Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

LUẬN văn tốt NGHIỆP ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo GIỮ VỨNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA TRÊN LĨNH vực CHÍNH TRỊ GIAI đoạn (1986 1996)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.79 KB, 75 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội kiểu mới, là một hình thái kinh tế
xã hội tiên tiến được Mác - Ănghen phác thảo, Lênin tiếp tục bổ sung và phát
triển. Vì là một hình thái kinh tế xã hội mới nên xung quanh nó ngay từ khi ra
đời đã nảy sinh các khuynh hướng nhận thức khác nhau thậm chí là trái ngược
nhau. Từ những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ trước, thuật ngữ “định
hướng xã hội chủ nghĩa” đã được các nhà lý luận Xô Viết sử dụng để chỉ con
đường phát triển của một số quốc gia Á, Phi, Mỹ la tinh sau khi giành được
độc lập bởi chính đảng lãnh đạo ở các nước này chưa phải là Đảng Cộng sản
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin mà chỉ là Đảng cấp tiến, tiến bộ.
Ở Việt Nam, định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định sớm. Ngay từ
khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong cương lĩnh đầu tiên Đảng ta đã
khẳng định “ …làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi
tới xã hội cộng sản” [6,2 ]. Từ đó, suốt quá trình tiến hành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trong khi Đảng lãnh đạo quân và dân ta đoàn kết đấu tranh
giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc, Đảng luôn định hướng chế độ
dân chủ nhân dân làm cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau năm 1975, khi Tổ quốc đã thống nhất, non sông thu về một mối, cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thì định hướng xã hội chủ nghĩa được sử dụng
nhiều với nghĩa là sự định hướng phát triển của xã hội Việt Nam trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nhằm
mục đích không để chệch hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu khi kết thúc
thời kỳ quá độ sẽ xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa
xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp,
làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Đây là vấn


2



để trung tâm của lý luận và thực tiễn xây dựng đất nước nhưng cũng là vấn đề
vô cùng khó khăn, phức tạp.
Tổng kết 10 năm đổi mới, tại Đại hội VIII (6/1996) Đảng khẳng định:
“Công cuộc đổi mới 10 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa rất quan trọng” [20, 10 ]. Một trong những thành tựu ấy là nhận thức về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng
đựoc xác định rõ hơn. Điều đó chứng tỏ dưới sự lãnh đạo của Đảng, con
thuyền cách mạng Việt Nam đã và đang đi đúng hướng. Tuy nhiên, như nghị
quyết Đai hội VIII đã nhận định, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan, cả trong nước và quốc tế, quá trình đổi mới cũng đã bộc lộ những
khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng XHCN ở lĩnh vực
này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác.
Chính trị là một lĩnh vực trọng yếu, quyết định phương hướng vận động
phát triển của một chế độ. Chế độ chính trị phản ánh bản chất, nội dung và
phương hướng giải quyết các mối quan hệ và lợi ích giữa các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội. Trong thời kỳ quá độ vấn đề định hướng và giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị có vị trí cực kỳ quan trọng đối
với sự tồn tại và phát triển bền vững của đất nước, liên quan trực tiếp đến sự
mất còn của chế độ.
Đảng ta với bản lĩnh trí tuệ và kinh nghiệm thực tiễn luôn coi trọng
việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung cũng như trên từng lĩnh
vực nói riêng, coi đây là một nguyên tắc của công cuộc đổi mới. Chính vì vậy
tôi chọn đề tài "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị từ năm 1986 đến năm 1996 " làm
luận văn cuối khoá.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.


3


Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề mới, có phạm vi
rộng, đã có nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến: “ Giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phát triển kinh tế ở nước ta. Vai trò của Quân đội nhân dân
Việt Nam với vấn đề đó" của Lê Nam Cung; "Giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trong công tác tư tưởng trong quân đội hiện nay" của Vũ Tất Lợi;
"Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới" của Trần
Xuân Trường; "Một số vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" của Lê Xuân Lựu. “Giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của
Hoàng thị Bích Loan. “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới” của Nguyễn Mạnh Hổ.
Các công trình trên đã trình bày nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trên phạm vi chung cũng như
trên từng lĩnh vực. Các công trình trên đây đã nêu ra và cung cấp cho tác giả
nhiều tài liệu và đặc biệt là phương pháp tiếp cận vấn đề giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tuy nhiên dưới góc độ lịch sử Đảng chưa có một đề tài nào nghiên cứu
hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị. Do vậy, đề tài mà tác giả chọn
làm luận văn cuối khoá là vấn đề mới, không trùng lặp với các công trình
khoa học đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
* Mục đích nghiên cứu.
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và khẳng định tính đúng đắn sáng tạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo, chỉ đạo giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị từ năm 1986 đến năm 1996, rút ra những


4


kinh nghiệm về quá trình Đảng lãnh đạo giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực chính trị từ năm 1986 đến năm 1996.
* Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Khẳng định tính tất yếu khách quan của việc giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị trong công cuộc đổi mới.
- Làm rõ quá trình lãnh đạo, chỉ đạo giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực chính trị từ năm 1986 đến năm 1996. Thành tựu, hạn chế
và rút ra kinh nghiệm trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị của Đảng ta từ năm 1986 đến năm 1996.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng: Tập trung nghiên cứu hoạt động của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong lãnh đạo, chỉ đạo, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh
vực chính trị từ năm 1986 đến năm 1996.
* Phạm vi: Luận văn chỉ nghiên cứu chủ trương và quá trình chỉ đạo
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng trên lĩnh vực chính trị từ
năm 1986 đến năm 1996 và rút ra một số kinh nghiệm thực tiễn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
* Cơ sở lý luận: Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa nói chung và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trên lĩnh vực chính trị nói riêng.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp lịch
sử,phương pháp lôgíc và sự kết hợp hai phương pháp đó là chủ yếu, đồng
thời sử dụng một số phương pháp khác như: thống kế, so sánh.
6. Đóng góp của luận văn:


5


Kết quả đạt được của luận văn sẽ góp phần vào việc hệ thống hoá các
chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng trong giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị từ năm 1986 đến năm 1996.
Khái quát kết quả, rút ra kinh nghiệm giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực chính trị từ 1986 đến 1996, để vận dụng vào lãnh đạo giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị trong tình hình hiện
nay.
Thành công của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Đảng.
7. Kết cấu:
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo.


6

Chương 1
CHỦ TRƯƠNG GIỮ VỮNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1996
1.1 Yêu cầu khách quan giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
trên lĩnh vực chính trị trong công cuộc đổi mới
1.1.1 Nội dung giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực
chính trị trong công cuộc đổi mới.
Chính trị là lĩnh vực hoạt động gắn liền với những quan hệ giữa các
giai cấp, dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau, trong đó hạt nhân của chính
trị là giành lấy, gìn giữ và sử dụng chính quyền Nhà nước. Lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin đã đem lại sự giải thích khoa học về chính trị trên cơ sở giải
quyết đúng đắn mối quan hệ hữu cơ giữa kinh tế và chính trị. Kinh tế có vai
trò quyết định đối với chính trị. Tuy nhiên, chính trị không phải là một nhân
tố hoàn toàn bị động mà trái lại nó có thể là nhân tố tích cực nếu nó phản ánh

sát đúng những yêu cầu chín muồi của các điều kiện kinh tế xã hội.
Ở Việt Nam, đổi mới chính trị là một đòi hỏi tất yếu, một nội dung
quan trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Tuy nhiên, là lĩnh vực
nhạy cảm và cực kỳ phức tạp nên đổi mới chính trị nhất thiết phải dựa trên cơ
sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, có bước đi, cách làm phù hợp,
trong đó nổi lên ba vấn đề cơ bản sau đây: tư duy chính trị với 2 thành tố cơ
bản là hệ tư tưởng và đường lối chính trị; hệ thống chính trị XHCN; phong
trào chính trị của quần chúng.
Giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị là các hoạt động
nhằm xác lập và hiện thực hóa những giá trị XHCN trên các nội dung của đổi
mới chính trị, cụ thể là:
Một là, xác lập hệ tư tưởng XHCN và xây dựng một đường lối chính trị
cách mạng, khoa học.


7

Đây là nội dung quan trọng hàng đầu quyết định sự đúng hướng hay
chệch hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị. Bởi hệ tư tưởng và đường lối là
sinh mệnh chính trị của Đảng và cách mạng. Có một hệ tư tưởng và đường lối
chính trị đúng đắn sẽ giúp Đảng ta có nhận thức đúng đắn về mục tiêu, nhiệm
vụ của cách mạng, từ đó xác định con đường, phương pháp cách mạng phù
hợp để thực hiện mục tiêu đã đề ra do vậy mà cách mạng tiến lên. Ngược lại,
một hệ tư tưởng và đường lối chính trị sai lầm, phản khoa học sẽ dẫn tới
những lệch lạc trong nhận thức cũng như trong hành động thực tiễn, từ đó
cách mạng gặp khó khăn, rối ren thậm chí đổ vỡ.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, việc xác lập hệ tư tưởng
XHCN và xây dựng một đường lối chính trị cách mạng, khoa học thể hiện:
Thứ nhất, là việc khẳng định và xác lập trên thực tế vai trò của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với hoạt động của Đảng Cộng

sản Việt Nam và toàn xã hội. Đó thực sự phải giữ vai trò là nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho mọi họat động của Đảng, của cách mạng và của cả xã hội.
Thứ hai, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh lên
một trình độ mới. Đây là yêu cầu tất yếu khách quan, bởi thực tiễn luôn vận
động, biến đổi và phát triển không ngừng do đó việc vận dụng sáng tạo trên
cơ sở bổ sung và phát triển lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
điều cần thiết. Lênin đã dạy: “chúng ta không hề coi lý luận Mác như một cái
gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó
chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần
phải phát triển hơn nữa nếu không muốn trở thành lạc hậu đối vớicuộc
sống”[33,232]. Phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
chính là trên cơ sở nghiên cứu nghiêm túc những nguyên lý cơ bản, mang tính
bản chất, có giá trị vạch thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để vận dụng sáng tạo cho phù hợp với sự phong phú và đa dạng của


8

thực tiễn. Chính việc phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cho phù hợp với thực tiễn là cách tốt nhất, biện pháp hiệu quả nhất, tích cực
nhất để bảo vệ và phát huy giá trị đích thực của nó.
Thứ ba, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đường lối chính trị phải luôn xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi
của cách mạng.
Đường lối là sinh mệnh chính trị của Đảng và cách mạng. Đường lối
đúng thì cách mạng giành thắng lợi, tiến lên không ngừng, ngược lại, những
sai lầm về đường lối sẽ ảnh hưởng lớn đến tiến trình cách mạng, làm cho cách
mạng lâm vào khó khăn dẫn đến thoái trào thậm chí thất bại. Giữ vững định
hướng XHCN của đườg lối thể hiên trước hết đường lối đó phải dẫn dắt dân
tộc ta, nhân dân ta đi tới mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Đường lối ấy

phải là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tri thức khoa học với quá
trình tổng kết thực tiễn sâu sắc. Đường lối ấy phải thực sự là sự hòa quyện
giữa ý Đảng và lòng dân.
Hai là, kiện toàn, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị XHCN.
Hệ thốngchính trị XHCN ở nước ta với 3 yếu tố hợp thành là Đảng
Cộng sản lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ có ý nghĩa quan
trọng, đóng vai trò quyết định trong việc hiện thực hóa các chủ trương, chính
sách của Đảng trong cuộc sống. Kiện toàn,đổi mới và nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị XHCN ở nước ta là một tất yếu
khách quan. Bởi hệ thống chính trịXHCN ở nước ta hiện nay là sự tiếp tục
phát triển của hệ thống chính trị XHCN trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ra đời sau cách mạng tháng Tám (1945). Xét về bản chất hệ thống
chính trị trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và hệ thống chính trị
XHCN là thống nhất, đều do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đều thống


9

nhất về mục tiêu độclập dân tộc và CNXH, thống nhất về cơ sở xã hội - giai
cấp đó là khối liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng trong
mỗi giai đoạn cách mạng thì chức năng nhiệm vụ của hệ thống chính trị cũng
như các thành tố cấu thành hệ thống chính trị có những biến đổi nhất định
nhằm đáp ứng yêu cầu của cách mạng. Trong giai đoạn cách mạng mới, nhất
là trong công cuộc đổi mới với những yêu cầu nhiệm vụ mới đòi hỏi hệ thống
chính trị XHCN ở nước ta tiếp tục được xây dựng kiện toàn và nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động trong đó tập trung vào 3 vấn đề sau đây: vấn đề cốt
lõi là giữ vững và tăng cường quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong hệ thống chính trị đó cũng như với toàn xã hội. Đó phải là sự lãnh đạo
tuyệt đối, bất khả xâm phạm. Hai là, thực hiện đầy đủ, có hiệu quả chức năg

của chuyên chính vô sản - một nền chuyên chính của số đông với số ít với hai
chức năng cơ bản là xây dựng và trấn áp. Ba là, xây dựng nền dân chủ
XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực.
Ba là, tạo dựng phong trào chính trị của quần chúng đấu tranh vì mục
tiêu độc lập dân tộcvà CNXH.
Đây là vấn đề giữ vị trí quan trọng bởi dù chúng ta đã có một hệ tư
tưởng và đường lối chính trị đúng đắn, có một hệ thống chính trị vững mạnh
nhưng nếu không có phong trào chính trị của quần chúng thì các mục tiêu của
CNXH không được hiện thực hóa trong thực tiễn. Do đó, sự xuất hiện hay
không xuất hiện một phong trào chính trị của quần chúng theo định hướng
XHCN và sự phát triển mạnh hay yếu của phong trào đó là biểu hiện quan
trọng của sự đúng hướng hay chệch hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị ở
nước ta. Tạo dựng phong trào chính trị của quần chúng tập trung vào những
nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, động viên và tổ chức toàn dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây là nội dung


10

quan trọng hàng đầu. Động viên và tổ chức toàn dân thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược thực chất là sự tăng cường về chiều sâu, mở rộng về phạm vi tham
gia của mọi tầng lớp nhân dân vào đời sống chính trị của đất nước, đó chính
là hoạt động tham dự ngày càng nhiều của nhân dân vào quá trình lãnh đạo
quản lý, xây dựng đất nước trong thời kỳ mới.
Thứ hai, tạo dựng tâm trạng chính trị tích cực, sự phấn khởi, tin tưởng
trong quần chúng nhân dân. Đó là sự đúng đắn trong nhận thức chính trị của
quần chúng nhân dân về mục tiêu, con đường đi lên của cách mạng, đặc biệt
là định hướng những giá trị cao nhất, quý nhất là độc lập dân tộcvà CNXH.
Khẳng định cho quần chúng nhân dân thấy rằng việc chúng ta đi theo con

đường XHCN là phù hợp với xu thế của nhân loại, đưa đất nước đi lên CNXH
là con đường duy nhất đúng, chỉ đi theo những định hướng đó nền độc lập dân
tộc mới thực sự được củng cố, mục tiêu đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân mới được thực hiện.
Thứ ba, khắc phục trạng thái thờ ơ về chính trị trong một bộ phận quần
chúng nhân dân. Thái độ thờ ơ về chính trị trong một bộ phận quần chúng
nhân dân nhất là thế hệ sinh ra sau chiến tranh được biểu hiện ở sự lạnh nhạt,
thờ ơ với truyền thống, với quá khứ oanh liệt, là sự lảng tránh chính trị, hễ đi
vào chính trị là cho rằng khô cứng, không thực tế. Sự thờ ơ về chính trị chính
là sự xa rời, không đứng vững trên lập trường chính trị của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự tồn tại trong ý thức một số người cho
rằng chính trị là việc của các nhà chính trị và của các Đảng chính trị còn đối
với người dân bình thường thì chế độ nào cũng thế thôi miễn là người dân có
công ăn việc làm, có thu nhập. Những biểu hiện thờ ơ về chính trị trên đây
của một bộ phận quần chúng nhân dân là một vấn đề nguy hại, tạo lực cản cho
việc biến đường lối chính trị của Đảng thành hiện thực, biến chủ nghĩa anh


11

hùng cách mạng trong đấu tranh vũ trang thành chủ nghĩa anh hùng cách
mạng trong xây dựng CNXH.
1.1.2 Giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị trong công
cuộc đổi mới là một tất yếu khách quan
Xuất phát từ vai trò quan trọng của giữ vững định hướng XHCN trên
lĩnh vực chính trị trong công cuộc đổi mới
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, giữ vững định hướng
XHCN trên lĩnh vực chính trị có vị trí cực kỳ quan trọng, đóng vai trò to lớn
đối với sự tồn tại và phát triển bền vững của đất nươc, sự mất còn của chế độ.
Vai trò to lớn đó thể hiện:
Một là, Giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị bảo đảm

cho cách mạng nước ta vận động và phát triển theo đúng phương hướng chính
trị và mục tiêu XHCN mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Việc xác định chính xác phương hướng chính trị và mục tiêu là vấn đề
quan trọng trước hết của mỗi cuộc cách mạng. Xác định phương hướng và
mục tiêu của cách mạng sẽ chi phối, quyết định đến việc lựa chọn con đường,
cách thức, phương pháp, lực lượng của cách mạng. Từ khi ra đời, Đảng ta
luôn nhất quán khẳng định độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu xuyên suốt
của cách mạng Việt Nam, là nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân
Việt Nam. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu đó, biến lý tưởng XHCN trở
thành hiện thực không phải là vấn đề đơn giản mà phải trải qua một quá trình
đấu tranh lâu dài, gian khổ. Trên thực tế hơn 70 năm qua Đảng đã lãnh đạo
nhân dân phấn đấu hy sinh cho mục tiêu này. Gần đây, trước sự đổ vỡ của
CNXH ở Liên Xô và Đông Âu Đảng ta vẫn kiên định lập trường nguyên tắc
đó. Chúng ta hiểu rằng việc lựa chọn mục tiêu, lựa chọn hướng đi của cách
mạng không phải là việc làm tùy tiện, cũng không phải là tình cảm, ý chí chủ


12

quan mà đây thực sự là vấn đề khoa học, rất nghiêm túc, là trách nhiệm thiêng
liêng trước đất nước và dân tộc của những đảng viên tâm huyết, những người
cộng sản trung kiên. Đó chính là việc làm cần thiết và cũng là vai trò hàng
đầu của giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị ở nước ta hiện
nay.
Hai là, giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị là nền tảng
chính trị cho giữ vững định hướng XHCN trên các lĩnh vực khác, một cơ sở
hàng đầu bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đúng định hướng
XHCN.
Lênin cho rằng: “chính trị là biều hiện tập trung của kinh tế”[32,349].
Chính trị do kinh tế quy định nhưng đồng thời chính trị cũng giữ vai trò quan

trọng, “chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh
tế”[32,350], là phương thức dẫn dắt sự phát triển của kinh tế. Ở Việt Nam
chúng ta quá độ lên CNXH theo phương thức rút ngắn bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa nhưng đó là sự quá độ ở một nước mà đặc điểm lớn nhất là trình độ
lạc hậu, nhỏ bé của nền sản xuất, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Do đó vấn
đề định hướng trên lĩnh vực chính trị càng có ý nghĩa quan trọng hơn bất cứ
nước nào. Giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị mà vấn đề cốt
lõi là giữ vững sự ổn định chính trị, xây dựng đường lối chính trị đúng là cơ
sở để xác định một chiến lược kinh tế đúng, một môi trường thuận lợi cho
phát triển kinh tế. Đó là vấn đề quyết định đối với sự sống còn của một nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng sâu sắc và triệt để diễn ra trên tất
cả các lĩnh vực. Cùng với kinh tế, chính trị, việc giải quyết các vấn đề xã hội,
xây dựng nền văn hóa mới sẽ phản ánh tính ưu việt của chế độ mới. Giữ vững
định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị sẽ tạo nền tảng chính trị cho việc
giải quyết các vấn đề trên một cách khoa học, là vấn đề quan trọng để củng cố


13

địa vị thống trị. Lênin đã khẳng định: “không có một lập trường chính trị
đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ vững được sự thống
trị của mình”[32,350]
Ba là, Giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị là ngọn cờ
tập hợp và phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: quần
chúng là người làm nên lịch sử, sáng tạo ra lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp
của dân, do dân, vì dân là bài học kinh nghiệm đã được Đảng ta khẳng định.
Thực tiễn chứng minh suốt gần một thế kỷ qua, Đảng ta với bản lĩnh trí tuệ
của mình đã nhanh chóng tập hợp, giác ngộ và lãnh đạo quần chúng tiến hành

sự nghiệp cách mạng và giành những thành tựu to lớn. Hiện nay trong giai
đoạn mới, động viên và tổ chức toàn dân xây dựng CNXH và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN là nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà
nước ta. Tuy nhiên, chúng ta nhận thức rõ rằng: sức mạnh của quần chúng chỉ
được phát huy khi được tập hợp, giác ngộ và thống nhất đấu tranh vì mục tiêu
chung. Do đó, việc động viên và tổ chức toàn dân tham gia xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc XHCN là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, nhưng phong trào
chính trị của quần chúng không thể diễn ra một cách tự phát mà phải có sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản, sự tổ chức và điều hành của Nhà nước
XHCN nhằm bảo đảm cho phong trào đó đi đúng phương hướng chính trị và
đạt được những mục tiêu chính trị đã đề ra. Đó chính là quá trình định hướng
nhận thức tư tưởng, tình cảm và hành vi chính trị của quần chúng nhân dân để
tạo thành một phong trào hành động cách mạng sâu rộng, vững mạnh, biến
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trở thành hiện thực
là cội nguồn sức mạnh để sáng tạo nên một xã hội mới - xã hội XHCN.


14

Xuất phát từ yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh ý thức hệ,
đấu tranh giữa hai con đường, hai khuynh hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội
chủ nghĩa.
Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp làmột trong những nội dung
căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là lý luận khoa học chỉ ra nguồn gốc,
động lực trực tiếp, quan trọng cho sự phát triển của lịch sử xã hội loài người
từ khi có giai cấp. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh ở mỗi thời đại luôn có một
giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, quyết định phương hướng nội dung và sự
phát triển của thời đại đó. Trong thời đại ngày nay vai trò đó thuộc về giai cấp
vô sản. Là một giai cấp tiên tiến, đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ
giai cấp vô sản có sứ mệnh lịch sử: “là người xây dựng xã hội xã hội chủ

nghĩa”[34,1].
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử đó giai cấp vô sản phải tiến hành cuộc
đấu tranh toàn diện, triệt để nhằm xóa bỏ chế độ tư hữu, thủ tiêu tư bản chủ
nghĩa. Song chủ nghĩa tư bản với bản chất bóc lột hiếu chiến đã trở thành lạc
hậu, lỗi thời, là “xiềng xích” cho sự phát triển nhưng nó vẫn không tự mất đi,
ngược lại vẫn ngoan cố bảo vệ “ngai vàng” thống trị của mình bằng sức mạnh
bạo lực, bằng cả hệ thống kiến trúc thượng tầng chính trị, pháp lý và tư tưởng.
Vì lẽ đó, cuộc đấu tranh giữa hai con đường, hai khuynh hướng tư bản chủ
nghĩa và XHCN vẫn là vấn đề nóng bỏng, gay gắt. Ngày nay trong điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử mới, tiếp thu những tiến bộ của cách mạng khoa học công
nghệ CNTB đã thích nghi, điều chỉnh và đạt được những thành tựu đáng kể
trong phát triển kinh tế nhưng bản chất của nó vẫn không hề thay đổi, vẫn là
một chế độ bóc lột; trong lòng xã hội tư bản vẫn tồn tại những mâu thuẫn mà
tự nó không thể giải quyết được. Giai cấp công nhân tuy vẫn là lực lượng chủ
đạo của phong trào cách mạng thế giới, vẫn là chủ thể cơ bản, là lực lượng
đông đảo thực hiện công bằng xã hội nhưng bản thân giai cấp vô sản đang


15

đứng trước những khó khăn mới: đó là sự biến đổi sâu sắc trong cơ cấu giai
cấp vô sản, đó là sự phân tán về tổ chức, đó là sự phân hóa các nhóm xã hội
có lợi ích, tư tưởng khác nhau… Đặc biệt là sau khi các nước XHCN ở Đông
Âu rồi đến Liên Xô - thành trì, trụ cột của hòa bình thế giới, hòn đá tảng của
CNXH lâm vào khủng hoảng rồi tan rã khiến CNXH hiện thực lâm vào khủng
hoảng, thoái trào thì cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng, hai con đường
càng gay gắt. Sự sụp đổ của Liên xô và Đông Âu lại trở thành “cơ hội vàng”
cho các thế lực thù địch chống phá CNXH, phủ nhận lý luận Mác - Lênin, xóa
bỏ hệ tư tưởng XHCN hòng thiết lập và thực hiện toàn cầu hóa hệ tư tưởng tư
bản chủ nghĩa.

Với Việt Nam, từ năm 1975 sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước cả nước bước vào chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ lên CNXH - thời kỳ mà còn tồn tại những mảng của cả xã hội cũ và
những mầm mống của xã hội mới. Hơn thế nữa quá độ ở Việt Nam thuộc kiểu
qúa độ gián tiếp từ một xã hội tiền tư bản, nền kinh tế lạc hậu mà đặc điểm
lớn nhất là nền sản xuất nhỏ, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu. Do vậy thời gian
quá độ là rất dài, phải trải qua nhiều chặng đường với những bước đi cách làm
khác nhau. Trong khi đó bước vào thời kỳ quá độ, lãnh đạo cách mạng XHCN
Đảng ta gặp không ít khó khăn. Do lạc hậu về nhận thức lý luận, duy trì quá
lâu mô hình XHCN cũ, cùng những tác động ghê ghớm từ sự sụp đổ của
CNXh ở Liên Xô và Đông Âu đã đưa đất nước lâm vào khủng hoảng trầm
trọng về kinh tế xã hội. Đảng ta, cách mạng nước ta đứng trước những đòi hỏi
mới: sẽ đổi mới ra sao, đổi mới như thế nào, bằng con đường cách thức, biện
pháp nào để sửa chữa được sai lầm, khuyết điểm, khắc phục được những hạn
chế yếu kém để nhanh chóng đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, bảo đảm cho
CNXH ở Việt Nam trụ vững và phát triển. Đó là những vấn đề cơ bản, bức


16

thiết, cấp bách của cách mạng Việt Nam, là nội dung chủ yếu của cuộc đấu
tranh giữa hai khuynh hương, hai con đường tư bản chủ nghĩa và XHCN.
Cuộc đấu tranhgiai cấp, đấu tranh giữa hai con đường phát triển TBCN
và XHCN trong thời kỳ quá độ của nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế
diễn biến hết sứcphức tạp và khó lường. CNĐQ đang ráo riết thực hiện âm
mưu “diễn biến hòa bình” với những thủ đọan thâm độc, xảo quyệt nhằm xóa
bỏ CNXH ở nước ta, biến nước ta trở thành một nước tư bản. Đảng ta đã chỉ
rõ nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, khẳng
định mục tiêu của cuộc đấu tranh đó là: xây dựng thành công xã hội XHCN.
Đó không chỉ là sự khẳng định nhất quán của Đảng mà còn là sự lựa chọn của

lịch sử dân tộc, là ước mơ, khát vọng của triệu triệu quần chúng nhân dân.Để
lãnh đạo tiến hành cuộc đấu tranh đó đòi hỏi phải thường xuyên đẩy mạnh
đấu tranh trên tất cả các mặt với ba hình thức cơ bản: Đấu tranh kinh tế, đấu
tranh chính trị và đấu tranh tư tưởng trong đó đấu tranh chính trị là hình thức
cơ bản cao nhất với mục tiêu là sử dụng chính quyền đã giành được trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội
mới. Hình thức và trình độ của đấu tranh chính trị là khác nhau nhưng vấn đề
quan trọng là cuộc đấu tranh đó đi theo hướng nào? vì mục tiêu nào? Trách
nhiệm định hướng đó thuộc về Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy giữ
vững định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị là cơ sở bảo đảm cho cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống CNTB đúng hướng và thắng lợi.
Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và đặc
điểm của công cuộc đổi mới chính trị.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng ta là Đại hội
mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đường lối do Đại hội xác
định không chỉ là ánh sáng soi đường đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế xã hội đang diễn ra trong những năm 80 của thế kỷ trước mà


17

còn là ngọn đèn pha chiếu sáng đưa cách mạng Việt Nam tiến lên vì độc lập
dân tộc và CNXH. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là một cuộc cách
mạng sâu sắc và triệt để diễn ra trên tất cả các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại…). Tuy nhiên, công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo là cuộc cách mạng
đầy sáng tạo và chưa có trong tiền lệ. Sự sáng tạo đó không phải là sự thay
đổi chế độ, từ bỏ mục tiêu XHCN mà sự sáng tạo đó chính là sự đổi mới từ tư
duy nhận thức đến biện pháp cách thức tức là phải đổi mới từ quan niệm đến
cơ chế chính sách, tổ chức, cán bộ và lề lối làm việc, để CNXH thực sự ngày

càng nhiều, càng rõ ở Việt Nam. Song trong sự sáng tạo đó dưới tác động của
các điều kiện bên ngoài cùng những sai lầm khuyết điểm bên trong đã làm
xuất hiện những nguy cơ thách thức mới trong đó chệch hướng XHCN là một
nguy cơ không thể xem thường.
Chính trị là lĩnh vực trọng yếu của mỗi quốc gia, dân tộc; chế độ chính
trị phản ánh mối quan hệ giữa các tầng lớp trong đời sống xã hội. Nói đến
chính trị trong đời sống xã hội gồm nhiều nội dung, nhiều vấn đề nhưng tựu
chung lại nổi lên 3 vấn đề cơ bản: tư duy chính trị, dân chủ và hệ thống chính
trị. Đây là vấn đề rất nhạy cảm, thu hút sự quan tâm của tất cả mọi người, mọi
tổ chức trong xã hội, và đó cũng là những vấn đề mà kẻ thù để lợi dụng để
thực hiện ý đồ của chúng. Trong công cuộc đổi mới, khi khẳng định phải tập
trung sức làm tốt đổi mới kinh tế Đảng ta luôn nhất quán chủ trương đổi mới
chính trị. Song, do chính trị là lĩnh vực nhạy cảm và hết sức phức tạp nên việc
đổi mới chính trị nhất thiết phải có nội dung, hình thức bước đi thích hợp trên
cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị nghiêm túc. Tuy nhiên, cũng không vì thế mà
tiến hành chậm trễn việc đổi mới chính trị ở nước ta, bởi chính quá trình đổi
mới chính trị có hiệu quả là điều kiện thúc đẩy điều kiện phát triển kinh tế và
thực hiện dân chủ.


18

Là lĩnh vực phức tạp chính trị luôn chứa đựng những vấn đề mà kẻ thù
có thể lợi dụng như vấn đề tôn giáo, dân tộc, đảng phái, nhân quyền, dân
chủ… Đây là những vấn đề còn tồn tại lâu dài phải giải quyết trong ngày một
ngày hai. Đặc biệt nếu không có một quan điểm đúng đắn để giải quyết thì
những vấn đề này dễ bị kẻ thù lợi dụng để châm ngòi cho sự bất ổn về chính
trị dẫn đến rối loạn xã hội, biến chất chế độ, đưa cách mạng Việt Nam đi sang
một hướng khác. Chính vì lẽ đó giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực
chính trị là vấn đề quan trọng không chỉ đáp ứng đòi hỏi của đổi mới chính trị

mà còn là điều kiện trước tiên, một điều kiện bảo đảm cho công cuộc đổi mới
toàn diện ở nước ta đi đứng hướng.
Xuất phát từ âm mưu và các hành động chống phá nước ta trên lĩnh
vực chính trị của các thế lực thù địch.
CNĐQ đứng đầu là Mỹ với bản chất hiếu chiến, xâm lược phản động
luôn nuôi cuồng vọng: bá chủ toàn cầu thông qua việc xóa tên các nước
XHCN trên bản đồ thế giới. Để phục vụ cho cuồng vọng đó CNĐQ đã tiến
hành nhiều biện pháp chống phá các nước XHCN trên nhiều mặt, đặc biệt là
sau khi thất bại trên mặt trận quân sự chúng đã chuyển sang thực hiện một âm
mưu chiến lược mới “diễn biến hòa bình” với mục đích tiêu diệt các nước
XHCN bằng các biện pháp phi quân sự là chủ yếu. Việt Nam được coi là một
trọng điểm của chiến lược này chính vì vậy mà CNĐQ đã ráo riết triển khai
các hành động chống phá cách mạng nước ta một cách toàn diện. Chính trị
được coi là mặt tận hàng đầu tập trung chống phá. Cụ thể:
Thứ nhất, xóa bỏ hệ tư tưởng XHCN. Đây là hoạt động được các thế
lực thù địch coi trọng, chúng tập trung vào các hoạt động nhằm xóa nền tảng
tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng
thời xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và luật pháp của
Nhà nước. Cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời lạc hậu, Đảng Cộng


19

sản Việt Nam độc đoán chuyên quyền, ngoài ra câc thế lực thù địch còn ráo
riết triển khai các hoạt động chia rẽ đả kích sự lãnh đạo của Đảng, gây mơ hồ
ảo tưởng trong cán bộ đảng viên, quần chúng nhân dân về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Thứ hai, chia rẽ sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá hoại hệ
thống chính trị XHCN. Lợi dụng những sai lầm, thiếu xót của Đảng, Nhà
nước, cán bộ đảng viên trong lãnh đạo quản lý, điều hành đất nước các thế lực

thù địch ra sức thổi phồng khuyết điểm, tập trung sức phá hoại khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, chia rẽ mối quan hệ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Lợi dụng
những hạn chế yếu kém của hệ thống chính trị cùng những khuyết điểm của
cán bộ đảng viên các thélực thù địch tập trung phá hoại nguyên tắc tập trung
dân chủ, rêu rao các luận điệu xuyên tạc cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam
bảo thủ, trì trệ, chuyên quyền độc đoán từ đó tập trung sức đòi đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập, vận động lập lại các tổ chức chính trị phản động
dưới các hình thức.
Thứ ba, ra sức phá hoại về tổ chức, nhân sự. Các thế lực thù địch coi
đây là hoạt động then chốt trong hệ thống các hoạt động phá hoại cách mạng
nước ta trên lĩnh vực chính trị. Hoạt động mà chúng sử dụng trước hết là tiến
hành các biện pháp để chia rẽ nội bộ làm suy yếu Đảng, xây dựng các lực
lượng chống đối để thực hiện phá ta từ trong ra, từ trên xuống đồng thời tìm
cách đưa người của chúng chui cao leo sâu vào các tổ chức của ta, tạo dựng
ngọn cờ chống đối ngay trong cơ quan tổ chức của ta nhằm để ta rơi vào tình
trạng tự diễn biến, tự chệch hướng.
Thứ tư, tuyên truyền tư tưởng phi Mác xít, gieo rắc tâm lý, lối sống
TBCN. Chúng sử dụng các phương tiện thông tin và các tổ chưc, cá nhân
thoái hóa, phản động, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền chủ nghĩa thực
dụng, văn hóa phương tây, lối sống tư sản, phá hoại truyền thống văn hóa tốt


20

đẹp của dân tộc đặc biệt là tập trung vào thế hệ trẻ, làm cho thế hệ trẻ phai
nhạt lý tưởng thờ ơ với thời cuộc, không tha thiết với chế độ chỉ cốt lo mưu
sinh cuộc sống thường nhật và cho rằng “chế độ nào chẳng được miễn là
người dân được sung sướng”.
Chính những âm mưu và hành động trên đây của các thế lực thù địch
đã đặt ra yêu cầu luôn giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển

đặc biệt là trên lĩnh vực chính trị.
1..2 Chủ trương giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh
vực chính trị của Đảng từ năm 1996 đến năm 2006
Giữ vững định hướng và chống chệch hướng XHCN trên lĩnh vực
chính trị diễn ra không ngừng mà liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta. Vì lẽ đó, chủ trương Giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh
vực chính trị của Đảng không thể chỉ xác định một lần là xong mà đòi hỏi
phải có sự phát triển cụ thể, không ngừng trong suốt quá trình đổi mới. Qua
các kỳ Đại hội, xuất phát từ tình hình thực tiễn mà đề ra chủ trương nhằm giữ
vững định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị.
1.2.1 Những chủ trương, định hướng lớn của Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (12/1986) nhằm giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực
chính trị
Thứ nhất, đổi mới tư duy và đẩy mạnh cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng
XHCN và hệ tư tưởng tư sản.
Trên tinh thần thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói
rõ sự thật Đại hội Vi Đảng ta chỉ rõ: “nhiều năm nay trong nhận thức của
chúng ta về CNXH có nhiều quan điểm lạc hậu”[7,125].Chính những nhận
thức lệch lạc đó dẫn đến những sai lầm và tạo ra sức ỳ của cả một hệ thống,
đó là một trong những nguyên nhân cơ bản đưa đất nước lâm vào khủng
hoảng kinh tế xã hội. Do đó Đại hội chủ trương: “…phải đổi mới, trước hết là


21

đổi mới tư duy”[7,125]. Để đổi mới tư duy Đảng chỉ ra yêu cầu cần phải nắm
vững bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, rút
ra những kết luận đúng đắn. Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận quy
luật phổ biến, phủ nhận đường lối đúng đã được xác định trái lại, đổi mới tư

duy chính là sự bổ sung, phát triển những thành tựu ấy, đồng thời để đổi mới
tư duy Đảng chỉ rõ phải tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình đổi
mới tư duy đó là bầu không khí dân chủ trong xã hội, tôn trọng sự thật, tôn
trọng chân lý, phải coi trọng công tác lý luận nhằm cung cấp nội dung khoa
học cho đổi mới tư duy.
Cùng với việc đổi mới tư duy, Đại hội VI Đảng ta chủ trương đẩy
mạnh cuộc đấu tranh giữa hệ tư tưởng XHCN và hệ tư tưởng tư sản trong đó
tập trung vào việc “bồi dưõng phẩm chất đạo đức mới, nâng cao tinh thần yêu
nước và yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần quốc tế vô sản và tinh thần quốc tế xã
hội chủ nghĩa, khơi dậy ý chí cách mạng của quần chúng”[7,126]. Đồng thời
Đảng chủ trương tổ chức đấu tranh chống chiến tranh tâm lý của địch, tích
cực lên án, vạch trần bản chất thối nát của lối sống thực dụng, dối trá ích kỷ,
từng bước xây dựng lối sống mới của con người XHCN.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng và ngày càng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Đây là vấn đề quan trọng là mấu chốt của việc đổi mới, kiện toàn và
nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị XHCN ở nước ta. Cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là một chủ trương nhất
quán của Đảng ta; Tuy nhiên trên thực tế thực hiện cơ chế này bên cạnh
những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại không ít những khuyết điểm, yếu
kém, sự yếu kém đó thể hiện ở sự thiếu gắn bó chặt chẽ giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân, tình trạng quan liêu, xa dân xuất hiện nhiều ở các tổ chức Đảng


22

và cơ quan của Nhà nước, một bộ phận cán bộ đảng viên nhất là những người
có chức, có quyền ít quan tâm đến những vấn đề bức thiết của quần chúng. Vì
lẽ đó Đại hội VI Đảng ta tiếp tục “xác định mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân
dân làm chủ, Nhà nước quản lý làm cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã

hội”[7,109].
Thứ ba, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tạo ra
phong trào hành động cách mạng sôi nổi của quần chúng.
Vận dụng bài học cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Đảng ta coi
“làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa cần được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống”[7,109]. Thực chất
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động là sự tôn trọng con người,
phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào
sự nghệp xây dựng xã hội mới trong đó vấn đề cốt lõi là động viên quần
chúng tham gia rộng rãi và thường xuyên vào công cuộc đổi mới, thực hiện
tốt chế độ nhân dân lao động tự quản lý Nhà nước của mình, để phương châm
dân biết, dân bàn, dân kiểm tra trở thành nếp sống hành ngày của xã hội mới.
Đại hội khẳng định: “những mục tiêu do Đại hội Đảng đề ra chỉ có thể đạt
được bằng hành động cách mạng sáng tạo của hàng triệu quần chúng”
[7,111]. Vì vậy, Đại hội yêu cầu các cấp ủy Đảng và cơ quan chính quyền
Nhà nước cần có biện pháp cụ thể và tích cực nhằm động viên nhiệt tình cách
mạng của quần chúng, tổ chức cho quần chúng tham gia tích cực vào việc cụ
thể hóa đường lối của Đảng và phấn đấu thực hiện thắng lợi đường lối ấy.
Đồng thời Đảng ta nhấn mạnh phải tạo dựng phong trào cách mạng của quần
chúng vấn đề quan trọng là bảo đảm lợi ích của người lao động, coi đây là
một trong những động lực cơ bản để thu hút đông đảo quần chúng tham gia
vào các phong trào cách mạng.


23

1.2.2 Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VI (3/1989) tiếp tục chủ trương giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực
chính trị
Kiểm điểm 2 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VI, nghị quyết Hội nghị

lần thứ Sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI (3/1989) Đảng ta
khẳng định: trong hoàn cảnh kinh tế xã hội có nhiều khó khăn Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đã triển khai công cuộc đổi mới trên nhiều mặt đời sống
xã hội, nhất là về kinh tế. Chúng ta vừa làm vừa tìm tòi rút kinh nghiệm và đã
thu được những kết quả bước đầu quan trọng. Tuy nhiên, Hội nghị cũng
khẳng định mặc dù đẫ đạt được những tiến bộ nhất định nhưng tình hình kinh
tế xã hội còn nhiều khó khăn gay gắt, đất nước vẫn chưa ra khỏi tình trạng
khủng hoảng kinh tế xã hội. Trên cơ sở nghiiêm túc thực hiện nghị quyết Đại
hội VI, Hội nghị tiếp tục xác định phương hướng nhiệm vụ mới nhằm đưa
cách mạng tiến lên giành những thắng lợi mới. Hội nghị đãcó nhiều chủ
trương nhằm giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực chính trị. Cụ thể:
Thứ nhất, xác lập các nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới. Hội nghị
lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VI (3/1989) diễn ra trong
bối cảnh tình hình thế giới, trong nước có nhiều diễn biến phức tạp nhất là tác
động của công cuộc cải cách, cải tổ ở các nước XHCN. Đó là đổ vỡ của chế
độ XHCN ở Ba Lan (3/1988), Hungari (9/1988) rồi đến các nước Đông Âu
khác. Tại Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo trong cuộc
bầu cử Đại hội Đại biểu nhân dân tháng 3/1989. Ở Trung Quốc công cuộc cải
cách bước đầu đã có những sự khởi sắc và thu được một số thành tựu về kinh
tế nhưng tình hình chính trị lại bắt đầu có những dấu hiệu không bình thường
mà điển hình là vụ bạo loạn diễn ra ở Quảng trường Thiên An Môn (6/1989).
Những biến động phức tạp và ghê ghớm đó đã tác động và ảnh hưởng xấu đến
quá trình đổi mới ở nước ta. Trong nhân dân và một bộ phận cán bộ đảng viên


24

đã xuất hiện tâm trạng lo lắng, hoang mang, dao động, mất niềm tin vào con
đường đi lên CNXH ở nước ta, có người đã lên tiếng đòi đa nguyên, đa đảng.
Trước bối cảnh đó, Hội nghị đã kịp thời đưa ra 5 nguyên tắc cơ bản chỉ đạo

công cuộc đổi mới: đi lên CNXH là con đường tất yếu của nước ta, xây dựng
CNXH là mục tiêu lý tưởng của Đảng và nhân dân ta; chủ nghĩa Mác - Lênin
là nền tảng tư tưởng của Đảng ta chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của
nhân dân; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị;
xây dựng nền dân chủ XHCN; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế vô sản, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Năm nguyên
tắc trên đây là những vấn đề mang tính quy luật được Đảng ta đúc kết từ thực
tiễn công cuộc đổi mới. Việc xác lập các nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi
mới là một thành công lớn của Đảng ta có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực
tiễn, một mặt nó thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần độc lập , tự chủ, sáng tạo
của Đảng ta; mặt khác nó là cơ sở bảo đảm cho quá trình đổi mới ở nước ta
nói chung cũng như trên từng lĩnh vực (kinh tế, chính trị, văn hóa xã hộ, quốc
phòng - an ninh đối ngoại…) nói riêng phát triển theo đúng định hướng
XHCN.
Thứ hai, xây dựng và phát huy dân chủ XHCN, đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Trứơc yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng CNXH, sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước Đảng ta khẳng định
xây dựng và phát huy dân chủ XHCN, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị là một nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách. Mục
đích thực hiện nhiệm vụ này nhằm “nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng,
tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước, mở rộng dân chủ, phát huy vai trò
tích cực và năng lực sáng tạo của nhân dân, ngăn chặn có hiệu quả chủ nghĩa
quan liêu, tạo ra động lực tổng hợp của xã hội”[8,33]. Nội dung của đổi mới
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị bao gồm nhiều mặt


25

có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó Hội nghị xác định cần tập trung làm
tôtý ba vấn đề lớn: Mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã

hội, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân; xây dựng và hoàn chỉnh
từngbước hệ thống chính sách pháp luật của nhà nước, tăng cường pháp chế
XHCN; phân định rõ chức năng nhiệm vụ trên cơ sở đó đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Thứ ba, Đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng. Những diến biến
phức tạp của tình hình thế giới nhất là sự sụp đổ của một số nươc XHCN ở
Đông Âu, cùng với những khó khăn thách thức ở trong nước chưa được tháo
gỡ đã tác động mạnh đến tình hình tư tưởng, diễn biến tâm lý, tình cảm và
tâm trạng của một số cán bộ Đảng viên và nhân dân ta trước tình hình đó
Đảng ta chủ trương đổi mới công tác tư tưởng nhằm “củng cố sự thống nhất
về tư tưởng và hành động trong toàn Đảng và toàn dân, thúc đẩy công cuộc
đổi mới, khắc phục tâm trạng bi quan, giảm sút lòng tin, mất cảnh giác”
[8,39]. Đồng thời nghị quyết chỉ rõ công tác tư tưởng phải tập trung hướng
vào: “bồi dưỡng cho cán bộ đảng viên và nhân dân lý tưởng cách mạng xã hội
chủ nghĩa, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lòng tự hào dân tộc, ý
thức bảo vệ và phát triển những giá trị đạo đức và văn hóa của dân tộc, tinh
thần quốc tế vô sản và quốc tế xã hội chủ nghĩa...Đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân ích kỷ, tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bản vị, những hành vi gian
dối, trái pháp luật” [8,39 - 40].
1.2.3 Chủ trương giữ vững định hướng XHCN trên lĩnh vực chính
trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991)
Trước thềm diễn ra Đại hội VII (6/1991) tình hình chính trị thế giới tiếp
tục diễn biến phức tạp, tác động lớn đến cách mạng nước ta. Các thế lực thù
địch thực hiện âm mưu “diến biến hòa bình”, kích động việc thực hiện đa
nguyên chính trị đa đảng đối lập, xóa bộ lãnh đạo của Đảng, truyền bá tư


×