Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

QUAN điểm của CHỦ NGHĨA mác LÊNIN về LIÊN MINH CÔNG NHÂN NÔNG dân TRONG CÁCH MẠNG xã hội CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.91 KB, 22 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp bách của đề tài
Sau 87 năm, Cách mạng Tháng Mười Nga giành được thắng lợi và
mở ra thời kỳ mới thời kỳ quá độ lên CNXH. V.I.Lênin đã xây dựng
CNXH hiện thực thành công. Tiếp đó CNXH được xây dựng ở các nước
và các nước XHCN đó đã đạt được những thành tựu to lớn trên hầu hết
các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội . . . đồng thời cũng
phạm không ít sai lầm, khuyết điểm làm cho chế độ XHCN ở nhiều nước
bị biến dạng, khủng hoảng và buộc phải tiến hành cải tổ, cải cách, đổi
mới. Cải tổ ở Liên Xô và Trung - Đông Âu thất bại; cải cách ở Trung
Quốc và đổi mới ở Việt Nam đạt nhiều thành tựu to lớn rất quan trọng,
đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề hết sức mới mẻ vừa nói lên tính
phong phú, đa dạng, vừa nói lên tính chất phức tạp, khó khăn, lâu dài của
công cuộc xây dựng CNXH hiện thực cũng như trong quá trình nhận thức
của các Đảng Cộng sản về xây dựng khối liên minh giai cấp công nhân,
nông dân và tầng lớp lao động khác, thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc CNXH.
Chính thực tiễn cuộc sống đòi hỏi các Đảng Cộng sản nói chung, các
Đảng Cộng sản ở các nước XHCN nói riêng phải nghiên cứu sâu sắc hơn
nữa về lý luận liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp lao
động khác của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân chủ nghĩa Mác - Lênin
được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản vận dụng sáng tạo vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của
quá trình xây dựng CNXH hiện thực ở nước mình, dân tộc mình.
Chúng ta cần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công cuộc xây
dựng khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp lao động
khác trong quá trình hình thành và phát triển tư duy lý luận của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về khối liên minh giai cấp


công nhân, nông dân và tầng lớp lao động khác trong thời kỳ công nghiệp


hoá - hiện đại hoá và quá độ đi lên CNXH. Chuyên đề này thực hiện mục
tiêu nói trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề “Liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức trong
cách mạng Việt Nam” là một vấn đề rất cấp bách trong thời kỳ ngày nay,
thời kỳ của sự nghiệp đổi mới của Đảng - Nhà nước. Là một vấn đề rất
quan trọng trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Về vấn đề này cũng luôn
luôn được Đảng và Nhà nước nghiên cứu, được các nhà lý luận luôn quan
tâm nghiên cứu vấn đề này. Nhưng những vấn đề nêu trên chưa đi đến
một kết luận chung thống nhất. Do vậy, bài viết này nhằm đưa ra cái nhìn
khác, góc độ khác trong việc nghiên cứu về vấn đề này trong thời kỳ cách
mạng ngày nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
Trong thực tiễn, vấn đề: “Liên minh giai cấp công nhân, nông dân và
trí thức” trong cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một
trong những vấn đề còn được Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn nghiên
cứu và đưa ra những chủ trương, đường lối, các chính sách về liên minh
công nhân, nông dân và trí thức trong thời kỳ ngày nay. Từ việc nghiên
cứu về vấn đề này, người viết có thể đưa ra một cách có hệ thống về quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về liên
minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức, tìm ra cơ sở lý luận và
thực tiễn của tư tưởng liên minh giai cấp, đại đoàn kết.
Để thực hiện mục đích đó ta phải phân tích tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề liên minh
giai cấp công nhân, nông dân và trí thức trong cách mạng Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu: các tác phẩm của Hồ Chí Minh, Văn kiện
Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về thời gian nghiên cứu từ thời kỳ



Chủ tịch Hồ Chí Minh hoạt động cách mạng, tìm đường cứu nước đến
nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ yếu mà đề tài sử dụng để nghiên cứu là phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng phương
pháp phân tích tổng hợp trên tài liệu thu thập có sẵn để nghiên cứu đề tài.
6. Kết cấu của đề tài
Tiểu luận này được thực hiện gồm có 3 phần như sau:
Phần mở đầu:
Phần nội dung:
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh công nhân nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa:
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản về liên minh công
nhân, nông dân và trí thức trong cách mạng Việt Nam:
Phần kết luận:


PHẦN NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ LIÊN MINH CÔNG
NHÂN - NÔNG DÂN TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1. Khái niệm
- Giai cấp công nhân là tập đoàn người lao động sản xuất vật chất
chủ yếu trong các quy trình sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, với
trình độ xã hội hoá, quốc tế hoá ngày càng cao, là lực lượng sản xuất cơ
bản và tiên tiến và của xã hội, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ
hơn phương thức sản xuất TBCN.
Giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản đối lập với lợi ích cơ bản của
giai cấp tư sản. Lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản là duy trì chế độ tư hữu
để bóc lột lao động làm thuê, tăng lợi nhuận tối đa. Còn lợi ích của giai
cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư hữu, chế độ áp bức, bóc lột, xoá bỏ

giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng bản thân. Hai lợi ích cơ bản đó
không thể điều hoà được. Lợi ích của giai cấp công nhân về cơ bản thống
nhất với lợi ích của nhân dân lao động và của các dân tộc.
Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế và bản sắc dân tộc do quá
trình quốc tế hoá sản xuất công nghiệp và do giai cấp công nhân xuất thân
từ dân tộc. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh rằng: Giai cấp công
nhân nước nào cũng phải trở thành giai cấp dân tộc, chịu trách nhiệm
trước hết với dân tộc mình. Thực tiễn đã chứng minh rằng: Nếu tách rời
dân tộc, thì giai cấp công nhân và Đảng của nó không thể có sức mạnh,
mà trái lại sẽ thất bại.
Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin phản
ánh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời là định hướng cao
mọi hoạt động của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; có Đảng tiền
phong là Đảng Cộng sản.


- Giai cấp nông dân là tập đoàn những người lao động sản xuất vật
chất trong nông nghiệp, trực tiếp canh tác trên một loại tư liệu sản xuất
đặc biệt là đất, rừng, sông, biển để sản xuất ra nông sản, lâm sản, thuỷ sản
và hải sản.
Phương thức sản xuất của nông dân có tính chất phân tán với kỹ
thuật lạc hậu, năng suốt lao động thấp ( khi chưa có công nghiệp và khoa
học - công nghệ tác động vào ).
Giai cấp nông dân vừa là người lao động, vừa là người tư hữu nhỏ,
nhưng mặt tư hữu của nông dân khác về bản chất với tư hữu của các giai
cấp bóc lột. Lao động và tư hữu đều là những thuộc tính của nông dân,
trong đó lao động là mặt cơ bản. Nông dân không có hệ tư tưởng riêng, tư
tưởng của nông dân phụ thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã
hội.
Giai cấp nông dân là lực lượng dân cư, là lực lượng lao động đông

đảo nhất ở rất nhiều nước; gắn bó với dân tộc và có tiềm năng cách mạng
to lớn. Nhưng giai cấp nông dân không tự mình tổ chức thành công một
lực lượng cách mạng, nó chỉ có thể thành một lực lượng cách mạng hùng
hậu, mạnh mẽ nếu được những lực lượng cách mạng tiến bộ tổ chức lãnh
đạo.
- Giai cấp tầng lớp trí thức là giai cấp mà tầng lớp xã hội đặc biệt,
nằm trong lực lượng lao động trí thức, nhưng ở trình độ lao động trí óc
phức tạp và sáng tạo. Phương thức lao động trí thức chủ yếu là bằng trí
tuệ cá nhân, không có sự liên hợp, cố kết bắt buộc; không đại diện cho
một phương thức sản xuất độc lập.
Giai cấp tầng lớp trí thức không có hệ tư tưởng riêng, tư tưởng của
họ gắn với hệ tư tưởng của giai cấp nào thống trị xã hội. Vì thế, giai cấp
nào thống trị xã hội đều có đội ngũ trí thức của giai cấp ấy.
Giai cấp tầng lớp trí thức là lực lượng dân cư và là lực lượng lao
động không lớn nhưng có vai trò ngày càng quan trọng đối với tốc độ và


trình độ phát triển xã hội. Đại đa số trí thức trong các chế độ bóc lột là
người lao động bị bóc lột, do đó có khả năng cách mạng nếu được lực
lượng chính trị tiến bộ tập hợp, tổ chức và giáo dục. Dù có vai trò rất đặc
biệt nhưng tầng lớp trí thức cũng không thể thay đổi giai cấp công nhân
lãnh đạo quá trình xây dựng CNXH, CNCS.
- Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin như: Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là sáng tạo ra lịch sử, giai
cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công
nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, đoàn kết dân
tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế, “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”,
“Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Theo
V.I.Lênin, liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức là
liên minh chính trị đặc biệt của đại đa số người lao động trong quá trình

của cuộc cách mạng mang tính tự giác. Do đó, nhất thiết liên minh này
phải do giai cấp công nhân lãnh đạo, thông qua chính Đảng của nó - Đảng
Cộng sản. Đây là yêu cầu khách quan, như một điều kiện trước tiên để
tiến hành liên minh thắng lợi, vì lợi ích của giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức và của cả dân tộc; vừa là vấn đề có ý nghĩa
nguyên tắc cơ bản về chính trị.
Liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức là lý
luận về liên minh công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác là
một trong những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào
Việt Nam, đã góp phần to lớn tạo nên thắng lợi hoàn toàn của cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân và những thành quả rất quan trọng trong bước
đầu xây dựng CNXH.
2. Tính tất yếu và điều kiện liên minh giai cấp công nhân, nông
dân và trí thức


C.Mác và Ph.Ăngghen đã tổng kết thực tiễn các phong trào công
nhân ở châu Âu, nhất là ở Anh và ở Pháp giữa và cuối thế kỷ XIX, từ đó
đã khái quát thành một lý luận khoa học về cách mạng vô sản, trong đó lý
luận về liên minh công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác. Các ông đã chỉ ra rằng, nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã bị
thất bại, tổn thất, chủ yếu là vì đã không tổ chức liên minh với “người bạn
đồng minh tự nhiên” của mình là nông dân. Do vậy, các cuộc cách mạng
vô sản đã trở thành những “bài đơn ca ái điếu”.
V.I.Lênin đã vận dụng và phát triển lý luận về liên minh công nhân,
nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác của C.Mác và
Ph.Ăngghen trong giai đoạn CNTB đã phát triển cao sang Chủ nghĩa Đế
quốc(CNĐQ), và đã tổ chức liên minh công nhân, nông dân và tầng lớp
lao động khác trong cách mạng XHCN Tháng Mười Nga năm 1917.

Trong bước đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, V.I.Lênin càng mở
rộng liên minh trong những hoàn cảnh lịch sử mới. Liên minh không chỉ
có công nhân, nông dân dù đây là hai lực lượng cơ bản nhất và to lớn nhất
trong cách mạng mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác. Lênin
đã khẳng định rõ: “Chuyên chính vô sản là một hình thức đặc biệt của
liên minh giai cấp giữa giai cấp vô sản, đội tiên phong của những người
lao động với đông đảo những tầng lớp lao động không phải vô sản như:
tiểu tư sản, tiểu chủ, nông dân, trí thức . . .”
Tính tất yếu của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức
về mặt chính trị - xã hội, được V.I.Lênin nhấn mạnh là: Liên minh như
một nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản: “Nguyên tắc cao nhất
của chuyên chính vô sản là duy trì khối liên minh giữa giai cấp vô sản và
nông dân để giai cấp vô sản có thể giữ được vai trò lãnh đạo của chính
quyền Nhà nước”
Bởi vì lực lượng cách mạng của chuyên chính vô sản thì là khối liên
minh này đã tập hợp được lực lượng sản xuất và lực lượng cách mạng cơ


bản và đông đảo nhất để xây dựng CNXH; trong đó giai cấp công nhân
lại là giai cấp tiên phong, lãnh đạo. Xét về nguyên tắc lãnh đạo của
chuyên chính vô sản thì duy nhất chỉ có giai cấp công nhân thông qua
Đảng của nó lãnh đạo. Nhưng vai trò lãnh đạo đó chỉ được giữ vững và
được thực hiện có kết quả tốt khi lãnh đạo và tổ chức tốt liên minh công
nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác với tư cách là nền tảng của
Nhà nước chuyên chính vô sản. Xét về lợi ích cơ bản và mục tiêu của
chuyên chính vô sản, đó là xây dựng CNXH, CNCS vì lợi ích của toàn
thể nhân dân. Nhưng đại đa số nhân dân lại nằm trong giai cấp công
nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác.
Đó là tính yếu của liên minh về mặt chính trị - xã hội khi bước vào
giai đoạn xây dựng CNXH.

Về tính tất yếu của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí
thức về mặt kinh tế được V.I.Lênin đề cập đến là: Trong quá trình xây
dựng CNXH, tức là khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, thì cùng
với tính tất yếu chính trị - xã hội, tính tất yếu của liên minh xét về mặt
kinh tế lại nổi lên với tư cách là nhân tố quyết định nhất, quyết định cuối
cùng cho sự thắng lợi của CNXH. Cho dù tất yếu về chính trị vẫn là nhân
tố dẫn dắt, hàng đầu.
V.I. Lênin đã đặc biệt lưu ý một nội dung cơ bản nhất của bước
chuyển từ giai đoạn cách mạng giành chính quyền sang “thời đại chuyên
chính vô sản” là: Chính trị đã chuyển trọng tâm sang chính trị trong lĩnh
vực kinh tế, đấu tranh giai cấp cùng với nội dung và hình thức mới. Dưới
góc độ liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức trong xây dựng
CNXH mà xem xét thì là tất yếu kinh tế.
Tính yếu của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí
thức trên linh vực kinh tế được Lênin phân tích rõ như: tất yếu của việc
gắn chặt nông nghiệp với công nghiệp, với dịch vụ, khoa học và công
nghệ trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; từ một nước nông


nghiệp đi lên CNXH thì tất yếu trước tiên phải đặc biệt chú trọng nông
nghiệp để cho nông nghiệp thực sự trở thành cơ sở để tiến hành công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước; từng bước hình thành nền đại công
nghiệp hiện đại có khả năng cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thậm
chí, V.I.Lênin còn nêu vấn đề rất cụ thể rằng: ở một nước tiểu nông
chiếm đa số, nếu không có kinh tế nông nghiệp và nông dân vững mạnh,
không có dự trữ về lương thực thì không thể được nền công nghiệp.
Từ những phân tích trên của V.I.Lênin cho ta thấy là: Cần phải thoả
mãn được những lợi ích trước mắt của công nông thì mới có thể tiến tới
thực hiện lợi ích kinh tế lâu dài được, cơ bản nhất của toàn xã hội, tức là
hình thành cơ sở kinh tế của CNXH và CNCS.

Công nghiệp và nhiều lĩnh vực kinh tế đời sống khác phải gắn liền
với sự phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ ngày càng hiện đậi
thì mới có thể xây dựng thành công CNXH, CNCS.
V.I.Lênin còn phân tích thêm về tính tất yếu về lĩnh vực kinh tế của
liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và trí thức là: có chính
quyền, nếu không giải quyết vấn đề kinh tế trong liên minh thì bản thân
công nhân, nhất là nông dân và đại đa số nhân dân dù đã thoát khỏi ách
nô lệ, áp bức bóc lột cũng không thể nào thoát khỏi sự đói nghèo, bệnh
tật, mù chữ.
Chính toàn bộ những nội dung trên là lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về tính tất yếu của sự liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân
và trí thức trong thời kỳ cách mạng cũng như trong công cuộc xây dựng
CNXH, CNCS.
3. Vai trò của giai cấp công nhân trong liên minh giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức trong cách mạng
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: “Giai cấp công nhân là giai cấp
có tinh thần triệt để cách mạng, có khả năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể
nhân dân lao động lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, tiến hành cuộc


cải biến cách mạng, từng bước thực hiện bước chuyển cách mạng từ hình
thái kinh tế xã hội TBCN sang hình thái kinh tế xã hội CSCN. Công
nhân, giải phóng mình đồng thời giải phóng toàn xã hội khỏi mọi sự áp
bức, bóc lột bất công.
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định hình thành và
phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với
nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại có tổ chức xã hội hoá
ngày càng cao; là lực lượng cơ bản, tiên tiến trong quá trình sản xuất, tái
sản xuất ra của cải vật chất của xã hội, trong cải tạo các quan hệ xã hội,
động lực chính của tiến trình lịch sử từ CNTB lên CNXH. Giai cấp công
nhân có hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin phản ánh sứ mệnh lịch sử

của giai cấp công nhân, đồng thời là định hướng cao mọi hoạt động của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động; có Đảng tiền phong lãnh đạo là
Đảng Cộng sản.
Khi chưa giác ngộ cách mạng vô sản thì tư tưởng chính trị của nông
dân, của trí thức còn phụ thuộc vào hệ tư tưởng phong kiến hoặc tư bản vì
họ không có hệ tư tưởng riêng. Cho nên họ dễ bị lôi cuốn của phong kiến
hoặc tư bản. Do vậy mà không bao giờ nông dân và trí thức có thể tự giải
phóng khỏi các chế độ tư hữu, áp bức bóc lột, cho dù họ có nguyện vọng
được giải phóng. Vì thế, trong giai đoạn cách mạng XHCN là liên minh
giai cấp phải dựa trên lập trường chính trị - tư tưởng của giai cấp công
nhân thì mới thực hiện được nhu cầu, lợi ích chính trị cơ bản của cả công
nhân, nông dân, trí thức và của dân tộc là: độc lập dân tộc và CNXH. Và
khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức này phải
do Đảng của giai cấp công nhân - Đảng Mác - Lênin lãnh đạo, thì mới có
đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn để thực hiện liên minh, thực
hiện quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng CNXH thành công.
Vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ
TBCN, xây dựng xã hội CSCN văn minh, không có người bóc lột người


trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất, giải phóng mình và giải phóng
toàn xã hội khỏi mọi áp lực, bóc lột, bất công.
Qua đây có thể thấy vai trò của giai cấp công nhân có những đặc
điểm khác về chất so với sứ mệnh lịch sử của giai cấp tư sản và các giai
cấp khác trong quá trình lịch sử xã hội loại người. Giai cấp công nhân
không thể giải phóng được mình nếu không đồng thời giải phóng tất cả
quần chúng lao động bị áp bức. Ngược lại các giai cấp, tầng lớp lao động
khác do địa vị kinh tế xã hội của mình dưới ách áp bức của tư bản, sẽ
không được giải phóng nếu không đi theo giai cấp công nhân như là đội
tiên phong, cùng giai cấp công nhân lập đổ CNTB, xây dựng thành công

CNXH, CNCS.
Qua đây có thể thấy rằng không chỉ thực tiễn cách mạng trên thế
giới mà thực tiễn cách mạng của Việt Nam, Lào đã cho thấy “Giải cấp
công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo
cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VỀ LIÊN MINH
CÔNG NHÂN, NÔNG DÂN VÀ TRÍ THỨC TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về liên minh công nhân, nông dân
và trí thức trong cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng chính trị và phương pháp cách
mạng, đó là sự nhìn nhận và bố trí sử dụng các lực lượng xã hội trên cơ
sở vận dụng nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp, quan điểm dân tộc vào
thực tế Việt Nam. Với tư tưởng quan dung vốn là truyền thống của ông
cha và là nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xoá bỏ mặc cảm,
định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp trong thời kỳ
cách mạng là rất cần thiết để đoàn kết, liên minh tập hợp được rộng rãi
các giai cấp tầng lớp nhân dân.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong bài báo Dân vận: “Vận động tất
cả lực lượng của mỗi người dân không để sót một người dân nào góp
thành lực lượng toàn dân”.
Trong nội dung của tác phẩm “Sách lược vắn tắt của Đảng” thì Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã có viết về vai trò lãnh đạo của Đảng về xây dựng
khối đại đoàn kết liên minh giữa các giai cấp công nhân, nông dân và trí
thức là: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
thanh niên, Tân Việt để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với
bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và Tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập.

Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập Hiến) thì phải đánh
đổ.”1 Tức là Hồ Chí Minh đưa ra nhiệm vụ mới của Đảng cần phải thực
hiện nhanh trong thời kỳ hoạt động cách mạng.
Về nội dung của liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức
trong tác phẩm “Chánh cương vắn tắt của Đảng” thì Hồ Chí Minh đã có
viết, nhận xét trong các phương diện xã hội, chính trị, kinh tế để nhằm
giải quyết tốt về vấn đề xây dựng khối liên minh giai cấp là: “Về phương
diện xã hội thì dân chúng được tự do tổ chức, phổ thông giáo dục theo
công nông hoá; về phương diện kinh tế là dựng ra Chính phủ công nông
binh, tổ chức ra quân đội công nông; về phương diện kinh tế thì thâu hết
sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng) của tư bản đế quốc
chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý”2.
Trong tác phẩm “Đường Cách mệmh - Lịch sử Cách mệnh Nga” của
Hồ Chí Minh thì Người đã đưa ra những bài học của Cách mệnh Nga đối
với cách mệnh An Nam để cho ta nhận thức được rằng muốn cách mệnh
thành công thì phải làm gì. Người viết: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng
ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm
1
2

Tác phẩm Sách lược vắn tắt. Toàn tập Tập 3, năm 1930, trang 3
Tác phẩm Chánh cương vắn tắt. Toàn tập Tập, năm 1930, trang 1


gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống
nhất”3.
Về liên minh công nhân với nông dân và trí thức còn được thể hiện
trong tác phẩm “Toàn dân kháng chiến” tác phẩm này của Hồ Chí Minh
được viết để kêu gọi toàn thể nhân dân, toàn thể các tầng lớp giai cấp để
liên minh với nhau trở thành lực lượng xã hội quan trọng trong thời kỳ

làm cách mạng như: “Muốn kháng chiến lâu dài để tiến tới thắng lợi cuối
cùng, cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng mới mong đi tới thắng
lợi cuối cùng. Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trường cũng là kháng
chiến. Anh dân cày cày cuốc ngoài đồng ruộng, anh thợ cặm cụi trong
nhà máy, chị bán hàng buôn bán ngược xuôi, ông già xách giỏ đi câu
cũng là kháng chiến. Các công chức, các nhà văn, nhà báo mải miết trước
bàn giấy, cạnh tủ sách cũng là kháng chiến. Các y sinh, khán hộ lăn lộn
bên giường bệnh cũng là kháng chiến. Các nhà giàu có đem hết tài lực
mở mang xưởng thợ, khai thác ruộng đất cũng là kháng chiến ”, “Nhiều
sức, giàu của, mới có thể kháng chiến lâu dài. Thế thì ở hậu phương làm
sao góp được nhiều sức, làm được nhiều của, đó là kháng chiến, chứ
không phải chỉ ra mặt trận mới là kháng chiến.”1.
Chính đây cũng là cơ sở lý luận quan trọng để kết hợp được các tầng
lớp giai cấp công nhân và nông dân với trí thức để tập hợp các lực lượng
xã hội mới, có tinh thần đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân. Thực hiện thành
công về lý luận này của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta mới có thể giành
được thắng lợi và nhiều thắng lợi hơn nữa trong thời kỳ cách mạng và
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Tính tất yếu và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức trong
cách mạng Việt Nam
a. Tính tất yếu khách quan của Đảng Cộng sản Việt Nam
3
1

Tác phẩm Đường cách mệnh - Lịch sử Cách mệnh Nga. Toàn tập Tập 2, năm 1927, trang 280
Tác phẩm Toàn dân Kháng chiến. Toàn tập Tập 4, năm 1945, trang 84


Vấn đề liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân với tầng

lớp trí thức của Đảng Cộng sản Việt Nam là “giữ vững và tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng, bản chất cách mạng của Nhà nước, nâng cao hiệu
lực hiệu quả của hoạt động các tổ chức trong hệ thống chính trị, mở rộng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tăng cường tiềm lực quốc gia,
giữ vững ổn định chính trị - xã hội, củng cố quan hệ mật thiết giữa Đảng
và Nhà nước với nhân dân.
Từng bước nâng cao chất lượng trước hết là chất lượng của mỗi tổ
chức cũng như của toàn hệ thống chính trị; xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành, lề lối làm việc; nâng cao chất lượng
cán bộ; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; cụ thể hoá nội dung và phương
thức lãnh đạo của Đảng, nội dung và phương pháp quản lý Nhà nước, nội
dung và phương pháp hoạt động của Mặt trận và các toàn thể chính trị xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Bộ máy của Đảng phải phù hợp với điều kiện một Đảng cầm quyền,
Đảng cần có tổ chức tham mưu chuyên trách có chất lượng cao và tính
gọn; đồng thời Đảng phát huy vai trò của các tổ chức Đảng và đội ngũ
đảng viên, các cấp uỷ viên và cán bộ chủ chốt lao động trong các cơ quan
Nhà nước và các toàn thể. Tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ quan
Nhà nước và các đòan thể vừa là hạt nhân lãnh đạo chính trị các tổ chức
đó, vừa là làm tham mưu cho Đảng về chủ trương, chính sách đối với
những lĩnh vực có liên quan”1, “tăng cương vai trò lãnh đạo của Đảng, coi
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải luôn tự đổi mới và
chỉnh đốn. Củng cố và xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức,
cán bộ; tăng cường bản chất công nhân và tính tiên phong của Đảng; đổi
mới phương thức, lề lối làm việc, nâng cao trình độ và vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nắm vững và vận
1

Văn kiện Hội nghị VII Ban Chấp hành Trung ương VIII, NXB Chính trị Quốc gia, trang 34 - 35



dụng sáng tạo những bài học trên đây là đảm bảo thành công của sự
nghiệp phát triển đất nước trong thời kỷ mới”2.
Đại hội IX nhấn mạnh vai trò rất quan trọng của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, toàn thể nhân dân trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân xây
dựng và bản vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên,
đoàn viên, giữ gìn kỳ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt
chặt mỗi liên hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Nhân dân vừa
thực hiện quyền dân chủ trực tiếp vừa thực hiện quyền dân chủ thông qua
đại diện là các cơ quan Nhà nước, các đại biểu nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các toàn thể nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý, nguyện vọng, tập hợp khối
đại đoàn kết toàn dân, góp sức xây dựng Nhà nước trong sạch, vững
mạnh. Là nơi nhân dân phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp; xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, tuyên
truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Dựa vào các tổ chức này, nhân dân tham gia xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác
và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cư và
các cơ quan Đảng và Nhà nước. Là nơi giải quyết những mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân phù hợp và hiệu quả cao.
b. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về liên minh giai cấp
công nhân, nông dân và trí thức trong cách mạng Việt Nam
Những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về liên minh giai
cấp công nhân, nông dân và trí thức trong thời kỳ cách mạng được Đảng
thông qua trong các kỳ Đại hội của Đảng như sau:

2


Văn kiện Đại hội đại biêu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, trang 15.


Trong Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định
những thành tựu đã đạt được: “Trong điều kiện sản xuất, chiến đấu và đời
sống hết sức khó khăn, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể,
tầng lớp trí thức XHCN và các lực lượng vũ trang nêu cao chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, tinh thần làm chủ tập thể, đã sáng tạo ra một khối lượng
sản phẩm nhiều hơn rõ rệt so với năm trước, chiến đấu rất kiên cường,
thông minh, dũng cảm, lập nhiều chiến công”1. Những thành tựu ấy
khẳng định là không thể tách rời sự giúp đỡ và ủng hộ quý báu của các
nước XHCN anh em, các nước bầu bạn và nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt
là sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, sự hợp tác và tình đoàn kết, liên minh
giữa các nước trong thời kỳ làm cách mạng cũng như thời kỳ xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Trong Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam còn nhấn mạnh thêm về
điều kiện để phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng
cao hiệu quả quản lý Nhà nước. Đây cũng là điều kiện để phát huy xây
dựng vững mạnh khối đại đoàn kết, liên minh các giai cấp tầng lớp trong
sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội VI khẳng
định: “Đối với giai cấp công nhân, Đảng cần có những biện pháp cụ thể
nhằm nâng cao giác ngộ XHCN và trình độ hiểu biết về mọi mặt để xứng
đáng với vị trí giai cấp tiên phong của cách mạng, đồng thời chăm lo đời
sống vật chất và văn hoá, tạo ra những điều kiện cần thiết để giai cấp
công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình; có chế độ tiền lương và
phúc lợi xã hội hợp lý, bảo đảm đời sống vật chất và văn hoá của công
nhân, viên chức và gia về xây dựng giai cấp công nhân. Nhà nước cần bổ
sung Luật công đoàn”. “Đối với giai cấp nông dân, phải giải quyết tốt
quan hệ giữa nghĩa vụ đóng góp cho đất nước và quyền lợi của nông dân.

Nhà nước phải soát lại các chính sách quan hệ đến nông dân, bãi bỏ
những chính sách không đúng”. “Đối với trí thức, điều quan trọng nhất là
1

Văn kiện Đại hội VI, NXB Chính trị Quốc gia, trang 16 - 17


bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng năng lực và tạo điều kiện
năng lực được sử dụng đúng và phát triển. Phá bỏ những quan niệm hẹp
hòi, không thấy tầng lớp trí thức ngày nay là những người lao động, được
Đảng giáo dục và lãnh đạo, ngày càng gắn bó chặt chẽ với công nhân,
nông dân.”1
Về liên minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức còn
được Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VI đề cập đến rộng rãi hơn nữa
trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam, Đại hội đã chỉ rõ về tình hình và nhiệm vụ của liên minh công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức quốc tế. Đại hội VI khẳng định:
“Quân và dân ta tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với Lào và
Campuchia, củng cố liên minh chiến lược với hai nước láng giềng, anh
em, cùng nhau tăng cường thế và lực của cách mạng ở cả ba nước”
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước 1991, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra rất rõ về những phương hướng cơ bản của quá trình xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Trong những phương hướng đó có một
phươnng hướng rất quan trọng và là trọng tâm đó là “Xây dựng Nhà nước
XHCN, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công
nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản
lãnh đạo” điểm đổi mới ở đây là tầng lớp trí thức cùng với giai cấp công
nhân và nông dân hợp thành liên minh, là cơ sở xã hội của Nhà nước, là
nền tảng, là chỗ dựa của Nhà nước XHCN. Trong cách mạng dân tộc dân
chủ, vai trò trí thức đã quan trọng, trong xây dựng CNXH - nhất là khi

cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang tác động mạnh mẽ đến nhịp
độ phát triển của các dân tộc - thì vai trò trí thức càng quan trọng. Song sẽ
phạm sai lầm nghiêm trọng nếu tuyệt đối hoá vai trò trí thức hạ thấp vai
trò công nhân và nông dân.

1

Văn kiện Đại hội Đảng VI, NXB Chính trị Quốc gia, trang 115


Về vấn đề liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức trong
Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương khoá IX đã
được đề cập đến là: Liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức là
nền tảng của Đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền
tảng liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo
của Đảng là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức
mạnh động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Liên minh giai cấp công nhân với nông dân và trí thức là đòi hỏi
khách quan của công cuộc đổi mới và của sự nghiệp đại đoàn kết toàn
dân tộc. Trong đổi mới đất nước, sự liên minh giai cấp này nó mang tính
toàn diện. Về chính trị, thì đó là sự tập hợp lực lượng, đoàn kết của công
nhân, nông dân và trí thức nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc chế độ
chính trị mới - chế độ XHCN mà toàn bộ quyền lực là thuộc về nhân dân;
Về kinh tế, đó là sự liên kết, hợp tác của công nhân, nông dân và trí thức,
trên cơ sở phân công lao động xã hội của mình, để xây dựng và phát triển
nền kinh tế mới có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và
công nghệ tiên tiến; Về văn hoá - xã hội, đó là sự đồng lòng, hợp tác của
công nhân, nông dân và trí thức để xây dựng nền văn hoá mới tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, hình thành những con người mới có tri thức và

sức khoẻ, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính.
Do vậy, liên minh chặt chẽ giữa công nhân, nông dân và trí thức là
yếu tố quan trọng để có được những thắng lợi của công cuộc đổi mới vừa
qua. Sự nghiệp đổi mới thắng lợi tạo ra những điều kiện vật chất, tinh
thần để xây dựng vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đem lại niềm
tin cho các giai cấp, tầng lớp xã hội. Liên minh công nhân, nông dân và
trí thức càng chặt chẽ, thắng lợi của công cuộc đổi mới càng to lớn thì
càng tạo ra lực lượng mạnh mẽ lôi kéo được cả những người còn phân


vân, do dự. Đặc biệt để góp phần ngăn chặn và đập tan được những luận
điệu của các thế lực thù địch kích động.
Liên minh công nhân với nông dân và trí thức nhưng phải dưới sự
lãnh đạo của Đảng để từ đó giữ vững định hướng XHCN của liên minh vì
sự phát triển của chính công nhân, nông dân, trí thức và góp phần vào sự
nghiệp cách mạng chung của đất nước. Liên minh công nhân với nông
dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng nó thể hiện ở việc Đảng hoạch
định nội dung, chủ trương liên minh, thực hiện liên minh phải phù hợp
với đường lối của Đảng; ở vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền
kinh tế nhiều thành phần; ở chính sự gương mẫu của công nhân trong lao
động và cuộc sống của mình.
Vì thế liên minh công nhân với nông dân và trí thức luôn là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, vừa là vấn đề cấp bách, vừa là
vấn đề cơ bản, lâu dài của công cuộc đổi mới đất nước và là nền tảng của
Đại đoàn kết toàn dân.

PHẦN KẾT LUẬN:
Đối với Việt Nam, thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn,
thế kỷ đấu tranh oanh liệt giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và
xây dựng CNXH, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa

lịch sử và thời đại.
Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, Việt Nam từ một
nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do,
phát triển theo con đường XHCN, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế
ngày càng quan trọng trong khu vự và trên thế giới. Nhân dân Việt Nam
từ phân nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất


nước từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã lú vào thời kỳ đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đây chính là sự vận
dụng sáng tạo và phát triển của chủ nghĩa Mác- Lênin tư tưởng Hồ Chí
Minh và những giá trị của nhân loại vào giai đoạn cách mạng hiện nay
của Việt Nam.
Đây là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, một dân tộc anh hùng,
thông minh và sáng tạo; tự hào về Đảng - Đảng Cộng sản Việt Nam do
chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện một lòng một dạ
chiến đấu vì độc lập, tự do và Tổ quốc, vì hạnh phúc và nhân dân.
Những thành công đã đạt được như trên là vì đất nước Việt Nam
trong thời kỳ cách mạng, trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ
sở liên minh giai cấp công nhân, nông dân và trí thức vào cụ thể trong
điều kiện Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

MỤC LỤC

Trang
Phần mở đầu.......................................................................................1
Phần nội dung.....................................................................................4
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về liên minh công nhân,

nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa......................................4
1. Khái niệm........................................................................................4
2. Tính tất yếu và điều kiện liên minh giai cấp công
nhân, nông dân và trí thức...................................................................6
3. Vai trò của giai cấp công nhân trong liên minh


giai cấp công nhân, nông dân và trí thức
trong cách mạng..................................................................................9
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản về liên
minh công nhân, nông dân và trí thức trong cách
mạng Việt Nam................................................................................11
1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về liên minh công
nhân, nông dân và trí thức trong cách mạng
Việt Nam...........................................................................................11
2. Tính tất yếu và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về liên minh giai cấp công nhân, nông dân
và tầng lớp trí thức trong cách mạng Việt Nam................................13
Phần kết luận.....................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình CNXHKH
2. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
3. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh
4. Các tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập
5. Các Văn kiện Đại hội Đảng





×