Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo CHUYỂN HƯỚNG xây DỰNG KINH tế ở MIỀN bắc TRONG điều KIỆN có CHIẾN TRANH PHÁ HOẠT GIAI đoạn 1965 1968

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.92 KB, 95 trang )

3

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954- 1975), nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng phải lần lượt chống lại bốn chiến lược chiến
tranh của đế quốc Mỹ trong suốt 21 năm. Trong đó giai đoạn 1965- 1968 đế
quốc Mỹ thực hiện bước leo thang chiến lược và cố gắng quân sự cao nhất
với việc triển khai chiến lược "Chiến tranh cục bộ", đưa quân Mỹ trực tiếp
vào miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc Việt Nam.
Chiến tranh xâm lược của Mỹ đã lan rộng trên cả nước với tính chất và mức
độ ác liệt khác nhau. Riêng ở miền Bắc từ trạng thái hoà bình đã chuyển sang
trạng thái có chiến tranh trực tiếp chống lại không quân và hải quân của đế
quốc Mỹ. Đây là đặc điểm lớn đối với miền Bắc thời kỳ này. Vượt lên trên
những khó khăn ác liệt của chiến tranh, nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu,
vừa nhanh chóng chuyển hướng xây dựng kinh tế tiếp tục xây dựng CNXH,
xây dựng hậu phương vững chắc, đồng thời dồn sức chi viện sức người, sức
của cho tiền tuyến miền Nam và hoàn thành xuất sắc vai trò có tính chất quyết
định đối với thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Đánh giá thắng lợi
của miền Bắc trong thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12- 1976) của Đảng đã khẳng định:
Đó là thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ hoàn toàn
mới trong lịch sử nước nhà, nhờ phát huy quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động và tính ưu việt của những quan hệ sản xuất xã hội
mới, đã tạo nên sức mạnh cực kỳ to lớn, bảo đảm cho miền Bắc vừa
xây dựng vừa chiến đấu, đồng thời động viên ngày càng nhiều sức
người, sức của để chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam [16, tr.473 ].


4


Trong hàng loạt vấn đề để đảm bảo cho miền Bắc thực sự là nhân tố
quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nổi lên vấn đề
Đảng lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ chuyển hướng xây dựng kinh tế tiếp tục
công cuộc xây dựng CNXH trong điều kiện chiến tranh ác liệt những năm
1965-1968. Chính trong vấn đề này, Đảng đã cống hiến nhiều mặt vào kho
tàng lý luận Mác- Lênin, đúng như nhận xét của giáo sư người Nhật Bản
Singô Sibata: "Một trong những cống hiến rất quan trọng của Cụ Hồ Chí
Minh và của Đảng Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Nói chung,
người ta thường cho rằng, chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những
điều kiện hoà bình. Ý kiến chung về xây dựng chủ nghĩa xã hội cho tới nay
vẫn thịnh hành trong chủ nghĩa Mác, là chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội
sau khi chiến tranh chấm dứt … Nhân dân Việt Nam thực hiện việc xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn có chiến tranh. Theo tôi được biết, Đảng Lao
động Việt Nam là Đảng đầu tiên trong các Đảng Mác xít trên thế giới áp dụng
lý luận này". [46]
Từ những vấn đề trên, việc nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng chuyển
hướng xây dựng kinh tế ở miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh giai đoạn
1965-1968 có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, góp phần tổng kết kinh nghiệm
lịch sử của Đảng để tiếp tục vận dụng sáng tạo vào công cuộc đổi mới xây
dựng CNXH hiện nay. Chính vì thế, tôi chọn vấn đề : "Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo chuyển hướng xây dựng kinh tế ở miền Bắc trong điều kiện
có chiến tranh phá hoại từ 1965 đến 1968 " làm đề tài luận văn thạc sĩ lịch
sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


5

Từ khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam

diễn ra cho đến nay, có nhiều cơ quan và các nhà khoa học đi tìm câu trả lời
cho câu hỏi: Vì sao Việt Nam thắng Mỹ? Đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu ở các góc độ khác nhau về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Phần lớn các công trình đã tập trung làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng; bản
chất cách mạng khoa học của đường lối kháng chiến; nghệ thuật chỉ đạo đấu
tranh vũ trang của Đảng từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho sự lãnh đạo, chỉ
đạo cách mạng trong giai đoạn mới. Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước(1954-1975) được công
bố ở các thể loại khác nhau. Nhiều đề tài viết về cuộc kháng chiến trong
những năm ác liệt(1965-1968), trong đó đề cập đến sự lãnh đạo và chỉ đạo
của Đảng về chuyển hướng xây dựng kinh tế ở miền Bắc trong điều kiện có
chiến tranh phá hoại. Cuốn sách Miền Bắc XHCN trong quá trình thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược của Nguyễn Duy Trinh, do Nxb ST, HN xuất bản
năm 1976, cũng đã đề cập đến vai trò của miền Bắc trong sự nghiệp đấu
tranh thống nhất nước nhà. Năm1991, Nxb ST xuất bản cuốn Lịch sử kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, tập 2 của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam. Cuốn
sách đã đề cập đến sự chỉ đạo của Đảng trên tất các lĩnh vực. Cuốn Tổng kết
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và bài học của Ban Chỉ đạo
tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ Chính trị do Nxb CTQG xuất bản
năm1995, đã khái quát toàn bộ cuộc kháng chiến và chỉ ra những kinh nghiệm
từ cuộc kháng chiến, cuốn sách đã có một phần đề cập đến chuyển hướng xây
dựng kinh tế ở miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh. Viện nghiên cứu chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn cuốn Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2 (1954-1975) do Nxb CTQG xuất bản năm
1995. Từ chươngVIII đến chương XII, cuốn sách đã dựng lên bức tranh tương
đối hoàn chỉnh của cuộc kháng chiến. Trong chương X, các tác giả tập trung


6


trình bày sự chỉ đạo của Đảng và cuộc đấu tranh của quân và dân ta từ năm
1965-1968. Công trình Mấy vấn đề chỉ đạo chiến lược trong 30 năm chiến
tranh giải phóng (1945- 1975), Nxb QĐND năm 1999 đề cập đến sự chỉ đạo
của Đảng trên tất cả các lĩnh vực. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn
giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
tổ chức biên soạn Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam , Nxb CTQG
xuất bản năm 2001. Trong đó có một phần viết về chuyển hướng xây dựng
miền Bắc, đánh thắng chiến lược "Chiến tranh cục bộ" (1965-1968).
Một số công trình nghiên cứu tổng kết chiến tranh nhân dân chống
chiến tranh phá hoại của các tỉnh, thành như cuốn: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam
Định do Nxb CTQG xuất bản năm 2001. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây, tập III
(1954- 1975), Tỉnh ủy Hà Tây 2002. Lịch sử Đảng bộ thành phố Hà Nội xuất
bản năm 1995. Các cuốn sách đó đã khái quát toàn bộ cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta và có một phần viết về đánh thắng cuộc
chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, đẩy mạnh sản xuất chi viện
cho tiền tuyến lớn ( 1965-1968).
Luận văn thạc sĩ lịch sử của Đỗ Đức Tính viết về Đảng lãnh đạo miền
Bắc tiếp tục xây dựng CNXH và chi viện miền Nam chống Mỹ, cứu nước giai
đoạn 1965-1968 cũng đã đề cập một phần đến sự chuyển hướng xây dựng
kinh tế ở miền Bắc trong những năm 1965-1968. Luận văn thạc sĩ lịch sử của
Nguyễn Văn Khởi viết về Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ của hậu phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng nói lên
sự chi viện của hậu phương đối với tiền tuyến lớn miền Nam trong suốt cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Luận văn thạc sĩ lịch sử của Nguyễn Công
Loan viết về Sự chi viện của hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền Nam
trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), cũng đã đề cập đến một


7


phần về chuyển hướng xây dựng kinh tế ở miền Bắc trong điều kiện có chiến
tranh phá hoại.
Ngoài ra còn có nhiều công trình, bài viết của các nhà khoa học, tập
thể các nhà khoa học, các vị lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, các tướng lĩnh
trong quân đội trực tiếp tham gia chỉ đạo cuộc kháng chiến đã viết về vấn đề
này và được đăng tải trên các tạp chí như: Tạp chí Lịch sử Đảng, tạp chí Lịch
sử Quân sự, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. Mặc dù những công trình trên tiếp
cận dưới nhiều góc độ khác nhau của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
nhưng đều đề cập đến giai đoạn 1965-1968 với những chỉ đạo về chuyển
hướng xây dựng kinh tế ở miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh phá hoại.
Tuy vậy, những công trình được công bố đã đề cập ở các góc độ, khía
cạnh khác nhau về sự lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt là sự chỉ đạo của Đảng về
chuyển hướng xây dựng kinh tế ở miền Bắc. Kết quả của các công trình này
là nguồn tư liệu quý để tác giả kế thừa, vận dụng trong quá trình nghiên cứu
đề tài.Tuy nhiên, chưa có công trình độc lập nào đi sâu nghiên cứu về sự lãnh
đạo, chỉ đạo chuyển hướng xây dựng kinh tế ở miền Bắc của Đảng trong
những năm 1965-1968. Tác giả hy vọng nghiên cứu đề tài trên sẽ góp phần
luận giải và làm sáng tỏ một số quan điểm tư tưởng chỉ đạo cơ bản trong
đường lối, chủ trương đúng đắn và sáng tạo của Đảng về chuyển hướng xây
dựng kinh tế để hướng tới đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược giai
đoạn 1965-1968; từ đó củng cố và nâng cao thêm một bước lòng tin của toàn
dân, toàn quân vào sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở đó nhằm tiếp tục kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới ở đất nước
ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu


8


- Mục đích: Qua nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng luận văn khẳng
định tính đúng đắn, sáng tạo và linh hoạt của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo
chuyển hướng xây dựng kinh tế ở miền Bắc để hướng tới đánh thắng hoàn
toàn đế quốc Mỹ xâm lược giai đoạn 1965-1968. Rút ra những kinh nghiệm
về quá trình lãnh đạo chuyển hướng xây dựng kinh tế của Đảng, làm cơ sở
vận dụng vào công cuộc đổi mới xây dựng CNXH hiện nay.
-Nhiệm vụ:
Làm rõ yêu cầu khách quan phải chuyển hướng xây dựng kinh tế tiếp
tục xây dựng CNXH ở miền Bắc trong điều kiện có chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ.
Phân tích quá trình chỉ đạo linh hoạt, sáng tạo của Đảng về chuyển
hướng xây dựng kinh tế, tiếp tục xây dựng CNXH ở miền Bắc và những kết
qủa đạt được trong thực hiện nhiệm vụ này.
Luận giải những kinh nghiệm chủ yếu về quá trình Đảng lãnh đạo
chuyển hướng xây dựng kinh tế, tiếp tục xây dựng CNXH ở miền Bắc trong
những năm 1965-1968
- Đối tượng nghiên cứu: Luận chỉ tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo
và chỉ đạo của Đảng về chuyển hướng xây dựng kinh tế ở miền Bắc trong thời
gian có chiến tranh phá hoại.
- Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo chuyển hướng xây dựng kinh tế
ở miền Bắc của Đảng trong giai đoạn 1965-1968.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên những luận điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin, về chiến tranh cách mạng, về bạo lực cách mạng, về chiến


9

tranh và quân đội... Đồng thời bám sát vào những quan điểm, đường lối, chủ

trương được thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết quan trọng của Đảng trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và trong các bài nói, bài viết của Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu, trong đó coi trọng sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lô gíc,
đồng thời vận dụng một số phương pháp khác như thống kê, phân tích, tổng hợp,
so sánh... Nhằm làm rõ nội dung của đề tài đặt ra.
5. Ý nghĩa của đề tài
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, phần nào dựng lại bức tranh lịch sử
về công cuộc chuyển hướng xây dựng kinh tế ở miền Bắc dưới sự lãnh đạo
của Đảng trong những năm có chiến tranh phá hoại ác liệt của đế quốc Mỹ.
Qua đó, góp phần tổng kết lịch sử về quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc
thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời làm cơ sở để củng cố và
tăng cường niềm tin của toàn dân, toàn quân vào sự lãnh đạo của Đảng trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
Nội dung của luận văn có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy về lịch sử Đảng tại các học viện, nhà trường
trong và quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn kết cấu gồm: Mở đầu, hai chương (4 tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


10

Chương 1
YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CHUYỂN
HƯỚNG XÂY DỰNG KINH TẾ Ở MIỀN BẮC TRONG ĐIỀU KIỆN CÓ
CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965-1968)


1.1. Yêu cầu khách quan chuyển hướng xây dựng kinh tế ở miền
Bắc trong tình hình mới
1.1.1. Đế quốc Mỹ thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân đối với miền Bắc
Đế quốc Mỹ từ lâu đã có dã tâm xâm lược Việt Nam và các nước
Đông Dương. Chúng đã giúp Pháp tới 73,9% chi phí chiến tranh vào cuối
cuộc chiến tranh (tháng 5- 1954) [4, tr.447]. Khi Pháp bị thua, Mỹ vẫn không
từ bỏ âm mưu xâm lược mà chúng đã chọn Việt Nam là trọng điểm. Vì Mỹ
cho rằng nếu như mất Việt Nam thì có thể bị mất nhiều nơi trên thế giới,
trước hết là Đông Nam Á- nơi Mỹ có nhiều lợi ích chiến lược về chính trị,
quân sự, kinh tế nằm trong ý đồ giành quyền bá chủ thế giới của đế quốc Mỹ.
Vì vậy, Việt Nam trở thành nơi đụng đầu quyết liệt giữa phong trào độc lập
dân tộc với chủ nghĩa đế quốc, giữa CNXH với chủ nghĩa tư bản.
Thực hiện âm mưu đó, Mỹ đã từng bước thay chân Pháp ở miền Nam.
Ngày 16-6-1954 Mỹ đã ép Pháp buộc Bảo Đại và nội các tay sai Pháp phải từ
chức, đưa Ngô Đình Diệm tay sai Mỹ lên thay. Đó cũng là sự kiện mở đầu
cho Mỹ xâm lược Đông Dương trong thời kỳ mới. Khác với Pháp, Mỹ đã


11

thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam, tới tháng 6-1965 Mỹ đã
xây dựng được đội quân ngụy Sài Gòn với 10 sư đoàn bộ binh và hàng chục
trung đoàn độc lập được trang bị vũ khí và dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ.
Như vậy, Mỹ đã hoàn thành việc thay thế chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp và
áp đặt chủ nghĩa thực dân mới vào miền Nam nước ta với hệ thống chính
quyền, hệ thống bộ máy bạo lực hoàn toàn do Mỹ điều khiển. Nghị quyết Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ 8 ( tháng 8-1955) nhận định: “Quyền thống trị
ở miền Nam Việt Nam hiện nay căn bản là quyền thống trị của đế quốc Mỹ và
của phái thân Mỹ” [19, tr.105]

Từ năm 1954 đến 1964 đế quốc Mỹ đã lần lượt thực hiện ở miền Nam
các chiến lược “Chiến tranh đơn phương” (1954-1960) và chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” (1961-1964). Sau những thất bại liên tiếp trong thực hiện
chiến lược “Chiến tranh đơn phương” và “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ
tăng cường và mở rộng chiến tranh. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ thực hiện
chiến lược “Chiến tranh cục bộ'' dùng lực lượng quân đội viễn chinh Mỹ để
tiêu diệt cách mạng miền Nam, làm cho chiến tranh cách mạng ở miền Nam
tàn lụi dần.
Đối với miền Bắc, ngay từ sau năm 1954 và nhất là từ đầu năm 1965 Mỹ
công khai trắng trợn chống phá quyết liệt hơn. Sở dĩ có tình hình đó là vì ở miền
Nam, Mỹ bị thất bại nặng nề: Mỹ thua trong “Chiến tranh đơn phương”, thua
trong “Chiến tranh đặc biệt” buộc Mỹ phải leo thang ở mức độ cao hơn, tiến
hành “Chiến tranh cục bộ”. Mặt khác, miền Bắc không ngừng lớn mạnh, Mỹ
nhận thấy miền Bắc chính là nơi chỉ đạo, chi viện sức người, sức của để giúp
cách mạng miền Nam tồn tại và phát triển. Mỹ thấy cần phải ngăn chặn ảnh
hưởng và sức mạnh đang lên của miền Bắc. Đế quốc Mỹ thấy rằng để có được
miền Nam trong vòng tay của Mỹ mà trước mắt là giành thắng lợi trên chiến
trường miền Nam, Mỹ phải ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc, phải phá hoại


12

công cuộc xây dựng CNXH và làm giảm ý chí kháng chiến của nhân dân miền
Bắc. Với tính toán chiến lược đó, Mỹ đã leo thang từng bước và xúi tập đoàn tay
sai Ngô Đình Diệm hô hào “Lấp sông bến Hải để Bắc tiến” trong những năm
1956-1963. Từ năm 1961, Mỹ nhận thấy miền Bắc Việt Nam là nguồn gốc của
“Chiến tranh nổi dậy” ở miền Nam, miền Bắc là nơi chỉ đạo, tiếp tế, tăng viện
cho miền Nam. Vì thế cùng với việc tăng cường mở rộng chiến tranh ở miền
Nam, chính quyền Mỹ sử dụng nhiều hình thức biện pháp để phá hoại miền Bắc
Việt Nam.

Ngày 24-11-1963 Tổng thống Giônxơn chấp nhận kế hoạch bí mật chống
miền Bắc Việt Nam do Cục tình báo trung ương Mỹ kiến nghị.
Đầu tháng 2-1964 Mỹ bắt đầu thực hiện “Kế hoạch tác chiến”
OPLAN 34A gồm các hoạt động chính:
Thu thập tình báo quân sự bằng máy bay trinh sát ở miền Bắc Việt Nam
Dùng không quân ném bom các đơn vị Bắc Việt Nam và Pa thét Lào
ở Lào
Sử dụng tầu khu trục của Hải quân thực hiện các cuộc “Tuần tra” theo
kế hoạch DESOTÔ xâm nhập vịnh Bắc Bộ đe dọa uy hiếp miền Bắc và thu
thập tình báo vùng ven biển Bắc Việt Nam
Các hoạt động của “Kế hoạch tác chiến” OPLAN 34A được phối hợp
và có nhiệm vụ hỗ trợ cho các hoạt động của Nam Việt Nam tung gián điệp
vào nội địa, dùng tầu biệt kích tiến công ven biển, bắt cóc các ngư dân Bắc
Việt Nam để khai thác nắm tình hình.
Ngày 17-3-1964, Tổng thống Giônxơn tán thành kiến nghị của
Mắcnamara- Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ gây sức ép với Bắc Việt Nam theo
hai phương thức:


13

Phương thức 1 gọi là :“Những hành động kiểm soát biên giới và trả đũa”.
Phương thức 2 gọi là: “Gây sức ép quân sự công khai từng bước một”
Ngày 17- 4-1964 Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ thông qua
kế hoạch 37- 64: Chọn 94 mục tiêu ở miền Bắc Việt Nam có thể ném bom khi
được lệnh, đồng thời xác định lực lượng và bố trí lực lượng không quân cần
thiết cho các cuộc tiến công
Triển khai kế hoạch đánh phá miền Bắc, tháng 5-1964 Mỹ đưa tầu chở
máy bay đến Đà Nẵng. Ngày 07-6-1964 ném bom vùng giải phóng Khang
Khay (Lào), ngày 31-7 và 01-8 đánh phá vùng Nậm Cắn- Noọng Dẻ (biên

giới Việt Nam- Lào). Ngày 02-8 tàu khu trục Mỹ xâm phạm vùng biển miền
Bắc Việt Nam bị Hải quân Việt Nam đánh trả. Đêm 04-8-1964, Mỹ dựng lên
“Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” vu cáo Hải quân nhân dân Việt Nam tiến công tàu Ma
đốc (Mỹ) ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ thuộc hải phận quốc tế để thực hiện hành
động gọi là “Trả đũa”, ngày 5-8-1964, Mỹ dùng không quân đánh phá Hòn
Gai, Hải Phòng, Bến Thủy, cảng Sông Gianh, Đồng Hới, Quảng Bình. Ngày
08-8 đánh phá đảo Cồn Cỏ…. Từ ngày 07-02-1965 Mỹ leo thang lên một
bước mới thực hiện kế hoạch “Sấm Rền” đánh phá từ vĩ tuyến 17 đến vĩ
tuyến 20, mở đầu cho cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân
chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc Việt Nam bằng không quân
và hải quân, đế quốc Mỹ muốn ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền
Bắc và từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam, phá hoại tiềm lực kinh tế,
chính trị, quân sự của hậu phương miền Bắc, phá hoại công cuộc xây dựng
CNXH, làm lung lay ý chí quyết tâm của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ xâm lược.


14

Chiến tranh phá hoại miền Bắc là một bộ phận của cuộc chiến tranh
của Mỹ ở miền Nam, nhằm bổ sung cho cuộc chiến tranh cục bộ. Chiến tranh
phá hoại miền Bắc được triển khai theo những bước leo thang đánh phá ngày
càng ác liệt.
Từ ngày 17-2 đến 13-6-1965 Mỹ thực hiện kế hoạch “Sấm Rền” đánh
phá từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 20. Các mục tiêu tập trung đánh phá gồm:
Doanh trại quân đội, kho tàng quân sự hậu cần, các trục đường giao thông,
một số công nông trường xí nghiệp từ Vĩnh Linh đến Thanh Hóa.
Từ ngày 14-6-1965 đến 21-02-1967 kết hợp với mở hai cuộc phản
công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 ở miền Nam, Mỹ thực

hiện leo thang đánh phá ra toàn miền Bắc ( trừ khu vực Hà Nội- Hải Phòng).
Mục tiêu tiến công bao gồm các trung tâm công nghiệp: Việt Trì, Thái
Nguyên, khu mỏ Đông- Bắc, các trục giao thông chính Hà Nội- Hải Phòng;
Hà Nội- Lạng Sơn; Hà Nội- Lào Cai.
Từ 22-2-1967, không quân Mỹ leo nấc thang mới đánh phá mức cao.
Từ tháng 5-1967, đánh sâu vào nội thành Hà Nội, Hải phòng, đồng thời dùng
B52 và pháo binh bắn phá phía bắc giới tuyến quân sự tạm thời, thả thủy lôi
phong tỏa các cửa sông Cả, sông Gianh ở miền Bắc. Mỹ tập trung đánh phá
vùng “Cán xoong” ( Quảng Bình, Vĩnh Linh), nơi yết hầu của tuyến đường
vận tải chiến lược Trường Sơn. Không quân Mỹ tập trung oanh tạc 6 hệ thống
mục tiêu then chốt : Đường giao thông, kho nhiên liệu, khu công nghiệp, điện
lực, một số cơ sở quân sự và hệ thống phòng không
Tiến hành cuộc “Chiến tranh hạn chế” với những bước leo thang
nhằm “Răn đe dần từng bước”, Mỹ tổ chức đánh phá từ ngoài vào trong, từ xa
đến gần, xen kẽ việc đánh phá rộng rãi với tỏ chức những đợt đánh lớn vào


15

các mục tiêu có tầm quan trọng chiến lược để gây sức ép đối với chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Với sức mạnh không quân là quyết định và hy vọng “Dưới bom đạn
Mỹ, Bắc Việt Nam không chịu nổi vài tuần” [32], Mỹ đánh phá miền Bắc với
cường độ hết sức ác liệt. Giao thông vận tải ở miền Bắc được coi là một trong
những mục tiêu đánh phá chủ yếu của đế quốc Mỹ . Chúng tập trung đánh phá
ngăn chặn các đường tiếp tế vào Bắc Việt Nam, đánh vào các kho tiếp tế, các
khu vực chứa nhiên liệu và các mục tiêu khác ở Hà Nội, Hải Phòng và đánh
các tuyến thông tin liên lạc và đường chiến lược Bắc Nam.Thời kỳ leo thang
cao nhất (7-1967) Mỹ huy động các loại máy bay chiến đấu chiến thuật, xuất
kích trung bình mỗi ngày 90 đến 100 lần chiếc, ngày cao lên hơn 400 lần

chiếc, máy bay B52 có ngày sử dụng trên 100 lần chiếc. Đến năm 1967 Mỹ đã
ném xuống miền Bắc 1.630.000 tấn bom, nhiều hơn khối lượng bom đạn Mỹ
ném xuống châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ II, gấp hai lần số bom ném
xuống Triều Tiên, gấp 3 lần số bom ném xuống chiến trường Thái Bình
Dương trong chiến tranh thế giới thứ II . Bom đạn Mỹ đã gây cho miền Bắc
những tổn thất nặng nề. Cục tình báo Trung ương Mỹ ước tính chiến dịch
“Sấm Rền” trong 3 năm đã giết hại 66.000 người miền Bắc, chủ yếu là dân
thường. Theo thống kê của Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân
Việt Nam thống kê cho biết, trong 4 năm (1964-1968) bom đạn Mỹ đã giết
hại 14.000 quân nhân và 60.000 dân thường miền Bắc [11]. Miền Bắc còn bị
tàn phá nặng nề về vật chất, cơ sở hạ tầng; 100% nhà máy điện, 1600 công
trình thủy lợi, 60% nông trường quốc doanh, 1000 quãng đê xung yếu; 5 trên
6 thành phố, 96 trên 116 thị trấn, 28 trên 30 thị xã bị đánh phá trong đó có 12
thị xã bị hủy diệt . Đây thực sự là những thử thách lớn đối với miền Bắc.
Trước âm mưu, hành động đánh phá miền Bắc ngày càng mở rộng và
tính chất càng ác liệt thì một yêu cầu khách quan là miền Bắc phải nhanh


16

chóng chuyển toàn bộ những hoạt động từ trạng thái hòa bình vào trạng thái
có chiến tranh mà trong đó vấn đề hàng đầu, hết sức quan trọng là phải nhanh
chóng chuyển hướng xây dựng kinh tế, tiếp tục công cuộc xây dựng CNXH
cho phù hợp với điều kiện mới.
1.1.2 Miền Bắc chuyển hướng xây dựng kinh tế, tiếp tục xây dựng chủ
nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, làm tròn hậu phương lớn, căn cứ
địa cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam
Sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954) miền Bắc được giải phóng, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đưa miền Bắc quá độ tiến lên CNXH.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa II) của Đảng ( 81955) đã khẳng định: Điều cốt yếu là phải ra sức củng cố miền Bắc tức là bồi

dưỡng lực lượng cơ bản của ta, xây dựng chỗ dựa vững chắc cho nhân dân
toàn quốc giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh củng cố hòa bình thực hiện
thống nhất. Dựa trên phương hướng đó và trước đòi hỏi cấp bách của thực
tiễn miền Bắc lúc này, Đảng đã chỉ đạo miền Bắc nhanh chóng bước vào thực
hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế trong những năm 1954-1957, tiếp đó thực
hiện cải tạo và phát triển kinh tế từ 1958 đến 1960. Miền Bắc đã từng bước
hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định dần đời sống vật chất, tinh thần, văn
hóa cho nhân dân, nền kinh tế có sự phát triển cả về nông nghiệp, thủ công
nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, từ đó đã tạo dần cho miền Bắc những
điều kiện để trở thành hậu phương, căn cứ địa của cách mạng cả nước trong
sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng( 9-1960) đã khẳng
định: Miền Bắc là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước. Nhiệm vụ cách
mạng XHCN ở miền Bắc rõ ràng là nhiêm vụ quyết định nhất đối với sự phát
triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.


17

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng, nhân dân
miền Bắc phấn khởi thi đua thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất(19611965), thực hiện một bước công nghiệp hóa XHCN, xây dựng bước đầu cơ sở
vật chất kỹ thuật của CNXH.
Trên lĩnh vực nông nghiệp: Miền Bắc đã xây dựng nhiều công trình
thủy lợi lớn, nhỏ tưới cho hơn nửa triệu mẫu ruộng đất, vỡ hoang được hơn
30 vạn mẫu, đẩy mạnh sản xuất các loại phân bón và nông cụ cải tiến. Nhà
nước đã tăng cường giúp đỡ đồng bào nông dân và ra sức phát triển nguồn
vốn của HTX để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, thực hiện
thâm canh để tăng năng suất. Mặc dù hạn hán, bão lụt thường xảy ra, nhưng
sản xuất nông nghiệp vẫn phát triển toàn diện và vững chắc. Đến năm1964,
miền Bắc đã bảo đảm được lương thực cơ bản và tự giải quyết được 90% hàng

tiêu dùng.
So với năm 1939, sản lượng lương thực tăng 2 lần, chăn nuôi tăng gần
gấp đôi, giá trị cây công nghiệp tăng gấp 7 lần. Nền nông nghiệp miền Bắc
đang ngày càng vươn lên mạnh mẽ, làm cơ sở vững chắc cho sự nghiệp công
nghiệp hóa đất nước.
Trên lĩnh vực công nghiệp: Đã phát triển thêm nhiều ngành mới và
sản xuất thêm nhiều mặt hàng mới. Hàng trăm xí nghiệp công nghiệp địa
phương ra đời. Năm 1954 có 41 nhà máy( trong đó có 20 nhà máy lớn), năm
1964 miền Bắc đã có 1000 nhà máy (trong đó 217 nhà máy lớn), những cơ sở
quan trọng của các ngành công nghiệp nặng: Chế tạo máy móc, điện, luyện
kim, hóa chất, khai mỏ... Dần dần được xây dựng. Công nghiệp nhẹ và thủ
công nghiệp đã sản xuất được phần lớn hàng tiêu dùng trong nước. Nền kinh
tế miền Bắc lúc này về căn bản đã trở thành một nền kinh tế tự chủ đang vững
bước tiến lên.


18

Về văn hóa xã hội: Dưới thời Pháp thuộc 95% dân ta mù chữ, đến
năm 1964, ở miền Bắc 95% nhân dân biết đọc, biết viết. So với ngày hòa bình
lập lại (1954), số học sinh phổ thông tăng gấp ba lần rưỡi. Số học sinh đại học
và trung học chuyên nghiệp tăng 25 lần. Công tác y tế có nhiều thành tích, đã
ngăn chặn được nhiều bệnh dịch và bệnh xã hội cũ, sức khỏe của nhân dân
được nâng cao. Đời sống văn hóa của quần chúng ngày càng tiến bộ.
Cùng với phát triển kinh tế và văn hóa xã hội, công cuộc củng cố quốc
phòng đã không ngừng được tăng cường, Quân đội được xây dựng theo
hướng chính quy để có đủ sức bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và làm
tròn nghĩa vụ quốc tế với Lào và Cămpuchia.
Chính những thành tựu toàn diện trong 10 năm xây dựng CNXH ở
miền Bắc( 1954-1964) đã làm cho miền Bắc có những biến đổi to lớn. Tổng

kết những thắng lợi đó, tại Hội nghị Chính trị đặc biệt tháng 3-1964 Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói: " Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước
dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi
mới" [ 38, tr.224].
Cũng chính công cuộc xây dựng kinh tế, tiến hành xây dựng CNXH
trong những năm này đã làm cho miền Bắc trở thành căn cứ địa vững chắc
của cách mạng Việt Nam trong cả nước với chế độ chính trị ưu việt, với lực
lượng kinh tế và quốc phòng lớn mạnh.
Trong lúc miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất thì đế
quốc Mỹ tăng cường chiến tranh xâm lược, tiến hành leo thang chiến tranh
đánh phá ác liệt miền Bắc bằng không quân và hải quân đặt miền Bắc trước
thử thách: Có tiếp tục công cuộc xây dựng CNXH không và nếu tiếp tục thì
bằng cách nào?


19

Trước tình hình mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định:
Trong cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân cả nước chống đế quốc Mỹ,
miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn, nhưng
nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện
cho miền Nam. Đồng thời Đảng cũng chỉ rõ: Từ khi đế quốc Mỹ tiến hành
"Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và dùng không quân, hải quân đánh phá
miền Bắc, hậu phương miền Bắc có thêm đặc điểm mới hậu phương ấy cũng
đang có chiến tranh hạn chế và đang trực tiếp chiến đấu.
Do vậy, nhiệm vụ của quân và dân miền Bắc lúc này là: Xây dựng
miền Bắc trở thành hậu phương lớn, vững chắc của cách mạng miền Nam,
đồng thời bảo đảm đời sống cho nhân dân và đáp ứng nhu cầu hậu cần tại chỗ,
đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và tăng cường chi viện cho
tiền tuyến lớn miền Nam, giúp đỡ cách mạng Lào.

Trong chiến tranh, hậu phương luôn giữ vai trò có ý nghĩa quyết định
đối với thắng lợi của chiến tranh và sự sống còn của quân đội. Khẳng định vai
trò của hậu phương, I.V.Xtalin viết:
Không có một quân đội nào trên thế giới không có hậu phương vững
chắc mà lại có thể chiến thắng được. Hậu phương có một tầm quan
trọng bậc nhất với tiền tuyến: Chính là vì hậu phương, và chỉ có hậu
phương mới cung cấp cho tiền tuyến chẳng những các nhu cầu đủ mọi
loại, mà còn cả binh sĩ, cả tình cảm lẫn tư tưởng nữa. Hậu phương
không vững chắc, nhất định sẽ biến những quân đội ưu tú nhất và cố kết
nhất thành một đám quần chúng không vững vàng và hèn yếu [57,
tr.369].
Như thế, lúc này phải tiếp tục xây dựng CNXH ở miền Bắc, kết hợp
chặt chẽ việc xây dựng kinh tế với củng cố và tăng cường quốc phòng, kiên


20

quyết đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa của máy bay, tàu chiến
Mỹ bảo vệ miền Bắc, đồng thời ra sức tăng cường lực lượng mọi mặt cho
cách mạng miền Nam. Để hoàn thành những nhiệm vụ quan trọng và rất mới
mẻ này, một yêu cầu tất yếu là miền Bắc phải tiếp tục xây dựng CNXH trong
điều kiện có chiến tranh mà nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc lúc này là phải
kịp thời chuyển hướng xây dựng kinh tế. Chỉ như thế và duy nhất như thế
miền Bắc mới hoàn thành được các nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nhiệm
vụ làm tròn nghĩa vụ của hậu phương và căn cứ địa cho cuộc đấu tranh giải
phóng miền Nam thống nhất nước nhà.
1.2 Chủ trương của Đảng về chuyển hướng xây dựng kinh tế ở
miền Bắc trong những năm từ 1965 đến 1968
Bằng những hành động mở rộng và tăng cường chiến tranh ở cả hai
miền Nam, Bắc Việt Nam, Mỹ đã làm cho quy mô, tính chất cuộc chiến tranh

khác trước với mức độ cực kỳ nguy hiểm: Nguy cơ chiến tranh mở rộng đe
doạ hoà bình thế giới, đe doạ các nước XHCN mà trước mắt là Mỹ muốn đè
bẹp dân tộc ta. Vì vậy, cuộc chiến đấu chống Mỹ không phải chỉ có ý nghĩa
đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa sâu sắc đến sự nghiệp bảo vệ hoà bình
thế giới, đến vận mệnh của CNXH, đến phong trào giải phóng dân tộc. Lịch
sử đã trao sứ mệnh cho dân tộc ta phải thắng Mỹ trong bất kỳ tình hình nào.
Đảng ta đã sớm có những nhận định đúng đắn về Mỹ và có quyết tâm
chiến lược kịp thời để đối phó với chúng:
Từ ngày 25 đến 27-3-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp
Hội nghị lần thứ 11 (khoá III) đề ra Nghị quyết "Về tình hình và nhiệm vụ cấp
bách trước mắt". Trung ương Đảng đánh giá thắng lợi của nhân dân Việt Nam
trong những năm qua và những thất bại của Mỹ, Ngụy. Nghị quyết chỉ rõ: "Ba
chỗ dựa chủ yếu của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược ở miền


21

Nam là quân đội đánh thuê và chính quyền bù nhìn tay sai, hệ thống ấp chiến
lược và các đô thị bị sụp đổ hoặc lung lay mạnh" [12, tr.102]. Điều đó, đang
trở thành mối lo ngại lớn nhất của đế quốc Mỹ lúc này. Vì nếu không thay đổi
chính sách xâm lược ở miền Nam, có thể sẽ bị thất bại hoàn toàn trong cuộc
chiến tranh này. Do vậy, với bản chất ngoan cố, hiếu chiến Mỹ tiếp tục leo
thang chiến tranh với những âm mưu, hành động quân sự mới. Mỹ đang từng
bước đưa lực lượng chiến đấu của mình và quân chư hầu vào miền Nam.
Đồng thời, mở rộng hoạt động không quân ném bom, bắn phá miền Bắc để
gây áp lực, hòng làm cho cách mạng giảm sức tấn công chúng ở miền Nam.
Như vậy, những hành động quân sự mới của Mỹ đã đẩy cuộc chiến tranh ở
Việt Nam lên mức độ cao, không gian của chiến tranh đã vượt ra khỏi phạm
vi miền Nam và lan rộng ra cả miền Bắc.
Phân tích âm mưu, hành động của Mỹ, Trung ương Đảng dự kiến Mỹ

sẽ đẩy cuộc chiến tranh xâm lược lên một bước cao hơn trên cả hai miền
Nam, Bắc. Cuộc chiến tranh sẽ diễn ra với quy mô rộng lớn hơn và tính chất
ác liệt chưa từng có ở Việt Nam. Tuy nhiên, Trung ương Đảng cũng nhận
thấy là thực hiện leo thang chiến tranh, đế quốc Mỹ cũng sẽ gặp nhiều khó
khăn trở ngại lớn "Vì tình hình hiện nay không thuận lợi cho chúng. Rõ ràng
là chúng đang bị thất bại và bị động nghiêm trọng cả vẻ mặt chính trị và
chiến lược, và đang bị cô lập đến cao độ cả ở trong nước và trên thế giới" [12,
tr.105-106]. Đế quốc Mỹ phải thay đổi chính sách xâm lược Việt Nam, đó là
một bằng chứng, chứng minh rằng Mỹ đang ở thế thua, thế bị động. Trong khi
đó, Việt Nam đang ở thế thắng, thế thuận lợi và được đông đảo nhân dân tiến
bộ trên thế giới ủng hộ. Vì vậy, mặc dù có cố gắng nhưng đế quốc Mỹ cũng
sẽ không làm đảo ngược tình hình ở miền Nam. Hội nghị Trung ương Đảng
lần thứ 11 khẳng định: "Chúng sẽ càng bị sa lầy và thiệt hại nặng hơn và nhất
định chúng sẽ bị thất bại hoàn toàn" [12, tr.106].


22

Nắm chắc tình hình, tin tưởng vào sự tất thắng của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11 đề ra nhiệm vụ
cơ bản cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ở cả hai miền Nam Bắc là:
"Tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc chiến tranh đặc biệt ở mức cao
nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước
giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn" [12,
tr.109]. Ngay từ đầu năm 1965, dự kiến được âm mưu của đế quốc Mỹ, Trung
ương Đảng chỉ rõ: "Chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng trong cuộc
chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra" [12, tr.109].
Ở miền Bắc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) đã
giành được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Đến ngày 05-81964 đế quốc Mỹ bắt đầu tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không
quân, hải quân. Nhưng không phải vì thế mà công cuộc xây dựng CNXH ở

miền Bắc phải dừng lại, Đảng và nhân dân Việt Nam vẫn tiếp tục xây dựng
CNXH trong điều kiện có chiến tranh. Để hạn chế thiệt hại trước sự phá hoại
của bom đạn Mỹ, duy trì được sức sống của nền kinh tế, xây dựng miền Bắc
thành hậu phương, căn cứ địa cách mạng vững chắc cho cách mạng cả nước,
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 11, quyết định chuyển toàn bộ hoạt động
của nền kinh tế từ thời bình sang thời chiến. Khẩu hiệu chung của miền Bắc
lúc này là: "Xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam (nói trong
nội bộ), tích cực ủng hộ miền Nam (nói ở nước ngoài)" [12, tr.110].
Cùng với nhiệm vụ xây dựng CNXH, miền Bắc còn phải đánh bại
chiến tranh phá hoại của địch. Vì vậy, Trung ương Đảng quyết định: Tăng
cường tiềm lực quốc phòng; tăng cường công tác tư tưởng, công tác tổ chức
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác tư tưởng phải làm
cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn mới của
đế quốc Mỹ. Nhận thấy tương quan lực lượng, những điểm mạnh yếu, thuận


23

lợi khó khăn và khả năng của cả Việt Nam và Mỹ. Công tác tư tưởng góp
phần xây dựng ý chí quyết tâm và niềm tin tất thắng của nhân dân vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Mặt khác công tác tư tưởng cũng phải
chống cả hai khuynh hướng: Đánh giá quá cao sức mạnh của Mỹ, dẫn đến tư
tưởng sợ Mỹ đồng thời chống quan điểm đánh giá thấp về Mỹ dẫn đến tư
tưởng chủ quan khinh địch. Trung ương Đảng nhấn mạnh: "Phải làm cho toàn
Đảng, toàn dân nhận rõ giải phóng miền Nam là trách nhiệm chung của nhân
dân cả nước, vì Bắc - Nam là một Tổ quốc, một dân tộc" [12, tr.114]. Đẩy
mạnh công cuộc giải phóng miền Nam cũng chính là phương pháp tốt nhất để
bảo vệ miền Bắc XHCN.
Trước những diễn biến ngày càng phức tạp do đế quốc Mỹ tăng cường
chiến tranh xâm lược đưa quân ồ ạt vào miền Nam, Hội nghị Ban Chấp hành

Trung ương Đảng lần thứ 12, họp tại Hà Nội vào cuối tháng 12-1965. Hội
nghị phân tích đánh giá tình hình và nhận định : Ngày nay mặc dầu đế quốc
Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân đội viễn chinh, lực lượng so sánh
giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở
lên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và
tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để
đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch [13, tr.633].
Từ nhận định chính xác đó, kiên quyết triển khai thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III (9-1960) của Đảng đề ra. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
12 xác định rõ tư tưởng quyết tâm đánh Mỹ và mục tiêu kháng chiến là:
"Động viên lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm
lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam, hoàn thành Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà"[13, tr.634].


24

Nhiệm vụ của miền Bắc rất nặng nề, vừa tiếp tục xây dựng CNXH
trong điều kiện có chiến tranh, chống lại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
để bảo vệ miền Bắc, vừa động viên sức người, sức của chi viện cho miền
Nam đánh Mỹ, giúp đỡ cách mạng Lào. Mặt khác, miền Bắc phải chuẩn bị
mọi mặt sẵn sàng đánh bại quân địch, nếu chúng liều lĩnh mở rộng xâm lược
bằng lục quân ra cả nước.
Những hành động leo thang chiến tranh của Mỹ đã đẩy mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược lên mức độ cao. Vì vậy,
Trung ương Đảng xác định rõ: "Nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước hiện nay rõ
ràng là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc ta, của nhân dân ta từ Nam chí
Bắc"[13, tr.635]. Cuộc đụng đầu lịch sử giữa Việt Nam và Mỹ là cuộc đụng

đầu giữa một dân tộc đất không rộng, người không đông, có nền kinh tế chậm
phát triển với một nước đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất phe
đế quốc chủ nghĩa. Muốn giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh này, đòi hỏi
Đảng Cộng sản Việt Nam phải khơi dậy được tinh thần yêu nước, lòng căm
thù giặc của toàn dân tộc, đoàn kết mọi lực lượng xung quanh Đảng để chống
đế quốc Mỹ xâm lược.
Đảng lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chính nghĩa trong
thời đại mới, có sự giúp đỡ chí nghĩa, chí tình của bạn bè quốc tế nhưng trong
điều kiện vật chất của Việt Nam so với đế quốc Mỹ là lấy yếu chống mạnh,
Đảng nhận thức rằng muốn chiến thắng đế quốc Mỹ cần phải có thời gian để
chuyển hoá lực lượng, phải trải qua một quá trình chiến đấu lâu dài. Với nhận
thức đúng đắn đó, Trung ương Đảng vạch ra phương châm chiến lược chỉ đạo
chung cho toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đó là: "Đánh lâu
dài, dựa vào sức mình là chính"[13, tr.637]. Đánh lâu dài không có nghĩa là
kéo dài kháng chiến vô thời hạn, là chờ đợi thời cơ, mà phải quán triệt tinh
thần tích cực chủ động đấu tranh để tạo thời cơ, nắm thời cơ giành thắng lợi


25

quyết định trong thời gian tương đối ngắn. Trung ương Đảng nhấn mạnh:
"Trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, chúng
ta cần phải cố gắng đến cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh
thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên
chiến trường miền Nam"[13, tr.637-638]. Dựa vào sức mình là chính không
đồng nghĩa với sự đóng kín, không cần sự giúp đỡ bên ngoài, mà phải ra sức
tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam trong
những năm 1965-1968 diễn ra trong hoàn cảnh cực kỳ gay go, ác liệt. Đòi hỏi
Đảng phải có bản lĩnh vững vàng, có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo đánh giá

toàn diện tình hình, xây dựng quyết tâm kháng chiến đúng đắn.
Quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của Đảng là sản phẩm của sự vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh
cách mạng vào điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam trong những năm
1965-1968. Đó cũng chính là sản phẩm của tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trên cơ sở quyết tâm chống Mỹ, cứu nước, Đảng chỉ rõ chủ trương
chung đối với miền Bắc trong thời gian này là:
"Vừa sản xuất, vừa chiến đấu để bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ, động viên sức người, sức của tăng cường chi viện cho
miền Nam, ra sức giúp đỡ cách mạng Lào, đồng thời tích cực chuẩn bị đánh
thắng địch nếu chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước ta" [13, tr.644].
Đồng thời Trung ương còn nhấn mạnh, muốn hoàn thành những nhiệm vụ nêu
trên, miền Bắc cần phải được củng cố về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế.
Như vậy, trong thời kỳ mới miền Bắc đứng trước nhiệm vụ hết sức
nặng nề: Phải làm sao đảm bảo đời sống của nhân dân miền Bắc, giữ vững


26

sản xuất đồng thời phải đối phó với chiến tranh phá hoại rất ác liệt do Mỹ gây
ra. Đó là việc rất khó khăn bởi làm ra tự nuôi sống, cải thiện đời sống đã khó,
lại gặp khó khăn hơn khi không sản xuất được hoặc sản xuất đến đâu bị bom
đạn Mỹ phá hoại đến đó và trên thực tế dồn sức đối phó với chiến tranh phá
hoại không phải là ít. Miền Bắc phải chi viện đáp ứng đầy đủ nhu cầu về sức
người, sức của cho chiến trường miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế là một
nhiệm vụ cũng hết sức nặng nề, to lớn. Vì vậy, nhiều nhà sử học sau này đã
đánh giá : Miền Bắc không phải chỉ tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược mà là ba
nhiệm vụ chiến lược: Sản xuất và chiến đấu xây dựng miền Bắc; chi viện đầy
đủ sức người, sức của cho chiến trường miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế.

Xét về mối quan hệ, các nhiệm vụ đó đều quan trọng và là những nhiệm vụ
chiến lược của miền Bắc.
Đối với miền Bắc lúc này phải chống chiến tranh phá hoại để bảo vệ
cho chuyển hướng xây dựng kinh tế tiếp tục xây dựng CNXH
Nghị quyết Trung ương 12 chỉ rõ: "Bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến
tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng thời chuẩn bị đánh thắng địch nếu
chúng mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước ta"[13, tr.644]. Thực hiện chủ
trương này Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng phải tiếp tục
tăng cường lực lượng quốc phòng, phát động rộng rãi chiến tranh nhân dân và
quốc phòng toàn dân nhằm đánh bại chiến tranh phá hoại bằng không quân và
hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ các
đường giao thông chiến lược, các mục tiêu kinh tế, chính trị nhất là các vùng
công nghiệp tập trung, các công trình thuỷ lợi, những nơi tập trung dân, tạo
điều kiện đẩy mạnh sản xuất và chi viện cho miền Nam. Miền Bắc phải tích
cực đấu tranh chống chiến tranh gián điệp và chiến tranh tâm lý của địch, đó
cũng là một bộ phận của chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong khi làm tròn
nhiệm vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, miền Bắc phải đồng thời tích


27

cực chuẩn bị về mọi mặt để đánh thắng địch nếu chúng liều lĩnh mở rộng
chiến tranh cục bộ ra cả nước.
Chống chiến tranh phá hoại là một nhiệm vụ mới của miền Bắc so với
mười năm trước (1954-1964 ) đã đòi hỏi Đảng không những phải tạo ra tiềm
lực to lớn về vật chất mà còn phải tạo ra động lực to lớn về tinh thần, phải tiến
hành công tác tư tưởng, công tác chính trị, công tác tổ chức sâu rộng đáp ứng
nhu cầu lịch sử mới. Những công tác này không chỉ nhằm hoàn thành nhiệm
vụ trước mắt là đánh thắng chiến tranh phá hoại mà còn phải chuẩn bị cho
điều kiện khó khăn hơn là Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh cục bộ ra miền Bắc.

Về tiếp tục xây dựng CNXH trong điều kiện có chiến tranh phá hoại.
Nghị quyết Trung ương 12 (12-1965) nêu rõ:
Nhiệm vụ của miền Bắc hiện nay là vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Sản
xuất phải phục vụ chiến đấu và chiến đấu phải nhằm bảo vệ sản
xuất.... Trong bất cứ tình huống nào, chúng ta cũng phải khắc phục
khó khăn đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp địa phương và
thủ công nghiệp. Việc xây dựng công nghiệp cần phải làm theo lối
phân tán với quy mô vừa và nhỏ cho thích hợp với hoàn cảnh chiến
tranh [13, tr.645].
Nghị quyết còn chỉ rõ: Phải xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế
và quốc phòng. Theo tinh thần đó không những miền Bắc phải chuyển hướng
xây dựng kinh tế mà còn cần phải tăng cường củng cố quốc phòng, xây dựng
lực lượng vũ trang vững mạnh về số lượng và chất lượng. Phải động viên cao
độ quần chúng nhân dân hăng hái quyết tâm chiến đấu và phục vụ chiến đấu.
Chủ trương chuyển hướng xây dựng kinh tế tiếp tục xây dựng CNXH
ở miền Bắc không phải là một chủ trương duy ý chí mà đó là sự vận dụng
sáng tạo lý luận Mác- Lênin vào tình hình thực tiễn Việt Nam.


×