Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

tiểu luận cao học môn lịch sử cơ sở lý luận công tác tư tưởng quan điểm hồ chí minh về tuyên truyền và vận dụng vào công tác tuyên truyền ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.93 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chăm lo đến cơng tác giáo dục chính
trị tư tưởng, bởi theo Người “Tư tưởng khơng đúng đắn thì cơng tác ắt sai
lầm”; rằng “Trong Đảng và ngồi Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ
nhiệm vụ mới thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động
mới thống nhất”. Công tác tư tưởng tự bản thân nó đã hàm chứa những vấn đề
nhạy cảm, phức tạp, đa chiều, liên quan đến tâm tư nguyện vọng của cán bộ,
đảng viên, nhân dân; liên quan đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng.
Người nói: “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư
tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong cơng tác; vì tư tưởng thơng
suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì khơng làm được việc”. Trong báo
cáo tại Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng khố II (15-71954), trong mười cơng tác được xác định thì cơng tác lãnh đạo tư tưởng là
quan trọng nhất. Hồ Chí Minh ln u cầu “Cán bộ lãnh đạo và cán bộ các
ngành, tư tưởng phải thông, phải thật thơng. Phải có quyết tâm khắc phục khó
khăn, làm trịn nhiệm vụ”. “Phải đánh thơng tư tưởng và động viên sáng kiến
và lực lượng của toàn Đảng, toàn dân. Mọi người quyết tâm làm cho được và
tin tưởng làm nhất định được”. Mỗi lần về thăm các nhà máy, công trường,
hợp tác xã, Bác Hồ luôn nhắc nhở, động viên cán bộ, đảng viên, nhân viên
“Muốn quản lý tốt thì cán bộ và cơng nhân phải thơng suốt tư tưởng”.
Tuyên truyền là một bộ phận, một tác nghiệp của cơng tác tư tưởng có vị
trí hết sức quan trọng, bởi vậy, Người định nghĩa và xác định rõ mục đích của
tuyên truyền “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân
theo, dân làm. Nếu khơng đạt được mục đích đó, là tun truyền thất bại”.
Người nói “Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai xem?
Nói cho ai nghe? Nếu khơng vậy, thì cũng như cố ý khơng muốn cho người ta
nghe, không muốn cho người ta xem”. Do mục đích, u cầu của cơng tác
tun truyền, nhất là tính chính xác và sức lay động lan toả đối với dân chúng
nên Hồ Chí Minh địi hỏi cán bộ tun truyền “Phải biết cách nói. Nói thì phải
1



giản đơn, rõ ràng, thiết thực. Phải có đầu, có đuôi, sao cho ai cũng hiểu được,
nhớ được”; rằng: Người tuyên truyền không điều tra, không phân tách, không
nghiên cứu, khơng hiểu biết quần chúng, chỉ gặp sao nói vậy, bạ gì viết nấy,
nhất định thất bại. Khi tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc thiểu số,
Người lưu ý: Phải nói thiết thực, rõ ràng để đồng bào dễ nghe, dễ hiểu và làm
được tốt.
Xuất phát từ những lý do trên tác giả chọn đề tài: “Quan điểm Hồ Chí
Minh về tun truyền và Vận dụng vào cơng tác tuyên truyền ở nước ta
hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình.

2


NỘI DUNG
Chương 1
Hồ Chí Minh với cơng tác tun truyền
1.1. Cơng tác tun truyền và vai trị của nó
1.1.1. Cơng tác tuyên truyền
Thuật ngữ tuyên truyền được nhiều nhà khoa học giải thích khác nhau.
Theo một số tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ tuyên truyền xuất hiện khoảng hơn
400 năm trước đây, được nhà thờ La Mã sử dụng để chỉ hoạt động của các
nhà truyền giáo nhằm thuyết phục, lôi kéo những người khác phấn đấu theo
đức tin của đạo Kitô. Sau này, thuật ngữ tuyên truyền được sử dụng để biểu
đạt các hoạt động nhằm tác động đến suy nghĩ, tư tưởng của người khác và
định hướng hành động của họ theo một khuynh hướng nhất định.
Theo Đại từ Điển Bách khoa Liên Xô, thuật ngữ tuyên truyền có nguồn
gốc từ tiếng Latinh (propaganda – nghĩa là truyền đạt, truyền bá, phổ biến).
Thuật ngữ này có hai nghĩa: rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, tuyên truyền là
truyền bá những quan điểm, tư tưởng về chính trị, triết học, khoa học, nghệ
thuật và mực đích là biến những quan điểm tư tưởng đó thành ý thức xã hội

và nâng cao tính tích cực trong hoạt động thực tiễn của quần chúng. Theo
nghĩa hẹp, tuyên truyền là truyền bá những quan điểm lý luận nhằm xây dựng
cho quần chúng thế giới quan nhất định phù hợp với lợi ích của chủ thể tuyên
truyền và kích thích những hoạt động thực tiễn phù hợp với thế giới quan ấy.
Một tập thể tác giả của Liên Xô dưới sự chỉ đạo của giáo sư B.N. Prơmarép
khi biên soạn cuốn Từ điểm chính trị lại cho rằng tuyên truyền là: “giải thích,
phổ biến một tư tưởng học thuyết, lý luận chính trị nhất định nào đó”. Theo
Từ điển Tiếng Việt, tuyên truyền là phổ biến một chủ trương, một học thuyết
để làm chuyển biến thái độ của quần chúng và thúc đẩy quần chúng hoạt động
theo một đường lối và nhằm một mục đích nhất định hoặc tuyên truyền là giải
thích rộng rãi để thuyết phục, vận động mọi cá nhân làm theo. Trong cuốn
Nguyên lý công tác tư tưởng các tác giả lại cho rằng: “Tun truyền là một
hình thái của cơng tác tư tưởng nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối

3


chiến lược, sách lược của giai cấp trong quần chúng, xây dựng cho quần
chúng thế giới quan phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, bồi dưỡng
tình cảm, cổ vũ niềm tin và tập hợp, cổ vũ quần chúng hành động theo thế
giới quan và niềm tin đó”. Khi bàn về người tuyên truyền và cách tuyên
truyền, Hồ Chí Minh cho rằng: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho
dân hiêu, dân nhớ, dân theo, dân làm”.
Tuy có những cách lý giải khác nhau về thuật ngữ tuyên truyền, nhưng
một số khái niệm của các nhà nghiên cứu, triết học, tư tưởng đã nêu trên có
những điểm chung là:
- Tuyên truyền là hoạt động truyền bá, phổ biến, giải thích của chủ thể về
một tư tưởng, một học thuyết hay một vấn đề nào đó đối với đối tượng tuyên
truyền.
- Tuyên truyền nhằm đạt tới mục đích là làm thay đổi nhận thức, hình

thành một kiểu ý thức xã hội, xây dựng thế giới quan nhất định ở đối tượng
tuyên truyền cho phù hợp với lợi ích của chủ thể tuyên truyền.
- Tuyên truyền phải đạt tới hiệu quả là kích thích thúc đẩy đối tượng
hành động theo quan điểm, đường lối, mục đích đặt ra.
Với cách lý giải đó có thể rút ra kết luận về khái niệm tuyên truyền như
sau: Tuyên truyền là phổ biến, giải thích một tư tưởng, một học thuyết, một
quan điểm nào đó nhằm hình thành hoặc củng cố ở đối tượng tuyên truyền
một thế giới quan, một lý tưởng, một lối sống…thơng qua đó mà ảnh hưởng
tới thía độ và tính tích cực của con người trong thực tiễn xã hội.
1.1.2. Vai trị của cơng tác tun truyền
Tun truyền góp phần truyền bá sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và
các tầng lớp nhân dân về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
những tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại. Trên cơ sở đó hình thành thượng
tầng kiến trúc xã hội chủ nghĩa về mặt hình thái ý thức, giáo dục sự kiên định
về mục tiêu lý tưởng của Đảng.
Tuyên truyền là kênh thơng tin chủ yếu và chính thống nhằm một mặt
giáo dục, phổ biến, quán triệt mọi chủ trương, đường lối, chính sách, quan
điểm của Đảng và Nhà nước; mặt khác thơng báo kịp thời và có định hướng

4


các vấn đề thời sự quan trọng trong nước và quốc tế, các vấn đề nóng bỏng
mà dư luận xã hội quan tâm. Nhờ đó tạo ra sự thống nhất về nhận thức, tư
tưởng trong Đảng và trong toàn xã hội, củng cố niềm tin, cổ vũ các phong
trào hành động cách mạng của quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thơng qua công tác tuyên truyền và hoạt động của đội ngũ báo cáo
viên, tuyên truyền viên thông tin đến được với quần chúng nhân dân. Mặt
khác nhừ thông tin phản hồi chúng ta có thể năm bắt được nhận thức và

thái độ của nhân dân đối với chủ trương, đường lối, chính sách, nắm được
tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu, lợi ích…của quần chúng. Trên cơ sở thơng
tin phản hồi này, Đảng và Nhà nước kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hồn
thiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật sao cho chúng vừa phù
hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn cách mạng, vừa phù hợp với
lòng dân. Vì vậy, cơng tác tun truyền và hoạt động của đội ngũ báo cáo
viên, tun truyền viên đóng vai trị như là sợi dây bền chặt nối liền Đảng
với quần chúng, Nhà nước với công dân, Trung ương với cơ sở, góp phần
tăng cường liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức trong tiên trình cách
mạng khắc phục tệ quan liêu, xa rời quần chúng.
Hoạt động tuyên truyền góp phần to lớn vào việc xây dựng nền văn hóa
mới tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, vào việc xây dựng và phát huy
nhân tố con người, nâng cao bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên.
Công tác tuyên truyền là vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống âm
mưu, thủ đoạn “Diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch với cách mạng
nước ta. Đây là phương thức hữu hiệu để chống phao tin đồn nhảm, kích động
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái,
lệch lạc nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững
ổn định chính trị và tăng cường đoàn kết xã hội, tạo ra tiền đề, điều kiện cho
cơng cuộc đổi mới, cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

5


Cơng tác tun truyền có khả năng đưa được những thơng tin nội bộ,
những thơng tin mà vì lý do nào đó khơng đưa rên các phương tiện truyền
thơng đại chúng được. Trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, tun
truyền cịn góp phần định hướng thơng tin, giải thích, phân tích cho quần
chúng hiểu rõ đâu là thơng tin chính thức, chính thống, trên cơ sở đó đinh

hướng dư luận xã hội, góp phần tạo ra sự thóng nhất về chính trị - tư tưởng
trong xã hội, sự đồng thuận giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
1.2. Hồ Chí Minh khởi sướng và lãnh đạo cơng tác tuyên truyền của
cách mạng việt nam
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác tuyên truyền trọng sự nghiệp
cách mạng của Đảng và quần chúng nhân dân, nên ngay từ khi tìm được con
đường cứu nước, cứu dân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cơng tác tun truyền
để truyền bá, giáo dục, thức tình quần chúng nhân dân làm cách mạng. Khi
hoạt động ở nước ngoài người đã tham gia tích cực vào cách phong trào cách
mạng, phong trào công nhân quốc tế, và người đã viết nhiều bài bào, viết
nhiều tác phẩm để tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin cho quần chúng nhân
dân. Người đã chuyển tới hội nghị Vécxây bản “Yêu sách” gồm 8 điều của
nhân Việt Nam bằng chữ quốc ngữ, người viết đơn cổ động mọi người mua
báo “Việt Nam hồn” và báo “Việt Nam độc lập”, người đã tổng kết khái quát
toàn bộ lịch sử Việt Nam bằng “Lịch sử nước ta” để tuyên truyền. Trong
những năm tháng hoạt động ở Nga. Người vẫn ln duy trì và trở thành
phóng viên thường chú của các tờ báo tiếng Pháp như báo Nhân đạo, báo Đời
sống công nhân rồi cộng tác với tờ Sự thật của Đảng Cộng sản Nga và tạp chí
Thơng tin quốc tế, tạp chí Quốc tế nơng dân…
Kế thừa học thuyết Mác – Lênin về tuyên truyền khi về Quảng Châu
cơng tác, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng tiếp xúc với người Việt Nam yêu
nước đang hoạt động tại đây. Cuộc hội ngộ lịch sử này tạo điều kiện để Hồ
Chí Minh thành lập ra tổ chức cách mạng đầu tiên là Hội Việt Nam cách
mạng thah niên và mở một Trường Tuyên truyền để đào tạo, giáo dục, giảng
dạy cho hội viên phương pháp tuyên truyền nhất là kỹ năng thực hành diễn
6


thuyết, làm báo. Đặc biệt, người đã sáng lập ra tờ Thanh niên làm phương tiện
tuyên truyền tôn chỉ, mục đích, chủ trương của Hội và hướng dẫn hội viên

hoạt động cách mạng. Cung với tờ Thanh niên, Người còn chỉ đạo cơ quan
ngôn luận của Hội xuất bản thêm ba ấn phẩm khác như: tuần báo Công nông,
bán nguyệt san Lính cách mệnh, nguyệt san Việt Nam tiên phong. Báo chí do
Hồ Chí Minh sáng lập và xuất bản đã góp phần quan trọng trong việc truyền
bá chủ nghĩa Mác – Lênin, chuẩn bị tiền đề về tư tưởng tiến tới thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Cịn số cán bộ sau khi được Hồ
Chí Minh trực tiếp huấn luyện đã trở về nước và thâm nhập vào nhà máy,
hầm mỏ, đồn điên, trường học, thành thị, nơng thơn và sử dụng lời nói trực
tiếp làm vũ khí tuyên truyền cách mạng. Để chuẩn bị cho hội nghị thành lập
Đảng, Hồ Chí Minh đã chủ trương đưa hội viên của tổ chức thanh niên cách
mạng đồng chí Hội đi “vơ sản hóa”. Nó góp phần quan trọng vào việc nâng
cao ý thưc giác ngộ cách mạng, bồi dưỡng lập trường của giai cấp công nhân,
rèn luyện họ trở thành những chiến sĩ cộng sản. Đặc biệt, sau Hội nghị thành
lập Đảng ngày 3-2-1930, Ban tuyên truyền và cổ động của Đảng được thàh
lập. Đến ngày 1-8-1930 đã xuất bản được tài liệu tuyên truyền đầu tiên Ngày
quốc tế đỏ. Đây là tài liệu ấn hành sớm nhất của Ban tuyên truyền và cổ động.
Ngày 1-8 hàng năm đã trở thành ngày hội truyền thống của nghành tư tưởng –
văn hóa.
Bên cạnh đó Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh thành lập Đài tiếng nói Việt
Nam, thành lập Việt Nam thông tấn xã, ký sắc lệnh về việc nộp lưu chuyển
văn hóa phẩm…làm cho hệ thống tổ chức tuyên truyền cổ động, hệ thống báo
chí, xuất bản được củng cố phát triển. Nhưng thời kì đó, lực lượng cịn mỏng,
trình độ kỹ thuật cịn thơ sơ, nên cơng tác tun truyền đạt hiệu quả chưa cao.
Vì vậy, Hồ Chí Minh tiếp tục đào tạo cán bộ đảng viên bám đất, bám dân và
dùng phương pháp tuyên truyền miệng là chính.
Từ những việc làm cụ thể của chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng cho
cách mạng Việt Nam con đường đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc

7



và xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Trong sự nghiệp đó cơng tác tun truyền
đóng một vai trị vơ cùng quan trọng để giải thích, chứng minh, cổ vũ, động
viên mọi tầng lớp nhân dân, nhằm thưc tỉnh ở họ tinh thần yêu nước, xây
dựng cho họ tinh thần đấu tranh cách mạng. Vì vậy, có thể khẳng định chủ
tịch Hồ Chí Minh chính là người khởi sướng và lãnh đạo công tác tuyên
truyền của cách mạng Việt Nam.

8


Chương 2
Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơng tác tuyên truyền
2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp tuyên truyền
Mục tiêu chung của tuyên truyền là phát huy lòng u nước, vì độc lập
dân tộc, lợi ích đất nước, làm cho nhân dân ta hiểu rõ đường lối, chủ
trương, chính sách cảu Đảng và Nhà nước. Ngay sau Hiệp định sơ bộ 6-31946 được ký kết, Hồ Chí Minh viết: “…các ban tuyên truyền nên hướng
dẫn lòng yêu nước và chí cương quyết cố giành độc lập hồn tồn của đồng
bào một cách ơn hịa, bình tĩnh, có lợi cho ngoại giao. Hơn nữa cần phải
giải thích cho tồn dân hiểu rõ con đường đi của Chính phủ khi ký với
Pháp bản Hiệp định sơ bộ”.
Sau khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Hồ Chí Minh nói: “Theo ý tơi,
các bạn có các nhiệm vụ sau:
1. Vạch rõ âm mưu, chính sách và những hoạt động tàn bạo của địch.
2. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ, vì sao phải trường kỳ kháng chiễn,
vì sao kháng chiến nhất định thắng lợi.
3. Giải thích chính sách của Chính Phủ cho dân chúng rõ. Bày tỏ
nguyện vọng của dân chúng cho Chính phủ biết.
4. Cổ động dân chúng, huấn luyện dân chúng, bày cho dân chúng tổ
chức lực lượng của mình.

5. Kêu gọi toàn dân đoàn kết, hăng hái kháng chiến tin tưởng về sự
thắng lợi”.
Hồ Chí Minh căn dặn, trong khi làm nhiệm vụ tuyên truyền phải đồng
thời coi trọng việc đập lại các luận điểm tuyên truyền của địch. Bác viết: “Đế
quốc Pháp – Mỹ không những chiến tranh xâm lược bằng quân sự, chúng còn
chiến tranh bằng tuyên truyền. Chúng dùng báo chí và phát thanh hang ngàn,
trang ảnh và sách vở in rất đẹp, các nhà hát, trường học, các lễ cúng bái ở nhà
thờ và chùa chiền, các cuộc hội họp…để tuyên truyền”.
“Chỉ ở Pháp mà thôi, mười năm chúng tiêu 2450 triệu quan vào việc
tuyên truyền nhồi sọ. Chúng không ra mặt ở nước nào chúng mua chuộc
người nước ấy làm thay cho chúng”.

9


Bộ trưởng tuyên truyền Mỹ nói: “Mỗi năm, các báo chí nước ngồi đăng
tài liệu tun truyền của Mỹ cộng lại hơn 4 vạn trang báo(bằng 16 vạn trang
báo Cứu quốc)”.
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Địch tuyên truyền xảo quyệt và bền bỉ ngày này
đến ngày khác, năm này đến năm khác”. “Giọt nước rỏ lâu, đá cũng mòn.
Cho nên khơng khỏi có một số đồng bào bị địch tun truyền mãi nên
hoang mang”.
Trong đấu tranh trên mặt trận tuyên truyền, Hồ Chí Minh căn dặn: “Đối
với địch” thì nêu những cái xấu của nó để bộ đội ta, đồng bào ta biết là chúng
nó độc ác, xấu xa thế nào, để gây long căm thù đối với quân địch.
Sự hung ác, xấu xa của chúng có rất nhiều, biết gom góp tài liệu thì tha
hồ mà viết. Có những việc chúng nó làm, bên ngồi thì như là tốt, mà bên
trong thì thật là xấu, ta giải thích cho nhân dân ta hiểu”.
2.2. Tuyên truyền nhân tố mới
Trong tuyên truyền, Hồ Chí Minh coi trọng cả tuyên truyền miệng và

tuyên truyền trên báo chí. Người nhấn mạnh đến việc cổ vũ nhân tố mới, nêu
gương người tốt, việc tốt. Người nói: “Cịn về phía ta thì phải ra sức tuyên
truyền đường lối của Đảng, tuyên truyền những thành tích của công cuộc
kháng chiến và kiến quốc, phải nêu gương người tốt. Làm như vậy, bản than
cán bộ tuyên truyền đã đóng góp vao cuộc kháng chiến thắng lợi, xây dựng
hịa bình và đấu tranh thống nhất Tổ quốc”.
Ngay từ năm 1924, sau khi dự cuộc mít tinh của sinh viên trường đại học
phương Đơng, trong thư gửi đồng chí Pêtơrốp, Tổng thư ký ban phương Đông
của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Nói chung thì các dân tộc
phương Đơng đều giàu tình cảm, và đối với họ, một gương sống cịn có giá trị
hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.
Người rất quan tâm đến giáo dục con người. Với cán bộ, đảng viên, đặc
biệt là khi đã có chức, có quyền, Người dặn cơng tác tuyên truyền cũng như
báo chí phải nêu gương những cán bộ trong sạch, gương mẫu, cần, kiệm,
liêm, chính. Trong các thư gửi các buổi nói chuyện với cơng nhân, nơng dân,
trí thức, bộ đội, cơng an, thanh niên, phụ nữ, nhi đồng…, Người đều nhắc nhở

10


phải nêu gương tốt và nêu những tiêu chuẩn người tốt của từng đối tượng,
ngày nay đều trở thành các tiêu chuẩn phấn đấu của các ngành, các giới… Hồ
Chí Minh quan tâm tới việc phát huy sáng kiến của mọi cán bộ và người lao
động để làm việc có hiệu quả cao. Người nói: “Nhìn sáng kiến đó được khen
ngợi, thì những người đó cũng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo”.
Hồ Chí Minh cho rằng, nêu gương người tốt, việc tốt là cách làm tốt
nhất, có tác dụng nhiều mặt. Người nói: “Lấy gương người tốt, việc tốt để
hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng
Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc
sống mới”.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc nêu gương tốt, việc tốt
được quán triệt ngay từ khi Đảng cịn hoạt động bí mật, vận động nhân dân
vùng lên phá xiềng xích nơ lệ, giành chính quyền, cho tới khi cách mạng
thành cơng. Đảng lãnh đạo chính quyền, kháng chiến, kiến quốc, xây dựng
cuộc sống mới. Quan điểm đó trực tiếp chỉ đạo cơng tác dân vận, tuyên
truyền, đồng thời cũng chỉ đạo hoạt động báo chí cách mạng.
Một điều có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc cổ vũ nhân
tố mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là “nói đi đơi với làm”. Trong khi chỉ đạo
việc nêu gương tốt, nhắc nhở cán bộ, cơng chức và gia đình phải là tấm gương
cho nhân dân làm theo., bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hoạt động thực
tiễn là một tấm gương lớn.
Khi Người hơ hào tiết kiệm, chống lãng phí, trong kháng chiến thành lập
“hũ gạo ni qn” thì chính Người, vị Chủ tịch nước, lãnh tụ Đảng cũng
nhịn ăn một bữa trong một tuần lễ để góp phần vào hũ gạo ni quân như mọi
công dân. Khi Người hô hào trồng cây gây rừng thì năm nào Người cũng
tham gia tết trồn cây.
Chính việc “nói đi đơi với làm và trực tiếp làm tấm gương cho nên lời
nói và bài viết của Người ln ln có sức cổ vũ lớn trong nhân dân.
Người dạy “Muốn giữ gìn sự trong sáng của chủ nghĩa Mác- Leenin thì

11


trước hết tự mình phải trong sáng” “Từ việc lớn đến việc nhỏ, cán bộ đều
phải làm kiểu mẫu”.
2.3. Phê bình và tự phê bình
Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là một nội dung quan trọng
trong công tác tuyên truyền.
Năm 1951, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta
đang ở giai đoạn khó khăn ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Tự phê

bình” (báo Nhân Dân ngày 20-5-1951).
Bác Hồ viết:
…Dao có mài, mới sắc
Vàng có thui, mới trong
Nước có lọc, mới sạch
Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng ta cũng thế…
Cách ví von giản dị, lơ gích hiển nhiên đã biểu hiện tính khách quan,
cần thiết của việc tự phê bình. Đó là điều mà “Ai cũng cần tắm rửa cho
mình mẩy sạch sẽ. Thì ai cũng cần tự phê bình cho tư tưởng và hành động
được đúng đắn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu vấn đề và chính Bác tự giải đáp: “Tự phê
bình là gì? Là thật thà nhận, công khai nhận trước mặt mọi người những
khuyết điểm của mình để tìm cách sửa chữa”. Theo Bác Hồ, “Điều đó nói thì
dễ, nhưng làm thì khó. Khó là vì người ta hay có long tự ái. Thừa nhận cái sai,
cái dốt, cái kém của mình, sợ mất thể diện, mất uy tín, mất địa vị”.
Tự phê bình chính là cuộc cách mạng diễn ra ngay trong mỗi con
người chúng ta, là đấu tranh với chính bản thân mình. Nhưng phải làm việc
đó trước mặt tập thể, trước mọi người để mọi người cùng học tập, cùng rút
kinh nghiệm. Bởi vì “Thật thà tự phê bình chẳng những giúp cho mình sửa
chữa, giúp cho mình tiến bộ mà còn giúp cho người khác biết để mà tránh”.
Hồ Chí Minh chống thói qua loa đại khái, hình thức trong tự phê bình, chỉ
trích người khác cịn ai nêu khuyết điểm của mình đã khơng cảm ơn lai cịn
khó chịu, trù dập.
Trong bài “Đạo đức cách mạng” đăng trên tạp chí Học tập, số 12 năm
1958, Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho
việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội
12


không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”. Vì

“Chủ nghĩa cá nhân đẻ lắm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè
phái, chủ quan, tham ơ, lãng phí…” Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và
phê bình đã thể hiện thành một trong những phương châm xây dựng Đảng.
Những khơng chỉ trong sinh hoạt đảng, mà Hồ Chí Minh ln đặt vấn đề tự
phê bình và phê bình cơng khai trên báo chí.
Nếu như tự phê bình và phê bình trong nội bộ khơng có mấy ý kiến phải
bàn luận, vì nó như cơm ăn, nước uống, như “rửa mặt hàng ngày” thì vấn đề
tự phê bình và phê bình cơng khai trên báo chí lại lắm ý kiến. Có người cho
rằng phê bình cơng khai là vạch áo cho người xem lưng, là cho kẻ thù lợi
dụng. Hồ Chí Minh cũng kiên quyết chống lại những biểu hiện tư tưởng trên
đây. Trong tư tưởng của Người, phê bình cơng khai là “thuốc đắng dã tật”, có
những cán bộ tư tưởng rằng: Nếu cơng khai phê bình những khuyết điểm của
mình thì sẽ có hại vì:
- Kẻ địch lợi dụng để phản tuyên truyền.
- Giảm bớt uy tín của đồn thể và chính quyền.
- Làm mất thể diện của cán bộ đã phạm khuyết điểm ấy.
- Chỉ phê bình qua loa ở nội bộ là đủ rồi.
Thế là tưởng lầm, thế là ốm mà sợ thuốc… một khi đã phạm đến
khuyết điểm, thì dù mình muốn bưng bít người ta cũng biết. Phải nhớ câu
tục ngữ “sừng có vạch, vách có tai”…Cán bộ nào khơng dám cơng khai
thừa nhận khuyết điểm của mình, e sợ lời phê bình của đồng sự và nhân
dân…thì người đó khơng xứng đáng là cán bộ, việc phê bình phải từ trên
xuống và từ dưới lên.
Phê bình cơng khai làm “suy giảm bớt uy tín của đồn thể và chính
quyền” khơng? Chắc chắn là có. Nhưng có “giảm bớt” này là tạm thời để rồi
uy tín lại tăng lên, nếu biết thật thà tự phê bình. Cịn nếu sợ mà khơng phê
bình thì như Hồ Chí Minh nói “Người ốm giấu bệnh”. Mặt khác, trong tư
tưởng của Bác, tự phê bình và phê bình là việc làm như cơm “ăn cho khỏi
đói”, như “rửa mặt cho khỏi bẩn”. Đó là cơng việc hằng ngày, hiển nhiên cần
thiết, tất yếu như vong tuần hoàn chu chuyển trong cơ thể con người ta.


13


Tuy nhiên, tự phê bình và phê bình cơng khai trên báo chí cũng phải
chống một khuynh hướng nữa. Đó là khuynh hướng “đao to búa lớn”, có bé
xé ra to, hoặc lợi dụng tự phê bình và phê bình để hạ bệ nhau, mạt sát nhau.
Đó là kiểu phê bình như Bác Hồ viết, là “khơng nghiêm chỉnh”, khơng có tinh
thần “phụ trách”, khơng phải “trị bệnh cứu người”.
Trong kinh tế thị trường, những biểu hiện phức tạp của phê bình cơng
khai cịn nguy hiểm hơn. Đó là có lúc, có nơi, do sự chi phối của sức mạnh
đồng tiền hay vì động cơ các nhân mà đổi trắng thay đen, uốn cong ngịi bút
và thậm chí có biểu hiện “đâm thuê chém mướn”. Những biểu hiện này tuy
rất ít nhưng gây tác hại nghiêm trọng đến uy tín của báo chí giới.
Hồ Chí Minh khơng chỉ đưa ra các u cầu cân thiết có tính ngun tắc
cho việc tự phê bình và phê bình cơng khai trên báo chí, mà cịn rất quan tâm
hiệu quả cách thức giải quyết các vụ việc do báo chí nêu ra. Khi báo chí nêu
ra các vụ việc, Bác yêu cầu xử lý ngay, không đánh trống bỏ rùi theo kiểu
“sống chết mặc bay”. Có lần, “đọc tờ báo Vùng mỏ của tỉnh Quảng Ninh, có
đăng bài phê phán một cán bộ xã 27 tuổi bắt mọi người gọi bằng ơng. Có một
cụ già 60 tuổi có lần qn khơng gọi bằng ông Chủ tịch xã bằng ông, đã bị
khép vào tội: coi thường chính quyền, viết kiểm điểm, đưa đi dân công”. Đọc
bài báo, Bác Hồ đánh dấu nhiều chỗ…rồi giao cho văn phòng và yêu cầu
kiểm tra xử lý ngay.
Nếu tư tưởng và phong cách này của Hồ Chí Minh được phát huy thì
hiệu quả tác động báo chí sẽ rất lớn, các hiện tượng tiêu cực sẽ hạn chế, giảm
bớt rất nhiều.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình khơng chỉ nêu và
phân tích khuyết điểm, thiếu sót mà cong một mặt khác, có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Đó là biểu dương người tốt, việc tốt. Đây là mặt cơ bản, là xu thế

chủ yếu trong tự phê bình và phê bình. Bởi theo Bác, “Lấy gương tốt trong
quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên giáo dục lẫn nhau là một phương
pháp lấy quần chúng giáo dục quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục

14


rất lớn. Đó cũng là một cách thực hành đường lối quần chúng trong công tác
giáo dục”.

15


Chương 3
Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về tuyên truyền để nâng cao hiệu
quả công tác tuyên truyền ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay
3.1. Thực trạng công tác tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
3.1.1. Thành tựu
- Công tác tuyên truyền đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện
"xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt". Thực hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng, 20 năm đổi mới vừa qua, công tác tư tưởng thường xuyên
tuyên truyền trong toàn Đảng, toàn dân chăm lo xây dựng Đảng, xác định đó
là nhiệm vụ then chốt, là điều kiện có tính quyết định để đảm bảo thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng các khố về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cơng tác tư
tưởng đã tập trung chỉ đạo tốt công tác học tập, quán triệt các văn kiện Đảng,
tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng về quan điểm, đường lối, Cương lĩnh,
Điều lệ Đảng, các chủ trương, chính sách, đấu tranh khơng khoan nhượng với
các biểu hiện tư tưởng lệch lạc, sai lầm, phản động, độc hại, bảo vệ nền tảng

tư tưởng chính trị của Đảng, bảo vệ chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa.
Đứng trước những khó khăn to lớn của hệ thống xã hội chủ nghĩa cả về
lý luận và đường lối chính trị, trước yêu cầu đổi mới đất nước, hoạt động tư
tưởng, lý luận không ngừng được tăng cường nhằm khẳng định những vấn đề
có tính ngun tắc của của chủ nghĩa Mác - Lênin, đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng.
Đảng ta ban hành nhiều nghị quyết về cơng tác xây dựng Đảng. Nghị
quyết TW6 (lần 2) khố VIII và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về
công tác xây dựng Đảng, đã đặt công tác xây dựng Đảng thành nhiệm vụ
thường xuyên. Công tác xây dựng Đảng đã đạt được những kết quả bước đầu
quan trọng. Dân chủ trong Đảng và dân chủ trong xã hội ngày càng được mở

16


rộng tạo nên luồng sinh khí mới, thúc đẩy việc phát triển kinh tế, văn hoá và
xã hội, nâng cao tính tích cực của nhân tố con người. Vấn đề tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách được quán triệt và thường xuyên nhấn mạnh. Nguyên tắc tự
phê bình và phê bình trở thành nhu cầu của sinh hoạt Đảng từ Trung ương tới
cơ sở. Đúng như Bác căn dặn, ở nơi nào thực hành dân chủ rộng rãi thì tự phê
bình và phê bình cũng phát triển và trở thành nền nếp, ở nơi đó chi bộ, đảng
bộ đồn kết tốt hơn, tổ chức đảng mạnh lên.
- Công tác tuyên truyền trực tiếp góp phần xây dựng con người trong
thời đại mới. Cơng tác tun truyền đã góp phần bồi dưỡng lớp lớp cán bộ,
đảng viên trung thành với với lý tưởng cách mạng của Đảng, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tinh thần hy sinh và sức sáng tạo to lớn, lãnh đạo toàn
dân làm nên những kỳ tích trong cơng cuộc đổi mới đất nước. Các phương
tiện thơng tin đại chúng đã góp phần tích cực trong cuộc đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí xây dựng lối sống lành mạnh, trong sạch, hết

lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.
Công tác tuyên truyền là biện pháp quan trọng hàng đầu để giáo dục, xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa. Thực hiện những lời chỉ dẫn của Người,
văn kiện các Đại hội Đảng đều bàn và đề ra yêu cầu phải xây dựng con người
mới, đào tạo và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Đảng có nhiều nghị
quyết, chỉ thị về giáo dục và đào tạo, về khoa học và công nghệ, về tổ chức và
cán bộ, về cơng tác thanh niên...
Nghị quyết TW5 khố VIII và Kết luận TW 10 (khoá IX) một lần nữa
khẳng định những đức tính của con người Việt Nam trong thời đại mới, để lấy
đó làm tiêu chuẩn phấn đấu cho mỗi người, đặc biệt là cho thế hệ trẻ:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hịa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
17


- Có lối sống lành mạnh, nếp sống vǎn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo
vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chǎm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
nǎng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực.
Trong điều kiện của cơ chế thị trường và hội nhập, giao lưu quốc tế, âm
mưu chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân, đặc biệt là một bộ phận thanh niên xa rời lý tưởng, lười lao
động và học tập, sa vào lối sống, thậm chí có một bộ phận nhỏ bị lực lượng
xấu dụ dỗ, mua chuộc... Công tác tư tưởng của Đảng đã chú ý đến việc giáo

dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người chiến sĩ trung
kiên của Đảng, của cách mạng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
hôm nay và cho tương lai.
- Cơng tác tun truyền đã góp phần vạch trần các thủ đoạn phá hoại về
tư tưởng, làm thất bại một bước chiến lược "diễn biến hồ bình" của các thế
lực thù địch. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức rõ vị trí quan trọng
của việc đấu tranh chống “diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn
hóa, trong thời gian từ 1986 đến nay, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban
Bí thư các khóa đã chỉ đạo thường xuyên và chặt chẽ cuộc đấu tranh bảo vệ
nền tảng tư tưởng, đường lối và Cương lĩnh của Đảng, làm thất bại những âm
mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch trên lĩnh vực này. Chỉ tính từ sau
Đại hội IX đến nay, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW ngày
4/1/2002 về "Tăng cường cuộc đấu tranh chống các luận điệu sai trái và hoạt
động tán phát tài liệu chống Việt Nam". Ngày 30/12/2002 Ban Bí thư ra thơng
báo Kết luận số 94 về "Nhiệm vụ tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu
"diễn biến hồ bình" trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá". Hội nghị Trung ương
tám ra Nghị quyết về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới"...
18


Dưới sự chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các ban, ngành
chức năng có sự phối hợp theo dõi, nắm chắc hơn các động thái phá hoại của
các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Bước đầu có tiến bộ và
hiệu quả cao hơn trong các hoạt động vạch trần âm mưu, thủ đoạn chống phá
ta về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc; phản bác các quan điểm sai trái,
góp phần định hướng và thống nhất tư tưởng.
3.1.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu quan trọng trên, công tác tuyên truyền những
năm qua cũng còn nhiều hạn chế, thiếu sót:
Cơng tác tun truyền chưa đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức;

tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả của công tác tư tưởng chưa cao;
nhiều lúc chưa chủ động và thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu
“diễn biến hồ bình”, chống tun truyền phản động của các thế lực thù địch,
bác bỏ các quan điểm cực đoan mang tính kích động; thiếu những hình thức,
biện pháp cụ thể, có sức thuyết phục để xây dựng, củng cố niềm tin, giải đáp
những băn khoăn, vướng mắc, mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình đổi mới;
chưa làm tốt chức năng dự báo tình hình, chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên chủ động đi vào kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế với khu vực và thế
giới; công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống chưa thường
xuyên, nhiều lúc, nhiều nơi cịn bng lỏng, xem nhẹ.
Phương pháp tun truyền của cán bộ tư tưởng thiếu sáng tạo, đơn điệu,
một chiều, chưa phối hợp chặt chẽ giữa các phương pháp với nhau và chưa
phát huy được sức mạnh của các phương tiện tuyên truyền hiện đại, nên
thường bị khô khan nhàm chán.
Sự thống nhất trong lời nói và việc làm của cán bộ tư tưởng cịn nhiều
hạn chế. Tính cách mạng và tính chiến đấu trong các bài nói chuyện đơi khi
cịn thiếu sắc bén, khơng kịp thời phản bác lại các quan điểm sai trái của các
thế lực thù địch.

19


3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền
trong giai đoạn hiện nay
Để công tác tuyên truyền được phát huy, thực sự có hiệu quả hơn, trong
thời gian tới cần triển khai tập trung một số giải pháp sau:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, trực tiếp là cấp
uỷ và ban tuyên giáo cấp uỷ các cấp đối với công tác tuyên truyền. Để đảm
bảo cho công tác tuyên truyền hoạt động đúng hướng, đúng quan điểm, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thì phải có sự lãnh đạo của

Đảng, trực tiếp là cấp uỷ và ban tuyên giáo của cấp uỷ. Do đó, phải nâng cao
nhận thức của cấp uỷ và thủ trưởng đơn vị đối với công tác này, lãnh đạo các
cơ quan tuyên truyền cần xây dựng nội dung chương trình, kế hoạch cụ thể.
Bên cạnh đó, cấp uỷ các cấp hàng năm tổ chức kiểm tra chặt chẽ, đi đôi với
việc sơ, tổng kết về công tác tuyên truyền.
Hai là, nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm kiên định
những vấn đề quan điểm có tính ngun tắc theo tinh thần thực hiện Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương. Từ đó
tiến hành đổi mới việc triển khai quán triệt và học tập nghị quyết; tài liệu học
tập và phương thức truyền đạt nghị quyết cần bám sát đối tượng. Trước hết,
trong năm 2010 cần tập trung tuyên truyền các hoạt động chào mừng kỷ niệm
1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn với việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu,
chương trình mà Đại hội XI của Đảng đã đề ra.
Ba là, các cấp ủy đảng, chính quyền, các đồn thể chính trị - xã hội cần
nhận thức thống nhất trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, đẩy mạnh hơn nữa việc
tuyên truyền các điển hành tiên tiến, các phong trào thi đua yêu nước.
Bốn là, đẩy mạnh hơn nữa cơng tác tun truyền miệng, lựa chọn đúng
nội dung, hình thức phong phú, hấp dẫn thiết thực với nhu cầu thông tin của
20


nhân dân, đúng định hướng tư tưởng của đảng và Nhà nước. Công tác tuyên
truyền phải thường xuyên nắm bắt diễn biến tình hình tư tưởng, tâm trạng của
cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân để kịp thời tham mưu cho các cấp
ủy đảng, chính quyền có các giải pháp tư tưởng, thông tin kịp thời, nhất là
trước những vấn đề lớn của đất nước có tính nhạy cảm, tránh gây tâm lý và
bức xúc trong nhân dân.
Năm là, để hoạt động tuyên truyền có hiệu quả, trong đó cần tăng cường

vai trị quản lý nhà nước về hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ,
chú trọng đề cao sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, trực tiếp là ngành
Tuyên giáo, trách nhiệm quản lý của Bộ Thông tin và truyền thông. Bên cạnh
đó, các cơ quan chủ quản báo chí phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, chịu trách nhiệm về hoạt động của cơ quan báo chí, xuất bản thuộc
quyền theo đúng các chủ trương, nguyên tắc của Đảng và các quy định của
pháp luật.
Sáu là, tăng cường đấu tranh chống các quan điểm sai trái của các thế
lực thù địch; nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục của các bài
viết, thu hút rộng rãi hơn sự tham gia tích cực của các cơ quan nghiên cứu,
đội ngũ trí thức, các lực lượng xã hội, các tầng lớp nhân dân vào cuộc đấu
tranh này. Chủ động và kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ
những luận điệu phản động, góp phần làm thất bại mọi mưu toan “diễn biến
hồ bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch.
Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, cơng tác tun truyền có nhiệm vụ to lớn là giúp cán
bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
để cho cán bộ, đảng viên và nhân dân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Hơn lúc nào hết, công
tác tuyên truyền của Đảng phải thực sự là cầu nối chuyển tải những thông tin
của Đảng, Nhà nước tới cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, động viên
21


các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia lao động sản xuất, phục vụ đắc lực
sự nghiệp cách mạng của Đảng. Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.

22



KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa chúng ta nhưng tư tưởng của Người nói
chung, về cơng tác tư tưởng nói riêng vẫn cịn sống mãi với thời gian, với
Đảng ta, và đội ngũ những người làm công tác Tun giáo hơm nay. Đó là
hành trang, phương pháp luận quý báu để Đảng ta, đội ngũ làm công tác tuyên
truyền vững tin hơn, trí tuệ sắc sảo hơn nhằm góp phần nâng cao chất lượng
cơng tác tư tưởng của Đảng lên một tầm cao mới. Đặc biệt càng có ý nghĩa
cấp bách khi Đảng ta thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập; khi các lực
lượng thù địch chưa từ bỏ mưu toan chống phá cách mạng nước ta, hịng chia
rẽ Đảng với nhân dân; khi “Cơng tác tư tưởng cịn thiếu sắc bén, tính chiến
đấu cịn hạn chế…; chưa làm tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, những quan điểm mơ hồ, sai
trái; thiếu quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống”.
Khắc phục và thực hiện tốt các nhiệm vụ đó là nhân tố để “Đảng ta là
một tập thể lớn, tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí” trong tiến trình kiến tạo
đất nước theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đẩy nhanh cơng nghiệp hố, hiện đại
hố vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

23


MỤC LỤC

24




×