Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

LUẬN văn tốt NGHIỆP ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo xây DỰNG đội NGŨ cán bộ CHỦ CHỐT xã, PHƯỜNG, THỊ TRẤN GIAI đoạn 2001 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.81 KB, 47 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã, phường, thị trấn là hạt nhân chính trị, là nơi trực tiếp thực hiện
đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nhằm xây dựng
nông thôn giàu đẹp văn minh, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã
giành sự quan tâm đặc biệt đối với các đơn vị xã, phường, thị trấn như : đầu
tư mạnh mẽ vào các chương trình xoá đói giảm nghèo; y tế, giáo dục; xây
dựng cơ sở hạ tầng; đào tạo bồi dưỡng cán bộ… giúp các địa phương phát
triển mạnh về kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.Tuy nhiên, nếu đi
vào thực tế ở nhiều xã, phường, thị trấn vẫn còn rất nhiều khó khăn, một số xã
miền núi tình hình chính trị-xã hội chưa thực sự ổn định do một số phần tử
phản động cấu kết với các thế lực thù địch gây ra. Chúng lợi dụng sự kém
hiểu biết của đồng bào các dân tộc xúi giục, kích động, lôi kéo họ bỏ làng, xã
theo chúng, gây mất ổn định chính trị. Song chúng ta đã xử lý kịp thời không
để tình trạng trên kéo dài, cuộc sống nhân dân nhanh chóng đi vào ổn định.
Nhìn chung trong thời gian qua, diện mạo cơ sở xã, phường, thị trấn có
sự thay đổi lớn, tình hình kinh tế-xã hội và an ninh trật tự trên các địa bàn có
những chuyển biến tích cực. Đạt được thành công đó không thể không kể đến
vai trò vô cùng quan trọng của đội ngũ cán bộ địa phương, họ đã có nhiều
đóng góp to lớn. Họ chính là những người đưa đường lối, chủ trương của
Đảng vào cuộc sống, trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, góp phần quan trọng trong xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn minh.
Hiện nay, phần lớn họ vẫn giữ được bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ học
vấn ngày càng được nâng lên, năng động, sáng tạo trong cải cách hành chính
và phát huy dân chủ ở cơ sở… Song bên cạnh đó một số cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn sa sút về ý chí chiến đấu, chỉ lo vun vén cho lợi ích cá nhân;
một số lợi dụng chức quyền để tham ô tài sản, sách nhiễu nhân dân; một số


2


chạy theo lối sống sa hoa, ăn chơi, trụy lạc… làm giảm lòng tin của nhân dân
vào Đảng, vào cán bộ
Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước,
thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, vai trò của
đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn trong lãnh đạo phát triển kinh tếxã hội, trong giữ vững ổn định chính trị-xã hội ở địa phương càng trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết. Vì vậy, ngoài những kiến thức cơ bản về chuyên
môn và trình độ lý luận chính trị, đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn
cần phải có những kiến thức về khoa học tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý nhà
nước…Đứng trước thực tế đó, việc nghiên cứu chủ trương, sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã phường,
thị trấn là việc làm thiết thực để góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
xã, phường, thị trấn ngang tầm nhiệm vụ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn từ năm 2001
đến năm 2007” làm luận văn tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành lịch sử Đảng
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cán bộ là nhân tố quyết định mọi thành bại của cách mạng. Vì vậy,
vấn đề cán bộ và công tác cán bộ đã được các nhà kinh điển Mác-Lênin, Chủ
tịch Hồ Chí Minh, các Đảng Cộng sản coi đây là công tác lớn, đặc biệt quan
trọng. Đảng ta, ngay từ khi ra đời đến nay có thể nói không có một Nghị
quyết nào của Đảng không đề cập đến công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, chỉ
ra nhiệm vụ công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ trong từng thời kỳ,
từng giai đoạn cách mạng.
Nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Đảng đã có
các nghị quyết chuyên đề bàn về công tác cán bộ, chiến lược cán bộ. Đồng
thời Chính phủ cũng ra nhiều Nghị định, Thông tư; các nhà khoa học có nhiều


3


công trình nghiên cứu, bài viết về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, trực tiếp
là đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn đó là:
Các Nghị quyết của Đảng như :
Đảng CSVN, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, BCHTƯ Đảng khoá
VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước;
Đảng CSVN, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bảy BCHTƯ Đảng khoá
VIII về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay.
Các Nghị định, Thông tư của Chính phủ như :
Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 - 10 - 2003 của Chính phủ về
cán bộ công chức xã, phường, thị trấn.
Thông tư số 03/2004/TT-BNV ngày 16-01-2004 của Bộ nội vụ hướng
dẫn thực hiện Nghị đinh số 114/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 của
Chính phủ về cán bộ công chức xã, phường, thị trấn
Các bài viết, đề tài khoa học như :
Lê Thanh Phong, “ Tăng cường quản lý cán bộ” Báo Nhân dân,
số17740 năm 2004.
Trần Đình Hoan, “ Về quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước”, Tạp chí Cộng sản số 33 - tháng 11 năm 2003
Lê văn Bền, " Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước từ 1996 - 2001”, Đề tài luận
văn tốt nghiệp sỹ quan chính trị, năm 2002.
Các Nghị quyết của Đảng, Nghị định, Thông tư của Chính phủ, các
đề tài khoa học, các bài viết ở nhiều góc độ khác nhau đã đề cập đến công
tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Song chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống dưới góc độ lịch sử Đảng
về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn trong những năm
đổi mới từ 1996 đến 2005. Tuy nhiên, các công trình nói trên đều có giá trị
và là cơ sở cho tác giả tham khảo trong quá trình hoàn thành đề tài “ Đảng



4

Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn từ năm 2001 đến năm 2007”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
*Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chủ trương, sự chỉ đạo, phương
hướng xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đồng thời rút ra một số kinh nghiệm bước đầu trong thực hiện
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn từ năm 1996 đến năm
2005, làm cơ sở cho phát triển nhận thức và chỉ đạo xây dựng, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn trong thời gian tới.
*Nhiệm vụ
Hệ thống lại quá trình lãnh đạo, chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn của Đảng Cộng sản Việt
Nam
Rút ra kinh nghiệm bước đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước từ năm 1996 đến năm 2005.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường,
thị trấn của Đảng Cộng sản Viêt Nam và việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ
trương đó
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung trình bày quá trình lãnh đạo và chỉ đạo xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn của Đảng Cộng sản Việt Nam từ
năm 1996 đến năm 2005

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận


5

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tuởng Hồ
Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề cán
bộ và công tác cán bộ
*Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logíc, đồng thời sử dụng
một số phương pháp chuyên ngành như: Phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê, phương pháp tổng hợp…
*Nguồn tư liệu
Một số tác phẩm của các nhà kinh điển Mác-Lênin và Chủ tịch Hồ Chí
Minh; các văn kiện, Nghị quyết của Đảng; các Nghị định, Thông tư của Chính
phủ; các công trình nghiên cứu, các bài viết của các nhà khoa học về xây dựng
đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn nói riêng.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn đươc bảo vệ sẽ góp phần vào việc tổng kết công tác xây dựng
đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn của Đảng đồng thời có thể dùng làm tài
liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu thực hiện việc xây dựng đội
ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn ở các địa phương trong thời kỳ mới.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.


6


Chương1
CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2007

1.1.Yêu cầu khách quan của việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
xã, phường, thị trấn
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về vai trò cán bộ và công tác cán bộ
*Về vai trò đội ngũ cán bộ:
Khái niệm cán bộ lãnh đạo hiểu theo hai thành phần, thành phần thứ nhất
hiểu theo nghĩa rộng là khái niệm chỉ những người có chức vụ và trách nhiệm
cao trong một tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức, của bộ máy,
có vai trò tham gia định hướng, điều khiển hoạt động của cả bộ máy, thành phần
thứ hai trong khái niệm cán bộ lãnh đạo là những người cầm đầu những tổ chức
quốc gia. Họ là nhóm lãnh đạo ở tầm vĩ mô, thế giới hiện đại gọi đây là nhóm
lãnh đạo chính trị quốc gia. Trong bộ phận cán bộ lãnh đạo, có một nhóm được
gọi là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, đó là những người đứng đầu quan trọng nhất, có
chức vụ cao nhất trong tập thể, có quyền ra những quyết định về chủ trương, có
trách nhiệm và quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để thực
hiện những nhiệm vụ của tập thể, tổ chức đó, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt
toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định.
Khi nói về vai trò của đội ngũ cán bộ, các nhà kinh điển Mác-Lênin
thống nhất: trong sự nghiệp cách mạng, vấn đề cán bộ bao giờ cũng giữ vị trí đặc
biệt quan trọng, là những người xây dựng, bảo vệ, phát triển, tổ chức thực hiện
chủ trương, chính sách của Đảng biến đường lối, chủ trương của Đảng thành
thực tiễn sinh động, là lực lượng quyết định tới sự thành bại của cách mạng.
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: Về mặt tư tưởng, những người cộng
sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở tất cả các nước, là



7

bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ
phận còn lại ở chỗ họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của
phong trào vô sản. C.Mác còn khẳng định: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần
có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”.[7, 181] Điều đó cho thấy
hai ông rất coi trọng đội ngũ cán bộ cách mạng trong phong trào đấu tranh của
giai cấp vô sản.
V.I.Lênin, người kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác đã nhấn
mạnh: trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị
nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính
trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào.
Ông cũng cho rằng: “Chính trị là một khoa học và một nghệ thuật không phải
từ trên trời rơi xuống, mà đòi hỏi một sự cố gắng rằng giai cấp vô sản muốn
thắng giai cấp tư sản phải đào tạo lấy “những nhà chính trị giai cấp” thực sự
của mình, những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính trị của
giai cấp tư sản” [ 16, 80 81]. Như vậy Lênin đã nhấn mạnh đến việc cần thiết
phải có được một đội ngũ những nhà cách mạng chuyên nghiệp và đó là
những cán bộ giỏi, hết sức nhạy bén, thích ứng và sáng tạo trong mọi điều
kiện, kịp thời đưa ra những quyết sách có lợi cho cách mạng. Đó là những
người có lòng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng, biết áp dụng lý
luận vào thực tiễn, trở thành những người tổ chức thực tiễn tài năng, có tinh
thần khắc phục khó khăn, kiên cường bất khuất, phấn đấu vươn lên sẵn sàng
từ bỏ mọi vinh hoa, phú quý để toàn tâm, toàn ý phục vụ cách mạng. Đó là
những con người biết rèn luyện mình trở thành lãnh tụ quý mến của công
nhân, có kiến thức sâu rộng gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Giai cấp
vô sản chỉ thắng được giai cấp tư sản, chỉ xây dựng được CNXH, chủ nghĩa
cộng sản khi đào tạo được những cán bộ cách mạng chuyên nghiệp như vậy.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan

tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm nòng cốt cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của nhân dân. Người đã nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò


8

của đội ngũ cán bộ, Người khẳng định: “cán bộ là cái gốc của mọi
việc”[11, 269] “muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc
kém”[11, 246]. Người còn chỉ ra rằng: “cán bộ là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành,
đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ
hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng” [11, 269]. Hồ Chí Minh coi cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là vấn đề liên quan đến vận
mệnh của Đảng, của chế độ và đất nước. Vị trí của cán bộ là cầu nối giữa
Đảng, Chính phủ với quần chúng, nhưng không phải là “vật mang”, là “dây
dẫn”, là sự chuyển tải cơ học mà chính là con người có đủ tư chất, tài năng
và đạo đức để làm việc đó.
* Về vai trò công tác cán bộ
Công tác cán bộ là một khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động của
Đảng trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức mạnh chiến đấu của Đảng,
là nguyên nhân của những nguyên nhân.Thực chất của công tác cán bộ là
nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực để tổ chức
thực hiện, tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Các nhà kinh điển Mác-Lênin Khẳng định: Công tác cán bộ kém hiệu quả
hoặc không có công tác cán bộ thì Đảng không thực hiện được vai trò lãnh
đạo đối với sự nghiệp cách mạng, đường lối của Đảng không thể đi vào cuộc
sống, chỉ có thể dừng lại trên bàn giấy.
Lênin cho rằng: “ Nghiên cứu con người, tìm ra những cán bộ có bản
lĩnh hiện nay, đó là then chốt, nếu không thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết
định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”[17, 449]. Thực tiễn cũng chỉ ra rằng: “sự chính

xác của đường lối, chính sách và sự thành công của đường lối chính sách ấy
đều tuỳ thuộc cuối cùng ở chất lượng của công tác cán bộ”[2, 110]. Khi người
ta nói, công tác cán bộ quyết định hết thảy cũng ở trên ý nghĩa đó, trong bất
kỳ tổ chức nào, nếu làm tốt công tác cán bộ thì tổ chức đó mới mạnh và hoàn
thành được nhiệm vụ chính trị của mình.


9

Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của công tác cán bộ. Theo
Người, trong công tác cán bộ có các vấn đề lớn sau đây:
“Hiểu biết cán bộ
khéo dùng cán bộ
cất nhắc cán bộ
phê bình cán bộ”[11, 277]
Để có cán bộ tốt đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng, công tác cán
bộ có vị trí quyết định. Hồ Chí Minh coi công tác cán bộ cũng như việc
đào tạo nhân tài là trọng yếu và rất cần thiết, Người nói: “vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [12,
22]. Người khẳng định cán bộ là cái gốc của mọi việc và công việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ quyết định, thế nhưng trong đội
ngũ cán bộ không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay, mỗi người đều
có mặt mạnh, mặt yếu, sở trường, sở đoản. Vì vậy để công việc thành
công phải khéo dùng người, phải biết tuỳ tài mà dùng người. Ngay trong
năm 1947 Người đã chỉ ra: Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng
người, ví như thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao,
người viết giỏi nhưng nói kém lại dùng vào việc cần phải nói, người nói
khéo nhưng viết xoàng lại dùng vào công việc viết lách, thành thử cả hai
đều lúng túng và công việc đều không thành công, Bác chỉ rõ: nếu biết
tuỳ tài mà dùng người thì hai người đều thành công, đều có thành

tích.Theo Bác, mục đích lựa chọn, cất nhắc cán bộ là để dùng cán bộ sao
cho có hiệu quả nhất, còn “mục đích khéo dùng cán bộ, cốt để thực hành
đầy đủ chính sách của Đảng và Chính phủ” [11, 279], chớ dùng thợ mộc
làm nghề thợ rèn, Người cho rằng: “Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và
chỗ xấu, ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho
họ”[11, 279]. Hơn thế nếu biết dùng người đúng sở trường của họ, đúng
tài của họ, đúng lúc, đúng chỗ thì tài nhỏ có thể hoá ra to, ngược lại
không khéo dùng thì tài to cũng hoá ra tài nhỏ.


10

1.1.2.Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn trước
năm2001
*Mặt mạnh và nguyên nhân
Trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, ĐHĐB toàn quốc lần thứ
VI của Đảng (1986) với đường lối đổi mới đúng đắn, đã mở ra bước ngoặt
quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Sau những năm đổi
mới đất nước từng bước đi lên rõ rệt, tạo ra thế và lực mới. Chính trong bối
cảnh đó, đội ngũ cán bộ CCXPTT đã cùng với toàn Đảng, toàn dân phấn đấu
thực hiên thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng, đồng thời qua đó mà trưởng
thành về mọi mặt.
Đựơc rèn luyện, thử thách trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài,
gian khổ, đội ngũ cán bộ CCXPTT có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định
mục tiêu mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn, năng động, sáng tạo trong thực hiện
đường lối, chủ trương đổi mới của Đảng. Đặc biệt, trước biến động phức tạp
của tình hình thế giới và trong nước, số đông cán bộ kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và CNXH, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng, đưa công cuộc đổi mới ở cơ sở từng bước giành thắng lợi

Có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, gương mẫu về đạo đức, lối sống;
được quần chúng tín nhiệm, tin yêu; giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng,
gắn bó, gần gũi với nhân dân; giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng: cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có tinh thần chủ động trong công việc, độc
lập trong suy nghĩ, hành động
Trình độ kiến thức và năng lực quản lý kinh tế-xã hội được nâng lên.
Tháng 12 năm 1997 cuộc khảo sát điều tra 45 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương cho thấy rằng, trong số 55350 cán bộ CCXPTT(gồm: chủ tịch Hội đồng
Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân; phó chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân
dân; bốn chức danh chuyên môn: cán bộ địa chính, tư pháp, tài chính-kế toán,
văn phòng uỷ ban nhân dân xã) về trình độ văn hoá: có 28445 (51,41%) ở


11

trình độ cấp III, 22961 (42,45%) có trình độ cấp II, 3934 (7,11%) ở trình độ
cấp I; Về lý luận chính trị: 12631 người (22,79) có trình độ sơ cấp, 15175
người (27,41%) có trình độ trung cấp, 939 người (1,69%) có trình độ cao cấp.
Cũng theo cuộc khảo sát đó, trong số 10000 bí thư xã, phường, thị trấn cho
thấy: về trình độ văn hoá cấp I chỉ chiếm 8%, trong khi cấp II là 41,8%; về
trình độ chuyên môn: trình độ trung cấp là 11,8%, trình độ cao đẳng và đại
học trở lên là 6,0%; về trình độ lý luận chính trị: cao cấp là 8,0%, trung cấp là
58,3%; đã học quản lý nhà nước 20,2%, quản lý kinh tế 6,9%. Có thể khẳng
định rằng trình độ kiến thức quản lý kinh tế-xã hội của đội ngũ cán bộ
CCXPTT bước đầu đã được nâng cao. Vì vậy mà tình trạng cửa quyền, vi
phạm dân chủ, làm trái pháp luật cũng giảm đi.
Nguyên nhân của những mặt mạnh trên là:
Đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng ta và những thành tựu trong
công cuộc đổi mới tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ CCXPTT cống hiến
và trưởng thành

Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp chăm lo công tác giáo dục, đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ CCXPTT
Đội ngũ cán bộ CCXPTT được kế thừa truyền thống đấu tranh cách
mạng kiên cường của Đảng, dân tộc, noi gương Bác Hồ và sự giúp đỡ của
nhân dân
*Hạn chế và nguyên nhân
Tuy nhiên đội ngũ cán bộ CCXPTT cũng bộc lộ nhiều yếu kém:
Trình độ kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn so với yêu cầu thời
kỳ mới còn nhiều hạn chế, có mặt bất cập như: lúng túng trong quản lý kinh
tế, quản lý xã hội, trong giải quyết các mối quan hệ, trong phát huy dân chủ
nhân dân…cụ thể theo cuộc khảo sát trên, trong số 55350 cán bộ CCXPTT,
về trình độ lý luận chính trị có 48,1% chưa được đào tạo, bồi dưỡng hoặc chỉ
được bồi dưỡng ngắn ngày, về trình độ chuyên môn có 37077 người chiếm
66,98% chưa được đào tạo.


12

Sự không đồng bộ về trình độ đội ngũ cán bộ CCXPTT giữa các vùng,
miền. Cán bộ ở miền núi, tây nguyên, người dân tộc thiểu số phần lơn chưa
qua đào tạo, chưa được bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế-xã hội, văn
hoá, pháp luật, tuổi đời bình quân cao.
Một bộ phận cán bộ CCXPTT thiếu tu dưỡng bản thân, giảm sút ý chí
phấn đấu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Một số mắc bệnh quan liêu,
mệnh lệnh, cửa quyền gây phiền hà cho dân, tình trạng bè phái mất đoàn kết
vẫn xảy ra. Nhiều nơi nhân dân không tin tưởng vào sự lãnh đạo của tổ chức
Đảng và chính quyền địa phương.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là
Nước ta thực hiện nền kinh tế thị trường, bên cạnh mặt tích cực cũng
đồng thời chứa đựng cả mặt trái tác động tới đội ngũ cán bộ CCXPTT làm

một bộ phận thoái hoá về phẩm chất đạo đức, đạo đức, lối sống.
Đại đa số cán bộ trưởng thành qua phong trào cách mạng do nhiệt tình,
hăng hái, chưa được đào tạo cơ bản
Chính sách chế độ đãi ngộ đối với cán bộ CCXPTT chưa được giải
quyết đồng bộ, kịp thời.
Đời sống cán bộ khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, ảnh hưởng tới
quá trình học tập, công tác của họ.
Việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ CCXPTT thiếu sự nhất
quán, đồng bộ, thiếu chương trình kế hoạch, chưa cơ bản, thống nhất.
1.1.3.Thời kỳ mới với vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn.
*Đặc điểm của thời kỳ mới
Đặc điểm tình hình thế giới
Thế giới đang diễn biến nhanh chóng và phức tạp chứa đựng cả những
yếu tố bất trắc khó lường, thể hiện ở ba đặc điểm sau:
Thứ nhất: Cuộc cách mạng KH và CN phát triển ngày càng cao, làm
tăng nhanh lực lượng sản xuất đồng thời thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh
tế và làm xuất hiện nền kinh tế tri thức


13

Đặc trưng nỗi bật nhất của cuộc cách mạng KH và CN hiện đại so với
các cuộc cách mạng trước đây là đưa các yếu tố thông tin, tri thức trở thành
nhân tố quan trọng nhất đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã
hội của các quốc gia. Bất kỳ một nước đang phát triển nào, nếu biết coi trọng
yếu tố “thông tin” và “tri thức”, kết hợp tuần tự với nhảy vọt, tập trung phát
triển công nghệ cao thì đều có thể rút ngắn được thời gian của quá trình CNH,
HĐH. Đồng thời cuộc cách mạng KH và CN hiện đại đã và đang mở ra sự
phát triển của kinh tế thông tin, kinh tế tri thức với đặc điểm nổi bật của nó là

vai trò ngày càng tăng của nguồn lực con người, đó là những người có trí tuệ,
có kỹ năng, được đào tạo cơ bản. Bởi thế mà trong xã hội hiện đại đầu tư chủ
yếu của xã hội là “Nâng cấp” con người về mọi mặt đặc biệt là trí tuệ và kỹ
năng. Nhật bản và Mỹ là những ví dụ điển hình về xây dựng “Tư bản con
người” theo báo cáo kinh tế năm 1988 của tổng thống Mỹ, vào năm 1987, Mỹ
đã đầu tư 610 tỷ USD vào “Tư bản con người” so với 440 tỷ USD vào tài sản
vật chất. Vị thế của con người đang ngày được coi trọng, lao động của con
người trở nên đắt đỏ, vì vậy chất lượng con người phải được phát triển.
Thứ hai: Bầu không khí thế giới diễn ra hết sức phức tạp, đầy mâu
thuẫn và nghịch lý, cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay gắt dưới
nhiều nội dung, hình thức mới.
Loài người đang ở trong thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, Các
mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn,
đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra với nhiều hình thức
mới, xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo…xảy
ra ở nhiều nơi
CNTB lợi dụng những thành tựu mới của cuộc cách mạng KH và CN
đã điều chỉnh và tiếp tục phát triển. Nếu ở thời kỳ của Mác, tỷ suất bóc lột chỉ
là 300% thì ngày nay con số đó lên tới 700% nhờ vậy mà giai cấp tư sản đã
bỏ ra một ít lợi nhuận để xoa dịu mâu thuẫn vốn có trong xã hội tư bản. Song
đều chỉ mang tính chất tạm thời, bởi các biện pháp đó suy cho cùng là nhằm


14

mang lại lợi ích cho giai cấp tư sản và chối bỏ những yêu cầu căn bản của sự
tiến bộ xã hội là giải phóng con người, thu hẹp khoảng cách giàu, nghèo đang
ngày càng xa trên thế giới.
Hiện nay có những nhận thức mơ hồ về đấu tranh giai cấp, về tính nhân
loại và tính giai cấp trong xã hội hiện đại dẫn đến phủ nhận vai trò sứ mệnh

lịch sử của giai cấp công nhân và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, thay vào đó
là quan niệm về tính nhân loại chung chung, về một động lực phát triển mới là
“Làn sóng trí tuệ” hoặc cho rằng học thuyết của Mác về động lực phát triển xã
hội là đấu tranh giai cấp chỉ phù hợp với thời kỳ của Mác, còn hiện nay đã lỗi
thời, lạc hậu
Tình hình trên đòi hỏi phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ có bản
lĩnh chính trị vững vàng.
Thứ ba: Quốc tế hoá và toàn cầu hoá kinh tế là một đặc điểm, xu thế
vận động của thế giới.
Toàn cầu hoá kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến mọi quốc gia, mọi
lĩnh vực trong đời sống xã hội, nó vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực.
Trước sự tác động đó thế giới biến động đầy phức tạp, vừa hợp tác vừa đấu
tranh, vừa liên kết vừa cạnh tranh, vừa phải có sức mạnh kinh tế, chính trị vừa
có đối sách mềm dẻo để thêm bạn bớt thù…đó là những công việc khó khăn,
vì vậy để phát triển ổn định ,vững chắc đòi hỏi hệ thống chính trị mỗi nước
phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ vững vàng về lập trường, quan điểm
chính trị và năng lực cao đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng đất nước
Đặc điểm tình hình trong nước
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đề ra nhiệm vụ chính trị trung tâm hiện
nay là: Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc CNXH, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
Mục tiêu của CNH, HĐH Là xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và


15

tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đó,

Đảng phải được xây dựng ngang tầm với đòi hỏi của thực tiễn, Nhà nứơc phải
được tổ chức và vận hành theo những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền
XHCN, cùng sự đoàn kết nhất trí của toàn dân.
Chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
định hướng XHCN, đồng thời mở cửa rộng rãi với nước ngoài, kể cả những
nước có chế độ chính trị khác ta đã làm đối tượng quản lý trở nên đa dạng,
phức tạp hơn. Việc thừa nhận và khuyến khích các thành phần kinh tế phát
triển làm cho cơ cấu giai cấp xã hội thay đổi. Các giai cấp, tầng lớp, các nhóm
dân cư có sự biến đổi không thuần nhất, đan xen nhau rất phức tạp. Sự vận
động khách quan của nền kinh tế kéo theo là cơ cấu giai cấp xã hội thay đổi.
Cơ chế thị trường tạo ra hàng loạt vấn đề phức tạp, đó là sự thay đổi quan
niệm về giá trị xã hội của con người, đó là sự thay đổi lối sống trong một bộ
phận dân cư, lối sống hưởng thụ trở thành một “dòng chảy lớn” trong xã hội,
nạn tham nhũng, buôn lậu, tệ hối lộ, biếu xén, mua chuộc…làm mục ruỗng tổ
chức, làm thoái hoá, biến chất cán bộ.
Đất nước đang đứng trước những vận hội lớn, đồng thời cũng đứng
trước những nguy cơ, thách thức lớn. Những thành tựu quan trọng của công
cuộc đổi mới đưa đất nước đến thời cơ phát triển mới, nước ta đã và đang có
những tiền đề cơ bản để đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế, khu
vực…song chúng ta cũng đang đứng trước những nguy cơ lớn như: tụt hậu về
kinh tế, chệch hướng XHCN, quốc nạn tham nhũng, chiến lựoc diễn biến hoà
bình. Các vấn đề đó đã và đang đặt ra yêu cầu cao đối với việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ các cấp
*Yêu cầu của thời kỳ mới với việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã,
phường, thị trấn
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đội ngũ cán bộ
CCXPTT đã có nhiều đóng góp to lớn trong xây dựng nông thôn giàu đẹp,


16


văn minh. Bước vào thiên niên kỷ mới, tình hình thế giới biến động phức tạp,
Việt Nam đứng trước những thời cơ, thách thức lớn, đồng thời việc đẩy mạnh
CNH, HĐH để đến năm 2020 đưa nước ta về cơ bản trở thành một nước công
nghiệp, đòi hỏi sự nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn dân, trong đó trước hết
là đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp mà trực tiếp là đội ngũ cán bộ lãnh đạo
CCXPTT. Vì vậy, yêu cầu hàng đầu hiện nay là phải nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ này một cách toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, cụ thể là:
Yêu cầu về trí tuệ hoá, văn hoá hoá
Đội ngũ cán bộ CCXPTT thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH trong điều
kiện hiện nay cần phải được đào tạo lại, đồng thời phải đặt trong một chế độ
quản lý luôn tạo ra sự kích thích vươn lên để có đủ phẩm chất và năng lực đáp
ứng nhiệm vụ. Mặc dầu trong thực tế vẫn còn một số cán bộ CCXPTT có
trình độ học vấn thấp, song đó chỉ là tạm thời. Xu thế trí tuệ hoá đôị ngũ cán
bộ là tất yếu, người cán bộ dù là cán bộ chính trị, hành chính, kế toán hay
khoa học-kỹ thuật đều phải có trình độ kiến thức và năng lực trí tuệ tốt, có tư
duy sáng tạo, nhạy bén, độc lập. Hiện nay yêu cầu trí tuệ hoá ngày càng cao,
nhưng do quản lý chưa tốt nên nảy sinh một số xu hướng chạy theo bằng cấp
bằng mọi giá, nên bằng cấp nhiều khi không phản ánh đúng trình độ và chất
lượng của người có bằng. Để thực sự có trí tuệ chỉ có thể bằng nỗ lực cá nhân,
đồng thời tạo ra khả năng và thói quen học tập của từng cán bộ, gắn với một
trình độ quản lý mới về cán bộ theo tiêu chuẩn từng loại cán bộ
Văn hoá là phương thức ứng xử văn minh, khoa học, nhân ái và dân
chủ của đội ngũ cán bộ trong mọi mối quan hệ. Văn hoá có vai trò quan trọng
trong CNH, HĐH trong kinh tế thị trường, văn hoá được coi như một giá trị
nội sinh làm cho giá trị kinh tế sản phẩm tăng lên. Người ta coi trọng chất
lượng và hình thức cung cấp. Ai thực hiện được tối đa những yêu cầu trên,
người đó sẽ giành thắng lợi trong thị trường. Yêu cầu văn hoá hoá đòi hỏi
người cán bộ phải có kiến thức liên ngành, kiến thức văn hoá học, nhân loại
học, lịch sử về truyền thống dân tộc để giữ gìn và phát triển



17

Tóm lại, yêu cầu trí tuệ hoá, văn hoá hoá đội ngũ cán bộ
CCXPTTT là những yêu cầu toàn diện cả về kiến thức, năng lực và đạo đức
của người cán bộ. Sự đáp ứng hoàn chỉnh hay không, nhanh hay chậm sẽ liên
quan trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của của từng địa
phương nói riêng, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung.
Yêu cầu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng.
Phẩm chất chính trị là yêu cầu cơ bản nhất đối với người cán bộ
CCXPTT. Đó là nhiệt tình cách mạng, lòng trung thành với lý tưởng của
Đảng với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần tận tụy
với công việc, là bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu và
con đường XHCN.
Cấu trúc đạo đức của người cán bộ cũng như người cán bộ CCXPTT
gồm hai mặt cơ bản là đạo đức cá nhân và đạo đức nghề nghiệp. Yêu cầu đạo
đức cá nhân phải cao hơn người bình thường, trước hết đó là ý thức, niềm tin
và ý chí quyết tâm cao với đường lối chính trị của đất nước theo định hướng
XHCN, quyết tâm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng
dân chủ văn minh, đồng thời đó là phẩm chất biết tôn trọng, giữ gìn kỷ
cương, pháp luật; có lối sống lành mạnh, không tham ô, lãng phí, có trách
nhiệm trong công việc; có lòng nhân ái ứng xử đứng đắn trong quan hệ gia
đình, bạn bè, xã hội; có tinh thần hướng thiện, hiếu học. Với đạo đức nghề
nghiệp, đó là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Ngoài ra, với tư cách là
người trực tiếp nắm quyền ở địa phương, đội ngũ cán bộ CCXPTT phải có
tinh thần dân chủ, không được phép chuyên quyền, độc đoán, trái lại phải biết
phát huy trí tuệ, tài năng của dân. Trước yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo
đức đặt ra, hơn lúc nào hết, người cán bộ phải nhận thức đúng đắn, đồng thời
Nhà nước phải có các quy định rõ ràng về tiêu chuẩn, chế độ cán bộ.

Yêu cầu đồng bộ hoá và tiêu chuẩn hoá từng loại cán bộ
Chất lượng đội ngũ cán bộ trong tình hình hiện nay phụ thuộc vào vấn
đề đồng bộ hoá và tiêu chuẩn hoá từng loại cán bộ.


18

Đồng bộ hoá đội ngũ cán bộ CCXPTT trước hết là xây dựng một cơ
cấu hợp lý, tinh giản đến mức tối ưu hệ thống bộ máy và số lượng cán bộ, xu
hướng điều chỉnh cơ cấu, tổ chức bộ máy tránh sự trùng lặp, chồng chéo về
nhiệm vụ, chức năng nhằm dạt hiệu quả tối ưu là xu thế tất yếu của thời đại.
Chỉ trên cơ sở cấu trúc tối ưu thì mới thực hiện được sự tinh giản tối ưu số
lượng cán bộ. Bàn đến khái niệm tinh giản, chúng ta thường chỉ nhấn mạnh
yếu tố “giản”, hiểu tinh giản bộ máy là làm gọn, làm bớt đi số lượng bộ máy
và số lượng nhân sự mà lãng quên yếu tố “tinh” thì không bao giờ đạt hiệu
quả tinh giản. Yếu tố tinh phải được quan niệm một cách nghiêm túc, cụ thể
thành tiêu chuẩn hoá từng loại cán bộ và đưa ra các chính sách để những
người ưu tú có điều kiện học tập.
Ngoài ra để thực hiện đồng bộ hoá và tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ
phải cải cách hệ thống chính sách theo hướng khuyến khích cán bộ làm việc
có hiệu quả, khuyến khích người tài năng cống hiến.
1.2. Chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị trấn
1.2.1.Quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường, thị
trấn
Bước vào thời kỳ mới, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt. Trong xây dựng Đảng thì “công tác cán bộ là quan
trọng nhất, là khâu then chốt của vấn đề then chốt ”[3, 22]. Trong hệ thống
chính trị nước ta, đội ngũ cán bộ CCXPTT là người trực tiếp lãnh đạo và tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng ở cơ sở. Vì vậy việc xây
dựng đội ngũ cán bộ CCXPTT vững mạnh góp phần xây dựng nông thôn giàu

đẹp văn minh là đòi hỏi bức thiết, quan trọng hiện nay. Hội nghị BCHTW lần
thứ năm khoá IX đã ra nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, Nghị quyết nêu lên những quan điểm cơ
bản về xây dựng đội ngũ cán bộ CCXPTT trong thời kỳ mới.
* Quan điểm thứ nhất: Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực tổ chức và
vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước,


19

công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham
nhũng, không ức hiếp dân.
Thực chất quan điểm này khẳng định về chất lượng đội ngũ cán bộ
CCXPTT trong thời kỳ mới, thể hiện ở tiêu chuẩn cán bộ.
Trong chiến lược cán bộ thời kỳ mới, Đảng ta đã nêu rõ tiêu chuẩn
chung của người cán bộ, trong đó tiêu chuẩn xuyên suốt là “đức” và “tài”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng khoá IX khẳng định: “xây
dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực
hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy
với dân, không tham nhũng, không ứp hiếp dân” [4, 84 85]
Năng lực, trình độ của người cán bộ trong bất kỳ thời kỳ nào cũng là
nhân tố quan trọng quyết định chất lượng, hiệu quả công việc. Yêu cầu của
người cán bộ CCXPTT trong thời kỳ mới phải toàn diện, phải giỏi về chuyên
môn, hiểu biết sâu sắc đường, chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước,
hiểu biết những kiến thức về lĩnh vực công tác, về nghiệp vụ lãnh đạo, quản
lý, có năng lực giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra
Năng lực, trình độ của người cán bộ CCXPTT, trước hết là năng lực định
hướng chính trị, hiểu biết toàn diện chủ trương, chính sách của Đảng, là khả
năng tổ chức, chuyển hoá các chủ trương, nghị quyết của Đảng thành thực
tiễn cuộc sống, thành lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân. Đồng thời,

đó còn là năng lực biết tập hợp, lôi cuốn mọi người, biết thấu cảm tâm tư,
nguyện vọng của quần chúng, biết phát huy sức dân tạo thành sức mạnh tổng
hợp trong thực hiện nhiệm vụ. Tóm lại, năng lực của người cán bộ CCXPTT
là toàn diện, tổng hợp, được thể hiện bằng hiệu quả thực tế.
Công tâm, tận tụy với dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân là nội
dung quan trọng hàng đầu trong xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và đội
ngũ cán bộ CCXPTT nói riêng. Đây chính là những phẩm chất chính trị của
người cán bộ CCXPTT, đó phải là người có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định với mục tiêu và con đường đi lên CNXH, có lòng trung thành tuyệt đối


20

với Tổ quốc và nhân dân, phấn đấu hết mình vì sự nghiệp cách mạng của
Đảng. Nó được thể hiện ở tinh thần trách nhiệm, hiệu quả hoạt động, nói phải
đi đôi với làm, mang lại lợi ích thiết thực cho dân, cho nước, là “công bộc”, là
“đầy tớ” của dân, trung thực, dám đấu tranh cho lẽ phải, công bằng. Người
cán bộ đó còn phải có lối sống chuẩn mực, tận tụy với dân, không tham
nhũng, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, là người cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư.
Trước sự tác động mặt trái của mặt trái kinh tế thị trường, sự chống phá
quyết liệt của kẻ thù, sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của một số bộ phận
cán bộ CCXPTT, cùng với yêu cầu xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn minh
thì vấn đề đạo đức của người cán bộ CCXPTT là đòi hỏi bức xúc hiện nay.
*Quan điểm thứ hai: Xây dựng đội ngũ cán bộ theo chức danh, bảo
đảm tính thiết thực gắn với trẻ hoá đội ngũ.
Quan điểm này khẳng định quan phương châm đào tạo, bồi dưỡng
trong xây dựng đội ngũ cán bộ CCXPTT là phải theo chức danh, bảo đảm tính
thiết thực và gắn với trẻ hoá, như Lênin đã nói: “Cán bộ lãnh đạo, quản lý ở
lĩnh vực nào phải có tri thức, có kinh nghiệm trong lĩnh vực ấy” [ 18, 16 17].

Thời đại nào có con người ấy, công tác đào tạo phải phục vụ vào việc
tạo ra mẫu người mà thời đại cần. Những phẩm chất của người cán bộ trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sẽ không giống như cán bộ trong thời kỳ
xây dựng CNXH, cán bộ thời kỳ trước đổi mới sẽ không giống cán bộ thời kỳ
đổi mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng khoá IX chỉ rõ: Hệ
thống chính trị ở cơ sở có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách.
Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động
để thực hiện chức trách được giao bao gồm: Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử
như: cán bộ chủ chốt của cấp uỷ đảng, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân,
những người đứng đầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội
và cán bộ được Uỷ ban nhân dân tuyển chọn như: công an trưởng, xã đội
trưởng…Mỗi loại cán bộ ngoài những phẩm chất đức, tài nói chung , còn phải


21

có những phẩm chất, yêu cầu cụ thể gắn với chức danh của từng cương vị.
Trong điều kiện kinh tế nước ta khó khăn, kinh phí còn hạn hẹp, thì thời gian
tới chỉ có khoảng 2/3 trong tổng số cán bộ CCXPTT được đi học và cũng chỉ
có thể học một lần. Bởi vậy, để xây dựng đội ngũ cán bộ CCXPTT vững
mạnh, toàn diện phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với từng loại
cán bộ gắn với chức danh của người đó.
Khẳng định xây dựng đội ngũ cán bộ CCXPTT theo chức danh, bảo
đảm tính thiết thực nghĩa là “trên cơ sở quy hoạch, đẩy mạnh việc đào tạo,
đào tạo lại cán bộ theo chức danh và cán bộ dự nguồn. Nâng cao chất lượng
và hiệu quả công tác đào tạo, chú ý bồi dưỡng phẩm chất chính trị, trình độ
nghề nghiệp, năng lực thực tiễn, xử lý tình huống, khắc phục những biểu hiện
tiêu cực trong quá trình đào tạo”[7 ]. Người cán bộ CCXPTT phải được chú
trọng nâng cao bản lĩnh chính trị tư tưởng, đạo đức cách mạng, nâng cao kiến
thức, năng lực chuyên môn, phải là người có văn hoá, văn hoá trong lãnh đạo,

quản lý, trong giao tiếp ứng xử, văn hoá trong điều hành công việc, trong sinh
hoạt của bản thân. Đồng thời việc lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và đổi mới
nội dung, chương trình đào tạo phải căn cứ vào thực tế công tác của đội ngũ
cán bộ CCXPTT theo từng chức danh, bảo đảm hiệu quả cao.
Quán triệt quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ CCXPTT còn thể hiện ở
việc thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, tức là trên cơ sở nắm vững tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ, xuất
phát từ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chức năng, nhiệm
vụ của từng chức danh trong tổ chức, xuất phát từ thực tế và nhiệm vụ xây
dựng đội ngũ cán bộ CCXPTT để thực hiện tiêu chuẩn hoá các chức danh của
đội ngũ cán bộ CCXPTT. Làm tốt việc đó sẽ tạo cơ sở cho việc xây dựng đội
ngũ cán bộ sát thực tế, đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Đồng thời với xây dựng đội ngũ cán bộ theo chức danh phải gắn với trẻ
hoá, vì đây là yếu tố đảm bảo cho sự phát triển kế tiếp, bền vững của đội ngũ
cán bộ. Đánh giá về vai trò của tuổi trẻ, trong bài diễn văn đọc tại đại hội III


22

Đoàn thanh niên Cộng sản Nga, Lênin đã nói: “nhiệm vụ thật sự xây dựng xã
hội cộng sản chủ nghĩa chính là của thanh niên. Bởi vì rõ ràng là thế hệ những
người lao động được đào tạo trong xã hôi tư bản chủ nghĩa thì giỏi lắm chỉ có
thể giải quyết được nhiệm vụ xây dựng một cơ chế xã hội có khả năng giúp
cho giai cấp vô sản và các giai cấp cần lao giữ lấy chính quyền trong tay và
đặt được một nền móng vững chắc” [16, 354]. Và “thế hệ thanh niên là những
người đã bắt đầu trở thành những người giác ngộ, trong một hoàn cảnh đấu
tranh có kỷ luật và quyết liệt chống lại giai cấp tư sản. Trong cuộc đấu tranh
này, thế hệ đó sẽ đào tạo ra những người cộng sản chân chính”[16, 371]. Hồ
Chí Minh cũng khẳng định: tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội.
Quán triệt quan điểm trẻ hoá phải bắt đầu từ khâu quy hoạch, phải “đặc

biệt quan tâm tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ có thành tích xuất sắc”[7
] đồng thời “dành một tỷ lệ thích đáng biên chế hành chính để tuyển dụng
những người trẻ tuổi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện, được đàp tạo cơ bản, những
sinh viên ưu tú đã tốt ngiệp đưa về cơ sở làm việc”[7 ]
Cán bộ trẻ có vị trí vô cùng quan trọng trong sự phồn thịnh, phát triển
đối với đất nước và trực tiếp nhất là ở xã, phường, thị trấn.Thực tế cho thấy
tuổi đời bình quân của đội ngũ cán bộ CCXPTT hiện nay còn cao, vì vậy, yêu
cầu trẻ hoá càng trở nên quan trọng và cần thiết. Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm BCHTW khoá IX khẳng định: “trẻ hóa đội ngũ cán bộ, chăm lo công tác
đào tạo, bồi dưỡng”.[4 ] Để xây dựng được đội ngũ cán bộ trẻ lại đủ đức, đủ
tài, vừa hồng vừa chuyên đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn
minh cần phải thực hiện đồng bộ, khoa học, chặt chẽ và liên hoàn một quy
trình gồm các khâu: phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng. Trước thực tế,
tuổi đời bình quân của đội ngũ cán bộ CCXPTT hiện nay còn cao thì yêu cầu
trẻ hoá càng trở nên quan trọng và cần thiết.
* Quan điểm thứ ba: Xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn với giải quyết
hợp lý và đồng bộ chính sách cán bộ.


23

Chính sách cán bộ bao gồm nhiều lĩnh vực rất phức tạp, tác động sâu
sắc đến bản thân đội ngũ cán bộ. Chính sách là nơi thể hiện cụ thể nhất đường
lối của Đảng trong cuộc sống. Chính sách cán bộ bao gồm: chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, chính sách sử dụng và quản lý cán bộ, chính sách bảo
đảm lợi ích vật chất, tinh thần của cán bộ…chính sách có thể mở đường, là
động lực thúc đẩy tính tích cực, tài năng sáng tạo, nhiệt tình trách nhiệm của
mỗi người, nhưng cũng có thể kìm hãm hoạt động, làm thui chột tài năng,
sáng tạo của con người. Vì vậy xây dựng đội ngũ cán bộ CCXPTT phải gắn với
giải quyết hợp lý, đồng bộ chính sách cán bộ. Có thể nói, trong tình hình hiện

nay, việc đổi mới cơ chế, chính sách đối với cán bộ là khâu có tính đột phá.
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mở và động, đặc trưng của cơ chế thị
trường là tính cạnh tranh, do vậy hệ thống cơ chế, chính sách mới phải tạo
điều kiện cho cán bộ có thể phát huy hết năng lực sáng tạo của mình. Mỗi cán
bộ có quyền thể hiện, khẳng định phẩm chất, năng lực của mình. Đại hội IX
của Đảng chỉ rõ: có cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, trọng dụng người có tài.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá IX về đổi mới và nâng
cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn nhấn mạnh:
“giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở”[4, 85] Theo
tinh thần đó, chính sách đối với cán bộ CCXPTT phải hướng vào một số vấn
đề sau:
Một là: phát huy dân chủ, tính tích cực năng động, sáng tạo, kích thích
tính tích cực cá nhân, gắn trách nhiệm với quyền lợi, góp phần quan trọng vào
cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ hiện nay.
Hai là: phải hết sức linh hoạt, đảm bảo cho việc kích thích tài năng phát
triển, tạo điều kiện cho cán bộ cơ sở có cơ hội thể hiện phẩm chất và năng lực
của mình, cống hiến và phục vụ nhiều hơn cho tổ quốc và nhân dân.


24

Ba là: phải đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, tạo điều kiện cho cán bộ
cơ sở có cơ hội thể hiện phẩm chất, năng lực, cống hiến và phục vụ tổ quốc,
nhân dân.
Bốn là: phải kết hợp chặt chẽ giữa vật chất và tinh thần tạo động lực
phấn đấu cho mỗi cán bộ.
Việc đổi mới chính sách cán bộ đối với đội ngũ cán bộ CCXPTT phải
được tiến hành đồng bộ trong tất cả các khâu từ tiền lương, khen thưởng đến
lựa chọn, đào tạo, bố trí, sử dụng và quản lý cán bộ

* Quan điểm thứ tư: Xây dựng đội ngũ cán bộ gồm nhiều thế hệ, bổ sung kế
tiếp nhau thông qua việc rèn luyện đội ngũ đảng viên và phát hiện, bồi
dưỡng những người có tài, có đức trong dân
Quan điểm này khẳng định xây dựng đội ngũ cán bộ CCXPTT gồm
nhiều thế hệ, kết hợp trẻ-già, cũ-mới, ba thế hệ để bổ sung, thay thế nhau,
nghĩa là trong một lớp cán bộ phải kết hợp hài hoà các lớp người, độ tuổi,
luôn chủ động nguồn cán bộ kế tiếp.
Xây dựng đội ngũ cán bộ gồm nhiều thế hệ bổ sung, kế tiếp nhau là yêu
cầu khách quan, vừa cơ bản, vừa cấp bách. Đảng khẳng định: “trẻ hoá đội ngũ
cán bộ là một nhiệm vụ vừa có ý nghĩa cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu
dài; đồng thời cần có chính sách sử dụng hợp lý cán bộ lớn tuổi còn sức khỏe,
minh mẫn”[7 ]. Thực trạng đội ngũ cán bộ CCXPTT cho thấy: Một bộ phận
cán bộ trưởng thành trong chiến tranh, có kinh nghiệm, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, nhưng lại thiếu tri thức quản lý kinh tế, quản lý nhà nước trong
thời kỳ mới, tuổi đời tương đối cao, một bộ phận cán bộ trẻ được đào tạo cơ
bản, năng động, sáng tạo, song lại thiếu kinh nghiệm, thiếu bản lĩnh chính trị.
Vì vậy xây dựng đội ngũ cán bộ phải kết hợp hài hoà các độ tuổi để bổ sung
ưu, khuyết cho nhau, đồng thời bảo đảm nguồn kế cận.
Cán bộ không thể hình thành một cách tự phát mà phải có quá trình chọn
lọc, thử thách. Đội ngũ cán bộ CCXPTT là những người chịu trách nhiệm cho
hoạt động của tổ chức Đảng và chính quyền địa phương, vì vậy đòi hỏi phải có


25

những phẩm chất, năng lực nhất định, có đức, có tài, có uy tín trong quần chúng
nhân dân. Việc rèn luyện đội ngũ đảng viên, phát hiện người có tài, có đức trong
dân là con đường cơ bản để xây dựng đội ngũ cán bộ CCXPT.
Các nhà kinh điển Mác-Lênin và chủ tịch Hồ Chí Minh đều khẳng
định: trong quần chúng nhân dân không thiếu người có tài, có đức để làm

cán bộ. Lênin chỉ ra: Trong những công nhân và nông dân bình thường có
rất nhiều người “trung thành với quyền lợi của quần chúng lao động và có
khả năng làm công tác cán bộ”[15, 257]. Hồ Chí Minh ngay từ khi cách
mạng mới thành công, Người đã có niềm tin vững chắc vào đồng bào để
lựa chọn cán bộ, Người cho rằng: “Trong số 20 triệu đồng bào chắc không
thiếu người có tài, có đức..các địa phương phải lập điều tra nơi nào có
người tài, đức, có thể làm được những việc ích nước, lợi dân thì báo cáo
ngay cho chính phủ biết”[10, 451]. Đội ngũ đảng viên là tinh hoa của nhân
dân, điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Đảng viên Đảng Cộng
sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiền phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi
ích của Tổ quốc, của giai câp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi
ích cá nhân, có đạo đức và lối sống lành mạnh
Như vậy, đội ngũ đảng viên và những người có tài, có đức trong dân,
đó là nguồn cán bộ dồi dào, cơ bản của Đảng, của đất nước và từng địa
phương, phải có lòng tin vào họ. Quán triệt quan điểm này chúng ta phải đứng
trên quan điểm quần chúng, thông qua phong trào của quần chúng, đồng thời
quản lý, giám sát chặt chẽ, toàn diện đội ngũ Đảng viên, chỉ có vậy chúng ta
mới có điều kiện phát hiện, lựa chọn, đào tạo được những cán bộ tài năng, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
* Quan điểm thứ năm: Dựa vào dân và thông qua hoạt động thực tiễn
ở cơ sở để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra cán bộ.
Quan điểm này thể hiện rõ phương châm gần dân, sát dân, thân
dân trong xây dựng đội ngũ cán bộ CCXPTT của Đảng ta. Gần dân, sát


×