HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
----------o0o-----------
TRẦN TRUNG TÂM
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2001
NGÀNH LỊCH SỬ
LUẬN VĂN CỬ NHÂN
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 56 01
1
MỞ ĐẦU
1. lý do chọn đề tài.
Trong quá trình lịch sử xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, nhất là từ
khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (1930), dưới sự lãnh đạo của đảng đội ngũ trí
thức luôn được phát huy, có vai trò to lớn, đóng góp nhiều công sức, trí tuệ cho
sự ngiệp cách mạng dân tộc.
Các nhà kinh điển đã từng dự báo: tri thức khoa học sẽ trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, chuyển sang nền kinh tế tri thức thì vai trò của đội ngũ trí thức
ngày càng quan trọng. Phát huy nguồn lực tri thức là xu thế của thời đại, là chiến
lược phát triển của các quốc gia. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại
hoá của nước ta nhằm từng bước phát triển kinh tế tri thức đòi hỏi phát huy hơn
nữa vai trò to lớn của đội ngũ tri thức trên tất cảc các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước đội ngũ trí thức có vai trò quan trọng công tác
nghiên cứu, tổng kết thực tiển, đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn của đất nước
phục vụ nhu cầu phát triển lý luận và khoa học công nghệ của đất nước, với tư
cách là một nguồn lực phát triển của đất nước thì đội ngũ trí thức ngày càng giữ
vai trò quan trọng.
Nhận thức đúng vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp cách mạng
Đảng ta có những chủ trương biện pháp đúng đắn phù hợp trong công cuộc đổi
mới. Quá trình Đảng lãnh đạo phát huy vai trò đội ngũ trí thức đã đạt được
những kết quả quan trọng, góp phần vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước. Tuy nhiên, vấn đề phát huy vai trò đội ngũ trí thức còn có những
hạn chế chưa tương xứng với vị trí vai trò, tiềm năng đội ngũ trí thức của nước
ta. Việc xây dựng, quản lý, sử dụng nguồn lực cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém,
gây lãng phí “chất xám”. Tình hình đó đặt ra vấn đề Đảng cần phải lãnh đạo để
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ phát triển mới của đấy nước.
Do vậy, nghiên cứu để góp phần phát huy tốt hơn nữa đội ngũ trí thức trong
công cuộc đổi mới có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Với những lý
do trên đây, tác giả chọn đề tài: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội
ngũ trí thức từ năm 1991 đến năm 2001, làm luận văn tốt nghiệp, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về trí thức và nguồn lực trí thức dưới
nhiều góc độ và quy mô khác nhau, cụ thể như sau:
Nhóm các công trình mang tính chất định hướng cho việc nghiên cứu trí
thức và công tác trí thức có: “Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, đổi
mới đất nước của Đỗ Mười, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Định hướng
phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
Phạm Tất Dong (chủ biên) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001
Nhóm đề tài các đề tài nghiên cứu luận giải về vị trí, vai trò,đặc điểm và
động lực sáng tạo của đội ngũ trí thức trong quá trình cách mạng có các công
trình: “Vị trí vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam của Phạm Việt Dũng, luận án PTS triết học, Hà Nội, 1988. “Vai
trò của trí thức trong sự nghiệp đổi mới của Hà Học Trạc, Tạp chí Khoa học và
Tổ quốc, số 1, 1994
Nhóm các công trình nghiên cứu về vấn đề đội ngũ trí thức trong quân
đội đã có: “Mấy ý kiến về đội ngũ trí thức quân đội ta hiện nay” của Nguyễn
Hữu An, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 4, 1994. “Tăng cường đội ngũ trí
thức khoa học xã hội và nhân văn trong lực lượng vũ trang nhân dân ta của
Lê Hồng Quang, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 9, 1994. Phát huy nguồn
lực cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự trẻ trong xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Minh Thắng, luận văn thạc sĩ chủ nghĩa xã
hội khoa học, Hà Nội, 2001.
Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng, chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới từ năm
1991 đến năm 2001.
Các công trình khoa học trên là nguồn tư liệu quý để tác giả kế thừa và phát
triển trong quá trình thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Luận giải làm sáng tỏ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới từ năm 1991
3
đến năm 2001. Trên cơ sở đó rút ra kinh nghiệm nhằm phát huy hơn nữa vai trò
của đội ngũ trí thức trong thời kỳ mới.
Nhiệm vụ:
- Luận giải khoa học về phát huy vai trò đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới.
- Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo phát huy vai trò đội ngũ trí thức từ năm
1991 đến năm 2001.
-Rút ra một số kinh nghiệm nhằm phát huy hơn nữa vai trò đội ngũ trí thức
trong thời kỳ mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Chủ trương của Đảng nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, chủ
yếu trong các cơ quan, trường đại học, các viện nghiên cứu, các học viện,
nhà trường trong cả nước.
Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo phát huy vai trò đội ngũ trí thức trong
công cuộc đổi mới, chủ yếu từ năm 1991 đến năm 2001.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và chủ trương của Đảng về đội ngũ trí thức, về giáo dục đào tạo và
khoa học, công nghệ.
Phương pháp nghiên cứu: Đễ tài sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp logích va sự kết hợp hai phương pháp đó, ngoài ra còn sử dụng các phương
pháp khác như ;so sánh, thống kê....
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần đánh giá, tổng kết làm sáng tỏ quá trình Đảng lãnh đạo phát
huy vai trò đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới từ năm 1991 đến năm 2001
Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
4
Gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục.
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2001
1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới
1.1.1 Vị trí vai trò của đội ngũ tri thức trong lịch sử Việt Nam
* Tri thức và đội ngũ tri thức.
+ Tri thức:
Thuật ngữ “Tri thức” được sử dụng trên nhiều quốc gia khác nhau và có
nguồn gốc từ tiếng la tinh: “Inteuientia” là tri thức, trí lực cũng có nghĩa là
thông minh, hiểu biết.
Thuật ngữ này chủ yếu dùng để chỉ những người có học vấn cao trong xã hội.
ở mỗi quốc gia và trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể thì cách tiếp cận
trí thức và quan điểm về trí thức cũng không giống nhau, hiện nay trên thế
giới có khoảng 60 định nghĩa về “Trí thức” theo định nghĩa trong đại từ điển
bách khoa Xô viết: “Trí thức là tầng lớp xã hội của những người làm nghề
nghiệp bằng lao động trí óc, chủ yếu là lao động phức tạp, sáng tạo,là phát
triển và phổ biến văn hoá”. Trong từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học: “
Trí thức – một nhóm xã hội bao gồm những người chuyên làm nghề lao động
trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành lao động đó”.
Trong từ điển triết học viết: “ Trí thức – tập đoàn xã hội gồm những người
làm nghề lao động trí óc. Giới tri thức bao gồm: kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy
thuốc, luật sư, nghệ sỹ, thầy giáo và những người làm công tác khoa học,
một bộ phận lớn viên chức”.
5
Nhìn chung thường được đề cập với một số dấu hiệu cơ bản như: là một
tầng lớp xã hội, lao động trí óc sáng tạo, có trình độ học vấn cao. Tuy nhiên,
không thể căn cứ một cách máy móc vào các dấu hiệu đó để xác định có phải
là tri thức hay không.
Trong xã hội, tuỳ theo mối quan hệ của các giai tầng với tư liệu sản
xuất, vai trò tổ chức xã hội đối với lao động mà các giai cấp, các tầng lớp xã
hội có vị trí, vai trò khác nhau. Tri thức không có quan hệ riêng và trực tiếp
với sở hữu tư liệu sản xuất và càng không đại biểu cho một phương thức sản
xuất độc lập nào cả.
Cho nên tri thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội,
trong xã hội có tính giai cấp, tri thức với tư cách là một cộng đồng, tầng lớp,
luôn của một giai cấp nhất định,mà trước hết là của giai cấp thống trị đã đào
tạo a họ, bắt họ tiếp thu hệ tư tưởng của mình vào lao động sản xuất tinh thần
phụ thuộc vào sản xuất vật chất và sức mạnh kinh tế.
Lênin đã từng khẳng định “ Nừu không nhập cục với một giai cấp thì
giới tri thức chỉ là một con số không mà thôi”. trong từng chế độ xã hội, giai
cấp thống trị muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử nhất thiết phải tạo dựng cho
mình một tầng lớp tri thức. Vì vậy, chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ có tầng
lớp tri thức Chủ nô; chế độ xã hội phong kiến có tầng lớp tri thức phong
kiến, chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa có tầng lớp tri thức tư sản; chế độ xã hội
chủ nghĩa có tầng lớp tri thức vô sản.
Tri thức là người lao động trí óc, tuy nhiên không phải người lao động
trí óc nào cũng là trí thức. Người trí thức cũng giống như những người lao
động bình thường có mặt ở mọi nơi, mọi chốn tham gia nhiều nghề nghiệp
khác nhau, duy chỉ có một điểm khác ở chỗ họ hướng sự nghiệp lao động
của mình chủ yếu bằng lao động trí tuệ hoặc bằng tư duy sáng tạo mang tính
chất cá thể và thường có tính riêng.
6
Vì vậy họ phải là những người có trí tuệ, có năng lưc sáng tạo, có trình
độ học vấn cao và chuyên môn sâu nhất định. Trình độ học vấn ấy đòi hỏi tới
mức nào là tuỳ thuộc vào thời đại, vào điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá
của mỗi quốc gia dân tộc. Ngày nay người ta đã có bản thống nhất rằng,để có
khả năng trở thành trí thức phải có trình độ học vấn ít nhất là cao đẳng, đại
học. Họ có được học vấn phần lớn là được đào tạo từ các trường đại học, cao
đẳng tuy nhiên cũng có một số người tự học mà hình thành nên.
Học vấn, bằng cấp chỉ là một dấu hiệu, một điều kiện cần chứ chưa đủ
để trở thành trí thức. Vì nhiều khi bằng cấp không tương xứng với trình độ
vốn có, ngay cả những người trình độ học vấn cao với nhiều bằng cấp
nhưng vẫn không đóng vai trò của trí thức do họ không vươn tới mức độ lao
động kiểu trí thức. Ngược lại có những người không có bằng cấp nhưng tự
học hỏi vươn lên có được trí thức cần thiết và đảm nhiệm được nhiệm vụ của
người trí thức, tham gia lao động sáng tạo như: nghiên cứu khoa học, sáng
tác văn học-nghệ thật, giảng dạy, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận,
nghiên cứu ứng dụng khoa học nên đã trở thành trí thức, thậm chí còn trở
thành nhà trí thức lớn. Do vậy,điều chủ yếu nhất để nói lên trí thức khác với
bộ phận lao động xã hội khác là ở kiểu lao động của họ. đó là lao động trí óc,
lao động sáng tạo khoa học.
Lao động sáng tạo của tri thức được thực hiện trên nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội.
Sản phẩm lao động sáng tạo cũng rất đa dạng phong phú,mang tính kế
thừa nhưng không lặp lại và có giá trị xã hội, những sản phẩm lao động sáng
tạo là những giá trị tinh thần.nó được sáng tạo ở trình độ tuy duy lý luận,là
một nấc thang mới của nhận thức mang tính khoa học chứ không dừng lại ở
mức kinh nghiệm,là sự phản ánh sâu sắc hơn bản chất của sự vật hiện tượng.
Trí thức chân chính phải là người thực học, để có thực lực và thực tài,
có năng lực tự đào tạo một cách chủ động, sáng tạo có cấu trúc nhân cách
7
đức -tài hoàn chỉnh, có phương pháp và bản lĩnh của một nhân cách khoa
học, là những chủ thể của một nhân cách khoa học với sự hài hoà giữa lý
tưởng nghề nghiệp chuyên môn với lý tưởng chính trị , thể hiện qua thái độ
lao động sáng tạo ra trí thức, ra các giá trị văn hoá tinh thần, thuộc về những
đại diện ưu tú cho trí tuệ của dân tộc.
Trong cách mạng vô sản, nhất là sau khi đã giành chính quyền, giai cấp
công nhân nhất định phải xây dựng tầng lớp trí thức mưói cho mình, bằng
cách cải tạo bồi dưỡng trí thức cũ và đào tạo trí thức mới. đội ngũ trí thức
mới ngày càng đông đảo, có thế gưới quan vô sản, có phẩm chất đạo đức
cách mạng, có kiến thức khoa học, chuyên ngành cần thiết, có bản lĩnh,
phương pháp và ý thức trách nhiệm cao trong hoạt động khoa học. Họ có
môi trường xã hội và những điều kiện thuận lợi để cống hiến tài năng sáng
tạo của mình cho cách mạng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
Như vậy, trí thức là một tầng lớp xã hội, có trình độ học vấn cao, lao
động trí óc, sáng tạo khoa học, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng trí thức
khoa học trong hoạt động thực tiễn, góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát
triển mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Đội ngũ trí thức:
Là đội ngũ lao động trí óc, sáng tạo, phổ biến và nghiên cứu ứng dụng
trí thức khoa học vào cuộc sống có trình độ học vấn ở bậc cao đẳng, đại học
trở lên (được đào tạo hoặc không được đào tạo, có bằng cấp hoặc không có
bằng cấp) có kiến thức sâu, rộng và vốn sống thực tiễn phong phú, có phẩm
chất đao đức đáp ứng được nhu cầu xây dựng và phát triển của đất nước.
* Quan niệm của chủ nghĩa mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
đảng ta về vai trò cuả đội ngũ trí thức.
Trí thức được xem là một bộ phận tinh hoa của xã hội mà thời đại nào
cũng cần đến và luôn được đánh giá rất cao.
8
Các nhà kinh điển đã đề cập đến rất nhiều về đội ngũ trí thức và vai trò
của trí thức trong sự nghiệp cách mạng, đây cũng là động lực quan trọng
thúc đẩy sự phát triển sự phát triển của xã hội loài người,đặc biệt là trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa
học quan niệm trí thức là một “tầng lớp xã hội đặc biệt”, gồm những người
“có học thức” và “ lao động trí óc”, những người có khả năng lao động độc
lập, sáng tạo.
Trong cơ cấu xã hội, trí thức “ Không hợp thành một giai cấp độc lập về
kinh tế”, không có hệ tư tưởng riêng và địa vị kinh tê-xã hội độc lập, song ở
bất kỳ chế độ nào trí thức cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng
và truyền bá hệ tư tưởng, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, trang bị trí
thức khoa học ,văn hoá, nâng cao dân trí trong xã hội. Tuy nhiên, việc sử
dụng và phát huy vay trò của trí thức như thế nào còn tuỳ thuộc vào bản chất
của chế độ chính trị, xã hội và bị quy định bởi các đặc điểm về kinh tế,
truyền thống văn hoá, lịch sử…của mỗi xã hội cụ thể, vào thái độ, chủ
trương chính sách với khoa học và trí thức của giai cấp cầm quyền.
Trong xã hội tư bản,khoa học và đội ngũ trí thức cũng trở thành đối
tượng bị bóc lột làm công cụ để làm tăng thêm lợi nhuận cho giai cấp tư sản.
trong tuyên ngôn của đảng cộng sản C.Mác và ph Ăngghen chỉ rõ: “ Giai cấp
tư sản tước hết hào quang thần thánh của tất cả những hoạt động xưa nay vẫn
được trọng vọng và tôn sùng. Bác sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ, bác học đều bị giai
cấp tư sản biến thành những người làm thuê được trả lương của nó”. Phân
tích địa vị thân phận của tầng lớp trí thức dưới chủ nghĩa tư bản, Lênin viết:
“người trí thức không phải là người tư sản,và họ còn bắt buộc duy trì mãi
mức sống ấy chừng nào họ chưa biến thành kẻ đói rách, nhưng đồng thời họ
còn bắt buộc phải bán sản phẩm lao động của họ; họ hay bị người tư sản bóc
lột và phải chịu một sự khinh rẽ nào đó về mặt xã hội”. Vì những điều đó
cho nên trí thức luôn mong được giải phóng, được tự do sáng tạo, đóng góp
9
được nhiều cho xã hội. Tuy nhiên đểlàm được điều này, trí thức cũng phải
giác ngộ, được lãnh đạo bởi một giai cấp tiên tiến. Lênin cho rằng “nếu
không nhập cục với một giai cấp thì giới trí thức chỉ là con số không mà
thôi” [ ]. các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin cũng chỉ rằng, trong
thời điểm quyết định của cuộc đấu tranh giai cấp, khi giai tư sản thống trị
lâm vào khủng hoảng, tan rã thì một bộ phận trí thức giác ngộ, sẽ đi theo
hàng ngũ giai cấp vô sản, theo chủ nghĩa xã hội. Lênin đã chỉ rõ “chỉ có chủ
nghiã xã hội mới giải phóng khoa học khỏi xiềng xích của giai cấp tư sản,
khỏi sự nô dịch của tư bản, khỏi tình trạng nô lệ vào lợi ích và tính vụ lợi bẩn
thỉu của bọn tư bản. chỉ có chủ nghĩa xã hội mới tạo ra khả năng mở rộng
nền sản xuất xã hội và sự phân phối sản phẩm, và thực sự bắt chúng phải
phục tùng những căn cứ khoa học, để làm cho đời sống của toàn thể những
người lao động dễ chịu nhất,đem lại cho họ khả năng hưởng hạnh phúc”
Vai trò của trí thức đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản
trứơc hết thể hiện trên lĩnh vực nghiên cứu lý luận, truyền bá hệ tư tưởng xã
hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao ý thức tự giác trong phong trào công nhân
và các tầng lớp nhân dân. trong tác phẩm làm gì, Lênin đã đồng ý với những
nhận định của Cauxki rằng “ ý thức xã hội chủ nghĩa ngày nay chỉ có thể nảy
sinh được trên cơ sở một sự hiểu biết khoa học sâu sắc…vậy mà người nắm
được khoa học lại không phải là giai cấp vô sản mà là những người trí thức
tư sản…chính chủ nghĩa xã hội hiện đại đã nảy sinh ra trong đầu óc của một
vài người thuộc tầng lớp đó, và chính nhờ họ mà chủ nghiã xã hội đã truyền
đến những người vô sản tiên tiến nhất về mặt trí thức, những người vô sản
này sau đó đem chủ nghĩa xã hội đưa vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản…” thực tiễn cho thấy Mac, Ăngghen, Lênin và rất nhiều nhà hoạt động
cách mạng vốn là những trí thức đã dành cả cuộc đời phấn đấu, hy sinh vì lý
tưởng xã hội chủ nghĩa,vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và nhân loại, đóng
10
vai trò có ý nghĩa quyết định trong việc nghiên cứu lý luận, truyền bá hệ tư
tưởng tiên tiến, nâng cao tính tự giác cách mạng trong các tầng lớp nhân dân.
Không chỉ trên lĩnh vực nghiên cứu, phát triển lý luận, truyền bá hệ tư
tưởng tiên tiến, trí thức còn đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong các lĩnh
vực phát triển khoa học, giáo dục mở mang văn hoá, nâng cao dân trí. Chủ
nghĩa xã hội rất cần trí thức, cần phát triển khoa học, đồng thời tạo mọi điều
kiện để đội ngũ trí thức phát huy vai trò của mình.
Trong thư gửi đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa đề ngày
19/12/1893 Ph Ăngghen viết “Sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân còn
cần phải có bác sĩ, kỹ sư, nhà boá học…và các chuyên gia khác, vì vấn đề là
phải nắm lấy việc quản lý không phải chỉ bộ máy chính trị mà còn toàn bộ
nền sản xuất xã hội nữa…”
Tư tưởng coi trọng khoa học, coi trọng trí thức nhân loại đã được Lênin
nhấn mạnh khi nói chuyện với thế hệ trẻ, Lênin đã từng viết: thật là sai lầm
khi nghĩ rằng chỉ cần thấm nhuần những khẩu hiệu cộng sản, những kết luận
của khoa học cộng sản,chứ không cần phải thấm nhuần tổng số những kiến
thức mà chính bản thân chủ nghĩa cộng sản cũng là kết quả…người ta chỉ có
thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu
biết tất cả những kho tàng trí thức mà nhân loại đã tạo ra.
Theo Lênin,nếu không có một nền học vấn hiện đại, không có trí thức
thì chủ nghĩa cộng sản vẫn chỉ là một nguyện vọng mà thôi. Để có trí thức,
lênin nhấn mạnh phải nêu cao học tập, học nữa học mãi,phải làm sao cho học
thức thực sự ăn sâu vào trí não,hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận
khăng khít của cuộc sống của chúng ta.
Chủ nghĩa Mac-Lenin khẳng định: chủ nghĩa xã hội chỉ có thể giành
thắng lợi triệt để khi nó tạo ra một kiểu tổ chức sản xuất mới cho phép không
ngừng nâng cao năng xuất lao động hơn hẳn so với chủ nghĩa tư bản. để làm
được điều đó, phải phát triển khoa học và công nghệ,phải có chính sách thu
11
hút tầng lơp trí thức,các nhà khoa học tích cực tham gia vào công cuộc phát
triển kinh tế, xây dựng đất nước.
Quan điểm của các nhà Macxit và bài học kinh nghiệm của nước nga xô
viết về việc phát triển khoa học, xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và
đảng ta tiếp thu và vận dụng sáng tạo và vận dụng sáng tạo trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt nam. đảng ta luôn đánh giá cáo vai trò của tầng lớp
trí thức, coi đó là bộ phận hợp thành của khối liên minh Công-nông-trí thức
đóng vai trò nền tảng chính trị xã hội của nhà nước ta, đồng thời chú trọng
xây dựng đội ngũ trí thức cách mạng, tạo mọi điều kiện để trí thức phát huy
vai trò trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Hồ Chí Minh người
sáng lập và lãnh đạo đảng ta đã khẳng định: “ Cách mạng rất cần trí thức và
chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức” (HCM TTT Y HN 1996
Tr33-34). Ngưới còn nhấn mạnh “ Trí thức không bao giờ có thừa, chỉ có
thiếu trí thức thôi” (sdd Tr36).Hồ Chí Minh cũng là người sớm nhận thức
được vai trò to lớn của khoa học và công nghệ đối với phát triển của loài
người và của mỗi dân tộc.Người nói: thế giới ngày nay đang tiến những bước
khổng lồ về mặt kiến thức của con người.khoa học tự nhiên cũng như khoa
học xã hội không ngừng mở rộng ra những chân trời mới, con người ngày
càng làm chủ được thiên nhiên,cũng như làm chủ được vận mệnh của xã hội
và của bản thân mình. Hồ Chí Minh yêu cầu phải biết vận dụng những thành
tựu của khoa học mà loài người đạt được nhằm thiết thực giải quyết các vấn
đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những
đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật. Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa
Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
nhất là khi đất nước bước vào xây dựng CNXH,đảng ta đã có một số nghị
quyết chuyên đề để nhằm phát triển khoa học công nghệ và xây dựng đội
ngũ trí thức.
12
Đặc biệt trí thức có vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế-xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
nói: Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học, chắc chắn sẽ đưa loài người đến
hạnh phúc vô tận. Trong thời đại ngày nay, khoa học mà chủ thể quan trọng
là trí thức đã trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp,do đó lao động trí óc
cũng là lực lượng sản xuất trực tiếp. Trước đây trong dân gian có câu: Nhất
sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông lại nhất nông nhì sĩ. điều đó xuất phát từ quan
niệm cho rằng chỉ có người nông dân mới thực sự làm ra lúa gạo nuôi sống
con người, cũng như người nông dân cho ta vải vóc và vật phẩm khác,còn
người trí thức tuy được trọng vọng, nhung nhìn chung họ chỉ là loại “dài
lưng tốn vải, ăn no lại nằm”. vị trí vai trò người trí thức và đội ngũ trí thức
tuy rất quan trọng nhưng không phải trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Ngày
nay suy nghĩ đó đã lỗi thời nhưng không phải ai cũng thấy được vị trí, vai trò
của trí thức trong việc sản xuất ra của cải vật chất như một lực lượng sản
xuất trực tiếp.
Trong những năm gần đây với sự phát triển vượt bậc của khoa học công
nghệ thì công nghiệp trí thức đã ra đời và giữ vai trò quyết định, nó giữ vai
trò là nhân tố quan trọng bậc nhất, quyết định sự phát triển lực lượng sản
xuất. ngày nay không thể chỉ dùng phương pháp cổ điển trước đây mà phải
có đầu óc cải cách, áp dụng công nghệ mới, nâng cao tay nghề của công
nhân và nhất là tạo ra sự kết hợp chặt chẽ giữa khoa học với sản xuất, giữa
trí thức với công nhân có kiến thức cao. Hơn bao giờ hết, Đảng và nhà nước
ta phải biết phát huy sự thông minh vốn có của dân tộc mình để vượt qua
những khó khăn thử thách, biết huy động hiền tài thời nào cũng có để tiếp
nhận cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới.
Xem trọng người trí thức và đội ngũ trí thức,đặt trí thức ở tầm vĩ mô của
chiến lược xây dựng đất nước là vấn đề khởi đầu vừa có ý nghĩa lý luận vừa
13
có ý nghĩa thực tiễn trong nghiên cứu về trí thức hiện đại. Tuy nhiên chúng
ta ũng không thể xem nhẹ vai trò trí thức trong lĩnh vực sản xuất trực tiếp.
Với sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã
dần làm mất chỗ đứng của công nhân lao động giản đơn và tgay vào đó là
những công nhân có trí thức và tay nghề cao. điều đó cho thấy kinh tế ngày
càng phải dựa vào chất xám để phát triển. Chất xám càng cao, trí tuệ càng
sâu sắc, người trí thức càng có vị trí trong sản xuất và trở thành một lực
lượng không thể thiếu trong xã hội công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Bên cạnh đó với nước ta sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá còn có
một vấn đề hết sức quan trọng mà ở nhiều nước khác có thể không có, đó là
vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa chưa có tiền lệ trong lịch sử. đi theo
con đuờng này một mặt sẽ tránh được sự áp đặt của các nước có nền công
nghiệp phát triển; mặt khác phải sáng tạo những bước đi cách làm vừa nhanh
chóng vững chắc vuàe đảm bảo định hướng xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. chính vì lẽ đó, việc quan tâm xây dựng đội ngũ đội trí thức gắn bó
với nhân dân, giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có chí khí và hoài
bão lớn là trách nhiệm của đảng nhà nước.
trí thức chỉ thực sự có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta khi họ là lực lượng và nền tảng trong khối
đại đoàn kết gắn bó dân tộc. Sự gắn bó giữa họ với công nhân và nông dân
không phải là một đồng minh chiến thuật mà thực sự là người đồng hành
trong sự nghiệp xây dựng đất nước ta vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghiã.
Trí thức còn có vai trò vô cùng quan trọng sáng tạo văn hoá, giữ vững
nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy bản sắc dân tộc trong công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
14
Nói đến sáng tạo văn hoá là nói đến nhiều mặt của cuộc sống xã hội
như: tư tưởng, đạo đức, giáo dục, khoa học, nghệ thuật…
Viên kiện hội nghị lần thứ V BCH TW ( Khoá VIII) đã nhấn mạnh: xây
dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do đảng lãnh đạo, trong
đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Tuy nhiên không chỉ trí thức mới
biết sáng tạo văn hoá mà còn có nhiều lực lượng khác,của mọi quần chúng
nhân dân. với vai trò và đặc trưng riêng của mình, bằng lao động trí tuệ
mang tính chất chuyên nghiệp của mình, đội ngũ trí thức sáng tạo ra những
sản phẩm tinh thần như những phát minh khoa học, những sáng tác văn học,
nghệ thuật…tạo nên diện mạo nền tảng tinh thần của xã hội, góp phần quan
trọng vào việc định hướng tư tưởng, xây dựng đạo đức lối sống, phát triển
đời sống văn hoá, xã hội. Mặt khác, với tư cách là một lực lượng sản xuất
trưc tiếp, đội ngũ trí thức cũng tham gia lao động sáng tạo ở bình diện văn
hoá vật thể hay văn hoá sản xuất. đó là hai mặt không thể thiếu, không thể
xem nhẹ mặt nào. tuy nhiên ở đây chỉ nói đến vị trí, vai trò của trí thức trong
sáng tạo văn hoá phi vật thể, không phải là xem nhẹ vai trò của trí thức trong
lĩnh vực sản xuất mà muốn nhấn mạnh đến vai trò của trí thức trong việc giữ
vững nền tảng tinh thần của xã hội. Việc sáng tạo văn hoá, giữ vững nền tảng
tinh thần của xã hội, phát huy bản sắc dân tộc trong công nghiệp hoá hiện đại
hoá là một thiên chức gần như của riêng họ. trí thức vừa là chủ thể có khả
năng tích hợp và phát huy toàn bộ sức mạnh nội sinh văn hoá dân tộc, vừa là
khách thể có khả năng tiếp nhận và phát huy toàn bộ những tinh hoa của thế
gíơi.
Trong sáng tạo văn hoá mà ở đó người trí thức có vị trí quan trọng,phải
nói trước tiên đến lĩnh vực giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ. Trong
sựn nghiệp giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ, đội ngũ trí thức việt
nam có trách nhiệm lớn trong việc nâng cao dân trí, tạo ra mặt bằng trí tuệ
cho dân tộc ngang tầm với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ mặt
15
bằng trí tuệ đó, đội ngũ trí thức cũng phải nghĩ đến yêu cầu sáng tạo văn hoá
trên lĩnh vực phát minh, sáng chế. Sự phát triển công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta nhanh hay chậm một phần rất quan trọng là trách nhiệm của
đội ngũ trí thức việt nam, trước hết trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và khoa
học công nghệ. Mặt khác cũng cần thấy đội ngũ trí thức nước ta không chỉ
tác động vào sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ
mà bản thân giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ cũng có tác động đến
việc phát triển đội ngũ trí thức Việt nam. đó là mối quan hệ hữu cơ với nhau,
cho nên khi nói đội ngũ trí thức có trách nhiệm quan trọng với sự nghiệp
giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ cũng chính là trách nhiệm với bản
thân sự nghiệp phát triển đội ngũ trí thức nước ta.
Trong sáng tạo văn hoá, tư tưởng trí thức đóng vai trò quan trọng ở
chỗ, phải bằng sáng tạo văn hoá của mình thể hiện trong sáng tác văn học,
nghệ thuật, trong công trình khoa học…người trí thức chuyển hệ tư tưởng
thành nền tảng tinh thần của xã hội.đó là con đường phổ biến tuyên truyền và
giáo dục hệ tư tưởng, học thuyết chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như nhân sinh quan và thế giới quan mới cho nhân dân.
Trong sáng tạo văn hoá, đạo đức thì người trí thức không chỉ giữ cho
mình có phẩm chất đạo đức theo quan điểm mới của đảng mà còn có trách
nhiệm trong việc giữ vững nền tảng đạo đức xã hội. Bên cạnh đó trí thức
Việt nam còn có trách nhiệm bảo vệ truyền thống văn hoá, đạo đức dân tộc,
phê phán hiện tượng vô văn hoá về đạo đức và sự định hướng giá trị lệch lạc.
Trong sáng tạo văn hoá, xây dựng con người Việt nam mới giàu trí năng
văn hoá trí thức đóng vai trò quan trọng nhất. Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ sẽ tạo điều kiện cho đất nước ta đi vào công nghiệp hoá, hiện đại
hoá với tốc độ nhanh hơn với phương thức khác hơn so với các nước đã trải
qua con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
16
Vai trò của trí thức trong lãnh đạo và quản lý đất nước, điều hành sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nói đến vai trò của trí thức trong vấn
đề này hoàn toàn không có nghĩa là coi trí thức như một tầng lớp xã hội đứng
ngoài hoặc đứng cao hơn người lãnh đạo và quản lý đất nước.
Khi phê phán quan điểm xem trí thức như một giai cấp thì đồng thời
cũng cần phê phán quan điểm coi trọng trí thức như một giới thượng đẳng
đứng ngoài hoặc đứng trên các giai cấp xã hội. trí thức cũng chỉ là những con
người bình thường trong nhân dân, họ có thể tham gia sản xuất như một công
nhân thực thụ, họ cũng có thể là nhà bác học nhờ những sáng tạo văn hoá có
giá trị của mình. đương nhiên họ cũng có thể trở thành nhà lãnh đạo, thậm
chí là người lãnh đạo cao nhất nắm nhiều quyền lực trong tay.
Người trí thức vốn có mặt ở mọi lĩnh vực của cuộc sống và trong thực tế
có những cá nhân trong họ đã từng là người lãnh đạo, quản lý đât nước ở
những thời đại khác nhau. Tuy nhiên ngày nay với sự phát triển của khoa
học, công nghệ, trí lực, trí tuệ đã trở thành nguồn gốc của phát triển thì vai
trò của trí thức được chú ý hơn, được xemlà hạt nhân trong mọi lĩnh vực,
trong đó nó có vị trí đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo, quản lý đất nước và
điề hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong nghị quyết hội nghị lần thứ V BCH TW Đảng (khoá VIII) phần
nói về việc nâng cao hiệu quả lãnh đạo của đảng trên lĩnh vực văn hoá, có
viết: để đảm bảo sự lãnh đạo của đảng về văn hoá, phải xây dựng văn hoá từ
trong đảng, trong bộ máy nhà nước. Như Bác Hồ đã dạy “ Đảng ta là đạo
đức là văn minh”. điều đó chứng tỏ đảng ta không chỉ ý thức được tầm quan
trọng của văn hoá, thấy sự cần thiết phải xây dựng văn hoá từ trong đảng, mà
còn thấy rõ vai trò của trí thức đối với sự lãnh đạo của đảng trong giai đoạn
mới hiện nay. đó là một yêu cầu cấp bách đòi hỏi đảng phải nhìn lại đội ngũ
cán bộ lãnh đạo các cấp của đảng, nhất là đội ngũ cán bộ cấp cao so với yêu
cầu mới của sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối
17
cảnh thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ
nhanh chóng và mạnh mẽ.
Trong quản lý đất nước, Đảng ta luôn coi trọng việc chuẩn bị nhân sự
thật tốt cho những người được đảng giao phó trọng trách quản lý nhà nước,
về cả tài và đức.Đảng ta có thật sự là đạo đức là văn minh hay không chủ
yếu phụ thuộc vào đức và tài của những người nắm quyền hành quản lý đất
nước. đây là công tác cán bộ nhưng lại liên quan đến vai trò trí thức trong
quản lý đất nước. điều này chúng ta có thể hiểu thứ nhất là vấn đề quan hệ
giữa người trí thức và đội ngũ trí thức với người quản lý đất nước tức những
người nắm quyền lực của đảng và nhà nước. Hai là vấn đề nâng cao trí lực
và sự hiểu biết của những người quản lý đất nước đủ tầm trí tuệ để đảm
đương tốt được trách nhiệm của mình phụ trách mà chúng ta thường gọi là trí
thức hoá.
Tóm lại, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước không
thể không quan tâm đến việc xây dựng và củng cố đội ngũ trí thức, họ là một
lực lượng xã hội quan trọng , có vai trò trên nhiều lĩnh vực cuộc sống, đặc
biệt trên lĩnh vực phát triển văn hoá, xây dựng nền tảng tinh thần của xã
hội,cùng với đó trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
nhanh như hiện nay, muốn phát triển nhanh và bền vững, muốn tăng trưởng
kinh tế của đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ngoài
việc quan tâm xây dựng đội ngũ trí thức còn phải bằng nhiều cách trí thức
hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trí thức hoá đảng, trí thức hoá
công, nông.
Tong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc trí thức cũng có vai trò quan trọng, đây
vừa là lực lượng tiên phong trong việc nghiên cứu áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật công nghệ quân sự vào phục vụ cho quốc phòng, bên cạnh đó trí
thức còn là lực lượng đông đảo có mặt ở mọi nơi phản ánh những vấn đề
18
nóng bỏng của nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, góp phần định hướng, đề xuất các
giải pháp cho đảng và nhà nước trong nhiệm vụ quốc phòng an ninh.
1.1.2 thực trạng đội ngũ trí thức trước năm 1991 và yêu cầu xây dựng
đội ngũ trí thức trong giai đoạn mới.
Trải qua hơn nữa thế kỷ, từ cách mạng tháng 8.1945 đội ngũ trí thức
nước ta phát triển rất nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Ngày nay trí thức
có mặt trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động của toàn xã hội. trí thức không
những công tác trong ngành giáo dục, văn hoá, khoa học mà còn tham gia
ngày càng nhiều vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… số trí làm
công tác lãnh đạo, công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội tăng nhanh. Xu
hướng “ đại học hoá” sĩ quan trong lực lượng vũ trang, trong cán bộ, nhân
viên, bộ máy các cơ quan chính quyền đoàn thể phát triển mạnh mẽ. Bằng
lao động của mình trí thức đã tạo ra những giá trị tinh thần và vật chất có
hàm lượng trí tuệ cao, truyền bá, bảo tồn, và phát triển các giá trị văn hoá
dân tộc; góp phần quan trọng vào việc bồi dưỡng đào tạo con người với tư
cách là yếu tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất.
Đội ngũ trí thức là vốn quý của dân tộc, thể hiện trình độ trí tuệ của
nhân dân và có vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước, trong
la động sáng tạo khoa học, công nghệ và văn hoá, đổ mới và nâng cao trình
độ lãnh đạo của đảng,trình độ quản lý của nhà nước xây dựng nền tảng của
vật chất và tinh thần cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Ưu điểm
+ Về số lượng và cơ cấu đội ngũ trí thức
+ Về đóng góp, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
+ Về triển vọng phát triển
- Nhược điểm
+ Đội ngũ trí thức còn thiếu về số lượng và mất cân đối so với yêu cầu
phát triển kinh tế xã hội
19
+ Năng lực đội ngũ trí thức nước ta chưa ngang tầm với đòi hỏi của
công cuộc đổi mới
1.2 Quá trình đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức từ năm
1991 đến năm 2001
1.2.1 Phương hướng chính sách của Đảng xây dựng đội ngũ trí thức.
Đảng và Nhà nước ta luôn đề cao coi trọng trí thức là vốn quý của dân
tộc, là lực lượng tiêu biểu cho trình độ trí tuệ của toàn dân tộc, là một lực
lượng cách mạng. từ quan điểm này Đảng ta đã có những chính sách đúng
đắn nên đã đoàn kết, tập hợp được một đội ngũ trí thức đông đảo, gắn bó với
nhân dân, với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, góp phần tích cực
vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Thấy rõ vị trí vai trò của trí thức
đối với cách mạng, ngay sau cách mạng tháng 08/1945, Chủ Tịch Hồ Chí
Minh đã trình bày quan điểm của đảng:những người trí thức tham gia cách
mạng,tham gia kháng chiến rất quý báu cho đảng, không có những người đó
thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều. Người đã trực tiếp tìm chọn
người tài, có đức trong giới trí thức và tin cậy giao cho họ nhiều nhiệm vụ
quan trọng.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) Đảng ta xác định rõ vị
trí của trí thức trong khối liên minh giữa giai cấp công dân với nông dân và
tầng lớp trí thức: “ Trong cách mạng dân tộc dân chủ, vai trò giới trí thức đã
quan trọng, trong xây dựng CNXH, vai trò của giới trí thức ngày càng quan
trọng, giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản
thân công nông không được nâng cao kiến thức, không dần dần được trí thức
hoá, thì không thể xây dựng CNXH “………………”. Có thể khẳng định
rằng, từ trong đường lối cách mạng đến hoạt động thực tiễn, Đảng và Nhà
nước ta đều có sự nhất quán trong việc đánh giá vị trí , vai trò của trí thức
trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước.
20
Chính sách của Đảng và nhà nước trước sau như một coi trí thức là một
lực lượng cách mạng.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng ở lúc này hay lúc khác cũng có người
chưa thực sự thấy hết vị trí, vai trò của trí thức đối với cách mạng. nhất là
trong những lúc cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, nhiều chính sách đối
với trí thức tỏ ra không còn thích hợp nữa, không tạo được động lực để phát
huy tiềm năng trí tuệ của họ, không thúc đẩy được năng lực sáng tạo của đội
ngũ trí thức phục vụ hết mình cho đất nước. Chính vì vậy, xuất phát từ yêu
cầu thực tế của thời đại phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ; kinh
tế tri thức và văn minh trí tuệ, chúng ta cũng cần có những điều chỉnh mới về
chính sách đối với trí thức.
* Về chính sách đào tạo, bồi dưỡng trí thức
Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng, việc đào tạo trí thức với tư cách là
nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, lao
đông chuyên môn kỹ thuật vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng, vùa
bất hợp lý về cơ cấu. Trong hơn 4o triệu lao động của cả nước, chỉ có
khoảng 12% được qua đào tạo. Vì vậy, nước ta đang thiếu trầm trọng công
nhân kỹ thuật lành nghề, tỷ lệ kỹ sư trên công nhân là cao nhưng lại thiếu kỹ
sư giỏi. Đã vậy, việc đào tạo hiện nay vẫn tiếp tục theo hướng “ thầy nhiều
hơn thợ”. Sự thiếu đồng bộ trong cơ cấu ngành nghề của sinh viên vẫn còn
nghiêm trọng mà chưa có sự điều chỉnh của Nhà nước. Công tác đào tạo
chưa gắn kết với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, sinh viên được học nặng
về lý thuyết mà thiếu kỹ năng thực hành.
Chưa có chính sách đồng bộ về phát hiện, đào tạo bồi dưỡng nhân tài.
Trong các năm qua việc đào tạo lực lượng người có trrình độ cao còn hạn
chế. Nhân tài cần phải được rèn luyện trong thực tiễn hơn nữa, tuy nhiên khá
đông trí thức nước ta làm việc trên bàn giấy nặng về lý thuyết.
21
Còn nhiều khuyết điểm trong chính sách trí thức hoá công nông, chủ
trương trí thức hoá công nông được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà
nước đề ra từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX, đã được thực hiện tương
đối tốt đưa đến kết quả là nước ta có đội ngũ trí thức gắn bó máu thịt với
nhân dân, với Đảng. Ngày nay, bước vào CNH, HĐH việc nâng cao trình độ
văn hoá, khoa học kỹ thuật của công nông, đào tạo những trí thức xuất thân
từ công nông là rất cần thiết để nâng cao giá trị, hàm lượng trí tuệ trong sản
phẩm lao động, dich vụ. Đối với nước ta, trí thức hoá công nông còn có tác
dung củng cố khối liên minh chiến lược công- nông- trí, đảm bảo cho đất
nước phát triển theo định hướng XHCN. Tuy nhiên những năm gần đây việc
bồi dưỡng nâng cao trình độ cho công nhân gặp nhiều hạn chể, khó khăn vì tỉ
lệ công nhân có học vắn thấp còn cao, tỉ lệ sinh viên là công nhân, nông dân
còn hạn chế. Nguyên nhân căn bản là do trong tình hình mới, Đảng chưa có
chiến lược kịp thời và đồng bộ để bồi dưỡng giai cấp công nhân, nông dân;
chính sách ưu đãi với học sinh, sinh viên là công nông còn chưa hợp lý.
* Về chế độ đãi ngộ vật chất đối với trí thức
Do chưa nhận thức rõ giá trị của lao động trí tuệ trong thời đại thông tin,
không thấy đầy đủ vai trò, chức năng, ngiệm vụ của trí thức trong sự nghiệp
CNH, HĐH nên khi hoạch định chính sách chỉ xem trí thức cũng như công
chức bình thường. Do vậy, lương của trí thức còn thấp. Tuy nhiên, tại Hội
nghị TW 2 (khoá VIII) Đảng đã có Nghị quyết 02/NQ – HNTW (khoá VIII)
chỉ tính riêng lương của giáo viên được xếp vào bậc cao nhất của thang
lương hành chính, còn các bất hợp lý trong chế độ lương của trí thức vẫn
chưa được khắc phục.
Với chế độ lương và phụ cấp nghề nghiệp hiện nay, chỉ một số ít nhà
khoa học, nhà văn hoá có trình độ cao, có đề tài nghiên cứu, có điều kiện hợp
tác với nước ngoài mới có mức sống bình thường. Do vậy, rất đông lực
lượng tri thức phải xoay xở bằng mọi cách để cải thiện cuộc sống, cũng do
22
vậy mà chưa thật tâm huyết với nghề nghiệp, trình độ chuyên môn xuống
cấp, đạo đức nghề nghiệp bị xói mòn, một số ít bị tha hoá không làm đúng
vai trò trí thức của mìn. Điều này đòi hỏi phải có sự thay đổi căn bản chế độ
đãi ngộ vật chất, làm cho tiền lương trở thành nguồn sống chính tạo động lực
chủ yếu để trí thức có thể đóng góp tích cực cho xã hội.
* Về chế độ đầu tư cho hoạt động sáng tạo của trí thức.
Trong những năm qua việc cung cấp tài chính cho giáo dục đào tạo đã
có những chuyển biến. Tỷ trọng chi cho giáo dục đào tạo trong ngân sách
Nhà nước tăng lên từng năm. Tuy nhiên, ngân sách hàng năm vẫn không đủ
bù đắp vào các yếu tố phát sinh thêm như tăng số giáo viên và học sinh các
cấp, tỷ lện lạm phát hàng năm tăng. Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
trang thiết bị cho giáo dục đào tạo tăng rất ít, trang thiết bị ngày càng cũ kỹ
lạc hậu.
Trong lĩnh vực khoa học công nghệ, các nguồn tài chính cũng rất hạn
hẹp, lại bị phân bố rất phân tán cho nên hiệu quả thấp. Việc đầu tư 2% GDP
cho khoa học và công nghệ vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Các
đề tài cấp Nhà nước chỉ được cấp khoảng 83,3 triệu đồng, đề tài cấp bộ là 37
triệu đồng, các ngành khoa học xã hội và nhân văn thì chỉ đạt khoảng 27,7
triệu đồng. Với nguồn tài chính hạn hẹp nên hoạt động khoa học công nghệ
vẫn chưa nâng cao được hiệu quả, chưa giải quyết được vấn đề mới đặt ra.
Thực trạng này cần sớm được khắc phục để tạo điều kiện cho trí thức được
làm việc và cống hiến.
* Về chế độ đảm bảo quyền dân chủ và tự do tư tưởng cho lao động
sáng tạo của trí thức.
Trong định hướng phát triển của mình, cùng với các chủ trương mở
rộng đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, đã tạo ra bầu không khí
dân chủ cởi mở. Tuy nhiên, để có thể thực hiện đúng chức năng của mình, trí
thức nói chung, nhất là trí thức khoa học xã hội nhân văn và trí thức văn
23
nghệ sĩ nói riêng có yêu cầu cao về bảo đảm đầy đủ quyền dân chủ và tự do
tư tưởng để phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình.
Trong thời gian qua, các xử lý cụ thể đối với một số trường hợp đã gây
nhiều băn khoăn, mặc cảm đối với không ít trí thức. Nhiều trí thức chưa
mạnh dạn thẳng thắn trình bày ý kiến, quan điểm, nhất là khi họ thấy ý kiến
của mình khác với quan điểm của Đảng. Trong các cuộc đấu tranh tư tưởng,
không ít cán bộ khoa học xã hội đã không bộc lộ suy nghĩ, tư tương của
mình. Họ đã không có điều kiện làm tốt chức năng sáng tạo của mình, đồng
thời không làm được một chức năng cũng rất cơ bản của người trí thức là
phê bình xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh” mà Đảng ta đã đề ra.
Trong các đề tài nghiên cứu, các công trình khoa học về cơ bản vẫn theo
cơ chế giao nhiệm vụ nghiên cứu, không qua đấu thầu tuyển chọn, hoặc đấu
thầu một cách hình thức gây bất bình trong cán bộ khoa học.
* Về chính sách cơ chế quản lý hoạt động khoa học, công nghệ và văn
hoá.
Công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ và văn hoá
tuy đã có những đổi mới nhất định nhưng vẫn còn nhiều dấu ấn của đường
lối quản lý hành chính, quan liêu bao cấp. Chính sách của Nhà nước đối với
người tài chưa thật rõ ràng, đồng bộ. Phần lớn các đơn vị nghiên cứu, hành
chính sự nghiệp chưa có chính sách đối với người tài, bởi vậy người thực tài
vươn lên rất khó khăn. Đồng thời, Nhà nước cũng thiếu những cơ chế đủ
mạnh để chuyển những người không có khả năng nghiên cứu sang làm công
việc khác thích hợp hơn, cơ chế hiện nay vẫn còn chỗ đứng cho người làm
việc cầm chừng, dung túng cho người lười biếng. Đầu tư cho nghiên cứu vẫn
mang tính bình quân, cào bằng. Hiện nay, không ít chính sách và cơ chế
quản lý hoạt động khoa học và công nghệ đã trở nên lạc hậu, đang cản trở
hoạt động sự phát triển của đội ngũ trí thức. Nhiều văn bản còn lạc hậu và
24
thiếu đồng bộ, chưa thực sự tạo dựng một môi trường pháp lý hoàn chỉnh
toàn diện, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khoa học công nghệ.
* Về chính sách sử dụng đãi ngộ đối với trí thức cao tuổi
Hiện nay có nhiều trí thức tuổi cao nhưng vẫn có nhiều cống hiến cho
đất nước. Song, Nhà nước chưa có một chính sách nhất quán nhằm vừa khai
thác, sử dụng tài năng của lớp trí thức này, vừa đáp ứng được khát vọng của
người cao tuổi muốn được tiếp tục hoà nhập vào cộng đồng bằng sự cống
hiến của mình. Nhiều cơ quan đã áp dụng chế độ chung, cho nghỉ hưu đồng
loạt, nam ở tuổi 60, nữ ở tuổi 55, trong đó có cả những trí thức giỏi, những
chuyên gia đầu ngành còn sức khoẻ.
Theo chế độ, tuổi nghỉ hưu của nữ là 55. Nhưng, trong thực tế ở tuổi 55
nhiều người còn sung sức, còn có thể làm việc. Do vậy, nên có chính sách sử
dụng và tận dụng sự đóng góp của nữ trí thức cao tuổi.
Chương 2
Kết quả và kinh nghiệm từ quá trình đảng lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí
thức từ năm 1991 đến năm 2001
2.1. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
2.1.1. Thành tựu, nguyên nhân
Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định vai trò và vị trí quan trọng của
đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn trân
trọng, ghi nhận những công lao và tâm huyết của các nhà trí thức và tin cậy
vào đội ngũ trí thức. Đánh giá được vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trong
thời kỳ mới, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương giải pháp nhằm xây dựng đội
ngũ trí thức vững mạnh hơn nữa, và đã thu được những thành tựu to lớn.
Đội ngũ trí thức ở nước ta phát triển nhanh và tương đối mạnh. Tính đến
thời điểm năm 2001, nước ta có khoảng 1 triệu người tốt nghiệp Đại học và
Cao đẳng; không kể ngành khoa học quân sự cả nước có 807 người được
phong chức giáo sư, 3013 người được phong chức phó giáo sư, 16227 tiến sĩ.
Ngoài ra còn có hơn 10000 thạc sĩ đã được đào tạo. Trong đó, giáo dục đào
tạo là lĩnh vực có đội ngũ trí thức đông đảo nhất. Chỉ tính riêng giáo viên
trực tiếp giảng dạy ở cấp trung học cơ sở, trung học phổ thông, các trường
25