Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

LUẬN văn tốt NGHIỆP ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo THỰC HIỆN xóa đói GIẢM NGHÈO từ năm 2001 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.04 KB, 68 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài (tên luận văn)
XĐGN không chỉ là vấn đề kinh tế thuần tuý, mà nó cịn là vấn đề chính trị xã
hội phức tạp, nhạy cảm và mang tính tồn cầu. Với đất nước ta, đang trong q
trình q độ lên CNXH nên xố đói giảm nghèo là một trong những nội dung quan
trọng bảo đảm định hướng XHCN một cách vững chắc vì mục tiêu dân giàu, nước
manh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chính vì vậy xố đói giảm nghèo để góp phần thực hiện tiến bộ và cơng bằng
xã hội là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và nhà nước ta trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi vấn đề XĐGN là một
vấn đề có tính chiến lược lâu dài và luôn đặt vấn đề này như một nhiệm vụ ưu tiên
hàng đầu trong các chính sách phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.
Trong những năm qua, với chủ trương chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà
nước, sự giúp đỡ ủng hộ nhiệt tình của cộng đồng quốc tế và sự nỗ lực cố gắng của
nhân dân, nước ta hiện đang dẫn đầu thế gới về XĐGN, là một trong những nước
giảm nghèo thành công nhất, nhất là trong 10 năm gần đây. Trong “Báo cáo phát
triển Việt Nam” năm 2004 của cộng đồng quốc tế về thành tựu XĐGN của nước ta
trong thời gian qua đã khẳng định: Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là
một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau mà trong
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, công tác XĐGN vẫn còn nhiều
khiếm khuyết, hiệu quả chưa thật đồng đều và bền vững, chưa đáp ứng được yêu
cầu đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước. Hạn chế đó ảnh hưởng


2


khơng nhỏ tới q trình tiến tới mục tiêu dân giàu, nước manh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh mà Đảng ta đã xác định.
Trong những năm tới nhất là khi chuẩn nghèo có nhiều thay đổi theo hướng
tăng dần tỷ lệ hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần trong tổng chi tiêu của người
dân thì vấn đề nâng cao hơn nữa hiệu quả XĐGN phải được sự quan tâm của tồn
xã hội, trong đó Đảng và nhà nước giữ vai trò nòng cốt.
Ngày nay, do những thành tựu của công cuộc đổi mới đem lại và sự giúp đỡ
của cộng đồng quốc tế, XĐGN trên đất nước ta sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi.
Nhưng tận dụng có hiệu quả những thuận lợi đó hay khơng phụ thuộc quyết định
vào sự chủ động của toàn Đảng, tồn dân, trong đó sự tự nỗ lực vươn lên của chính
người nghèo là nhân tố quan trọng hàng đầu.
Xuất phát từ những lý do trên và để thấy rõ hơn q trình Đảng lãnh đạo thực
hiện cơng tác XĐGN từ năm 2001 đến năm 2006 nên Tôi chọn đề tài: “Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện xoá đói giảm nghèo từ năm 2001 đến
năm 2006” làm luận văn cuối khố.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
XĐGN là một vấn đề có phạm vi rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tếchính trị- xã hội. Dưới mỗi góc độ nghiên cứu đều có những cách tiếp cận riêng.Ở
nước ta đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều bì viết đề cập đến vấn đề này như
của nhóm tác giả Nguyễn Thị Hằng (chủ biên), Trần Đình Hoan, Chu Hữu Q, Lê
Văn Lương có cơng trình “Xố đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế”; tác giả
Hà Quế Lâm có cơng trình “Xố đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số ở nước ta
hiện nay. Thực trạng và giải pháp”; tác giả Chu Tiến Quang có bài viết “Nhìn lại
thành tựu xố đói giảm nghèo của Việt Nam giai đoạn 2001- 2005 và những vấn
đề đang đặt ra”. Ngồi những cơng trình, bài viết có nội dung đề cập trực tiếp đến
vấn đề XĐGN, cịn có nhiều cơng trình, bài viết khác tiếp cận gián tiếp theo hướng


3

XĐGN là một thành tố tạo nên sự phát triển bền vững, hoặc là một nội dung bảo

đảm cho định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ. Ví dụ như tác giả Đinh Văn Ân
với cơng trình “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam”; tác giả Nguyễn Quang Thái với cơng trình “Phát triển bền vững ở Việt
Nam: thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng”. Bên cạnh đó, XĐGN ở Việt
Nam cũng được nhiều cá nhân, nhóm tác giả của các tổ chức quốc tế quan tâm
nghiên cứu.
Mặc dù tiếp cận dưới các góc độ khác nhau nhưng các cơng trình, bài viết đã
đi sâu nghiên cứu thực trạng, đặc điểm đói nghèo ở Việt Nam; những tác hại hậu
quả của nó đến đời sống kinh tế- chính trị- xã hội của Việt Nam. Nhiều cơng trình
tìm hiểu chủ trương, chính sách XĐGN của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định
những thành tựu to lớn mà nước ta đã đạt được trong sự nghiệp XĐGN. Từ đó đã
đề xuất một số giải pháp, rút ra những kinh nghiệm bước đầu cho sự nghiệp
XĐGN ở nước ta.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống, tồn diện về q trình Đảng lãnh đạo thực hiện XĐGN từ năm 2001 đến
năm 2006. Bởi vậy luận văn sẽ trình bày một cách có hệ thống, chun sâu về q
trình Đảng lãnh đạo thực hiện xố đói giảm nghèo từ năm 2001 đến năm 2006.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục Đích:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn và khẳng định quan điểm nhất quán của
Đảng trong lãnh đạo thực hiện xoá đói giảm nghèo từ năm 2001 đến năm 2006.
- Phân tích thực trạng, từ đó rút ra một số kinh nghiệm về quá trình Đảng lãnh
đạo thực hiện XĐGN từ năm 2001 đến năm 2006.
* Nhiệm vụ:
- Khẳng định tính tất yếu khách quan của việc Đảng lãnh đạo thực hiện
XĐGN từ năm 2001 đến năm 2006


4


- Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo và chỉ đạo XĐGN từ năm 2001 đến năm
2006, thành tựu, hạn chế và nguyên nhân từ đó rút ra một số kinh nghiệm bước đầu
về quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện XĐGN từ năm 2001 đến năm 2006.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu chủ trương và quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ
đạo XĐGN từ năm 2001 đến năm 2006, rút ra một số kinh nghiệm.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được xây dựng dựa trên nền tảng chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đồng thời kế thừa các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đi trước.
Luận văn khai thác chủ yếu tư liệu từ các văn kiện nghị quyết của các Đại hội
Đảng, nghị quyết Ban chấp hành Trung ương khoá IX và một số Quyết định, Báo
cáo của Chính phủ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch Đầu tư,
Tổng cục thống kê…
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp lơgíc và sự kết hợp giữa hai phương pháp đó. Đồng thời luận văn cịn
sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê,
đồng đại, lịch đại…
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn hệ thống hóa các quan điểm của Đảng, chủ trương và quá trình chỉ
đạo XĐGN từ năm 2001 đến năm 2006.
- Khái quát những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, từ đó rút ra những kinh
nghiệm bước đầu cho vấn đề XĐGN ở nước ta.
- Thành cơng của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu và giảng
dạy bộ môn khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trong các nhà trường quân
đội.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham


5


khảo và phần phụ lục.

Chương 1
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ XỐ ĐĨI GIẢM NGHÈO
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2006
1.1. u cầu khách quan về XĐGN
1.1.1. Quan niệm chung về đói nghèo và XĐGN
Đói nghèo là vấn đề mang tính tồn cầu chứ không phải là vấn đề riêng của
bất cứ quốc gia, dân tộc nào, đồng thời đói nghèo cũng là vấn đề của cả kinh tế,
chính trị và xã hội, nó khơng chỉ là vấn đề riêng của kinh tế hay xã hội. Hơn nữa,
nội hàm của khái niệm đói nghèo chỉ mang tính tương đối, nó ln vận động biến
đổi và mở rộng cùng với sự tăng lên về nhu cầu của xã hội, của con người.Chính vì
vậy, để giải quyết thành công và bền vững vấn đề này thì địi hỏi trước tiên là phải
có cách tiếp cận, nghiên cứu khoa học.
Đói nghèo được diễn dạt bằng nhiều khái niệm khác nhau. Liên Hợp Quốc
đã đưa ra hai khái niệm chính về nghèo đói: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối là tình trạng khơng được hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu để
duy trì cuộc sống. Nghèo tương đối là tình trạng khơng được hưởng đầy đủ những
nhu cầu cơ bản tối thiểu như ăn, mặc, ở, giao tiếp xã hội, vệ sinh y tế và giáo dục.
Nghèo tương đối có thể xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật
chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp nhất định so với sự
sung túc của xã hội đó.


6

Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới tổ chức tại Côpenhaghen (Đan Mạch) năm
1995 đã đưa ra khái niệm cụ thể hơn về nghèo đói như sau: “ Người nghèo là tất cả
những ai thu nhập thấp hơn 1USD mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như

đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại ” [

].

Ở Việt Nam, đói nghèo được tách riêng thành đói và nghèo. Nghèo là tình
trạng chỉ được thoả mãn một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và
có mức sống thấp hơn so với mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi
phương diện. Đói là tình trạng có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không
đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Những hộ đói thường thiếu
ăn đứt bữa từ một đến hai tháng trong một năm.
Nói chung, đói nghèo được hiểu là tình trạng một bộ phận dân cư không
được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu
này được thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế, xã hội và phong tục tập
quán của từng địa phương. Đây cũng chính là khái niệm được Hội nghị về chống
đói nghèo do Uỷ ban kinh tế - xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
(ESCAP) tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993 thống nhất. Khái niệm này
đã được Việt Nam chính thức chấp nhận.
Theo nghĩa đó, tiêu chuẩn để xác định đói nghèo cũng chỉ mang tính tương
đối, khơng có chuẩn đói nghèo chung cho mọi quốc gia dân tộc hay vùng lãnh thổ
nào trên thế giới. Mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, ở từng giai đoạn khác
nhau thì chuẩn đói nghèo có sự khác nhau. Theo Ngân hàng thế giới, chuẩn nghèo
được tính theo 4 nhóm nước như sau: nước chậm phát triển thu nhập bình quân đầu
người dưới 0,5 USD/ ngày, nước phát triển là 4 USD/ ngày và nước công nghiệp
phát triển là 14 USD/ ngày. Căn cứ vào đó và tuỳ từng tình hình cụ thể, mỗi nước
cũng có chuẩn về đói nghèo riêng. Ví dụ theo thu nhập đơ la Mỹ thì chuẩn đói
nghèo ở một số nước như sau;
Malaixia: 28USD/ người/ tháng


7


Srilanca: 17USD/ người/ tháng
Bănglađét: 11USD/ người/ tháng
Pakixtan: 6USD/ người/ tháng.
Ngoài ra một số nước cịn tính theo lượng kalo/ người/ ngày.
Ví dụ:
Inđơnêxia: đầu những năm 80 lấy mức 2100kalo/ người/ ngày
Trung Quốc năm 1990 lấy mức 2150kalo/ người/ ngày.
Ở Việt Nam, cũng đã xác định và điều chỉnh chuẩn nghèo qua các giai đoạn
như sau:
Giai đoạn 1993 - 1995: chuẩn nghèo đói được tính theo thu nhập bình qn
đầu người quy theo số kg gạo/ tháng. Theo đó, hộ nghèo là hộ có bình qn thu
nhập đầu người dưới 20kg/ tháng (với khu vực thành thị), dưới 15kg/ tháng (với
khu vực nơng thơn).
Giai đoạn 1996 – 2000: chuẩn nghèo đói vẫn được tính theo thu nhập bình
qn đầu người tính theo kg gạo/ tháng. Hộ nghèo là hộ có thu nhập 15kg/ tháng
(tương đương 55.000 đồng) đối với vùng nông thôn miền núi, hải đảo; dưới 20kg/
tháng (tương đương 70.000 đồng) đối với vùng đồng bằng, trung du; dưới 25kg/
tháng (tương đương 90.000 đồng) đối với khu vực thành thị.
Giai đoạn 2001- 2005: Chuẩn nghèo được tính theo bình qn thu nhập đầu
người bằng tiền/ tháng. Hộ nghèo là hộ có thu nhập dưới 80.000 đồng/ người/
tháng, đối với vùng nông thôn miền núi, hải đảo; 100.000 đồng/ ngươi/ tháng, đối
với vùng nông thôn đồng bằng; 150.000 đồng/ người/ tháng đối với khu vực thành
thị.
Giai đoạn 2006-2010: Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình qn đầu người
từ 200.000 đồng/ tháng trở xuống, đối với khu vực nông thôn; 260.000 đồng/tháng
trở xuống, đối với khu vực thành thị.


8


Ngay trong một quốc gia, chuẩn nghèo đói cũng khơng có sự thống nhất.
Bởi lẽ điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng vùng, từng khu
vực là khơng giống nhau. Ở những nơi có điều kiện thuận lợi về tự nhiên, cơ sở hạ
tầng thì đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cao, nên chuẩn nghèo sẽ cao
hơn so với những vùng có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng yếu kém.
Ví dụ, năm 1993 thước đo nghèo đói ở một số địa phương tính theo thu nhập như
sau:
Nam Hà: dưới 20.000 đồng/ người/ tháng
Hà Tây: dưới 30.000 đồng/ người/ tháng
Hải Hưng: dưới 300 kg thóc/ người/ năm
Cao Bằng: thiếu ăn 3 tháng trong năm trở lên
Hà Nội: dưới 500.000 đồng/ người/ năm
Thành phố Hồ Chí Minh: dưới 800.000 đồng/ người/ năm
Như vậy, chuẩn nghèo của từng quốc gia, khu vực và vùng lãnh thổ phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia và
khu vực đó và thay đổi theo từng giai đoạn, nó thường xuyên được mở rộng khi
điều kiện, khả năng của nền kinh tế và mức sống của nhân dân được nâng lên. Vấn
đề là nhận thức và giải quyết đói nghèo thế nào cho hiệu quả và bền vững.
Đói nghèo trong xã hội ln là một thực tế tồn tại khách quan, để khắc phục
hiện tượng này phải thông qua hoạt động chủ quan của con người, đó chính là
những tác động của cộng đồng xã hội vào cuộc sống của những người nghèo, hộ
nghèo, vùng nghèo nhằm giúp họ thốt khỏi tình trạng đói nghèo vươn lên một
mức sống cao hơn. “ Ở góc độ chung nhất, XĐGN chính là q trình Nhà nước,
cộng đồng hỗ trợ, tạo điều kiện thuận tiện cho đối tượng đói nghèo vươn lên trong
sản xuất, cuộc sống, từ đó mà thốt khỏi đói nghèo. Nói một cách khác, XĐGN
chính là q trình chuyển một bộ phận dân cư đói nghèo lên một mức sống cao
hơn” [ ].



9

Hiện nay, cùng với những thành tựu về kinh tế chính trị và xã hội mà đất
nước ta đã đạt được qua hơn 20 năm đổi mới, đời sống của các tầng lớp nhân dân
không ngừng được nâng cao, nhu cầu về vật chất và văn hoá tinh thần ngày càng
phong phú. Vì vậy vấn đề XĐGN phải được tiếp cận và giải quyết theo quan điểm
toàn diện. Bởi lẽ trong giai đoạn hiện nay, khái niệm nghèo đói khơng chỉ được
hiểu theo nghĩa đói về lương thực, thực phẩm, mà phải được hiểu theo nghĩa rộng
hơn- “đói nghèo về con người”. Khái niệm này cho ta thấy một bức tranh rộng lớn
hơn về tình trạng nghèo đói, nó khơng chỉ đề cập đến vấn đề thoả mãn những nhu
cầu tối thiểu cơ bản của con người để đảm bảo tồn tại, mà cịn đề cập đến tình
trạng thiếu những năng lực cơ bản của con người như thiếu học hành, y tế, hạ tầng
cơ sở và thiếu khả năng tham gia vào sinh hoạt các hoạt động kinh tế chính trị của
đất nước. Chính vì vậy, XĐGN hiện nay phải toàn diện, nằm giúp đỡ tạo điều kiện
cho người nghèo, hộ nghèo vươn lên hoà nhập với cộng đồng cùng phát triển, làm
cho họ có đủ năng lực, trí tuệ và nguồn lực để tự mình có thể xố bỏ được đói
nghèo trong hiện tại, làm giàu bền vững trong tương lai.
Hơn nữa, trong giai đoạn hiện nay, với chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, bên cạnh những thành tựu thì nước ta đang đứng trước
những nguy cơ thử thách, trong đó vấn đề đói nghèo và phân hố giàu nghèo là
vấn đề bức xúc đáng được dành sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và toàn xã hội.
Đảng và Nhà nước ta đã và đang tập trung mọi nỗ lực để XĐGN, đó chính là để
đảm bảo vững chắc cho định hướng XHCN, bảo đảm cơng bằng xã hội, vì mục
tiêu cao nhất mà chúng ta đang phấn đấu đạt tới là chăm lo tới lơị ích, cuộc sống
cho mọi người lao động. Đảng ta ln xác định, chính sách xã hội của Đảng và
Nhà nước là biểu hiện đặc trưng nhất của bản chất chế độ XHCN và định hướng
XHCN. Mục đích phát triển kinh tế xã hội phải chứa đựng trong đó bản chất nhân
đạo, nhằm giải phóng con người khỏi đói nghèo, lạc hậu, vươn tới tự do và hạnh
phúc. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng



10

ta xác định một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ XHCN mà chúng ta đang
xây dựng là: “ con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân” [ ]. Rõ ràng là để đạt được đặc trưng trên thì XĐGN
khơng chỉ bao gồm xố đói về lương thực, thực phẩm, khơng chỉ xố đói và giảm
nghèo mà cịn phải tiến tới tăng giàu, tạo tiền đề cho xã hội và mọi người trở nên
giàu có, có cuộc sống no đủ, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức được rằng đói nghèo, lạc hậu, chậm
phát triển là hiện tượng tồn tại khách quan từ khi xã hội loài người phân chia giai
cấp. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH cũng không tránh khỏi hiện tượng này. Lịch
sử xã hội loài người đã chứng minh, phân chia giai cấp đã dẫn đến sự khác biệt về
địa vị xã hội, về trình độ, năng lực và đièu kiện phát triển cá nhân, do đó có sự
chênh lệch trong phân phối sản phẩm xã hội. Xã hội càng phát triển thì sự phân
chia đó càng sâu sắc, sự bất công trong phân phối, hương thụ càng rõ rệt. Đó là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến đói nghèo. Nhận thức đúng đắn được như trên là cơ
sở để chúng ta có được những giải pháp chiến lược lâu dài, kiên trì từng bước khắc
phục đói nghèo, tránh nóng vội chủ quan trong XĐGN.
Trong xã hội TBCN, do có sự thống trị của QHSX chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất nên chỉ có giai cấp tư sản mới có cơ hội để phát triển, cịn giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động khơng có hoặc rất ít có cơ hội để phát triển toàn
diện cá nhân. Bên cạnh những nhà tư sản ngày càng giàu có thì có một bộ phận
nhân dân lao động ngày càng bị bần cùng hố, đói nghèo, thiếu thốn cả về vật chất,
văn hoá và tinh thần. “Xã hội muốn phát triển đi lên và hướng sự phát triển ấy vào
mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, làm cho con người ngày
càng bộc lộ nhiều hơn những năng lực sáng tạo và hoàn thiện nhân tính của mình
thì cần phải thoả mãn những nhu cầu để họ tồn tại, đồng thời phải tổ chức hợp lý
cuộc sống, làm cho hoạt động của con người thực sự trở thành hoạt động sáng tạo



11

và phát triển”[ ]. Điều đó chỉ có thể trở thành hiện thực khi xã hội loài người tiến
lên CNXH và cuối cùng là CNCS. Bằng sự phân tích khoa học, trong tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã chứng minh được rằng đó khơng phải là
một ý tưởng, một mong muốn mà đó là kết quả sự vận động khách quan trong
chính bản thân phương thức sản xuất TBCN. Theo Mác và Ăngghen, cũng giống
như những phương thức sản xuất trước đây, phương thức sản xuất TBCN khơng
phải là vĩnh cửu, nó cũng mang tính lịch sử. Nó sẽ mất đi khi mâu thuẫn giữa
LLSX và QHSX gay gắt đến mức làm bùng nổ cách mạng xã hội. Và một thời đại
mới sẽ bắt đầu- thời đại của CNXH và CNCS. Thời đại mà trong đó “sự phát triển
tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”[

]. Xã

hội loài người tiến tới xã hội đó là một tất yếu khách quan, nhưng phải được thực
hiện thông qua hoạt động chủ quan của con người. Và chỉ có giai cấp vơ sản mới
có thể đảm nhận sứ mệnh lịch sử đó một cách thành cơng và triệt để nhằm xố bỏ
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới khơng có bất cơng, khơng có đói nghèo, con người
được giải phóng, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thực chất đó là giải phóng con
người khỏi những bất cơng trong quan hệ giữa con người với con người cả về mặt
vật chất, văn hố và tinh thần. Chỉ có CNXH với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
công hữu về TLSX chủ yếu của xã hội thì những nhu cầu cơ bản của con người
mới được thoả mãn đầy đủ. Nhưng Mác và Ăngghen cũng khẳng định: “Cái xã hội
mà chúng ta nói ở đây khơng phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển
trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa
thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện kinh
tế, đạo đức tinh thần còn mang những dấu ấn của xã hội cũ mà nó đã lọt lịng ra” [

]. Chính vì vậy mà những bất công trong phân phối, những chênh lệch trong hưởng
thụ là khó tránh khỏi trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong thời kỳ đó sẽ tồn tại
nhiều thành phần kinh tế, nhiều quan hệ sản xuất và phân phối, điều kiện và cơ
may xã hội đối với mỗi người, mỗi gia đình và mỗi vùng lãnh thổ là khác nhau nên


12

có sự khác nhau trong thu nhập, dẫn đến phân hố giàu nghèo, đó là điều bình
thường của xã hội. Mác đã kết luận những khiếm khuyết đó như sau: “Đó là những
thiếu sót khơng thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa,
lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ kéo
dài” [ ].
Từ những quan điểm trên của Mác và Ăngghen về sự bất bình đẳng trong
phân phối ở thời kỳ đầu của chủ nghĩa cộng sản cho chúng ta nhận thức một cách
đúng đắn hơn trong việc tiếp cận và giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta hiện
nay. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN thì cũng có nghĩa là chúng ta chấp nhận có hiện
tượng đói nghèo lạc hậu. Đó là biểu hiện về tính hai mặt của kinh tế thị trường,
chúng ta phải chấp nhận thực tế khách quan đó, khơng được duy ý chí trong việc
giải quyết vấn đề đói nghèo. Điều quan trọng là phải biết điều chỉnh mức độ, quy
mơ đói nghèo sao cho nó ở một chừng mực nào đó khơng vượt quá giới hạn cho
phép và phải bằng mọi biện pháp để mà tạo điều kiện cho mọi cá nhân trong xã hội
có cơ hội phát triển và khai thác hết năng lực của mình. Trên cơ sở đó, mỗi người
sẽ từng bước đạt tới sự phát triển bình đẳng, tự do trong quan hệ với mọi người.
Chừng nào con người còn khác nhau về điều kiện và cơ hội thì chừng đó chưa thể
đạt được sự cơng bằng thực sự, và đói nghèo lạc hậu cịn tồn tại.
Kế thừa những tư tưởng nhân văn, nhân đạo của chủ nghĩa Mác- Lênin và
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt q trình
lãnh đạo cách mạng luôn quan tâm đặc biệt tới mọi tầng lớp nhân dân lao động,

đặc biệt là những người nghèo đói, chịu thiệt thịi. Nguyện vọng tha thiết của cả
cuộc đời Người là: Nước nhà được hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng dược học hành. Ngay từ
những ngày đầu khi Cách mạng tháng Tám thành cơng, Chính phủ cách mạng lâm
thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu vừa đựơc thành lập, ngày đêm phải lo đối


13

phó với thù trong giặc ngồi, nhưng Người vẫn dành sự quan tâm sâu sắc đến việc
chăm lo cuộc sống cho những người lao động nghèo khổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt lưu ý đến vấn đề xố đói. Người kêu gọi tồn dân cùng Chính phủ tập
trung lực lượng để cùng chống ba thứ giặc là giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Trong đó giặc đói được Người đặt lên hàng đầu với lý do: Ngày nay, chúng ta đã
xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhưng nếu nước ta được độc lập
mà dân ta khơng được hưởng rự do hạnh phúc, thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì.
Phát biểu tại phiên họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kiến quốc ngày
10/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một lần nữa nhấn mạnh đến bổn phận của
Nhà nước là phải chăm lo cho dân có cơm ăn, áo mặc, chỗ ở và việc học hành:
“Chúng ta tranh được tự do độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc
lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân
được ăn no mặc đủ.
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1-

Làm cho dân có ăn.

2-

Làm cho dân có mặc.


3-

Làm cho dân có chỗ ở.

4-

Làm cho dân có học hành” [

].

Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng, Người ln xác định việc chăm lo
đến đời sống của nhân dân là trách nhiệm to lớn của Đảng và Nhà nước, của mọi
cán bộ đảng viên. Bản thân Người cũng là một tấm gương mẫu mực trong việc
chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Người luôn nhắc nhở
mọi cán bộ đảng viên của Đảng và Nhà nước phải thật sự cần kiệm, liêm chính, chí
cơng, vơ tư, phải là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, nếu ở đâu dân đói
dân rét, dân bệnh là Đảng và Chính phủ có lỗi. Người ln khuyến khích động viên
tồn dân tăng gia lao động sản xuất làm cho người nghèo thi đủ ăn, người đủ ăn thì
khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm.


14

Những tư tưởng trên của Hồ Chí Minh về xố bỏ đói nghèo đã dược Đảng ta
nhận thức và quán triệt trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt trong thời
kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Đại hội Đại biểu
tồn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: “Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt
con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội” [


]. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục khẳng

định XĐGN là một chủ trương hàng đầu trong chính sách phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Lần đầu tiên XĐGN đã được đặt ra thành một Chương trình quốc
gia.
Với nhận thức đúng đắn đó, trong những năm qua nước ta đã thực sự trở
thành điểm sáng trên thế giới về xóa bỏ đói nghèo, được cộng đồng thế giới ghi
nhận và đánh giá cao. Đó chính là một nội dung quan trọng biểu hiện rõ ràng nhất
bản chất xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng, góp phần bảo đảm vững chắc cho
định hướng XHCN.
1.1.2. Thực trạng đói nghèo ở nước ta trước năm 2001
Theo chuẩn quốc tế và thu nhập bình quân đầu người, Việt Nam được xếp
vào nhóm các nước nghèo trên thế giới. Trước đổi mới, do nền kinh tế bị khủng
hoảng nghiêm trọng nên đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, hiện tượng
khơng đủ ăn và đói ăn đứt bữa diễn ra phổ biến, nhất là ở những vùng nông thôn
miền núi, vùng sâu vùng xa. Sau khi đổi mới, nhờ có những chủ trương chính sách
đúng đắn, diện mạo nền kinh tế có nhiều chuyển biến, kích thích sản xuất phát
triển, nhất là sản xuất nơng nghiệp. Vì vậy, nhu cầu về lương thực và tiêu dùng
bước đầu được bảo đảm. Tuy nhiên đời sống của nhân dân vẫn rất khó khăn.
Từ năm 1988, khi Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế nông nghiệp và nông thôn được ban hành, kinh tế nông nghiệp tiếp tục
được kích thích phát triển mạnh mẽ. Từ đó đến nay, căn cứ vào tình hình thực tế
của đất nước và thế giới, với tư duy đổi mới toàn diện đất nước theo hướng xây


15

dựng nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách tác động đúng đắn,

kịp thời vào nền kinh tế. Vì thế tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ổn định, tăng
nhanh, năm sau cao hơn năm trước, thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng.
Năm 1990 GDP tính theo đầu người chỉ dưới 1 triệu VNĐ, nhưng đến năm 1997
đã tăng lên 4,1 triệu VNĐ (tăng 57% về giá trị thực). Mức tăng đáng kể này đã góp
phần làm giảm tình trạng nghèo đói ở nước ta. Nhưng đồng thời với tăng trưởng
kinh tế thì sự phân hố giàu nghèo cũng ngày một rõ rệt hơn. Bên cạnh một bộ
phận dân cư có điều kiện về vốn, kỹ thuật và biết tận dụng cơ hội để phát triên sản
xuất nên ngày càng giàu có thì vẫn cịn khơng ít người dân và hộ gia đình chịu thiệt
thịi về điều kiện về thời tiết khí hậu, khơng có vốn, trình độ và kinh nghiệm sản
xuất nên đã rơi vào cảnh đói nghèo. Năm 1990, theo chuẩn quốc tế, tỉ lệ hộ đói
nghèo ở Việt Nam là trên 60%, đến năm 1993 là 58%, đến năm 1998 vẫn còn 32%.
Còn theo chuẩn Việt Nam, đến năm 1998, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội
báo cáo vẫn còn khoảng 2,8 triệu hộ với 13 triệu khẩu vẫn thuộc diện nghèo.
Nghiêm trọng hơn là khoảng cách giàu nghèo ngày càng có xu hướng dỗng ra
nhanh, xu hướng bất bình đẳng về thu nhập và chi tiêu, bất bình đẳng giữa thành
thị và nơng thôn, giữa các vùng và giữa người kinh với các dân tộc thiểu số ngày
càng tăng lên .
Về phân hoá giàu nghèo trong thu nhập và chi tiêu: Trong đề cương báo của
Phó Thủ tướng Nguyễn Cơng Tạn về một số chương trình phát triển nơng nghiệp
và nơng thơn thực hiện Nghị quyết Hội nghị TW4 khoá VIII đã nhận định “Ở các
vùng đơ thị nơi có 20% dân số sinh sống chiếm khoảng 60% GDP, được phát triển
với nhịp độ 10- 20%, thì khu vực nơng thơn nơi có 80% dân số sinh sống chỉ
chiếm khoảng 40% GDP lại phát triển chậm hơn dưới 10%” [

]. Theo số liệu

của Tổng cục thống kê, khoảng cách về thu nhập bình quân một người, một tháng
giữa dân cư ở khu vực thành thị và khu vực nơng thơn có xu hướng gia tăng: từ



16

2,55 lần năm 1994 tới 2,63 lần năm 1995, đến năm 1999 là 3,7 lần. Năm 1994, thu
nhập của 20% số hộ có thu nhập cao nhất so với thu nhập của 20% số hộ có thu
nhập thấp nhất cả nước là gấp 6,5 lần, năm 1997 gấp 7 lần, năm 1999 gấp 7,6 lần
và năm 2001- 2002 là 8,1 lần. Chênh lệch về thu nhập giữa nhóm hộ giàu và nhóm
hộ nghèo cũng có sự khác nhau giữa các khu vực và vùng miền. Rõ rệt nhất là ở
khu vực Tây Nguyên, năm 1994 hệ số chênh lệch giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ
nghèo là 10,1 lần, năm 1996 là 12,8 lần, đến năm 1999 là 12,9 lần. Ở khu vực
thành thị, hệ số này năm 1994 là 7 lần, năm 1999 là 9,8 lần. Ở khu vực nông thôn,
năm 1994 là 5,4 lần, năm 1999 là 6,2 lần.
Từ phân hoá về thu nhập dẫn đến phân hoá trong chi tiêu và tiếp cận với các
dịch vụ văn hoá xã hội. Những người nghèo, hộ nghèo do thu nhập thấp nên chỉ đủ
để đảm bảo những nhu cầu về ăn, mặc, ở. Tỉ lệ chi tiêu cho việc hưởng thụ các giá
trị phi vật chất là rất thấp, thậm chí là khơng có. Việc tiếp cận các dịch vụ sản xuất,
các dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế, giải trí) cũng rất khó khăn. Chính vì vậy có một
thực tế đang diễn ra là mặc dù kinh tế tăng trưởng cao, nhưng hiệu quả tác động
đến người nghèo lại rất thấp. Theo một số kết quả của các nhà nghiên cứu cho
thấy, nếu kinh tế tăng trưởng 10% thì người nghèo chỉ được hưởng 1/4 trong số đó.
Trái lại, nhóm hộ giàu do có điều kiện về trình độ kỹ thuật, phương tiện, thơng tin
nên có thể khai thác và tận dụng những cơ hội do tăng trưởng kinh tế mang lại.
Điều đó cho thấy rõ được sự tác động hai mặt của tăng trưởng kinh tế đối vấn đề
đói nghèo, Một mặt nó góp phần to lớn vào xố bỏ đói nghèo, mặt khác nó lại làm
tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Và như vậy, nếu khoảng cách đó tăng q
nhanh thì hiệu quả hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế của người nghèo còn giảm một
cách tương đối. Xét trên phạm vi cả nước, tỷ lệ chi tiêu của 20% số người nghèo
nhất trong khoảng thời gian 5 năm từ 1993- 1998 lại giảm từ 8,8% xuống cịn 8%.
Trong khi đó cùng thời gian trên, chi tiêu của 20% số người giàu nhất lại tăng từ
40,4% lên 43,7%. Năm 1992- 1993, các hộ gia đình giàu nhất ở Việt Nam chi tiêu



17

bình qn 3,9 triệu VNĐ/ người/ năm, trong khi đó các hộ gia đình nghèo nhất chỉ
có 854.000VNĐ/ người/ năm. Đến năm 1997- 1998 con số này lần lượt là 6,1 triệu
VNĐ/ người/ năm và 1,1 triệu VNĐ/ người/ năm. Năm 1992- 1993, 20% số hộ gia
đình giàu nhất chi tiêu bình quân nhiều gấp 4,6 lần so với mức chi tiêu bình qn
của 20% nhóm hộ nghèo nhất, đến năm 1998 tăng lên 5,5 lần (Theo Tổng cục
thống kê).
Như trên đã nói, do phải lo cho việc ăn, mặc, đi lại, khơng có điều kiện tiếp
cậ với các dịch vụ xã hội nên tỷ lệ chi tiêu cho các nhu cầu ngoài ăn uống là rất
thấp. Việc học hành, chăm sóc sức khoẻ, vui chơi giải trí đối với người nghèo là rất
khó khăn, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi và vùng sâu vùng xa nơi có nhiều
đồng bào dân tộc tiểu số sinh sống. Ở đó tình trạng thiếu nước sạch, khơng được
tiêm chủng, thiếu lương thực, thực phẩm đã gây lên hậu quả tiêu cực đối với người
dân, từ đó mà hiệu quả lao động của họ không được cao, dễ lâm vào cảnh đói
nghèo hơn. Theo Báo cáo đánh giá chung về tình hình Việt Nam của Liên Hợp
Quốc, số năm đi học bình quân của 20% số hộ gia đình nghèo nhất chỉ bằng một
nửa của 20% số hộ gai đình giầu nhất. Những yếu tố như chi phí cho học tập cao,
đường xá xa xôi thường là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ học ở trẻ em con nhà
nghèo. Năm 1998, 40% số người chưa đén trường là từ 20% số hộ nghèo nhất,
trong khi chỉ có 9% là từ 20% số hộ gia đình giầu nhất. Chỉ có 10% số người học
xông Trung học phổ thông là từ 20% số hộ gia đình nghèo nhất, trong khi đó con
số này đối với 20% số hộ gia đình giầu nhất là 37%.
Điển hình nhất trong thực trạng nghèo đói ở nước ta hiện nay đó là sự phân
hố giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn. Theo số liệu của Tổng cục thống kê,
năm 1992- 1993 tỷ lệ người nghèo ở thành thị là 25,1%, ở nông thôn lên tới 66,4%,
năm 1997-1998 ở thành thị là 9%, ở nông thôn là 44%. Như vậy ở nước ta, nghèo
đói diễn ra chủ yếu ở khu vực nông thôn. Giữa người nghèo ở nơng thơn và người
nghèo ở thành thị cũng có sự khác nhau. Người nghèo ở nông thôn nghèo hơn rất



18

nhiều so với người nghèo ở khu vực thành thị, mức độ đói nghèo là rất gay gắt,
ranh giới giữa đói và nghèo, giữa thốt nghèo và tái nghèo là rất mong manh. Mức
gia tăng về bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn cũng rất lớn, thể hiện ở mức
chi tiêu trung bình giữa thành thị và nơng thơn. Năm 1992- 1993, mức chi tiêu
bình qn hàng năm tính theo đầu người ở thành thị cao gấp 1,8 lần so với ở nông
thôn, đến năm 1997- 1998 mức chênh lệch này đã lên tới 2,2 lần. Sở dĩ có sự khác
biệt như vậy là do đặc trưng chung của những người nghèo ở nông thôn là bị cách
biệt về địa lý, họ thường sinh sống ở vùng núi, vùng sâu vùng xa, đường xá và
phương tiện đi lại khó khăn, lại xa các trung tâm cho nên khơng tiếp cận được với
thị trường và các dịch vụ kinh tế, xã hội. Hơn nữa, thu nhập của các hộ ở nông
thôn chủ yếu là từ nông nghiệp, không như ở thành thị có thu nhập đa dạng hơn.
Trong điều kiện như vậy họ sẽ dễ gặp phải khó khăn lớn nếu một lao động chính
trong nhà bị đau ốm hoặc gia xúc, gia cầm trong nhà bị bệnh, mùa màng bị thất bát
do thiên tai. Trong khi đó ở thành thị, cuộc sống của những người nghèo mặc dù có
vất vả khó khăn, nhưng dù sao họ cũng gần các trung tâm y tế, giáo dục, dễ tiếp
cận thị trường do cơ sở hạ tầng phát triển. Tuy nhiên họ cũng rất dễ trở thành nạn
nhân của các tệ nạn xã hội, các dịch bệnh nguy hiểm, nhất là trẻ em và phụ nữ.
Ngồi ra, phân hố giàu nghèo giữa các vùng trong cả nước cũng khá rõ nét.
Sự phân hố đó có sự khác nhau tuỳ vào từng điều kiện tự nhiên và chính sách đầu
tư phát triển kinh tế- xã hội cua từng vùng. Năm 1997- 1998, vùng có tỷ lệ nghèo
cao nhất là vùng trung du Bắc bộ, vùng giàu nhất là vùng Đông Nam bộ, trong đó
có trung tâm thương mại lớn là Thành phố Hồ Chí Minh với khoảng 8% dân số
được ghi nhận là những người nghèo. Năm 1997- 1998, người dân miền Đơng
Nam bộ chi tiêu bình quận nhiều gấp 2,6 lần so với người dân vùng núi và Tỷunng
du Bắc bộ. Từ năm 1992- 1993 đến 1997- 1998, mức chi tiêu ở miền Đông Nam
bộ tăng 80%- tức là nhanh gấp 3 lần so với vùng nghèo nhất.



19

Qua nghiên cứu về đói nghèo cho thấy, tình trạng đói kinh niên dai dẳng,
các vùng dân tộc thiểu số là rất nghiêm trọng. Tình trạng cách biệt về mức sống
giữa các dân tộc thiểu số và người Kinh ngày càng tăng. Tỷ lệ nghèo đói trong các
dân tộc ít người năm 1998 là 75%, nhiều gấp 2 lần so với tỷ lệ bình qn tồn quốc
là 37% (theo Tổng cục thống kê). Tỷ lệ giảm nghèo cũng rấ thấp, năm 1992- 1993
là 11% (toàn quốc là 21%). Năm 1992- 1992, dân số các dân tộc thiẻu số chỉ chiếm
13,1% dân số cả nước, nhưng số người nghèo so với số người nghèo toàn quốc
chiếm tới 19,5%, năm 1997- 1998 con số này lần lượt là 14,2% và 28,5%. Rất
nhiều người thuộc các dân tộc thiểu số bị tách biệt khỏi xã hội so với người kinh,
chủ yếu là do họ sinh sống ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, hạ tầng cơ sở nghèo nàn
và còn do khác biệt về ngôn ngữ. Đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa hệ thống
đường xá chưa phát triển, hệ thống y tế giáo dục lạc hậu, thiếu giáo viên, bác sỹ.
Tỷ lệ học sinh được đi học và tỷ lệ người dân được khám chữa bệnh là rất thấp, an
ninh, lương thực, thực phẩm khơng đảm bảo.
Như vậy, tình trạng nghèo đói ở Việt Nam diễn ra khá phổ biến, phân hoá
phức tạp, chịu tác động củ nhiều yếu tố. Về mức độ nghèo đói giữa các nhóm
người, giữa các vùng miền có sự khác nhau khá rõ nét và xu hướng biến đổi khơng
giống nhau. Quan nghiên cứu phân tích tình trạng nghèo đói ở Việt Nam có một số
đặc điểm sau:
Thứ nhất là: tình trạng đói nghèo ở Việt Nam mang tính chất vùng rõ rệt. Ở
vùng cao, vùng sâu vùng xa tỷ lệ nghèo thường cao hơn các vùng khác. Có tới
60% số người nghèo tập trung ở các vùng núi phía Bắc, Bắc trung bộ, Tây Nguyên
và duyên hải miền Trung.
Thứ hai là: Nghèo đói ở Việt Nam thường xảy ra ở những nơi có điều hiện
tự nhiên khắc nghiệt, địa hình phức tạp, cơ sở hạ tầng yếu kém. Thiên tai, sự biến
động của thời tiết, sự yếu kém về hạ tầng cơ sở ở những khu vực này khiến cho

điều kiện sinh sống của người dân càng thêm khó khăn, đã nghèo lại càng nghèo


20

thêm và trở nên cách biệt hơn so với vùng thành thị và các vùng khác có điều kiện
thuận lợi hơn.
Thứ ba là: Đói nghèo thường tập trung ở nơng thơn gắn với tình trạng thuần
nơng. Hiên nay cả nước có khoảng 13 triệu hộ sinh sống ở nơng thơn, chiếm 75%
tổng số hộ cả nước. Trong đó 80% số người nghèo là nơng dân, trình độ học vấn
thấp, trình dộ hành nghề kém, ít có điều kiện tếp cận với các nguồn lực (vốn,cơng
nghệ, kỹ thuật, thơng tin…), khó tiếp cận với thị trường sản xuất kinh doanh và
gặp nhiều khó khăn trong xác định phương hướng sản xuất kinh doanh.
Thứ tư là: Tình trạng nghèo đói ở Việt Nam tập trung phần lớn ở cộng đồng
dân tộc thiểu số. Số dân của cộng đồng các dân tộc thiểu số chỉ chiếm koang 14%
tổng dân số cả nước nhưng lại chiếm tới 29% tổng số người nghèo của cả nước.
Thứ năm là: ở những vùng có tỉ lệ nghèo đói cao thì trình độ học vấn, chất
lượng giáo dục đào tạo, chất lượng y tế thấp hơn hẳn so với các vùng khác, nhất là
ở Tây Nguyên và trung du miền núi phía Bắc.
Tóm lại, từ thực trạng đói nghèo và để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi
mới cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước địi hỏi trong những năm tới Đảng và
Nhà nước phải tăng cường lãnh đạo chỉ đạo đối với vấn đề XĐGN. Phải có những
chủ trương chính sách phù hợp, kịp thời, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội, xây dựng xã hội công bằng, văn minh, khơng cịn đói nghèo lạc
hậu, ai cuũng được ăn no, mặc ấm, ai cũng được học hành như mong muốn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.2. Chủ trương XĐGN của Đảng từ năm 2001 đến năm 2006
1.2.1. Mục tiêu XĐGN
Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm 2001- 2005, đất nước ta có nhiều thuận
lợi để thực hiện các chính sách xã hội nói chung và XĐGN nói riêng. Trong hồn

cảnh kinh tế có nhiều khó khăn nhưng qua 5 năm (1996- 2000) thực hiện kế hoạch


21

phát triển kinh tế xã hội do Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đề ra, các lĩnh
vực văn hố xã hội có bước phát triển khá, thể hiện sự nỗ lực lớn của toàn Đảng,
toàn dân ta. Trên cơ sở đó, Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề
ra kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001- 2005 là: Tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao
rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo
chuyển biến mạnh về giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố
con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xố đói, giảm mạnh hộ nghèo; đẩy lùi các tệ
nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành một
bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững
ổn định chính trị và trật tự an tồn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Riêng đối với vấn đề XĐGN, theo chuẩn mới giai đoạn 2001- 2005, Đại hội
đã đề ra mục tiêu: “phấn đấu đến năm 2005 về cơ bản khơng cịn hộ đói và chỉ cịn
khoảng 10% số hộ thuộc diện nghèo. Các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, các huyện đồng
bằng miền Trung và các tỉnh nam bộ về cơ bản khơng cịn hộ nghèo”[

]. Mục

tiêu này là hoàn toàn khả thi. Bởi lẽ trong giai đoạn 2001- 2005, cơng cuộc XĐGN
trên đất nước ta có rất nhiều thuận lợi do kết quả phát triển kinh tế xã hội giai doạn
trước mang lại.
Thuận lợi to lớn nhất tạo điều kiện thuận lợi cho XĐGN giai đoạn 20012005 đó là nền kinh tế của đất nước đang giữ được nhịp độ tăng trưởng kinh tế
khá. Trong 5 năm 1996- 2000, nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước

(GDP) là 7%/ năm. Nông nghiệp phát triển mạnh, ổn định, công nghiệp và xây
dựng đạt được nhiều tiến bộ, các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển, cơ cấu kinh tế
đã có nhiều bước chuyển tích cực, quan hệ đối ngoại ngày càng sâu rộng… Qua đó
góp phần tích cực vào việc phục vụ đời sống của nhân dân, nhất là những vùng


22

nghèo, xã nghèo. Đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân được cải
thiện đáng kể.
Vậy tại sao nói nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá lại tạo điều kiện thuận lợi
cho công cuộc XĐGN? Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng tác động qua lại giữa
các vấn đề kinh tế và các vấn đề xã hội, cụ thể ở đây là giữa tăng trưởng kinh tế và
XĐGN.Ở góc độ của đề tài chỉ xét một chiều của mối quan hệ này, đó là sự tác
động của tăng trưởng kinh tế đói với XĐGN. Thơng thường chúng ta thấy tăng
trưởng kinh tế cao thì sẽ có tác động tích cực tới XĐGN. Thể hiện ở chỗ nhờ tăng
trưởng kinh tế cao Nhà nước sẽ chi ra được một khoản ngân sách lớn để giải quyết
các vấn đề xã hội như giải quyết việc làm tăng thu nhập cho nhân dân, đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng ở những vùng khó khăn, tạo điều kiện cho nhân dân phát triển
sản xuất vươn lên làm giàu. Tuy nhiên, không phải ở mọi quốc gia cứ tăng trưởng
kinh tế cao là các vấn đề xã hội được giải quyết triệt để. Điều đó cịn phụ thuộc vào
bản chất của chế độ xã hội. Trong xã hội mà có sự thống trị của quan hệ sản xuất
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, dù tăng trưởng kinh tế
có cao đến đâu thì các vấn đề xã hội cũng chỉ giải quyết có giới hạn, khơng bao giị
vượt q lợi ích của giai cấp thống trị. Vì mục tiêu của xã hội đó khơng phải vì con
người và do con người. Đường lối phát triển kinh tế- xã hội chỉ nhằm phục vụ cho
lợi ích của giai cấp thống trị, nhân dân lao động bị bóc lột, trở thành những người
lao động làm thuê và ngày càng bị bần cùng hoá. Ở chế độ đó, đói nghèo có
nguyên nhân sâu xa là từ gốc rễ của chính bản chất gốc rễ của chế độ xã hơi đó. Vì
vậy tự nó khơng thể giải quyết được đói nghèo lạc hậu. Chỉ có CNXH với quan hệ

sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì mới
giải quyết triệt để và thành cơng hiện tượng đói nghèo lạc hậu. Mọi đường lối
chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng Cộng sản đều nhằm mục tiêu cao
nhất là giải phóng con người khỏi bất cơng, chăm lo xây dựng cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc cho mọi người. Lịch sử tồn tại hơn 7 thập kỷ của hệ thống CNXH


23

trên thế giới đã chứng minh điều đó. Ngày nay ở một số nước CNXH còn lại trên
thế giới như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, các Đảng Cộng sản đang nỗ lực cố
gắng cùng toàn xã hội quan tâm giải quyết cácc vấn đề xã hội, coi đó là đặc trưng
biểu hiện tính ưu việt hơn hẳn về bản chât của chế độ CNXH so với chế độ tư bản
chủ nghĩa. Với Việt Nam, từ khi có Đảng lãnh đạo, mục tiêu cao nhất của Đảng và
nhân dân ta phấn đấu là giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, xây dựng xã hội
giàu mạnh, văn minh, mọi người có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân. Trong
thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, việc gắn tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội được coi là mục tiêu cơ bản để
Đảng và nhân dân ta đạt tới. Chúng ta không chờ kinh tế phát triển cao, dân giàu
lên rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Chúng ta cũng không thể hi sinh
sự phát triển kinh tế để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội một cách thuần tuý
mà phải kết hợp đồng thời, gắn bó chặt chẽ, hài hồ giữa phát triển kinh tế và phát
triển xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Mỗi chính
sách về kinh tế của Đảng và Nhà nước đều phải nhằm phát triển xã hội, mỗi chính
sách xã hội đều phải chứa đựng nội dung thúc đẩy kinh tế phát tiển. Với ý nghĩa
đó, mỗi một bước phát triển về kinh tế là sẽ tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta giải
quyết các vấn đề xã hội. Đó chính là Đảng ta đã nhận thức và giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và cơng
bằng xã hội nói chung và với XĐGN nói riêng.
Trong những năm qua, nhờ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, năm sau cao

hơn năm trước nên đã tạo ra những điều kiện to lớn để nước ta thực hiện cơng cuộc
XĐGN có hiệu quả. Biểu hiện trực tiếp nhất là nguồn ngân sách chi cho XĐGN
không ngừng được tăng lên cùng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Hàng năm tỷ lệ
ngân sách mà Nhà nước chi cho các vấn đề xã hội không ngừng tăng, trung bình
mỗi năm chi 28% ngân sách. Đây là tỷ lệ lớn mà ngay cả nhiều quốc gia phát triển
cũng phải đang phấn đấu để đạt tới.


24

Hơn nữa đối với nước ta, tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian qua thể
hiện sự phát triển nhanh và hiệu quả của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đó là kết quả của những chủ trương chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng và
Nhà nước cả về đối nội và đối ngoại. Qua đó giải phóng được mọi tiềm năng của
nền kinh tế, phát huy được trí tuệ và sức sáng tạo trong nhân dân, giúp họ vươn lên
phát triển sản xuất lam giàu chính đáng, góp phần XĐGN.
Qua mối quan hệ trên cho ta thấy, tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là xuất
phát điểm, là tiền đề cho XĐGN bền vững, là cơ sở để Đảng và Chính phủ đầu tư
mọi phương diện để XĐGN. Đó là thuận lợi to lớn nhất, chủ yếu nhất tạo khả năng
cho chúng ta thực hiện thành công mục tiêu XĐGN mà Đại hội IX đã đề ra.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, thì trong thời gian qua những đổi mới trong cơ
chế chính sách XĐGN theo quan điểm tồn diện, cơng bằng, bền vững và hội
nhập; những chỉ số xã hội không ngừng được cải thiện cũng là điều kiện hết sức
thuận lợi cho công cuộc XĐGN. Cơ chế chính sách đúng đắn, phù hợp với trình độ
phát triển kinh tế xã hội, phong tục tâp quán của tong địa phương là nhân tố tác
động tíc cực nhất, trước tiên nhất tới XĐGN. Cùng với việc nhận thức ngày càng
đúng đắn và toàn diện hơn về vấn đề XĐGN, trong thời gian vừa qua Đảng và Nhà
nước đã không ngừng đổi mới, cải tiến cơ chế chính sách cho phù hợp, đảm bảo
tác động đúng đối tượng, phát huy tính chủ động tích cực của từng địa phương,
từng vùng miền và sự nỗ lực cố gắng của chính những người nghèo, hộ nghèo. Do

vậy đã tận dụng được tối đa các nguồn lực và các tiềm năng trong xã hội. Những
chính sách về hỗ trợ vốn, trợ giá… đã tạo điều kiện cho nhân dân ở những vùng
nghèo, xã nghèo vươn lên sản xuất, rút dần khoảng cách về mức sống so với các
vùng khác. Các ngành, các lĩnh vực đang tích cực đẩy mạnh 6 chính sách hỗ trợ
cho người nghèo về tín dụng, đất sản xuất, nhà ở, y tế, giáo dục và nước sạch sinh
hoạt. Do đó điều kiện ăn ở và sức khoẻ của người dân nghèo được nâng lên rõ rệt.
Nhà nước đã không ngừng đổi mới công tác tổ chức trong XĐGN, đảm bảo tinh


25

công khai, dân chủ và minh bạch, người nghèo đã có cơ hội đẻ bàn bạc, tham gia
vào các khâu, các bước hoạch định và tổ chức thực hiện các chương trình dự án
phát triển kinh tế xã hội nhăm mục tiêu XĐGN. Các cấp chính quyền đã được phân
cấp quản lý cụ thể gắn với trách nhiệm trong việc XĐGN ở địa phương mình.
Bên cạnh đó nhờ có chính sách ưu tiên về chăm sóc sức khoẻ, phát triển giáo
dục cho những điạ phương nghèo nên những chỉ số xã hội cơ bản như tỷ lệ nhập
học ở các lứa tuổi, sức khoẻ và dinh dưỡng, tuổi thọ trung bình, chỉ số phát triển
con người… khơng ngừng được cải thiện (chỉ số HDI xếp hạng từ 120 năm 1995
lên 101 năm 1999). Mặc dù nước ta vẫn xếp ở nhóm các nước nghèo, nhưng tỷ lệ
dân số biết chữ trên 10 tuổi rất cao, đạt 91% năm 1999, tỷ lệ trẻ em đến tuổi đi học
được đến trường và tỷ lệ sinh viên Đại học, Cao đẳng đạt khá cao. Các vùng khó
khăn được Chính phủ quan tâm đầu tư phát triển mạng lưới y tế, dịch vụ khám
chữa bệnh nên hầu hết người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ. Do vậy sức khoẻ của người dân ở những vùng này được cải thiện đáng kể,
góp phần nâng cao năng suất lao động và thu nhập cho các hộ nghèo. Tuổi thọ
trung bình của người dân không ngừng được tăng cao, năm 1999 là 67 tuổi, năm
2000 là 70 tuổi, riêng tuổi thọ trung bình của phu nữ đạt 73 tuổi. Những chỉ số
đáng mừng về mặt xã hội này là thuận lợi cơ bản góp phần XĐGN có hiệu quả
hơn, nhất là về y tế và giáo dục.

Ngoài ra việc xây dựng và nhân rộng được nhiều mơ hình XĐGN có hiệu
quả trong nhân dân cũng là một thuận lợi to lớn, thiết thực. Từ khi XĐGN trở
thành một phong trào xã hội, với sự giúp đỡ của các cấp các ngành, nhất là sự giúp
đỡ của đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN, nhiều mơ hình XĐGN có hiệu quả đã
xuất hiện, mang lại thu nhập cao cho nhân dân ở những vùng nghèo, xã nghèo.
Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất nên năng suất lao dộng không ngừng được nâng cao, bước đàu đáp ứng được
những nhu cầu cơ bản về vật chất, văn hoá và tinh thần của những người nghèo, hộ


×