Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo kết hợp sức MẠNH dân tộc với sức MẠNH THỜI đại TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG mỹ (1965 1973)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.07 KB, 100 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kết hợp SMDT với SMTĐ là một vấn đề quan trọng trong quá trình đấu tranh cách mạng
của các đảng mácxít – lêninnít, vì sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức, vì hoà bình và
tiến bộ xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp SMDT với SMTĐ nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp
để đánh thắng kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn ta gấp nhiều lần là vấn
đề có tính nguyên tắc chiến lược. Đồng thời, là bài học kinh nghiệm quý của cách mạng Việt
nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó cũng là một cách thức, phương pháp cách mạng đúng đắn
của Đảng ta, góp phần quan trọng dẫn đến thắng lợi quyết định trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.
Vì vậy, nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung về quá trình Đảng
lãnh đạo, chỉ đạo kết hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ
1965 đến 1973 nói riêng là rất cần thiết. Qua đó, giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về nghệ
thuật lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong quá trình tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ
thù trong cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, nhưng rất vẻ vang của nhân dân ta. Đồng thời
nâng cao niềm tin, niềm tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam, về dân tộc Việt Nam anh hùng.
Ngày nay, tình hình thế giới đã thay đổi nhiều so với thời kỳ nhân dân ta tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tình hình thế giới không ngừng vận động trong những mối
quan hệ hết sức phức tạp, đầy mâu thuẫn, tác động qua lại lẫn nhau. Sự phát triển của cách
mạng khoa học công nghệ và xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế đang ảnh hưởng
mạnh mẽ đối với sự phát triển của cách mạng nước ta. Nhiều vấn đề trong nước và khu vực


đang diễn ra hết sức đa dạng và phức tạp. Trước tình hình đó, đòi hỏi Đảng cần phải tiếp tục
vận dụng kinh nghiệm lịch sử vào quá trình kết hợp SMDT với SMTĐ. Đúng như Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) đã chỉ rõ "Trong điều kiện mới càng
phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp SMDT với SMTĐ, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN" [22, tr.88].
Qua nghiên cứu vấn đề kết hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,


cứu nước từ 1965 đến 1973, có giá trị hiện thực to lớn trong công cuộc xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973” làm đề tài luận văn cao học lịch sử, chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra và giành thắng lợi
cho đến nay, đã có nhiều cơ quan và các nhà khoa học ở trong nước và trên thế giới nghiên cứu
ở các góc độ khác nhau về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Phần lớn các công trình đã
tập trung làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng; làm rõ bản chất cách mạng khoa học của đường lối
kháng chiến; làm rõ nghệ thuật chỉ đạo đấu tranh vũ trang của Đảng, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm cho sự lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng trong giai đoạn mới.
Vấn đề kết hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã được
thể hiện nhiều trong các văn kiện của Đảng, các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học


trong và ngoài nước được công bố ở nhiều thể loại khác nhau, như cuốn Tổng kết cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và bài học của Ban chỉ đạo tổng kết chiến
tranh, trực thuộc Bộ Chính trị, do Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 1995. Cuốn sách
đã khái quát toàn bộ cuộc kháng chiến và chỉ ra những kinh nghiệm từ cuộc kháng chiến,
trong đó đã đề cập đến kinh nghiệm kết hợp SMDT với SMTĐ. Tiếp đó, Ban chỉ đạo
tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ Chính trị biên soạn cuốn Chiến tranh cách mạng Việt
Nam 1945-1975 thắng lợi và bài học, do Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2000.
Cuốn sách đã khái quát cuộc chiến tranh cách mạng 30 năm của dân tộc ta, nêu lên những
bài học kinh nghiệm chủ yếu về lãnh đạo chiến tranh cách mạng của Đảng, trong đó có
bài học kinh nghiệm kết hợp SMDT với SMTĐ. Năm 2003 Nxb Quân đội nhân dân xuất
bản cuốn Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay, của Viện khoa học xã hội nhân văn quân sự. Các tác giả
đã trình bày tương đối rõ về tính tất yếu kết hợp SMDT với SMTĐ trong cách mạng Việt

Nam và trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay. Cuốn Chiến thắng của sức
mạnh tổng hợp sức mạnh dân tộc và thời đại, do Nxb Sự thật xuất bản năm 1985. Cuốn
sách đã nêu lên ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, trong đó có nguyên nhân thắng lợi là sự kết hợp SMDT với SMTĐ. Cũng trong
năm 1985, Nxb Khoa học xã hội xuất bản cuốn Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, của Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học. Cuốn
sách đã nêu rõ sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành
quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó có sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại.
Luận văn thạc sĩ của Thái Bình Dương về Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong công cuộc đổi mới, tác giả đã nêu được một số nội dung về kết hợp SMDT với SMTĐ


trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nói chung và sự cần thiết kết hợp SMDT với
SMTĐ trong công cuộc đổi mới nói riêng.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Bạo về Đảng lãnh đạo kết hợp đấu tranh quân sự,
chính trị, ngoại giao giành thắng lợi quyết định trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
1969-1973, tác giả đã khái quát quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo kết hợp đấu tranh quân
sự, chính trị, ngoại giao.
Nhìn chung những công trình được công bố đã đề cập ở các mức độ, góc độ khác nhau
về kết hợp SMDT với SMTĐ. Nhưng cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào
đi sâu nghiên cứu Đảng lãnh đạo kết hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973. Tuy nhiên kết quả của các công trình trên là
những tư liệu quý để tác giả kế thừa, vận dụng trong quá trình thực hiện luận văn của
mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Phân tích có hệ thống những vấn đề lý luận, thực tiễn về sự kết hợp SMDT
với SMTĐ; khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo kết hợp
SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973. Rút ra một
số kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp SMDT với SMTĐ (1965 - 1973),
làm cơ sở vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về chủ trương của Đảng kết hợp SMDT với SMTĐ
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973.


- Phân tích quá trình Đảng chỉ đạo thực hiện kết hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973.
- Luận giải những thắng lợi, hạn chế, nguyên nhân của sự kết hợp SMDT với SMTĐ.
Rút ra một số kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo kết hợp SMDT
với SMTĐ từ 1965 đến 1973.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Luận văn nghiên cứu đường lối và sự chỉ đạo của Đảng thực hiện kết
hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu sự kết hợp SMDT với SMTĐ trong
những năm từ 1965 đến 1973 diễn ra ở nước ta.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết
hợp SMDT với SMTĐ.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp
lôgíc và sự kết hợp giữa hai phương pháp đó. Đồng thời còn vận dụng các phương pháp
khác như: phân tích, so sánh… để trình bày các nội dung nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
Thông qua nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về kết hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973, luận văn góp phần tổng kết một giai
đoạn lịch sử rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.


Qua nghiên cứu rút ra những kinh nghiệm chủ yếu từ quá trình Đảng lãnh đạo kết hợp
SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1973, có thể
vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng trong các
Học viện, Nhà trường quân đội hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: mở đầu, 2 chương, (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC
VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU
NƯỚC TỪ 1965 ĐẾN 1973
1.1. KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI LÀ YÊU
CẦU KHÁCH QUAN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC
1.1.1. Lý luận Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại
Chủ nghĩa Mác ra đời là một thành tựu vĩ đại của nhân loại, là vũ khí lý luận khoa
học và cách mạng soi đường để giai cấp vô sản và các dân tộc trên thế giới vươn lên tự
giải phóng mình.
Chủ nghĩa Mác đã khẳng định: Trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, giai cấp vô
sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền và tự mình trở thành dân tộc. Nhưng


sức mạnh đấu tranh của các lực lượng cách mạng ấy lại không bao giờ được tự giới hạn
mình trong phạm vi dân tộc, mà cần phải được đặt trong mối liên hệ quốc tế, theo tinh
thần “vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại”. Mặt khác, giai cấp vô sản mang bản chất quốc
tế, đó là cơ sở khách quan của sự liên minh đoàn kết chiến đấu giữa giai cấp công nhân,
nhân dân lao động ở tất cả các quốc gia dân tộc, theo quan điểm kết hợp SMDT với
SMTĐ tạo thành sức mạnh vô địch chiến thắng chủ nghĩa tư bản.
Kế tục sự nghiệp của Mác- Ăng ghen, V.I.Lê nin là Người hoạt động trong thời kỳ
CNTB đã chuyển sang CNĐQ, khi hệ thống thuộc địa của chúng đã bao trùm cả thế
giới và khi phong trào giải phóng dân tộc đã bắt đầu được khơi dậy. Trong điều kiện
ấy, Lê nin đã phát triển khẩu hiệu chiến lược của Mác- Ăng ghen thành: “vô sản tất cả

các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”.
Lê nin đã chỉ ra: trong thời đại ngày nay, sự nghiệp đấu tranh đánh đổ CNĐQ chỉ có
thể giành được thắng lợi bằng sự kết hợp chặt chẽ cách mạng vô sản ở các nước tư bản
chủ nghĩa với cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đồng
thời cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng chỉ có thể nổ ra và giành thắng
lợi khi có sự hỗ trợ, phối hợp của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và
phụ thuộc. Vì vậy, cách mạng vô sản ở chính quốc phải tích cực giúp đỡ các phong trào
giải phóng dân tộc bằng mọi hình thức có thể thì mới có đủ sức mạnh chiến thắng kẻ thù.
Nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lê nin, hiểu sâu sắc
thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy sức mạnh to lớn của dân
tộc. Đó là những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những tinh hoa văn hoá tốt đẹp của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam; những thành tựu cách mạng trong những năm dưới sự
lãnh đạo của Đảng; là tiềm năng của dân tộc, đất nước ta được nhân dân ta và Đảng phát


huy lên trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong quá trình cách mạng. Sức mạnh đó
chính là sức mạnh của tinh thần yêu nước, của ý chí tự lực tự cường, kiên cường bất
khuất và sức mạnh đoàn kết của dân tộc ta, sức mạnh của con người, của đất nước Việt
Nam, của chế độ xã hội chủ nghĩa. Người ý thức rất rõ sức mạnh đó sẽ trở thành vô địch
khi cách mạng nước ta đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đồng thời, Người cũng
khẳng định, sức mạnh đó được nhân lên nhiều lần khi được kết hợp với SMTĐ tạo thành
sức mạnh tổng hợp chiến thắng mọi kẻ thù. SMTĐ, theo Hồ Chí Minh trước hết là sức
mạnh của tính quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người; sức mạnh của các lực
lượng cách mạng thế giới; sức mạnh của nền văn minh nhân loại; sức mạnh của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Đó chính là sức mạnh của tính chất thời đại quá
độ lên CNXH, sức mạnh của ba dòng thác cách mạng, là sức mạnh của nhân dân lao
động, các dân tộc thuộc địa bị áp bức gắn với sức mạnh của giai cấp vô sản và cách mạng
vô sản, được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác- Lê nin, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được tính tất yếu phải kết hợp đúng đắn hai yếu tố
ấy để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam.

Theo Hồ Chí Minh, kết hợp SMDT với SMTĐ trước hết phải đặt cách mạng Việt Nam
trong tiến trình chung của cách mạng thế giới. Bởi vậy, khi lựa chọn con đường cứu nước của
nhân dân Việt Nam theo gương cuộc cách mạng Tháng Mười Nga (1917), Hồ Chí Minh đã
nhận thấy nhiệm vụ chủ yếu của loài người trong thời đại đế quốc chủ nghĩa là phải biết đoàn
kết xung quanh giai cấp công nhân, tiến hành cách mạng vô sản để lật đổ CNTB, xây dựng
CNXH. Do đó, vấn đề dân tộc phải gắn với vấn đề giai cấp, cách mạng giải phóng dân tộc
phải gắn liền với cách mạng vô sản. Vấn đề giải phóng thuộc địa trở thành một vấn đề quốc
tế, không chỉ đối với nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc mà cả với nhân dân chính quốc.


Tuy nhiên, khi gắn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh
vẫn nhấn mạnh đến những mặt riêng về lịch sử- xã hội, kinh tế của mỗi cuộc cách mạng,
những đặc điểm riêng giữa phương Đông và phương Tây để vạch ra chiến lược đấu tranh cho
phù hợp. Trong đó, Người chú ý khai thác những điểm riêng của mỗi dân tộc mà không trái
với đường lối chung của cách mạng thế giới. Cuộc đấu tranh của quần chúng lao động trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa dù diễn ra dưới các hình thức khác nhau nhưng đều phải nằm
trong quỹ đạo cách mạng vô sản, đều nhằm vào mục tiêu giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới” [31,
tr.416].
Cách mạng vô sản phải biết kết hợp cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp với cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc thì mới có thể thắng lợi. Tuy nhiên, khi chỉ đạo thực hiện ở mỗi
nước lại phải rất linh hoạt. Theo Hồ Chí Minh cách mạng muốn thành công trước hết
phải dựa vào những điều kiện cụ thể của dân tộc mình để làm cơ sở kết hợp phát huy sức
mạnh của thời đại, đồng thời không được xa rời nguyên tắc đấu tranh của cách mạng vô
sản.
Đó thực chất là việc xử lý khéo léo, có hiệu quả mối quan hệ giữa vấn đề “dân tộc” và
“giai cấp”; vấn đề “dân tộc” và “quốc tế” trong tình hình cụ thể của thế giới và trong
nước. Xét về bản chất theo Hồ Chí Minh, cuộc cách mạng ở các nước thuộc địa “dân tộc
cách mệnh”, cũng thể hiện tính chất giai cấp rõ rệt. Đó là cuộc đấu tranh của đông đảo

nhân dân lao động mà “công nông là gốc cách mệnh”, nhằm chống lại “cường quyền”,
tức là chống lại ách áp bức của tư bản đế quốc và bọn tay sai nhằm thiết lập chuyên chính
vô sản. Mặt khác, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng: trong thời đại mới, mở đầu


bằng cuộc cách mạng Tháng Mười Nga (1917), cuộc “dân tộc cách mệnh” và “thế giới
cách mệnh” do “vô sản giai cấp đứng đầu đi trước” [32, tr.266], có quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Khẳng định sự kết hợp biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề quốc tế, Hồ Chí
Minh đã làm tất cả để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, Người đã viết:
“Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh
trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả” [32, tr.301]. Chính nhờ nắm bắt được
đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại mà Hồ Chí Minh đã xác định đường lối chiến
lược, sách lược, phương pháp cách mạng đúng đắn cho cách mạng Việt Nam theo con
đường cách mạng vô sản. Đường lối đó, sau này được Người tổng kết:
Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, điều đó chứng minh rằng
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp
vô sản và Đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và
đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong một Mặt trận thống nhất, với sự
đồng tình ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là phe xã hội chủ nghĩa
hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi [34, tr.315, 316].
Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Lê nin về đoàn kết của giai cấp vô
sản với nhân dân lao động tất cả các nước trên thế giới, theo Hồ Chí Minh phải xây dựng
tinh thần hữu nghị hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc và các lực lượng cách mạng, hòa
bình, dân chủ trên thế giới. Vì vô sản ở chính quốc hay lao động bị áp bức ở thuộc địa,
những người cùng khổ, tất cả đều có mối tương đồng là đấu tranh cho hòa bình, tiến bộ
xã hội, con người được giải phóng mọi áp bức và bất công. Do đó:


“Quan sơn muôn dặm một nhà

Bốn phương vô sản đều là anh em”.
Đây là cơ sở để Hồ Chí Minh đề ra chủ trương xây dựng tình đoàn kết hữu nghị giữa
các dân tộc. Nguyên tắc đoàn kết của Hồ Chí Minh là “có lý, có tình”. Có lý là tuân thủ
những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lê nin, những nguyên tắc chung trong quan
hệ quốc tế: tôn trọng độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Có tình là trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc chung phải chú
ý đến đặc điểm riêng của mỗi dân tộc, phải thông cảm tôn trọng nhau của những người
cùng chung lý tưởng, khắc phục tư tưởng sô vanh nước lớn, tránh dùng sức ép chính trị,
kinh tế, ngoại giao hoặc vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin về mối quan hệ biện chứng giữa các
yếu tố khách quan và chủ quan, Hồ Chí Minh khẳng định kết hợp SMDT với SMTĐ
nhưng phải dựa vào sức mình là chính. Người nói: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh
mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập” [33, tr.522].
Theo Người, “muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã” [32,
tr.293].
Như vậy, kết hợp SMDT với SMTĐ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin trong hoàn cảnh mới của cuộc đấu
tranh cho độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội. Nó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, là
những nguyên tắc quan trọng cho Đảng, Nhà nước ta xác định đường lối, chính sách đối
nội, đối ngoại đúng đắn, đồng thời là phương hướng lớn của cách mạng Việt Nam được
thể hiện sâu sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


1.1.2. Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ đòi hỏi phải kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.
Sau Hội nghị Giơnevơ (1954), đất nước ta tạm thời chia làm hai miền, với hai
chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, chuyển sang thực hiện
cách mạng XHCN. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng DTDCND. Tuy nhiệm vụ cách
mạng ở hai miền thuộc hai chiến lược khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu là thực hiện
thống nhất nước nhà, đưa cả nước đi lên CNXH, cho nên hai nhiệm vụ có mối quan hệ

khăng khít với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Miền Bắc tiến lên xây
dựng CNXH giữ vai trò quyết định nhất của sự nghiệp cách mạng ở nước ta và sự nghiệp
đấu tranh thống nhất nước nhà. Miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Thông qua thực hiện nhiệm vụ mỗi miền mà góp phần thực
hiện nhiệm vụ chung của cả nước là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước, đưa cả
nước tiến lên CNXH.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chúng ta có thuận lợi cơ bản chính là
vai trò to lớn của miền Bắc XHCN với cách mạng cả nước như Đảng ta khẳng định:
“Không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không
có miền Bắc XHCN” [20, tr.28, 29].
Miền Bắc sau khi hoàn toàn giải phóng, đã nhanh chóng bắt tay vào hoàn thành nhiệm
vụ cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, đẩy mạnh cải
tạo và xây dựng CNXH, bước đầu đã đạt được những thành tựu to lớn. Miền Bắc tiến
hành công cuộc xây dựng kinh tế xã hội, vừa bảo đảm đời sống cho nhân dân miền Bắc,
vừa tăng cường chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam. Nhân dân miền


Bắc phối hợp với nhân dân miền Nam đấu tranh chống những thủ đoạn xâm lược và
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở cả hai miền Nam - Bắc.
Đồng thời, Đảng ta đã có kinh nghiệm lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh
cách mạng, có Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, có nhân dân từ Nam chí Bắc đều đã được
rèn luyện trong đấu tranh cách mạng và khói lửa chiến tranh. Sau khi nhân dân ta đánh
thắng chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ
oanh liệt, nhân dân ta càng được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ của nhiều dân tộc trên thế
giới. Song bên cạnh đó, chúng ta cũng gặp nhiều khó khăn mới trong việc ổn định và
củng cố miền Bắc khi vừa thoát ra khỏi chiến tranh và những khó khăn trong sự nghiệp
xây dựng CNXH còn mới mẻ với Đảng và nhân dân ta.
Ở miền Nam, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta gặp nhiều trở
ngại trong quá trình chuyển thế đấu tranh của cách mạng miền Nam, trong hoàn cảnh so sánh
lực lượng không có lợi cho ta. Bởi theo Hiệp định Giơnevơ, ta nghiêm chỉnh thực hiện

chuyển quân tập kết ra miền Bắc, do vậy ở miền Nam lúc này chúng ta không còn lực lượng
vũ trang tập trung, không có chính quyền. Trong khi đó, phía địch có đầy đủ sức mạnh về
kinh tế và quân sự, nắm trong tay cả bộ máy ngụy quân, ngụy quyền đồ sộ, chúng ra sức thi
hành chính sách tiêu diệt phong trào cách mạng, gây cho ta nhiều tổn thất nặng nề “Cách
mạng miền Nam bị địch đàn áp và khủng bố tàn khốc” [1, tr.29].
Vào cuối năm 1964 đầu năm 1965, tình hình quốc tế lúc này không có nhiều thuận lợi
cho cách mạng Việt Nam. Cụ thể là trước hành động mở rộng chiến tranh và trực tiếp đưa
quân Mỹ vào xâm lược Việt Nam, thái độ của Liên Xô là vừa lên án Mỹ và tiếp tục viện
trợ cho Việt Nam, nhưng lo ngại Việt Nam đánh lớn sẽ lôi kéo Liên Xô vào cuộc chiến


tranh sẽ ảnh hưởng đến hòa hoãn Xô - Mỹ. Vì Vậy, Liên Xô tuy có viện trợ quân sự cho
ta, nhưng hạn chế trang bị vũ khí tấn công chiến lược kể cả về số lượng, chất lượng.
Thái độ của Trung Quốc trước những cuộc tấn công ồ ạt của Mỹ vào Việt Nam cũng
rất phức tạp. Một mặt Trung Quốc tuyên bố là “hậu phương vững chắc” của Việt Nam,
nhưng lại nhắc Việt Nam phải “tự lực cánh sinh”; Trung Quốc nói sẽ ủng hộ Việt Nam
“đánh Mỹ đến cùng”, song không muốn Việt Nam đánh lớn, khuyên miền Bắc chỉ ủng hộ
chứ không nên giúp miền Nam... Mặt khác, những người lãnh đạo Bắc Kinh muốn Việt
Nam đứng về phía Trung Quốc chống lại Liên Xô. Nhiều lần Trung Quốc yêu cầu Đảng
ta phải “tỏ rõ lập trường” chống “xét lại” và cho rằng chống Mỹ thì phải đi cùng với
chống “xét lại”, vì “xét lại” cản trở quan hệ Trung – Việt. Tuy nhiên, đòi hỏi ấy không
được Việt Nam đáp ứng.
Về quan hệ của Trung Quốc với hai nước Lào và Cămpuchia, thời gian này cũng có những
vấn đề gây khó khăn cho Mặt trận đoàn kết ba nước Đông Dương.
Đối với Cămpuchia, sau những chuyến đi thăm Trung Quốc của lãnh tụ “Khơmeđỏ”
(Pôn pốt) năm 1965 và 1967 đã gây cho lực lượng cách mạng của Cămpuchia bị chia rẽ
và gây khó khăn cho Việt Nam trong việc tranh thủ Xihanúc cho phép lập các căn cứ hậu
cần ở vùng biên giới. Tuy vậy, bằng chính sách ngoại giao độc lập, Việt Nam vẫn giữ
quan hệ tốt với Xihanúc (ngày13-6-1967 hai bên chính thức lập quan hệ ngoại giao). Còn
ở Lào, mặc dù có nhiều thế lực quốc tế cố tình chia rẽ, nhưng bộ đội tình nguyện Việt

Nam và lực lượng Pathét Lào vẫn luôn đoàn kết, sát cánh chiến đấu bảo vệ hành lang
phía Tây của miền Bắc và giữ vững giao thông trên con đường vận tải chiến lược Tây
Trường Sơn.


Ngoài những tác động bởi các mối quan hệ của các nước lớn, có ảnh hưởng trực tiếp
đến cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân ta đã đề cập trên đây, còn có nhiều quốc gia,
nhiều tổ chức chính trị trên thế giới bày tỏ mối quan ngại sâu sắc và sự đồng tình ủng hộ
nhân dân ta trước hành động xâm lược của Mỹ. Đáng chú ý là trong đó có cả những đồng
minh truyền thống của Hoa Kỳ cũng lên tiếng ủng hộ chúng ta. Đó là một trong những
nhân tố thuận lợi để Đảng ta mở “Mặt trận thứ ba”, là điều kiện thuận lợi để Đảng ta kết
hợp SMDT với SMTĐ.
Khó khăn hơn cả là hành động mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, tên sen
đầm quốc tế, có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh; trong khi đó ta là một đất nước nhỏ, kinh
tế chậm phát triển. Nếu so sánh về dân số của cả nước ta chỉ bằng 1/6, về giá trị tổng sản
phẩm hàng năm (của miền Bắc) chỉ bằng 1/1000 của nước Mỹ. Lực lượng so sánh về
quân sự giữa ta và Mỹ, nhất là những năm đầu còn chênh lệch lớn. Ta ít hơn địch về số
lượng quân đội tập trung và yếu hơn về vật chất kỹ thuật, vũ khí, khí tài và phương tiện
chiến tranh. Mỹ huy động vào cuộc chiến tranh nhiều hơn ta về số lượng trang thiết bị
quân sự và hiện đại hơn về chất lượng. Đặc biệt khi triển khai chiến lược “chiến tranh cục
bộ”, Mỹ đã ồ ạt đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc vào miền Nam Việt
Nam, đồng thời củng cố và tăng cường quân ngụy, sử dụng hai lực lượng chiến lược này
với số quân đông nhất: “trong giai đoạn này, với cố gắng quân sự lớn, giới cầm quyền
Mỹ đã huy động lực lượng và tiền của đến mức cao nhất theo khả năng của chúng có thể
huy động được vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam” [1, tr.59, 60]. Mỹ huy động tới
70% lục quân, 60% lính thủy đánh bộ, 40% hải quân và 60% không quân của nước Mỹ;
6,5 triệu lượt thanh niên Mỹ trực tiếp tham gia chiến tranh xâm lược Việt Nam, cùng với
22.000 xí nghiệp trên đất Mỹ trực tiếp phục vụ chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mỹ đã



đưa những nhà chính trị được coi là “lỗi lạc”, những tướng lĩnh được xếp vào loại “tài
ba”, những nhà ngoại giao dày dạn kinh nghiệm để điều hành cuộc chiến tranh xâm lược
Việt Nam.
Có thể nói rằng cùng với việc động viên tới mức cao nhất các lực lượng vật chất,
phương tiện và vũ khí hiện đại (trừ vũ khí nguyên tử), Mỹ đã huy động và sử dụng tối đa
ưu thế về khoa học kỹ thuật vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Trong tình hình
lực lượng so sánh như vậy, rõ ràng ta phải đánh lâu dài, thực hiện lấy nhỏ thắng lớn, lấy
ít địch nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông. Căn cứ vào tình hình so sánh lực
lượng nêu trên, thực tế đòi hỏi ta phải biết kết hợp SMDT với SMTĐ, nhằm tạo nên sức
mạnh tổng hợp của sự kết hợp các yếu tố về kinh tế, quân sự, chính trị, ngoại giao... để
đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược. Nếu như không có sự kết hợp giữa SMDT với SMTĐ,
sức mạnh của nội lực với sức mạnh ngoại lực thì chúng ta khó có thể thắng giặc Mỹ xâm
lược. Ngay như B.Đavitson là một sĩ quan tình báo cao cấp trong quân đội Mỹ đã thừa
nhận: “Đây là một cuộc chiến tranh tổng lực. Cuộc chiến tranh này động viên toàn thể
mọi người, do các nhà cách mạng kiểm soát. Nó sử dụng tuyệt đối mọi hình thức sức
mạnh có thể có” [19, tr.39].
Như vậy, kết hợp SMDT với SMTĐ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói
chung và trong những năm từ 1965 đến 1973 nói riêng là yêu cầu khách quan của cách mạng
Việt Nam, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đòi hỏi.
Chỉ có sự kết hợp ấy, chúng ta mới tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta chiến thắng đế
quốc Mỹ xâm lược. Tuy nhiên, kết hợp SMDT với SMTĐ như thế nào đòi hỏi Đảng ta phải
có chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn mới có thể tạo nên sức mạnh đè bẹp quân thù.


1.2. QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO KẾT HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC
MẠNH THỜI ĐẠI CỦA ĐẢNG TỪ 1965 ĐẾN 1973
1.2.1. Chủ trương của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ tuy đẩy lên mức cao nhưng vẫn thất bại.
Chính quyền Sài Gòn suy yếu, khủng hoảng triền miên đang trên đà sụp đổ. Mỹ đứng
trước sự lựa chọn: cam chịu thất bại, bỏ mặc chính quyền Sài Gòn hoặc đưa quân Mỹ vào

trực tiếp chiến đấu. Với bản chất hiếu chiến và tính toán chủ quan so sánh lực lượng giữa
hai bên và trên quốc tế, Mỹ tin chắc có thể thắng nhanh và quyết định đưa lực lượng lớn
bộ binh Mỹ vào miền Nam Việt Nam trực tiếp tham chiến. Thực hiện ý đồ đó, tháng 21965 đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc
để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, phá hoại công cuộc xây dựng
CNXH ở miền Bắc và làm lung lay quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Đồng thời, Mỹ lôi kéo một số nước tham chiến hoặc hỗ trợ hậu cần nhằm hỗ trợ Mỹ về
quân sự, chia sẻ với Mỹ gánh nặng về chính trị và tâm lý. Mỹ xuyên tạc bản chất và nguồn
gốc chiến tranh vu cáo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đòi miền Bắc đình chỉ chi viện miền
Nam, rút quân khỏi miền Nam. Thâm hiểm nhất là Mỹ lợi dụng “tâm lý hòa bình” của nhân
dân thế giới, mở các chiến dịch “hòa bình” để ép Việt Nam đi vào “đàm phán không điều
kiện” với Mỹ.
Trước hành động tăng cường và mở rộng chiến tranh của Mỹ - Ngụy trong chiến lược
“chiến tranh cục bộ”, đặt ra cho Đảng, nhân dân ta trước một tình thế hiểm nghèo: đối
phó với quân Mỹ ra sao? Vận mệnh của dân tộc, chiều hướng phát triển của sự nghiệp
cách mạng nước ta sẽ đi đến đâu?


Dựa trên sự phân tích một cách khoa học tình hình cả nước và tình hình xã hội miền
Nam, đồng thời sớm nhận thức được thế chiến lược tiến công của ba dòng thác cách
mạng của thời đại, Đảng ta đã quyết định tiếp tục thực hiện đường lối do Đại hội lần thứ
III đề ra, đó là đường lối giương cao cùng một lúc hai ngọn cờ ĐLDT và CNXH, tiến
hành đồng thời hai chiến lược: cách mạng DTDCND ở miền Nam và cách mạng XHCN
ở miền Bắc. Cách mạng XHCN ở miền Bắc phải nhằm xây dựng hậu phương, hướng tiến
lên của cách mạng cả nước; cách mạng miền Nam phải góp phần bảo vệ miền Bắc và
nhằm mục tiêu chung là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đưa cả nước cùng
tiến lên CNXH.
Dựa trên đường lối chung của cách mạng Việt Nam và đường lối cách mạng mỗi miền
do Đại hội III của Đảng đề ra, căn cứ vào tình hình cụ thể, Hội nghị Trung ương lần thứ
11 (3 -1965) và Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (12- 1965) đã hạ quyết tâm chiến lược:
Nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước hiện nay rõ ràng là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc

ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc... toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả hai miền
phải giữ vững và nêu cao quyết tâm đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân chống Mỹ, cứu
nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình
huống nào, kiên quyết chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng [36, tr.18, 19].
Quyết tâm chiến lược trên dựa trên sự phân tích khoa học tình hình thế giới, trong
nước.
Đương đầu với sự xâm lược của đế quốc Mỹ, cách mạng Việt Nam có sức mạnh của
nhân dân lao động làm chủ, của một dân tộc quyết chiến quyết thắng. Sức mạnh chiến
thắng của chúng ta chính là sức mạnh của ngọn cờ ĐLDT và CNXH, do Đảng đề ra từ


khi mới thành lập, của đường lối tiến hành đồng thời và phối hợp chặt chẽ hai chiến lược
cách mạng ở hai miền. Đường lối đó là sự kết hợp khéo léo những yêu cầu cơ bản của
nhân dân ta với những mục tiêu của thời đại. Vì thế: “cuộc chiến tranh chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam ở cả hai miền càng được sự ủng hộ tích cực và sự giúp đỡ mạnh mẽ
của các nước XHCN, được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của các nước dân tộc chủ
nghĩa và của nhân dân yêu chuộng hòa bình, kể cả nhân dân Mỹ” [36, tr.16].
Mặt khác, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong bối
cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, trong hoàn cảnh đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã bình tĩnh xem xét tìm cách xử lý thích hợp những nhân tố thuận lợi, hạn chế
những khó khăn, phức tạp để vạch ra đường lối đối ngoại linh hoạt mở ra khả năng tận
dụng tối đa SMTĐ. Phương châm trong đường lối quốc tế của Đảng ta là “đoàn kết rộng
rãi với các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên tinh thần giữ vững độc lập tự chủ”. Có
độc lập tự chủ mới mở rộng được đoàn kết quốc tế rộng rãi.
Từ thực tế đường lối kháng chiến chống Mỹ, Đảng đã đề ra phương châm đánh lâu
dài, dựa vào sức mình là chính, song Đảng cũng chỉ rõ cần phải cố gắng đến cao độ, tập
trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời
gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam. Do vậy, “Chúng ta quyết động viên lực
lượng của nhân dân cả nước tiến hành đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị,
dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ tới mức cao nhất sự đồng tình, ủng hộ của

phe XHCN và của nhân dân thế giới” [36, tr.22]. Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (121965) Đảng nhấn mạnh:
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, chúng ta cần nắm vững phương châm
dựa vào sức mình là chính, nhưng đồng thời chúng ta hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng


hộ và viện trợ quốc tế, vì đó là một nhân tố quan trọng góp phần quyết định vào thắng lợi
của nhân dân ta [36, tr.23].
Như vậy, ngay từ khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, Đảng đã
nhận thức được sự kết hợp SMDT với SMTĐ là một nhiệm vụ quan trọng. Đảng cho rằng,
nếu chúng ta “tranh thủ” được tốt điều kiện quốc tế thuận lợi cũng có nghĩa là chúng ta đã
kết hợp được giữa SMDT với SMTĐ. Bởi lẽ, “tranh thủ” theo quan điểm của Đảng ta là
“tranh thủ” sự đồng tình, ủng hộ, và viện trợ quốc tế. Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa
SMDT với SMTĐ, Đảng luôn nhấn mạnh “phương châm dựa vào sức mình là chính”, phát
huy sức mạnh dân tộc, yếu tố “nội lực” luôn là yếu tố quyết định trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.
Với thắng lợi to lớn trên chiến trường, tháng 1 năm 1967, tại Hội nghị Trung ương 13,
Đảng đã ra nghị quyết về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục
vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trung ương Đảng chủ trương: “Đi
đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần tiến công địch về mặt ngoại
giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa” [36, tr.38].
“Đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường,
mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu
tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động” [36, tr. 38].
Đến đây Đảng đã xác định rõ thêm chủ trương kết hợp SMDT với SMTĐ, không chỉ
tranh thủ sự ủng hộ của các nước XHCN và nhân dân tiến bộ thế giới mà còn chủ động tiến
công địch trên mặt trận ngoại giao. Chính vì vậy chúng ta đã tranh thủ được dư luận quốc tế,
kể cả dư luận tiến bộ ở Mỹ, ngày càng kiên quyết ủng hộ lập trường 4 điểm của Chính phủ ta
đó là: phải chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động chiến



tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa; phải công nhận Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam và phải
thương lượng với Mặt trận; phải rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam Việt
Nam, vấn đề Việt Nam do nhân dân Việt Nam tự giải quyết. Đồng thời, dư luận quốc tế ủng
hộ mạnh mẽ bản tuyên bố 5 điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, cực lực lên án
đế quốc Mỹ xâm lược.
Tháng 1 năm 1968, Hội nghị Trung ương 14 (khóa III) đã đánh giá tình hình đế quốc Mỹ
“chuyển hướng từ thế phản công chiến lược sang thế bị động phòng ngự về chiến lược” [36, tr.
62]. Việc đế quốc Mỹ phải chuyển sang thế bị động phòng ngự về chiến lược trong “chiến
tranh cục bộ” ở miền Nam, cộng với sự thất bại cơ bản của chúng trong chiến tranh phá hoại
miền Bắc “là một thất bại lớn về chiến lược của đế quốc Mỹ trong toàn bộ cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam” [36, tr.62].
Trên cơ sở phân tích tình hình so sánh lực lượng địch, ta trong nước và trên thế giới,
Bộ Chính trị chủ trương tiến hành “tổng công kích và tổng khởi nghĩa”, “chuyển cuộc
chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới – thời kỳ giành
thắng lợi quyết định”. Mục tiêu chiến lược của “tổng công kích và tổng khởi nghĩa” là
nhằm tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các cấp,
giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và
phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ
chính trị và quân sự của chúng ở Việt Nam. "Trên cơ sở đó, đập tan ý chí xâm lược của
Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với
miền Bắc” [28, tr.465]. Đồng thời, Đảng ta đã xác định “Cuộc tổng công kích và tổng khởi


nghĩa sắp tới sẽ là một giai đoạn, một quá trình tiến công chiến lược rất mãnh liệt và phức
tạp”[36, tr.71].
Để thực hiện thắng lợi chủ trương đó, Đảng xác định phương châm đấu tranh phải
thực hiện đến mức cao nhất các mặt kết hợp và phối hợp sau đây:
Một là, Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và ngụy vận, địch vận, thực
hiện cho kỳ được khẩu hiệu “công nông binh liên hiệp”.

Hai là, Kết hợp hoạt động ở cả ba vùng chiến lược: thành thị, nông thôn, đồng bằng và rừng
núi, đặc biệt chú ý kết hợp chặt chẽ và khôn khéo hoạt động trong các thành thị với hoạt động ở các
vùng nông thôn kế cận. Phối hợp nhịp nhàng kế hoạch hành động trong phạm vi từng vùng một và
trên phạm vi toàn chiến trường...
Ba là, Kết hợp chặt chẽ tiến công quân sự, tiến công chính trị trong nước với tiến công
ngoại giao.
Phối hợp cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Cămpuchia, thực
hiện sự giúp đỡ nhau một cách thích hợp làm cho địch không thể sử dụng được thế lực
phản động ở Lào và Cămpuchia để chống lại phong trào cách mạng ở Việt Nam, đồng
thời tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ và tích cực của các nước XHCN anh em và của phong
trào nhân dân thế giới chống Mỹ xâm lược.
Ngày 24-4-1968, Bộ Chính trị họp nhận định về một cuộc tổng tiến công và nổi dậy và
chủ trương: động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phát huy khí thế chiến thắng, tiếp
tục tiến công toàn diện giành thắng lợi ngày càng lớn hơn, đẩy địch vào thế thất bại liên tiếp,
ngày càng suy yếu, tan rã, không sao gượng dậy được nhằm đi tới giành thắng lợi quyết định.


Nhờ có đường lối chủ trương đúng đắn kết hợp SMDT với SMTĐ, Đảng đã lãnh đạo
quân và dân ta tiến hành đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.
Đồng thời, qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng còn bộc lộ những hạn chế, khuyết
điểm điều đó đã được Đảng ta sớm nhận thức và kịp thời sửa chữa để có chủ trương lãnh
đạo và sự chỉ đạo sát thực hơn, nhằm tiếp tục kết hợp tốt hơn SMDT với SMTĐ trong
những năm tiếp theo.
Trước những âm mưu thâm độc, xảo quyệt về chính trị, quân sự và ngoại giao trong
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và căn cứ vào tình hình thực tế của cách
mạng miền Nam.
Tháng 5-1969, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã
họp bàn về tình hình nhiệm vụ mới. Bộ Chính trị nhận định:
Đế quốc Mỹ đã bị những thất bại rất nặng nề về mọi mặt, ý chí xâm lược của chúng đã bị
lung lay rõ rệt, chúng đã buộc phải xuống thang chiến tranh từng bước, khó lòng duy trì cuộc

chiến tranh xâm lược với quy mô hiện nay trong một thời gian dài và nhất định sẽ thất bại.
Tuy nhiên, bản chất chúng rất ngoan cố, chúng còn có tiềm lực, còn có lực lượng lớn trên
chiến trường, còn giữ được các vị trí và khu vực quan trọng, cho nên chúng mong muốn
xuống thang trên thế mạnh để giải quyết chiến tranh bằng thương lượng với điều kiện có lợi
cho chúng [36, tr. 126].
Từ nhận định đó, Bộ Chính trị chủ trương:
Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền,
phát huy thắng lợi đã đạt được, tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đẩy
mạnh ba mũi giáp công, kết hợp với tiến công ngoại giao, ra sức xây dựng lực lượng


quân sự và chính trị, phát triển chiến lược tiến công một cách toàn diện, liên tục và mạnh
mẽ, làm thất bại... âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và chủ trương “phi Mỹ
hóa” chiến tranh của chúng, đánh cho Mỹ phải rút quân, đánh cho nguỵ phải suy sụp [36,
tr.134, 135].
Bộ Chính trị cũng chỉ rõ: các cấp, các địa phương và lực lượng vũ trang cần kiên
quyết đẩy mạnh đấu tranh quân sự, kết hợp với xây dựng và củng cố lực lượng chính trị;
kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với tiến công chính trị nhằm giữ và tạo thế cho
ta.
Tiếp đó, tháng 1-1970, Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam đã họp tại Hà Nội, nhấn mạnh nhiệm vụ cho cách mạng miền Nam trong
năm 1970 và những năm tiếp theo là: “Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân trên cả hai miền... đẩy mạnh tiến công quân sự và tiến công chính trị,
kết hợp với tiến công ngoại giao...” [10, tr. 140, 141].
Để tháo gỡ khó khăn tiếp tục đưa cách mạng miền Nam phát triển tiến tới giành thắng lợi
quyết định, chủ trương của Đảng thể hiện trong các Hội nghị của Bộ Chính trị, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng giai đoạn này là: Đẩy mạnh xây dựng lực lượng cách mạng về
mọi mặt, nhất là lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang. Đẩy mạnh sự kết hợp đấu tranh quân
sự, chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao, trong đó lấy phát huy những yếu tố bên trong
là nhân tố quyết định đó là chủ trương nhất quán của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cuộc

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, đấu
tranh quân sự là hình thức chủ yếu trực tiếp quyết định trong quá trình tiến hành cuộc


kháng chiến. Đây là quy luật cơ bản trong chiến tranh nhân dân chống đế quốc Mỹ xâm
lược. Trong chiến tranh, đây là lĩnh vực chủ yếu, giữ địa vị chi phối và được kết hợp với
các lĩnh vực đấu tranh khác như chính trị, kinh tế, ngoại giao, tâm lý... nhằm tạo nên sức
mạnh tổng hợp để chiến thắng địch. Trong thời kỳ tiến hành chiến tranh, đây là lĩnh vực
đấu tranh cần thiết tạo cơ sở để kết hợp SMTĐ nhằm tạo nên thế và lực có lợi hơn địch,
giành chủ động trong mọi tình huống.
Đấu tranh quân sự là hình thức đấu tranh đặc trưng của chiến tranh, nó giữ vai trò trực
tiếp quyết định đến việc tiêu diệt sinh lực và phương tiện chiến tranh của đối phương làm
thay đổi so sánh lực lượng và thế chiến lược trong chiến tranh. Cùng với đấu tranh chính
trị, đấu tranh quân sự là hai hình thức đấu tranh cơ bản của bạo lực cách mạng, nó luôn
được kết hợp chặt chẽ với nhau. Ngoài nhiệm vụ đấu tranh quân sự còn có nhiệm vụ quan
trọng là giữ đất, giành dân, bảo vệ dân, hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh chính trị và nổi
dậy giành chính quyền.
Trong xây dựng lực lượng quân sự, Đảng chủ trương xây dựng ba thứ quân: bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, đẩy mạnh hoạt động và sự phối hợp tác
chiến của ba thứ quân một cách thích hợp với những phương châm chiến lược, phương
châm tác chiến, những chiến thuật và kỹ thuật thích hợp, nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp của lực lượng quân sự bảo đảm phương châm tiêu diệt địch để làm chủ, làm chủ để
tiêu diệt địch, càng đánh càng mạnh.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đấu tranh chính trị là một hình thức đấu tranh
cơ bản, góp phần quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Đấu tranh chính trị quan
trọng là hỗ trợ đấu tranh quân sự, góp phần làm suy yếu địch, làm thất bại, hoặc ngăn
chặn âm mưu, hành động chiến tranh của địch. Đấu tranh chính trị làm cho quần chúng



×