Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo CÔNG tác tư TƯỞNG TRONG CÔNG CUỘC đổi mới từ năm 1986 đến năm 2002

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.67 KB, 90 trang )

1

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong mọi giai đoạn cách mạng, công tác tư tưởng của Đảng luôn có tầm
quan trọng hàng đầu, là một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công của
cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hiện nay, CTTT không những
không giảm nhẹ mà còn được đổi mới, tăng cường hơn nữa.
Trong sự nghiệp cách mạng, CTTT luôn là bộ phận cấu thành rất quan
trọng, quan hệ trực tiếp đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. CTTT khơng
chỉ góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng, xây dựng khối đồn kết thống nhất
trong tồn Đảng, tồn dân, mà cịn góp phần, nâng cao trình độ trí tuệ, xây dựng
đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân. CTTT khơng
chỉ tham gia vào q trình hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, mà còn cổ vũ, động viên, tuyên truyền giáo dục, thuyết phục quần chúng
nhân dân hăng say lao động; tự giác phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng,
đấu tranh với những tư tưởng sai trái. Do vậy CTTT liên quan trực tiếp đến vận
mệnh của Đảng, đến tương lai, tiền đồ của dân tộc.
Trong những năm gần đây, trước những biến đổi nhanh chóng, phức tạp
của tình hình thế giới và trong nước, nhất là sau khi các nước XHCN ở Đông Âu
và Liên Xô sụp đổ, CNXH thế giới tạm thời lâm vào thoái trào đã ảnh hưởng
lớn đến tư tưởng và CTTT của Đảng, của nhân dân ta.
Công tác tư tưởng của Đảng trong hơn 15 năm qua đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, trên các lĩnh vực; nhưng bên cạnh đó CTTTcịn khơng ít yếu
kém như Nghị quyết 09 Đảng ta đánh giá "Việc quán triệt các Nghị quyết của
Đảng chưa được tiến hành nghiêm túc, gắn với việc kiểm tra thực hiện; chưa kịp
thời phổ biến những kinh nghiệm tốt, phê phán các quan điểm sai trái, uốn nắn
những khuynh hướng lệch lạc. Đấu tranh chống các luận điệu thù địch còn thụ


động và thiếu sắc bén. Cơng tác tư tưởng chưa góp phần tạo ra một phong trào
quần chúng hành động cách mạng thực sự sôi nổi, mạnh mẽ và liên tục. Việc lý


2

2

giải nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn kém thuyết phục. Công tác giáo dục lý luận
Mác - Lênin chậm đổi mới về nội dung và phương thức. Việc nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh cịn thiếu hệ thống, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng
bị xem nhẹ. Chưa chú trọng đào tạo bồi dưỡng cán bộ tư tưởng, lý luận" [43,
42].
Tình hình đó đặt ra u cầu: Để làm cho cán bộ đảng viên và mọi tầng lớp
nhân dân nhận thức được giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, hiểu và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới đúng đắn của
Đảng Cộng sản Việt Nam; để phát triển kinh tế thị trường nhưng vẫn giữ vững
được giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ vững được định hướng XHCN;
để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, vì mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" thì Đảng Cộng sản Việt
Nam phải quan tâm lãnh đạo chặt chẽ hơn nữa CTTT. Có như vậy CTTT mới
góp phần thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới đất nước đến thắng lợi.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
công tác tư tưởng trong công cuộc đổi mới từ 1986 đến 2002" làm luận văn thạc
sỹ, vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Về tư tưởng và CTTT đã có nhiều tác phẩm, cơng trình khoa học của các
đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các cơ quan và các nhà khoa học đề cập
đến, tiêu biểu là: Cuốn "Một số vấn đề về công tác tư tưởng" của Đào Duy Tùng,
Nxb CTQG, H. 1999; Cuốn "Góp phần đổi mới cơng tác tư tưởng, lý luận" của

Trần Trọng Tân, Nxb CTQG, H. 1996; Cuốn "Một số vấn đề lý luận và nghiệp
vụ công tác tư tưởng" của Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Nxb CTQG, H.
1996; Cuốn "Nguyên lý công tác tư tưởng" tập 1 của Lương Khắc Hiếu, Nxb
CTQG, H. 1999… Các báo cáo tổng kết của Ban tư tưởng - Văn hoá Trung ương
tại Hội nghị cơng tác tư tưởng, văn hố tồn quốc tháng 3 - 1997; Các đồng chí


3

3

Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Phú Trọng, Hữu Thọ cũng có nhiều bài viết về
CTTT của Đảng hiện nay.
Về sự lãnh đạo của Đảng đối với CTTT đã có một số luận án tiến sĩ của các
tác giả như: Cao Văn Định với đề tài "Chất lượng công tác tư tưởng tổ chức cơ
sở Đảng (cấp xã), vùng đồng bào dân tộc ít người"; Lê Bỉnh với đề tài: "Đặc thù
của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng ở nước ta hiện nay và sự tác động của nó đến
quân đội"; luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị An với đề tài "Vai trị cơng tác tư tưởng
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới"; luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Vũ Tiến với đề tài "Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong giai
đoạn hiện nay"; Nguyễn Văn Minh với đề tài "Đổi mới công tác tư tưởng của tổ
chức cơ sở đảng nông thôn ngoại thành Hà Nội"…
Những cơng trình khoa học, những tác phẩm, những bài viết trên đã đề cập
đến CTTT của Đảng trên nhiều góc độ khác nhau, nhưng chưa có một cơng trình
nào đề cập một cách đầy đủ và có hệ thống về Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng
trong sự nghiệp đổi mới từ 1986 đến 2002 dưới góc độ lịch sử Đảng. Các cơng
trình khoa học trên là những tài liệu cung cấp nhiều tư liệu quý để tác giả tham
khảo, kế thừa trong quá trình viết luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Luận văn có mục đích: làm rõ quan điểm của Đảng về CTTT và quá trình

lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với CTTT trong cơng cuộc đổi mới,
từ đó rút ra một số kinh nghiệm bước đầu lãnh đạo CTTT của Đảng.
Để thực hiện được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ là:
- Làm rõ nội hàm các khái niệm: "tư tưởng", "công tác tư tưởng", chỉ ra cấu
trúc, vai trị của CTTT.
- Trình bày những thành tựu và hạn chế của CTTT trong những năm đổi
mới, từ đó phân tích làm rõ các quan điểm cơ bản của Đảng ta đối với CTTT.


4

4

- Nêu lên những nhân tố trực tiếp tác động đến tư tưởng và CTTT, làm rõ
quá trình chỉ đạo của Đảng về CTTT trong công cuộc đổi mới đất nước.
- Rút ra một số kinh nghiệm bước đầu lãnh đạo CTTT của Đảng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư
tưởng và CTTT.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp lịch
sử, phương pháp lơ gíc và kết hợp hai phương pháp đó. Ngồi ra cịn sử dụng
các phương pháp khác như: phân tích, thống kê, so sánh…
5. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần tổng kết q trình lãnh đạo của
Đảng ta về CTTT trong công cuộc đổi mới.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
lịch sử Đảng ở các Học viện, nhà trường trong quân đội.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết
cấu thành 2 chương, 6 tiết.


5

5

Chương 1
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG CỘNG CUỘC ĐỔI MỚI TỪ 1986 ĐẾN 2002

1.1. Vị trí, vai trị của cơng tác tư tưởng
1.1.1. Khái niệm về tư tưởng và công tác tư tưởng
* Khái niệm tư tưởng
Cho đến nay đã có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về tư tưởng. Trong
Đại từ điển tiếng Việt đưa ra định nghĩa tư tưởng là "sự suy nghĩ tập trung tư
tưởng làm việc" "quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với thế giới tự
nhiên và xã hội" [21, 175]. Trong Từ điển Triết học định nghĩa "tư tưởng là một
hình thái phản ánh thế giới xung quanh con người, tổng hợp các quan niệm, khái
niệm thành một thể duy nhất. Tư tưởng có thể tác động tích cực đến q trình
phát triển xã hội" [53, 1303]. Trong mục "tìm hiểu khái niệm" của Tạp chí cộng
sản (số 1/1993) khẳng định: "Tư tưởng là những suy nghĩ, những ý niệm về các
sự vật, hiện tượng được phản ánh trong ý thức, là biểu hiện các quan hệ của con
người đối với thế giới xung quanh. Tư tưởng do chế độ xã hội, điều kiện sinh
hoạt vật chất của con người quyết định. Thực chất và nguồn gốc tư tưởng ở trong
cơ sở kinh tế, trong điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, trong tồn tại xã hội.
Tư tưởng mang tính lịch sử…". Khái niệm về tư tưởng mà Tạp chí cộng sản đưa
ra có nhiều yếu tố hợp lý hơn cả. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng nhu cầu của

đời sống xã hội có hai mặt: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Hai lĩnh vực
đáp ứng nhu cầu đó là: sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Lĩnh vực vật chất
xét cho cùng quyết định lĩnh vực tinh thần; ngược lại, lĩnh vực tinh thần có tính
độc lập tương đối và tác động trở lại lĩnh vực vật chất. Tư tưởng là một bộ phận


6

6

của lĩnh vực tinh thần có vai trị rất quan trọng trong đời sống của con người và
trong xã hội.
Khi xã hội có giai cấp, tư tưởng gắn liền với giai cấp, hay nói đúng hơn gắn
liền với lợi ích giai cấp. Theo C. Mác tư tưởng phải gắn với lợi ích, tư tưởng mà
khơng gắn với lợi ích là điều hết sức vô nghĩa.
Tư tưởng là sản phẩm của sự phản ánh hiện thực và thường được thông qua
lăng kính của các nhà tư tưởng, lẽ dĩ nhiên trong xã hội có giai cấp ln có sự
đấu tranh giữa các giai cấp về mặt tư tưởng để truyền bá, thu phục lịng người,
lơi kéo quần chúng nhân dân theo quan điểm tư tưởng của giai cấp, nhằm biến tư
tưởng thành sức mạnh hành động để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giai
cấp. Thực chất đấu tranh tư tưởng là biểu hiện của đấu tranh giai cấp. Trong cuộc
đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, cuộc đấu tranh tư tưởng đã góp phần
quan trọng vào việc giành chính quyền, sau khi có chính quyền, cuộc đấu tranh
tư tưởng của giai cấp vô sản vẫn tiếp tục để chống các tàn dư tư tưởng và các tư
tưởng thù địch phản động.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Tư tưởng là ý niệm, quan điểm phản ánh
tương đối khái quát hiện thực trong ý thức, biểu thị những lợi ích ít nhiều có tính
phổ biến của con người (nhóm người, cộng đồng người, giai cấp, xã hội).
Tương ứng với các hình thái ý thức xã hội có tư tưởng chính trị, tư tưởng
triết học, tư tưởng khoa học, tư tưởng đạo đức, tư tưởng pháp quyền… trong đó

tư tưởng chính trị chi phối mạnh mẽ các tư tưởng khác, vì nó phản ánh tập trung
nhất cơ sở kinh tế của xã hội. Tư tưởng mang tính lịch sử, vì nó phản ánh tồn tại
xã hội trong một điều kiện lịch sử nhất định.
Trong lịch sử, các giai cấp đại biểu cho một hình thái kinh tế xã hội nhất
định (giai cấp chủ nô, giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản, giai cấp vơ sản) đã hệ
thống hố, khái qt hố tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư tưởng dùng làm
vũ khí lý luận trong đấu tranh giai cấp. Hệ tư tưởng là sản phẩm của nhà tư


7

7

tưởng, trên cơ sở bảo vệ, phát triển, hệ thống hố các quan điểm tư tưởng phản
ánh lợi ích giai cấp mà họ là đại diện. Hệ tư tưởng mang tính khái qt hố, trừu
tượng hố cao và có tính ổn định tương đối cho nên nó thuộc cấp độ ý thức lý
luận trong ý thức xã hội. Hệ tư tưởng mang bản chất giai cấp, do đó, q trình
hình thành, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng trong tồn xã hội ln bị chi phối
bởi quan điểm và lợi ích của giai cấp là chủ thể của hệ tư tưởng.
Sự ra đời tồn tại của tư tưởng và hệ tư tưởng gắn liền với tồn tại xã hội, với
lợi ích của con người. Muốn xây dựng, truyền bá hay giải quyết các vấn đề về tư
tưởng có hiệu quả phải căn cứ vào tồn tại xã hội, quan tâm đến lợi ích thiết thân,
chính đáng của con người. Mặt khác, tư tưởng và hệ tư tưởng cịn có tính độc lập
tương đối so với tồn tại xã hội.
Tư tưởng và hệ tư tưởng là các khái niệm có sự khác nhau nhưng xét về
tính chất chúng quan hệ chặt chẽ với nhau. Hệ tư tưởng khoa học tiến bộ sẽ góp
phần làm cho đời sống tư tưởng xã hội ổn định, tư tưởng của các nhóm xã hội,
của từng cá nhân mang tính tiến bộ, nhân bản. Hệ tư tưởng là cơ sở để hình
thành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cầm quyền và của các lực
lượng chính trị, đồng thời cũng là cơ sở để đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc.

Mặt khác những tư tưởng độc lập, sáng tạo của mỗi cá nhân, nhất là tư tưởng của
các vĩ nhân trong một tổ chức chính trị - xã hội là nhân tố quan trọng góp phần
bổ sung, phát triển hệ tư tưởng chủ đạo của xã hội, làm cho hệ tư tưởng luôn phù
hợp với sự vận động, phát triển không ngừng của xã hội.
Tư tưởng và hệ tư tưởng có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động của con
người và đời sống xã hội lồi người. Vì vậy, khi bước lên vũ đài chính trị thực
hiện sự lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội, giai cấp nào cũng chăm lo đến
CTTT, coi CTTT như một vũ khí sắc bén nhất để phục vụ sự thống trị của mình.
* Khái niệm công tác tư tưởng
Lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta từ khi có Đảng đến nay đều gắn
liền với lịch sử CTTT của Đảng. CTTT đã thật sự đóng vai trị tiên phong trên


8

8

mặt trận lý luận, tư tưởng để từng bước hoàn thiện đường lối, chủ trương của
Đảng và tổ chức thực hiện tốt, chủ trương của Đảng.
Vấn đề đặt ra là hiểu khái niệm CTTT của Đảng như thế nào cho đúng?
Khi bàn về khái niệm CTTT thì có nhiều cách tiếp cận khác nhau chẳng hạn
như:
Cách tiếp cận CTTT theo quá trình hình thành phát triển và truyền bá hệ tư
tưởng của giai cấp giữ vị trí thống trị trong lịch sử: "Cơng tác tư tưởng là hoạt
động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng, nhằm hình thành và phát
triển hệ tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng
hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng" [22, 11-12]. Cách tiếp cận CTTT
theo quan điểm của giai cấp vô sản "Công tác tư tưởng là hoạt động đa dạng và
quan trọng vào bậc nhất của Đảng Mác - Lênin và Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
nhằm xây dựng, xác lập, phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hình thành

niềm tin, định hướng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan khoa
học cho con người, thúc đẩy con người hành động tích cực và sáng tạo, để thực
hiện thắng lợi lý tưởng và mục tiêu của xã hội chủ nghĩa" [40,23]. Cũng theo
cách tiếp cận này tác giả Đào Duy Tùng đưa ra khái niệm "Công tác tư tưởng là
một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của
Đảng. Công tác tư tưởng cùng với công tác tổ chức góp phần xây dựng Đảng
thành đội tiền phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Nó có nhiệm vụ giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chủ
trương của Đảng cho cán bộ đảng viên và quần chúng, nhằm nâng cao tính tự
giác, chủ động, sáng tạo của họ trong việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị cụ
thể do Đảng đề ra; đồng thời nó cũng góp phần vào việc hình thành đường lối,
chủ trương của Đảng… góp phần xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa"…
[50, 7-8]. Tác giả Trần Trọng Tân quan niệm "Công tác tư tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam chúng ta là nhằm xây dựng cho con người có tư tưởng đúng, để
hành động đúng, thúc đẩy con người tiến bộ, xã hội phát triển và đấu tranh
chống lại những tư tưởng sai, dẫn đến những hành động sai, làm cản trở hoặc
kìm hãm sự phát triển của xã hội, làm cho con người lạc hậu, thoái hoá" [46,


9

9

162]. Tác giả Hữu Thọ đưa ra khái niệm "Công tác tư tưởng - văn hoá là hoạt
động quan trọng của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhằm xác lập, phát
triển hệ tư tưởng XHCN, hình thành niềm tin, định hướng giá trị đúng đắn, góp
phần xây dựng thế giới quan khoa học và tư tưởng, tình cảm, nhân cách, đạo
đức, lối sống, tri thức đảm bảo con người có hành động tích cực và chủ động,
sáng tạo để thực hiện thắng lợi lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Trong giai đoạn này là đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, vì mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng
XHCN…" [41,1].
Với cách tiếp cận CTTT từ nhiều góc độ khác nhau đó, nhưng về cơ bản
nội hàm của khái niệm CTTT đề cập đến chủ thể, đối tượng CTTT; vị trí, vai trị
CTTT đối với giai cấp, chính đảng; các hình thức hoạt động của CTTT; các
nhiệm vụ để đạt mục tiêu CTTT.
Các khái niệm về CTTT được đề cập ở trên cho thấy: Bản chất CTTT của
Đảng mác xít là hoạt động có chủ đích do chính Đảng của giai cấp vơ sản lãnh
đạo, nhằm làm cho tư tưởng và hệ tư tưởng của giai cấp mình chi phối tồn bộ
xã hội, góp phần vào sự thành cơng của cách mạng XHCN vì lợi ích giai cấp vơ
sản và lợi ích dân tộc.
Như vậy, trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý của các cách định nghĩa
nêu trên có thể nói rằng: CTTT của Đảng là một bộ phận cấu thành rất quan
trọng trong công tác xây dựng Đảng và trong toàn bộ hoạt động cách mạng của
Đảng, nhằm xây dựng Đảng ln vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
tác động có định hướng lên trạng thái và quá trình vận động của ý thức xã hội
theo các quy luật riêng của nó, để phát triển tiềm năng sáng tạo tinh thần của xã
hội, góp phần hình thành những con người mới và xã hội mới. Mục tiêu cơ bản
của nó là xác lập thế giới quan, hệ tư tưởng và lập trường của giai cấp công
nhân, nâng cao nhận thức chính trị và bản lĩnh chính trị cho toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân; đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái, phản động; bảo


10

10

vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc.
Công tác tư tưởng của Đảng có 3 bộ phận hợp thành: cơng tác nghiên cứu

lý luận, công tác tuyên truyền giáo dục và công tác cổ động.
Công tác nghiên cứu lý luận là bộ phận quan trọng hàng đầu của CTTT,
nhằm tổng kết thực tiễn, phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, từng bước làm phong phú hệ tư tưởng của Đảng.
Công tác tuyên truyền giáo dục là một bộ phận của CTTT có nhiệm vụ
truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm làm cho mọi cán bộ, đảng
viên và nhân dân từng bước nhận thức được quy luật tồn tại và phát triển của xã
hội loài người, thấm nhuần đường lối, chủ trương có căn cứ khoa học, trên cơ sở
đó nâng cao niềm tin, hành động tự giác và sáng tạo.
Công tác cổ động nhằm tác động trực tiếp vào tâm lý, tình cảm của
quần chúng. Bằng việc thơng tin, giải thích cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân hiểu biết kịp thời những sự kiện đang diễn ra trong đời sống. Nắm bắt
được đường lối, chủ trương, chính sách; cổ vũ động viên mọi người hành
động vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam độc lập giàu mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh.
Như vậy, ba bộ phận của CTTT tuy có khác nhau về mục tiêu, phương thức
tiến hành, song có quan hệ gắn bó với nhau, cùng tác động đến nhận thức tư
tưởng, tâm lý, tình cảm của quần chúng, tạo sự thống nhất về ý chí và hành
động, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng. Trong CTTT
Đảng phải kết hợp ba bộ phận đó sao cho hiệu quả nhất.
1.1.2. Vị trí, vai trị của cơng tác tư tưởng trong sự nghiệp đổi mới
CTTT của Đảng là những hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo của Đảng trên
lĩnh vực tư tưởng, nhằm xây dựng Đảng vững về chính trị, tư tưởng và định


11

11


hướng sự phát triển của đời sống ý thức xã hội. Nó là lĩnh vực hoạt động đối với
con người, trực tiếp tác động vào ý thức con người, xây dựng con người và xây
dựng tổ chức, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng. CTTT luôn là một
trong những hoạt động có vị trí quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp cách mạng
của Đảng. Tư tưởng tiến bộ khi đã thâm nhập vào quần chúng sẽ tạo thành sức
mạnh vô cùng to lớn, như Mác khẳng định: "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên
khơng thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể
bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất: nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng
vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [30, 580]. Luận điểm "lý luận
cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng" có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng. Nó khơng những chỉ ra cho chúng ta thấy khả năng
biến lý luận thành thực tiễn, mà cịn nói lên sự lợi hại của vũ khí lý luận và sự
cần thiết phải trang bị lý luận cho những người hoạt động thực tiễn, cho quần
chúng nhân dân. Điều này thống nhất với quan điểm "cách mạng là sự nghiệp
của
quần chúng".
Trong sự nghiệp cách mạng CTTT là một bộ phận cấu thành rất quan trọng,
quan hệ trực tiếp đến sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. CTTT góp phần
xây dựng cương lĩnh đường lối, cách mạng đúng đắn của Đảng, góp phần xây
dựng Đảng vững về chính trị, tư tưởng; mang lại nhân tố tự giác cho quần chúng
tham gia sự nghiệp cách mạng. Nói cách khác CTTT có vai trị xây dựng và trau
dồi tri thức cách mạng, hun đúc tình cảm cách mạng. Nghị quyết 09 của Bộ
Chính trị (khố VII) chỉ rõ vai trò CTTT trong sự nghiệp đổi mới là "tăng cường
sự nhất trí trong Đảng, sự thống nhất về chính trị và tinh thần trong nhân dân,
nâng cao ý chí phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đấu tranh chống
"Diễn biến hồ bình", giữ vững trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thúc đẩy
mạnh mẽ phong trào cách mạng của nhân dân. Cung cấp luận cứ khoa học cho



12

12

việc cụ thể hố và phát triển đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong
thời kỳ mới phù hợp với đặc điểm của nước ta và của thế giới ngày nay, góp
phần làm rõ con đường đi lên CNXH và bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc" [43, 43].
Để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng trước hết Đảng phải đề ra cương
lĩnh, đường lối cách mạng đúng, muốn vậy phải làm tốt việc nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn. Đây là nhiệm vụ cơ bản nhất, quan trọng nhất, quyết định trực
tiếp đến đường lối cách mạng và liên quan đến vận mệnh của cả một dân tộc.
Lênin chỉ rõ: nếu khơng có lý luận cách mạng thì khơng thể có phong trào cách
mạng, "chỉ đảng nào có được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả
năng làm trịn vai trị chiến sĩ tiền phong" [26, 32]. Trong tác phẩm "Đường cách
mệnh" lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết: "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tầu khơng có bàn chỉ
nam" và Người nhấn mạnh "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"
[34, 268]. Khi đất nước cịn chìm đắm trong đêm dài nơ lệ, Đảng đã vạch ra
đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, đường lối đó đã thực sự trở thành ngọn
đèn pha soi đường cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi gian nan thử thách. Vào
những năm 80-90 của thế kỷ XX, khi công cuộc cải tổ của các nước XHCN ở
Đông Âu và Liên Xô lâm vào khủng hoảng, chế độ XHCN ở các nước đó sụp đổ
thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, kiên trì mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Thành tựu của hơn 15 năm đổi mới vừa qua là
một bằng chứng sinh động về sự thành công của Đảng ta trên mặt trận lý luận.
Cùng với việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, CTTT đã tham gia
tích cực vào việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và

pháp luật của Nhà nước, đưa hệ tư tưởng cách mạng và khoa học vào giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, đem lại cho họ những hiểu biết về quy luật
phát triển của xã hội và những tri thức về thế giới quan khoa học, về đường lối


13

13

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, giúp cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân gạt bỏ những tàn dư tư tưởng xấu còn rơi rớt lại và những tư tưởng
lệch

lạc

mới

phát sinh.
Trong xây dựng nội bộ Đảng, CTTT là nhân tố quyết định trực tiếp đến
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Có thể khẳng định rằng cùng với
cơng tác tổ chức, CTTT góp phần xây dựng Đảng thành đội tiền phong, bộ tham
mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Trong xây dựng nội bộ Đảng, CTTT có vai trị xây dựng và bảo vệ hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân, chủ trương, đường lối của Đảng, tạo cơ sở đoàn kết,
thống nhất trong Đảng, phát huy tính sáng tạo của các tổ chức đảng và đảng
viên. Bởi vì, sự thống nhất tư tưởng bao giờ cũng xuất phát từ quan điểm chung,
lợi ích chung, mục đích chung. Khơng đảm bảo được các u cầu đó, sẽ khơng
có cơ sở cho sự tồn tại bền vững của sự đoàn kết, thống nhất. Mặt khác, nhờ đấu
tranh tư tưởng mà phân biệt được đúng, sai, giữa cách mạng khoa học với bảo
thủ, trì trệ để giúp cho Đảng lớn mạnh và phát triển không ngừng. Cũng thông

qua đấu tranh tư tưởng, một mặt những vấn đề cơ bản có tính ngun tắc của
Đảng được khẳng định trước nhận thức cịn lệch lạc khơng đúng của một bộ
phận cán bộ, đảng viên, hoặc sự xuyên tạc chống phá của các thế lực thù địch;
mặt khác thông qua đấu tranh tư tưởng mà kịp thời phát hiện những vấn đề còn
khiếm khuyết, chưa đúng trong đường lối chủ trương, để sửa chữa và bổ sung
kịp thời những vấn đề mới cho phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
Xã hội vận động và phát triển, nhiều vấn đề mới phức tạp đặt ra có tác
động sâu sắc đến đời sống xã hội nước ta, địi hỏi Đảng phải có những quyết
sách kịp thời và chính xác để lãnh đạo xã hội. Lúc này CTTT khơng chỉ có
vai trị bảo vệ hệ tư tưởng khoa học, bảo vệ mục tiêu lý tưởng đã chọn mà còn
tham gia vào việc tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới, nghiên cứu lý
luận cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hình thành đường lối, "đưa
cuộc sống vào Nghị quyết", đồng thời triển khai và tổ chức thực hiện đường


14

14

lối, đưa chủ trương, đường lối vào cuộc sống. Khi chủ trương, đường lối đi
vào cuộc sống, CTTT lại tiếp tục tổng kết thực tiễn để bổ sung và hoàn thiện
đường lối, làm cho đường lối phù hợp với hiện thực khách quan. Có thể
khẳng định rằng: CTTT thực sự trở thành một bộ phận không thể thiếu được
trong quá trình lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta.
Xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, làm cho Đảng luôn luôn trở
thành đội tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc, tiến hành tốt CTTT
đối với các tổ chức chính trị-xã hội và mọi tầng lớp nhân dân khơng chỉ là để
khơng có những biến động tiêu cực về mặt tư tưởng, mà mục tiêu sâu xa hơn
của CTTT là phải xây dựng được ý thức mới, quan niệm mới, nhân sinh quan
cách mạng tích cực của con người đối với cuộc sống, đối với xã hội trong

từng giai đoạn lịch sử nhất định. Những ý thức mới, những quan niệm mới đó
phải thể hiện qua phong trào hành động cách mạng của quần chúng, phát huy
được năng lực "nội sinh" của mình, góp phần cải tạo và xây dựng xã hội mới.
CTTT trong Đảng và CTTT của Đảng đối với xã hội vừa có đặc điểm
chung lại vừa có đặc điểm riêng. Đặc điểm chung là đều nhằm phục vụ cho
nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng; đều dựa trên nền
tảng tư tưởng cách mạng khoa học là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối của Đảng; đều nhằm mục tiêu xây dựng CNXH, thực hiện
lý tưởng cao đẹp mà nhân loại đang hướng tới. Còn điểm khác căn bản là ở
đối tượng, phạm vi mà chủ thể CTTT cần tác động.
Đối tượng của CTTT trong Đảng là những cán bộ, đảng viên. Họ là
những người am hiểu thực tiễn, được giác ngộ lý luận cách mạng ở mức độ
nhất định. Đối tượng CTTT ngoài xã hội là đông đảo mọi tầng lớp dân cư, các
giai tầng trong xã hội, với khả năng, nhu cầu nhận thức cũng như trình độ
giác ngộ lý luận chính trị khác nhau khơng đồng đều. Từ đó đặt ra u cầu
cho CTTT trong nội bộ Đảng cao hơn yêu cầu CTTT đối với quần chúng.
Trong điều kiện có chính quyền, một mặt phải chú trọng làm tốt CTTT trong


15

15

Đảng, vì CTTT trong Đảng có vai trị quyết định đến CTTT ngoài xã hội; mặt
khác phải hết sức coi trọng CTTT ngồi xã hội, khơng nên đồng nhất CTTT
trong Đảng với CTTT ngoài xã hội.
Đối tượng CTTT là con người, là ý thức xã hội với nhiều vấn đề đa
dạng, phong phú và phức tạp. Vì vậy CTTT phải dựa trên những căn cứ khoa
học, dựa trên những quy luật vận động và phát triển của ý thức xã hội. Một
trong những vấn đề cơ bản trong CTTT của Đảng là ở việc giải quyết mối

quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Sự thành công hay thất bại trong
CTTT tuỳ thuộc vào sự nhận thức và giải quyết mối quan hệ này. Nếu CTTT
xuất phát từ thực tiễn, thấy được vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý
thức xã hội sẽ góp phần ngăn ngừa được bệnh chủ quan duy ý chí, dập khn
máy móc trong CTTT. Mặt khác nếu thấy được tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội và vai trò của ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội sẽ giúp
cho CTTT ngăn ngừa được sự thụ động duy kinh tế.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, bởi vậy không chỉ trong Đảng
thấm nhuần tri thức cách mạng là đủ, mà cịn phải làm cho tồn xã hội thấm
nhuần, cùng hướng đến mục đích chung của cách mạng. Hồ Chí Minh dạy
rằng: "Muốn đồng tâm hiệp lực, muốn bền gan thì trước ai ai cũng phải hiểu
rõ vì sao mà phải làm, vì sao mà khơng làm khơng được, vì sao mà ai ai cũng
phải gánh một vai, vì sao phải làm ngay khơng nên người này ngồi chờ người
khác, có như thế mục đích mới đồng, mục đích có đồng chí mới đồng; chí có
đồng tâm mới đồng; tâm đã đồng lại phải biết cách làm thì mới chóng"
[34,261].
Vai trị của CTTT được thực hiện trước hết là nhờ sự lãnh đạo của Đảng
và chủ yếu là nhờ hoạt động của đội ngũ cán bộ làm CTTT, bằng nhiều hình
thức, phương pháp và phương tiện khác nhau, những cán bộ này cùng ra sức
góp phần xây dựng và chuyển tải tri thức cách mạng ở những mức độ và khía


16

16

cạnh nhất định, tạo nên sự đồng tâm nhất trí trong toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân, thúc đẩy họ hành động vì sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Tóm lại: CTTT có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong công tác xây
dựng Đảng và trong sự lãnh đạo của Đảng. CTTT khơng chỉ góp phần xây

dựng nền tảng tư tưởng, xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong tồn Đảng,
tồn dân, mà cịn góp phần xây dựng hệ thống lý luận làm cơ sở cho hoạt
động lãnh đạo của Đảng, nâng cao trình độ trí tuệ cho cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân. CTTT không chỉ góp phần xây dựng đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên, mà còn tham gia xây dựng Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức. CTTT khơng chỉ tham gia vào quá trình hoạch
định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, mà cịn cổ vũ, động viên,
tuyên truyền giáo dục cả dân tộc hăng say lao động tự giác, quên mình vì mục
tiêu lý tưởng của CNXH, đấu tranh với các tư tưởng sai trái… Do đó, CTTT
liên quan trực tiếp đến vận mệnh của Đảng, đến tương lai tiền đồ của cả dân
tộc. Sự vững mạnh của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức là tiền đề và
điều kiện tiên quyết để Đảng ta thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử của mình, lãnh
đạo đất nước vững bước đi lên CNXH. Mọi sự xem nhẹ, coi thường hoặc
khuếch đại vai trò của CTTT của Đảng đều gây ra hậu quả khôn lường. Do
vậy, cần nhận thức đúng vị trí, vai trị CTTT của Đảng.
1.2. Thực trạng công tác tư tưởng của Đảng trong công cuộc đổi
mới
1.2.1. Những thành tựu của công tác tư tưởng
Trong những năm qua, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã hăng hái
tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đạt được nhiều
thành tựu quan trọng. Hiện nay đang ra sức thi đua thực hiện thắng lợi mục tiêu
và nhiệm vụ Đại hội IX đề ra, đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới.
Nét nổi bật của CTTT trong những năm qua là bước đầu đã đổi mới tư
duy, nhất là tư duy kinh tế, khắc phục một phần biểu hiện của chủ nghĩa giáo


17

17


điều, kinh nghiệm và chủ quan duy ý chí, phịng ngừa và ngăn chặn ảnh
hưởng của chủ nghĩa cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc. Sự thay đổi nếp nghĩ
của cả một dân tộc là việc làm hết sức khó khăn và phức tạp, việc làm ấy thực
sự có ý nghĩa của một cuộc cách mạng- cách mạng về nhận thức. Vì thế nó
phải là một q trình lâu dài, gian khổ địi hỏi phải có quyết tâm cao. Đây là
đòi hỏi khách quan của cuộc sống, cho nên phải có sự thay đổi về nhận thức
mới bắt kịp cuộc sống, nên đổi mới tư duy là nhiệm vụ chủ yếu của cơng cuộc
đổi mới, đồng thời đó cũng là nhiệm vụ hàng đầu của CTTT.
Điều duy nhất mà trí tuệ của Đảng và nhân dân phải tập trung giải quyết
là bằng mọi cách để phát triển đất nước, đưa nước ta đi theo con đường
XHCN. Đổi mới tư duy chính là để nhận thức đúng hơn về chủ nghĩa Mác Lênin, về con đường đi lên CNXH. Tư duy mới trước hết phải là tư duy lấy
thực tiễn của đất nước làm cơ sở. Đổi mới là thực hành tư tưởng giải phóng,
từ đoạn đường đã đi qua cho thấy là khơng cịn phù hợp và mơ hình CNXH
chung cho tất cả các dân tộc đi theo con đường XHCN như trước là không sát
với thực tiễn, mà theo điều kiện hoàn cảnh ở mỗi nước khác nhau, mỗi dân
tộc phải vận dụng vào điều kiện cụ thể của chính mình. Tư duy mới về mơ
hình CNXH của Việt Nam với 6 đặc trưng và 7 phương hướng cơ bản do Đại
hội VII xác định trên cơ sở luận cứ khoa học đã được đại đa số các tầng lớp
nhân dân ta tán thành và tin tưởng.
Thực tiễn đã chứng minh những năm qua tư duy mới đang được kiểm
nghiệm và có kết quả, những tư duy đó đã bắt kịp được sự phát triển của cuộc
sống, nên công cuộc đổi mới ngày càng thu được những thành tựu quan trọng
trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Nhờ có những tư duy mới đúng
đó đã giúp nâng cao khả năng phòng ngừa và ngăn chặn những ảnh hưởng
nguy hại của chủ nghĩa cơ hội xét lại. Những tư tưởng lệch lạc như: đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi chuyển sang kinh tế tư nhân… đã được
ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả. Trong tư duy mới của Đảng và nhân dân ta


18


18

ngày càng hình thành rõ nét những quan niệm mới về CNXH, con đường đi
lên CNXH ở nước ta…
Cùng với đổi mới tư duy, CTTT đã góp phần quan trọng trong việc phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và góp phần
quyết định hướng đi đúng đắn cho sự nghiệp đổi mới, tạo nên những cơ sở
khoa học cho việc xây dựng cương lĩnh chính trị, chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế-xã hội. Trong những năm qua chủ nghĩa Mác - Lênin đang bị tấn
cơng từ nhiều phía. Mặc dù các thế lực thù địch đang ra sức phủ nhận đi đến
xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, mặc dù có nhiều người đã hồi nghi, mất lịng
tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, vào CNXH, nhưng Đảng ta vẫn sáng suốt, tỉnh
táo, nhận thức đúng tầm quan trọng của lý luận Mác - Lênin trong giai đoạn
hiện nay, cùng với việc bảo vệ Đảng ta còn phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin trong điều kiện mới.
Khi mơ hình CNXH ở Liên Xơ sụp đổ, điều đó chứng tỏ lý luận về một
mơ hình CNXH chung cho tất cả các dân tộc khơng cịn phù hợp, cần tìm
kiếm mơ hình mới cho phù hợp hơn. Mơ hình CNXH ở Việt Nam với 6 đặc
trưng cơ bản do Đại hội VII của Đảng chỉ ra không phải là phủ nhận lý luận
Mác - Lênin về mơ hình CNXH mà là phát triển nó trong điều kiện ngày nay.
Chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế cũng là sự phát triển mới tư
tưởng của Lênin về những nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH không qua
giai đoạn phát triển TBCN, với những điều kiện cụ thể mà một trong những
điều kiện đó đã làm xong cuộc cách mạng vơ sản. Nhưng trong giai đoạn hiện
nay khơng cịn trơng chờ vào các nước XHCN như trước nữa, thì vấn đề mở
cửa, hợp tác, quan hệ với các nước trong cộng đồng quốc tế là sự "thay thế
mới" cho điều kiện mà Lênin đã nói, nhằm thu hút các yếu tố thuận lợi từ bên
ngoài như: vốn đầu tư, khoa học - cơng nghệ… trong khi trật tự thế giới có sự
thay đổi.



19

19

Những tiến bộ của CTTT, trong đó đặc biệt là vai trò của tư duy lý luận
đã thực sự là cơ sở khoa học cho mọi quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng. Việc thơng qua Cương lĩnh chính trị, chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế-xã hội tại Đại hội Đảng lần thứ VII đã được cán bộ, đảng viên và
nhân dân đồng tình. Việc xác định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng của xã
hội là một sự phát triển mới có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử tư tưởng của
Đảng ta.
Trong những năm qua, CTTT đã góp phần quyết định sự ổn định chính
trị của đất nước, làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH.
CTTT trong thời kỳ đổi mới có những thuận lợi cơ bản là đường lối đổi
mới phù hợp với thực tiễn và nguyện vọng của đại bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân. Bản thân CTTT cũng từng bước được đổi mới về nội dung, hình
thức theo hướng tăng cường thơng tin và thực hiện rộng rãi việc trao đổi ý
kiến đối thoại. Cho nên tình hình tư tưởng trong Đảng và tồn xã hội ngày
càng tốt hơn, ổn định hơn, "lòng tin của nhân dân đối với chế độ và tiền đồ
đất nước, với Đảng và Nhà nước được khẳng định. Ổn định chính trị được
giữ vững…" [18, 11]. Được như thế vì qua cơn trấn động trên thế giới về
chính trị, kinh tế nhưng cách mạng Việt Nam không những đứng vững mà cịn
phát triển đi lên. Trước khó khăn thử thách tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự
cường, tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên và nhân dân được khơi
dậy và phát huy. Việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng tuy cịn
những vấn đề tồn tại phải giải quyết, song trong công cuộc đổi mới đã đem lại
những kết quả thật đáng mừng. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, tình hình
chính trị ổn định, được giữ vững và tăng cường. Nếu khơng có sự ổn định về

chính trị thì vận mệnh của đất nước khó có thể được đảm bảo. Kinh nghiệm ở
các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô cho chúng ta thấy rõ. Song ở nước ta
trong những năm qua vẫn giữ được ổn định chính trị, chế độ XHCN vẫn tồn


20

20

tại, vai trò của Đảng cộng sản được giữ vững và tăng cường. Đó là cái được
lớn nhất của cơng cuộc đổi mới nói chung và của CTTT nói riêng.
Cùng với thành tựu trên lĩnh vực kinh tế và chính trị thì CTTT đã góp
phần quan trọng trong việc mở rộng quan hệ đối ngoại. Khẩu hiệu Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng tộc lập, tự chủ, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau được thực hiện có kết quả.
Trong q trình đổi mới, CTTT đã góp phần quan trọng vào việc bồi
dưỡng những quan điểm mới, góp phần quyết định sự nghiệp đại đoàn kết dân
tộc. Những thành tựu của CTTT vừa qua đã góp phần giữ vững ổn định chính
trị, nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đại bộ phận cán bộ,
đảng viên và nhân dân các dân tộc khác nhau trong cả nước đều có sự nhất
trí, hưởng ứng và tích cực, tự giác tham gia vào công cuộc đổi mới đất nước.
Lòng tin vào lý tưởng XHCN ngày càng được củng cố và tăng cường.
Như vậy, thành tựu quan trọng của CTTT trong sự nghiệp đổi mới đất
nước đó là: Đã trực tiếp góp phần hình thành và phát triển đường lối đổi mới,
nỗ lực tìm tịi tổng kết thực tiễn những sáng kiến của nhân dân để xây dựng
những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, củng cố niềm tin vào lý
tưởng độc lập dân tộc và CNXH ngay cả những khi CNXH trên thế giới tạm
thời lâm vào thối trào. Thành quả của cơng cuộc đổi mới gắn liền với thành
tựu đổi mới tư duy lý luận của Đảng. CTTT đã góp phần quan trọng trong
việc phát triển đường lối, xây dựng những luận cứ khoa học cho những quyết

sách lớn của Đảng và Nhà nước, hình thành những quan điểm của Đảng về
CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, khẳng định chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng. CTTT đã khơi dậy sức sáng tạo của nhân dân, tạo nên
sức mạnh tổng hợp, đưa đất nước vượt qua mọi thử thách, lập nên những
thành tựu to lớn và rất quan trọng trên nhiều mặt. Cùng với công tác tổ chức
CTTT đã góp phần xây dựng Đảng vững về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Hoạt động tuyên truyền, cổ động đã cổ vũ những phong trào cách mạng do


21

21

Đảng khởi xướng và lãnh đạo. CTTT góp phần rèn luyện giáo dục đội ngũ
cán bộ, đảng viên ngày càng tiến bộ, vươn lên ngang tầm nhiệm vụ chính trị
trong giai đoạn cách mạng mới.
- Nguyên nhân thành tựu
Có được những thành tựu trên là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu
là do sự nỗ lực, phấn đấu của toàn Đảng, tồn dân và tồn qn ta.
Mặc dù, tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến đổi phức tạp, song
Đảng ta đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn nêu cao tinh thần độc lập,
tự chủ sáng tạo đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đất
nước. Nhờ đó đã huy động được sức mạnh của cả dân tộc tham gia xây dựng
đất nước. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên đã phát huy được vai trò tiền phong
gương mẫu, tổ chức động viên nhân dân thực hiện có kết quả các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Ở nhiều địa phương, nhiều lĩnh vực, ngày
càng xuất hiện những nhân tố mới. Đó là kết quả hoạt động năng động, sáng
tạo của các đảng bộ và nhân dân.
Công tác nghiên cứu lý luận đã được đổi mới một bước quan trọng, nó
đã góp phần vào đổi mới tư duy, tổng kết thực tiễn, cụ thể hoá và phát triển

đường lối, xây dựng nhiều luận cứ khoa học cho các quyết sách của Đảng và
Nhà nước. Trong những năm qua công tác nghiên cứu lý luận đã được triển
khai một cách tích cực và sâu rộng hơn. Một số kết quả bước đầu đã phục vụ
cho việc chuẩn bị các báo cáo chính trị tại các kỳ đại hội Đảng. Cơng tác
nghiên cứu lý luận đã có nhiều chuyển biến mới và đã tập trung vào các vấn
đề cấp bách cần giải quyết. Đó là làm rõ căn cứ khoa học của các giải pháp về
những vấn đề đang đặt ra cho công cuộc đổi mới.
Công tác tuyên truyền giáo dục được tiến hành thường xuyên hơn, tập
trung hơn với nhiều loại chương trình phù hợp cho nhiều loại đối tượng khác
nhau. Cơng tác tun truyền giáo dục có bước phát triển, nội dung, hình thức
đa dạng, phong phú và có hiệu quả hơn.


22

22

Cơng tác cổ động đã tích cực tun truyền đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đưa đường lối đó vào cuộc sống.
Các phương tiện thơng tin đại chúng đã tích cực đấu tranh với các biểu hiện
sai trái, khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
1.2.2. Những hạn chế của công tác tư tưởng
CTTT của Đảng trong hơn 15 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém bất cập. Đáng quan tâm là: lý
luận chưa đi sâu, đi sát cuộc sống, nhiều lĩnh vực trong CTTT chưa ra khỏi
tình trạng lạc hậu, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đổi mới
như: tính chất của thời đại, về CNXH, về thời kỳ quá độ … cần phải được làm
sáng tỏ một cách đầy đủ có hệ thống và có sức thuyết phục hơn. Số lượng các
bài viết, các công trình nghiên cứu khoa học tuy khơng ít, nhưng tính ứng
dụng và hàm lượng khoa học không cao. Tác phẩm dịch vẫn nhiều hơn các

cơng trình ta viết ra. Điều này nói lên trình độ khoa học của chúng ta cịn hạn
chế, các nhà khoa học có tầm cỡ cịn ít, tiềm lực nghiên cứu lý luận còn
mỏng. Trên nhiều vấn đề sự phê phán cái cũ đã quá đủ, những đề xuất kiến
giải cái mới lại quá ít. Yêu cầu đóng góp của đội ngũ cán bộ lý luận vào q
trình chuẩn bị các chính sách xem ra cịn khá chật vật. Đó là những biểu hiện
về sự bất cập của đội ngũ cán bộ lý luận. Vì vậy, so với sự phát triển phong
phú của thực tiễn thì lý luận chưa đáp ứng được. Có những vấn đề thực tiễn
đang đặt ra thì lý luận lí giải chưa có tính thuyết phục.
Trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận nhiều cơ quan khoa học và tập
thể khoa học chưa đặt đúng tầm quan trọng của vấn đề, cịn ngại đấu tranh,
dung hồ, né tránh. Điều đáng nói ở đây là sự tham gia của đội ngũ cán bộ lý
luận chưa thường xuyên và đông đảo, mà mới chỉ tập trung ở một số người
có trình độ cao, có tên tuổi. Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận
rất cần khơng chỉ trí tuệ mà cả dũng khí và niềm tin xác đáng của đội ngũ
cán bộ lý luận.


23

23

Đội ngũ cán bộ lý luận nói chung có phẩm chất chính trị tốt, trung thành
với sự nghiệp cách mạng. Những năm gần đây, đội ngũ này được bổ sung khá
nhiều, bằng những lực lượng trẻ được đào tạo có hệ thống, tuy nhiên tình
trạng vẫn đơng mà chưa mạnh.
Trước những biến động phức tạp của tình hình quốc tế, nhất là sự sụp đổ
của các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, một bộ phận cán bộ đảng viên
và nhân dân đã có những biểu hiện dao động giảm sút niềm tin, một số nhận
thức mơ hồ lệch lạc đối với chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH hiện thực. Một
số bị ảnh hưởng từ các luận điệu sai trái đã có tư tưởng phủ nhận chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận thành quả cách mạng. Một số
cán bộ, đảng viên tỏ ra mơ hồ trước các quan điểm sai trái, thủ tiêu đấu tranh,
nghi ngờ sự lãnh đạo của Đảng, đề cao con đường phát triển TBCN và lối
sống thực dụng, né tránh việc khẳng định con đường xây dựng CNXH ở nước
ta. Đáng lưu tâm là một bộ phận không nhỏ đảng viên, trong đó có cả cán bộ
trung, cao cấp khơng cịn tin vào quan điểm duy vật, trái lại có biểu hiện tin
vào thần linh thượng đế, hồi nghi các quan điểm duy vật lịch sử, nhất là quan
điểm đấu tranh giai cấp. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống khơng giảm thậm
chí có một số nơi nghiêm trọng hơn. Nổi lên là tình trạng mất đồn kết kéo
dài, kéo bè cánh để ăn chia lợi ích, lợi dụng sơ hở để làm giàu bất chính, thậm
chí tiếp tay cho các băng nhóm xã hội đen. Điển hình gần đây có nhiều vụ
như: Vụ Năm Cam, vụ Lã Thị Kim Oanh, vụ buôn lậu Hang dơi, vụ Tăng
Minh Phụng… có sự tiếp tay của khơng ít cán bộ, đảng viên có chức có
quyền đã thực sự làm cho dư luận bất bình.
Trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng chưa nắm chắc
những quan điểm cơ bản, nên một số cán bộ, đảng viên đã có nhận thức và
hành động lệch lạc. Ví như: cịn coi nhẹ kinh tế quốc doanh, để khơng ít cơ sở
quốc doanh chỉ là cái vỏ, tình trạng bng lỏng hoặc khơng nghĩ đến kinh tế
hợp tác là khá phổ biến. Đối với kinh tế thị trường vẫn có người đồng nhất
với CNTB, cho rằng chấp nhận kinh tế thị trường là đi theo con đường
TBCN. Song lệch lạc và phổ biến hơn cả là không thấy được mặt trái của kinh


24

24

tế thị trường, cịn xem nhẹ thậm chí bng lỏng vai trò của kế hoạch, lơi lỏng
trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội và quản lý văn hoá, trong giáo dục đạo
đức, trong giáo dục con người… Trong quan hệ với bên ngoài chưa nắm vững

nguyên tắc độc lập, tự chủ, có khi vì lợi ích cục bộ địa phương, thậm chí vì lợi
ích cá nhân mà làm tổn hại đến lợi ích chung của đất nước, chỉ thấy lợi ích về
kinh tế mà xem nhẹ về chính trị, tiếp thu những kinh nghiệm của các nước tư
bản một cách sao chép, thiếu chọn lọc, thiếu sáng tạo, nhận thức mơ hồ về
cuộc đấu tranh giữa hai con đường.
CTTT cịn thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao, phương pháp chưa
linh hoạt, chưa tạo được nhận thức thống nhất cao và thông suốt đối với một
số vấn đề trong đường lối, chủ trương của Đảng, chưa thường xuyên làm tốt
cơng tác giáo dục chính trị, chưa phê phán mạnh và đấu tranh kiên quyết chủ
nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, những quan điểm mơ hồ sai trái,
khuynh hướng "thương mại hoá", lai căng chạy theo thị hiếu tầm thường
trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hố, văn nghệ. CTTT chưa gắn với
cơng tác tổ chức, xây dựng cơ chế chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ [20,
132-133].
Đối với chiến lược "Diễn biến hoà bình" nhìn chung cịn mất cảnh giác,
có ý kiến cho rằng: đặt vấn đề chống "Diễn biến hồ bình" là cường điệu hoá,
là đánh giá quá mức về kẻ thù hiện nay. Số người này cố tình khơng nhận thấy
các lực lượng thù địch đang hàng ngày, hàng giờ sử dụng nó để chống phá
cách mạng Việt Nam, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chiến lược
"Diễn biến hồ bình" của chủ nghĩa đế quốc được triển khai một cách tồn
diện, trong đó tập trung mũi nhọn là lĩnh vực tư tưởng. Các luận điệu tuyên
truyền của chúng nhằm chống phá Đảng, xuyên tạc đường lối, phủ nhận vai
trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, xố bỏ CNXH hiện thực, kích động xu hướng
chống đối lật đổ chế độ.


25

25


Trong nước, một số phần tử xấu lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để gây
rối, một số bất mãn hoặc vì lý do này, lý do khác viết và tìm cách truyền bá
những tài liệu phù hoạ cho các quan điểm sai trái phản động, những tài liệu
này ảnh hưởng khơng nhỏ đến tình hình an ninh chính trị của đất nước. Do
đó, mặc dù tình hình chính trị của đất nước vẫn được giữ vững, nhưng những
nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị vẫn cịn mà khơng thể xem thường.
Điều nhức nhối nhất hiện nay là "tình trạng tham nhũng, suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất
nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị
và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế
độ ta. Tình trạng lãng phí quan liêu cịn khá phổ biến" [19, 76]. Những biểu
hiện xấu đó đang gây bất bình trong dư luận xã hội, làm tổn hại đến thanh
danh uy tín của Đảng.
- Nguyên nhân hạn chế, yếu kém công tác tư tưởng
Những yếu kém bất cập trên của CTTT là do: Đảng chưa đặt đúng mức
việc chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp CTTT trong giai đoạn mới, chưa
xây dựng được quy chế bảo đảm dân chủ, phát huy tự do tư tưởng trong hoạt
động CTTT, cơ sở vật chất kỹ thuật, điều kiện làm việc ở nhiều cơ quan, đơn
vị làm CTTT, lý luận còn thiếu thốn, lạc hậu, chậm tăng cường, đổi mới công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ làm CTTT, lý luận [20,133]. Đồng thời chưa
nhận thức được tầm quan trọng của CTTT, lý luận trong sự nghiệp đổi mới.
Những thiếu sót trong chủ trương, chính sách cụ thể, những khó khăn về
đời sống và những tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường là nguyên
nhân lớn nhất dẫn đến hạn chế của CTTT. Những năm đầu đổi mới tình hình
kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mơ có nhiều khó khăn gay gắt, lạm phát phát triển ba
con số vào năm 1986, đồng tiền mất giá, giá cả tăng nhanh, sản xuất đình đốn,
đời sống của nhân dân nhất là bộ phận hưởng lương cực kỳ khó khăn, dẫn đến
khơng ít cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang chưa dám tin vào thắng



×