nhiệm vụ phân giới cắm mốc trên tuyến Việt
Nam – Campuchia, trực tiếp chỉ đạo 02 đội phân giới cắm mốc của tỉnh phối hợp với phía Campuchia
tiến hành khảo sát, xác định vị trí cột mốc và phân giới theo đúng bản đồ được chính phủ hai nước vẽ.
Đến tháng 7.2011 đã xác định được 89/101 vị trí với 98/110 cột mốc, xây dựng xong 95/110 cột mốc,
phân giới được 42 km. Hiện còn phải tiếp tục xác định 12 vị trí với 12 cột mốc. Tỉnh uỷ và UBND tỉnh
thường xuyên quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ - chiến sĩ BĐBP. Từ năm 2006 –
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

11


2010, đã hỗ trợ kinh phí cho BĐBP tỉnh 10,5 tỷ đồng; năm 2011 hỗ trợ 3,2 tỷ đồng để phục vụ cơng
tác biên phịng và xây dựng BĐBP địa phương vững mạnh.
Từ những mặt làm được và những vấn đề tồn tại trong hơn 4 năm thực hiện Quy chế phối hợp, Tây
Ninh cũng đã đề nghị Chính phủ quan tâm đầu tư phát triển KT- XH, nhất là đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng cho khu vực biên giới. Sớm có chiến lược tổng thể về xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền biên
giới quốc gia đáp ứng u cầu, địi hỏi của tình hình mới. Có chế độ, chính sách hợp lý nhằm đảm bảo
gắn trách nhiệm và quyền lợi trong việc tổ chức các phong trào quần chúng tham gia xây dựng, quản lý
và bảo vệ biên giới quốc gia.
Đã đề nghị Bộ Quốc phòng quan tâm đầu tư xây dựng mới BCH BĐBP tỉnh và các đồn, trạm biên
phòng; đầu tư trang cấp khí tài, trang thiết bị cho lực lượng BP đủ mạnh, bảo đảm khả năng sẵn sàng
ứng phó có hiệu quả các mối đe doạ, thách thức mới. Có cơ chế hỗ trợ kinh phí cho các tỉnh biên giới
cũng như lực lượng BP có điều kiện làm tốt hơn nữa công tác đối ngoại.
Giải pháp thiết thực để kết hợp phát triển kinh tế-xã hội và tăng cường quốc phòng an ninh theo

Đại hội IX tỉnh Đảng bộ Tây Ninh, đó là:
Một là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an
ninh cho các đối tượng, nhằm nâng cao nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an tịan xã hội trong tình hình mới trong mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và các tầng lớp nhân
dân. Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao bản lĩnh cghính trị, tư tưởng trong cán bộ, chiến sĩ các
lực lượng vũ trang địa phương. Nâng cao tính kỷ lưật, kỷ cương trong các đơn vị lực lượng vũ trang.
Hai là, củng cố nền quốc phòng tòan dân, thế trận quốc phòng tòan dân, thế trận an ninh nhân dân
và thế trận lòng dân vững chắc. Quan tâm củng cố, xây dựng và nâng cao chất lượng họat động của lực
lượng dân quân, tự vệ, bảo vệ dân phố, các tổ dân cư tự quản ở địa phương.
Ba là, Xây dựng tiềm lực quốc phòng,an ninh; gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố
quốc phịng,an ninh trong hoạch định chính sách cũng như trong triển khai thực hiện các dự án phát
triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Tiếp tục thực hiện đẩy mạnh có hiệu quả Dự án xây dựng tỉnh thành khu
vực phòng thủ vững chắc.
Bốn là, quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện hỗ trợ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện cho các
lực lượng qn sự, cơng an, biên phịng từng bước đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.
Năm là, tăng cường, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, diễn tập, phối hợp, hiệp đồng, nâng
cao khả năng cơ động, sẵn sàng chiến đầu cao của các lực lượng quân sự, công an, biên phịng.
Sáu là, đẩy mạnh và nâng cao cơng tác vận động quần chúng, công tác đối ngoại của lực lượng vũ
trang địa phương.
Bảy là, đẩy mạnh phong trào thi đua quyết thắng; tăng gia, sản xuất, gióp phần cải thiện, nâng cao
đời sống cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang.
Tóm lại, sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc
của quốc phòng - an ninh. Chính kết quả của việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc
phịng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ lại là nhân tố
bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đó là những biểu hiện sinh động của mối quan hệ
biện chứng, khách quan giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quan ta phải thực hiện tốt việc kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh,
quốc phòng - an ninh với kinh tế. Sự kết hợp đó sẽ góp phần thiết thực đưa Nghị quyết của Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI vào trong cuộc sống, bảo đảm sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đạt
tới thành công to lớn hơn nữa./.


Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

12


4. “Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ đọan diễn biến hịa bình, bạo lọan lật đổ, coi
trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của
từng tổ chức cơ quan, đơn vị”. Bằng kiến thức mơn quốc phịng an ninh đã học anh, chị hãy làm
sáng tỏ quan điểm trên. Liên hệ thực tế địa phương các anh, chị?
Nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế
lực thù địch trong giai đọan hiện nay. Đảng ta đưa ra quan điểm: “Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu
và thủ đoạn diễn biến hịa bình, bạo loạn lật đổ, coi trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị nội bộ,
nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức cơ quan, đơn vị”.
Quan điểm trên đòi hỏi tất cả mọi cấp, mọi ngành, mọi người dân Việt Nam cần nêu cao cảnh giác
trước những thủ đọan, âm mưu nguy hiểm của chủ nghĩa Đế quốc và các thế lực phản động. Trước tiên
chúng ta cần nhận biết bản chất thế nào là “diễn biến hịa bình” và thế nào là “bạo loạn lật đổ”.
“Diễn biến hồ bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước
hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong bằng biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động tiến hành. Nội dung chính của chiến lược “Diễn biến hồ bình” là: Kẻ thù sử dụng
mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hố, đối ngoại, an ninh… để phá hoại, làm suy yếu từ bên
trong các nước xã hội chủ nghĩa. Kích động các mâu thuẫn trong xã hội, tạo ra các lực lượng chính trị
đối lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tụ do tôn giáo, sắc tộc, khuyến khích tư nhân
hố về kinh tế và đa ngun chính trị, làm mơ hồ giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nhân dân lao
động. Khích lệ lối sống tư sản và làm phai nhạt mục tiêu, lí tưởng xã hội chủ nghĩa ở một số bộ phận
sinh viên. Triệt để khai thác và lợi dụng những khó khăn, sai sót của Đảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa
trên lĩnh vực đời sống xã hội, tạo nên sức ép, từng bước chuyển hố và thay đổi đường lối chính trị,
chế độ xã hội theo quĩ đạo chủ nghĩa tư bản.
“Bạo loạn lật đổ” là hành động chống phá bằng bạo lực do lực lượng phản động hay lực lượng li
khai, đối lập trong nước hoặc cấu kết với nước ngồi tiến hành gây rối an ninh chính trị, trật tự an tồn

xã hội hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương hay trung ương. Về hình thức gồm: Bạo loạn chính trị;
Bạo loạn vũ trang; Bạo loạn chính trị kết hợp vũ trang. Trên thực tiễn, bạo loạn lật đổ là một thủ đoạn
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động gắn liền với chiến lược “Diễn biến hồ bình” để xố
bỏ chủ nghĩa xã hội khi tiến hành bạo loạn lật đổ, các thế lực thù địch thường kích động những phần tử
quá khích làm mất trật tự an toàn xã hội ở một số khu vực và trong thời gian nhất định (thường diễn ra
trong không gian hẹp và thời gian ngắn) tiến tới lật đổ chính quyền ở địa phương hoặc Nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Qui mơ có thể diễn ra ở nhiều mức độ từ qui mô nhỏ đến qui mô lớn. Phạm vi địa bàn
xảy ra có thể ở nhiều nơi, nhiều vùng của đất nước, trọng điểm là những vùng trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hố của trung ương và địa phương, nơi nhạy cảm về chính trị hoặc ở các khu vực, địa bàn mà
cơ sở chính trị của địa phương yếu kém.
Mục tiêu nhất quán của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong sử dụng chiến lược
“DBHB” đối với cách mạng Việt Nam là thực hiện âm mưu xố bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ
chế độ xã hội chủ nghĩa, lái nước ta theo con đường chủ nghĩa tư bản và lệ thuộc vào chúng…Để đạt
được mục tiêu đó, các thế lực thù địch không từ bỏ bất kỳ thủ đoạn chống phá nào như sử dụng bạo lực
phi vũ trang, bạo lực vũ trang, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội … Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch chống phá cách mạng nước ta hiện nay là toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, thâm độc và nhiều thủ đoạn tinh vi khó nhận biết cụ thể.
Về chính trị, chúng cố tình xuyên tạc đi đến hạ bệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối chính trị và thể chế chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo...; từ đó gây “tự diễn
biến”, hịng tạo ra sự khủng hoảng về chính trị, làm chệch hướng và sụp đổ chế độ chính trị xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Bịa đặt, vu cáo, xuyên tạc sự thật và phủ nhận thành tựu của CM và CNXH ở Việt
Nam, sử dụng “tự do”, “dân chủ tư sản”, vấn đề “đa nguyên chính trị” gây sức ép đòi Nhà nước Việt
Nam thay đổi bản chất chế độ.
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

13


Về kinh tế, chúng chống phá đường lối, chính sách kinh tế; thúc đẩy chuyển hoá cơ cấu kinh tế,
thành phần kinh tế, xâm nhập, chiếm lĩnh các địa bàn, các lĩnh vực kinh tế quan trọng...; từ đó thúc

đẩy, chuyển hóa nền kinh tế của nước ta sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.
Về văn hoá - xã hội, chúng chống phá đường lối, chính sách văn hố - xã hội; thúc đẩy sự biến đổi
chệch hướng giá trị văn hoá, đạo đức; biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp; lợi dụng các mâu thuẫn, khiếu
kiện, các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền và dân chủ… để chống phá Đảng, Nhà nước ta; từ đó
thúc đẩy sự suy thối về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.
Về quốc phòng - an ninh, chúng chống phá đường lối, chính sách quốc phịng, an ninh, đối ngoại
của Đảng, Nhà nước ta, thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” qn đội và cơng an nhân dân,… tạo
bước chuyển hóa lực lượng vũ trang, sẵn sàng tạo cớ răn đe, can thiệp quân sự và xâm lược nước ta khi
điều kiện chín muồi.
Bản chất của chiến lược “diễn biến hịa bình” là khơng hề thay đổi, song phương thức, thủ đoạn và
âm mưu “diễn biến hịa bình” thì biến hóa khơn lường và ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đấu tranh
phịng, chống “diễn biến hịa bình”, “tự diễn biến” khơng chỉ và vấn đề có ý nghĩa sống cịn của cách
mạng Việt Nam mà còn là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt và cơ bản lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta. Do vậy, vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù
địch; đồng thời, chủ động ngăn chặn và kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của “diễn
biến hồ bình” là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng của tồn Đảng, tồn dân và tồn qn ta trong
tình hình hiện nay.
Tại Tây Ninh trong những năm qua bọn phản động và chủ nghĩa Đế quốc đã có những âm mưu
chống phá bằng nhiều hình thức và thủ đoạn như: Sử dụng máy bay thể thao rãi truyền đơn tuyên
truyền, bôi xấu Đảng và Nhà nước ta của Lý Tống; kích động người dân tụ tập khiếu kiện đông người,
khiếu kiện vượt cấp gây mất trật tự an ninh xã hội, nhất là trên lĩnh vực đất đai; Xúi giục các nhánh
phái tôn giáo Cao Đài các nơi kéo về đòi lật đổ Hội đồng chưởng quản Tòa Thánh Tây Ninh hiện nay,
và gần đây là những vụ sử dụng tiền lẻ ghi nhiều thông tin bôi xấu chế độ ta rồi rãi ra đường trên một
số huyện biên giới như Châu Thành, Bến Cầu...
Trước tình hình trên, Đảng, nhà nước, các cấp, các ngành, các địa phương đã có nhiều biện pháp
giáo dục, nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về những âm mưu, thủ đoạn mới
ngày càng tinh vi, xảo quyệt trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, đồng thời
có biện pháp đấu tranh ngăn chặn, từng bước đẩy lùi các hành động chống phá của chúng.
Yêu cầu đặt ra là phải nâng cao cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện âm mưu bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch, dự báo đúng thủ đoạn, qui mô, địa điểm và thời gian. Nắm vững nguyên tắc

sử lí trong đấu tranh chống bạo loạn lật đổ là: nhanh gọn, kiên quyết, linh động, đúng đối tượng, sử
dụng lực lượng và phương thức đấu tranh phù hợp, không để lan rộng, kéo dài.
Trong những năm qua công tác đấu tranh chống “diễn biến hịa bình” và “bạo loạn lật đổ” đã đạt
nhiều thành tựu đáng kể, đó là:
Chủ động tấn cơng chính trị có hiệu quả hơn các hoạt động vi phạm pháp luật của số cơ hội chính
trị, số cực đoan, phản động trong các tôn giáo; tổ chức cho quần chúng ở cơ sở đấu tranh, cô lập và
phân hố kẻ xấu để góp phần ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân vào sức mạnh của Đảng,
Nhà nước và nhân dân.
Dưới sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự phối hợp giữa các
ban, ngành, giữa Trung ương và địa phương đã có hiệu quả hơn, nắm chắc hơn các động thái phá hoại
của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá. Công tác đấu tranh với các luận điệu sai trái,
thù địch trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên mạng Internet, bước đầu thu được những
kết quả đáng khích lệ.
Cơng tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng, văn hố có nhiều cố gắng. Các phương tiện
thông tin đại chúng đã thể hiện là kênh thơng tin quan trọng định hướng ý thức chính trị cho các giai
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

14


tầng xã hội. Việc ngăn chặn hoạt động thâm nhập văn hoá phản động, đồi truỵ ở một số địa phương
được tăng cường hơn trước.
Tại Tây Ninh, nhờ làm tốt cơng tác đề cao cảnh giác về quốc phịng-an ninh nên đã chủ động tiến
công làm thất bại các âm mưu “diễn biến hịa bình” và “bạo loạn lật đổ”, dập tắt ngay từ những mưu
đồ vừa mới hình thành, có biện pháp ngăn chặn hiệu quả nên ln khơng có xảy ra những bùng phát
lớn, giữ vững an ninh-chính trị tại địa phưong.
Những kết quả đạt được nêu trên đã góp phần rất quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị,
an ninh quốc phịng của dất nước. Đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn vững vàng, tin tưởng
vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển tốt đẹp của đất nước ta.
Tuy nhiên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém, đó là:

Một số cán bộ, đảng viên và quần chúng hoang mang, dao động mất phương hướng, giảm sút lòng
tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
Nhà nước, hoặc muốn đi theo hướng phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đã có biểu hiện mong muốn đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở một số cán bộ, đảng viên suy
thoái về tư tưởng, chính trị. Có cán bộ, đảng viên đã viết, phát ngơn và phát tán tài liệu có nội dung trái
với Cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng; công khai phê phán sự
lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Chính phủ.
Khơng ít cán bộ, đảng viên tuy vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vẫn gắn bó với chế độ
nhưng thụ động, thiếu bản lĩnh, không dám đấu tranh với những luận điệu sai trái, với những kẻ cơ hội
chính trị hoặc do nhận thức khơng đầy đủ, bị lợi dụng nên đã ủng hộ, phụ hoạ, truyền bá những quan
điểm chính trị phản động.
Xuất hiện một bộ phận học sinh, sinh viên thiếu lòng tin vào con đường đi lên CNXH và công cuộc
đổi mới do Đảng lãnh đạo, nhận thức hạn chế về âm mưu, hoạt động chống phá ta của các thế lực thù
địch, đề cao quan điểm “dân chủ tư sản”; sống thực dụng, ích kỷ, cá biệt có hiện tượng tha hố về nhân
cách; một số viết bài cho đài nước ngoài nói xấu chế độ ta để xin học bổng.
Những hạn chế, yếu kém trong công tác đấu tranh chống “Diễn biến hồ bình” của các thế lực thù
địch và sự “tự diễn biến” trong nội bộ đã và đang là cơ hội để các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh
chiến lược “Diễn biến hồ bình”, từng bước lái đất nước ta đi chệch con đường XHCN.
Để góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo định hướng
XHCN, cần tạo được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động, nâng cao chất lượng, hiệu
quả của cuộc đấu tranh chống “Diễn biến hồ bình” trong thời gian tới.
Chống diễn biến hịa bình là cuộc đấu tranh tịan diện và lâu dài. Đây là nhiệm vụ chung của tòan
Đảng, tòan dân và tòan quân ta; của các ngành các cấp dưới sự lãnh đạo trức tiếp của Đảng CSVN. Để
hòan thành nhiệm vụ chúng ta cần thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
Thứ nhất , tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, gắn công tác xây dựng Đảng và công tác bảo vệ
Đảng; chăm lo củng cố các cơ sở Đảng, Đảng phải hòan thiện đường lối chính sách trên cơ sở tổng kết
thực tiễn, sớm định rõ mơ hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thứ hai , phải xây dựng và củng cố tòan diện, vững chắc trận địa tư tưởng XHCN, cảnh giác đấu
tranh với âm mưu “ diễn biến hịa bình” của địch, chấn hưng và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc,

chống văn hóa phản động, đồi trụy.
Thứ ba , tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm định rõ mơ hình cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lí
kinh tế, coi đó là một bộ phận quan trọng của việc thiết lập thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta; có chính sánh kinh tế đối ngoại đúng đắn nhằm khai thác tiềm lực trong nước và sự
hợp tác quốc tế đẩ đưa nước ta sớm thành một nước công nghiệp.
Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

15


Thứ tư , thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tơn trọng quyền bình đẳng giữa các dân tộc, quyền tự do
tín ngưỡng, mở rộng dân chủ XHCN gắn với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Thứ năm , phải có chiến lược giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là an sinh xã hội, triệt tiêu những
nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển những nhân tố gây mất ổn định và giải quyết những điểm
gây cấn về an ninh, trật tự.
Thứ sáu , Đảng phải nắm chắc và phát huy tốt hiệu lực của công cụ chun chính vơ sản; phải thực
sự chăm lo xây dựng lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân trong sạch, vững mạnh, tinh
nhuệ, từng bước tiến lên chính quy, hiện đại.
Thứ bảy , phải chủ động xây dựng các kế hoạch, phương án đối phó với các khả năng, tình huống,
hình thái “ diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ; khơng để xảy ra các tình huống đột xuất, bất ngờ.
Tóm lại, bản chất của chiến lược “diễn biến hịa bình” là khơng hề thay đổi, song phương thức, thủ
đoạn và âm mưu “diễn biến hịa bình” thì biến hóa khơn lường và ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Đấu
tranh phịng, chống “diễn biến hịa bình”, “tự diễn biến” và kích động”bạo loạn lật đỗ” hiện nay
khơng chỉ là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt và cơ bản lâu dài của toàn Đảng, toàn dân và toàn qn ta
mà cịn là vấn đề có ý nghĩa sống còn của cách mạng Việt Nam.
Do vậy, Quan điểm:“Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn diễn biến hịa bình, bạo
loạn lật đổ, coi trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của
mỗi người, của từng tổ chức cơ quan, đơn vị” hiện nay của Đảng ta đòi hỏi tất cả mọi cấp, mọi ngành,
mọi người dân Việt Nam cần nêu cao cảnh giác trước những thủ đọan, âm mưu nguy hiểm của chủ
nghĩa Đế quốc và các thế lực phản động nhằm vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hồ

bình” đồng thời, chủ động ngăn chặn và kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của “ diễn
biến hồ bình” là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng của tồn Đảng, tồn dân và tồn qn ta trong
tình hình hiện nay.
Là cán bộ, công chức, đảng viên chúng ta càng phải thấm nhuần các quan điểm chỉ đạo của Đảng
để tự mình tạo ra sức đề kháng tốt nhằm chống lại sự xâm nhập với nhiều phương pháp, nhiều hình
thức, thủ đọan về “diễn biến hịa bình” về “tự diễn biến” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Đồng thời, chủ động tiến công bằng việc tuyên truyền cho mọi tầng lớp nhân dân biết đến bản chất của
chiến lược “diễn biến hịa bình” là nhằm phá hoại thành quả độc lập của nước ta, gây chia rẽ nội bộ
đoàn kết dân tộc, nhằm thỏa mãn mưu đồ biến nước ta thành một nước theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư
bản, đi ngược lại nguyện vọng của bao lớp người đã ngã xuống giành tự do, độc lập cho quê hương
ngày nay và bao thế hệ người Việt Nam đang sinh sống.
Nếu chúng ta luôn tỉnh táo, cảnh giác, tích cực chủ động phịng chống đi đôi với công cuộc đổi mới
đất nước thành công, giữ n được bên trong, ngăn chặn được bên ngịai thì âm mưu “ diễn biến hịa
bình” nhất định sẽ từng bước đẩy lùi và thất bại./.

Trương Văn Thắng - SBD: 52 - Lớp: K15

16



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×