Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ VAI TRÒ của CÔNG đoàn TRONG NÂNG CAO ý THỨC XHCN CHO CÔNG NHÂN ở các DOANH NGHIỆP có vốn đầu tư nước NGOÀI của TỈNH ĐỒNG NAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.44 KB, 52 trang )

MỞ ĐẦU
1-

Tính cấp thiết của đề tài
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của GCCN Việt Nam. Công đoàn có vai trò quan
trọng trong việc tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng GCCN trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng
Việt Nam- Vai trò này đã được Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và luật Công đoàn khẳng
định.
Từ khi ra đời, trải qua các chặng đường lịch sử gian khổ và quang vinh của đất nước, Công đoàn Việt
Nam đã trưởng thành nhanh chóng, thể hiện rõ vai trò của mình. Đặc biệt là trong tuyên truyền giáo dục ý thức
chính trị XHCN cho GCCN để GCCN giác ngộ và từng bước hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Công đoàn
Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đã xứng đáng là cơ sở xã hội chính trị
của Đảng, là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước và là trường học cộng sản chủ nghĩa của GCCN.
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã đạt được
nhiều thành tích to lớn và rất quan trọng, làm cho thế và lực của chúng ta lớn mạnh lên nhiều. Tuy nhiên, vẫn
còn nhiều yếu kém và khuyết điểm: kinh tế phát triển chưa vững chắc, một số vấn đề văn hóa- xã hội bức xúc
chưa được giải quyết, cơ chế chính sách chưa đồng bộ, tệ tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên còn rất nghiêm trọng. Đất nước vẫn phải đối phó với
4 nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra là: Tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch hướng XHCN; quan liêu tham nhũng và “diễn
biến hòa bình”.
Tất cả những vấn đề trên đã tác động trực tiếp theo hướng cả tích cực lẫn tiêu cực đến tư tưởng, nhận
thức, ý thức chính trị XHCN của GCCN nước ta. Làm cho một bộ phận công nhân chưa nhận thức đầy đủ vai trò
nhiệm vụ của giai cấp mình, thiếu tính tiền phong cách mạng. Vì vậy, trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đòi hỏi
GCCN Việt Nam phải được “coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính
trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp”.
Đồng Nai là một vùng kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, ưu thế về quy mô, chất lượng các ngành công
nghiệp phát triển năng động của đất nước. Trong mấy năm gần đây, Tỉnh Đồng Nai phát triển mạnh mẽ các khu
công nghiệp tập trung, hình thành và phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, đã thu hút một lực lượng lớn
công nhân tham gia, trong đó phần lớn là lao động trẻ. Theo báo cáo của Ban chấp hành liên đoàn lao động
Tỉnh Đồng Nai khoá VI: hiện nay còn một số ít công nhân chưa nhận thức đầy đủ về tổ chức Công đoàn, chưa
thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình đối với doanh nghiệp, Nhà nước và xã hội, trình độ giác ngộ chính trị


còn hạn chế, trong khi đó hoạt động của tổ chức Công đoàn, đặc biệt là đối với nhiệm vụ nâng cao ý thức chính
trị xã hội chủ nghĩa của GCCN còn nhiều bất cập cả về nội dung và hình thức .Do đó, yêu cầu bức bách đặt ra
là cần phải nghiên cứu thực trạng và tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhằm phát huy vai trò của tổ chức Công
đoàn trong việc giáo dục nâng cao ý thức chính trị XHCN cho công nhân đang lao động tại các doanh nghiệp có
vốn ĐTNN trên địa bàn cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Đồng Nai nói riêng.


Vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Phát huy vai trò tổ chức Công đoàn trong nâng cao ý thức chính
trị xã hội chủ nghĩa của công nhân ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay” làm
luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2-

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Trước yêu cầu xây dựng GCCN vững mạnh về mọi mặt, thực sự là giai cấp lãnh đạo, là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN, thời gian qua nhiều nhà nghiên cứu lý luận Việt
Nam đã tập trung nghiên cứu về GCCN và Công đoàn, như: “ Đảng Cộng sản Việt Nam với GCCN và Công
đoàn Việt Nam” của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam- Ban tư tưởng văn hóa, Nxb Lao động, 2000; “Xây dựng
GCCN Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước” của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam- Viện công nhân và
Công đoàn, Nxb Lao động, 1999; “Mấy suy nghĩ về công tác đào tạo, qui hoạch cán bộ Công đoàn hiện nay”
của Lê Phan Ngọc Rĩ, tạp chí Lao động và Công đoàn, 8/1999; “Nâng cao hoạt động Công đoàn trong các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN” của Dương Văn Sao, tạp chí Lao động và Công đoàn, số 284-5/2003; “Công đoàn
chăm lo bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động” của Cù Thị Hậu, báo Quân đội nhân dân cuối tuần,
ngày 12/10/2003; “Công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên doanh ở nước ta thời kỳ đổi mới” của Bùi Thị
Thanh Hà, Nxb Khoa học xã hội, 2003;v.v.
Tất cả các công trình và bài viết trên đã tập trung phân tích và khẳng định những luận điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vai trò, sứ mệnh lịch sử của GCCN và vai trò to lớn của Công đoàn trong tập hợp, giáo dục, giác
ngộ GCCN. Một số công trình đã đề cập đến nâng cao vai trò của tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp
có vốn ĐTNN trên địa bàn cả nước. Song, chưa có công trình nào đề cập một cách cơ bản, hệ thống về vấn đề
phát huy vai trò của Công đoàn đối với nâng cao ý thức chính trị XHCN của GCCN trong các doanh nghiệp có
vốn đàu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, đề tài “Phát huy vai trò tổ chức Công đoàn trong nâng

cao ý thức chính trị XHCN của công nhân ỏ các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện
nay” mà tác giả lựa chọn là một công trình khoa học độc lập, không trùng lắp với bất kỳ công trình khoa học nào
đã công bố.

3-

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của tổ chức Công đoàn trong nâng
cao ý thức chính trị XHCN của công nhân ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, luận văn đề xuất những giải pháp
cơ bản nhằm phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn trong nâng cao ý thức chính trị XHCN của công nhân ở
các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ khái niệm ý thức chính trị XHCN và biểu hiện của nó ở GCCN Việt Nam. Sự cần thiết phải
nâng cao ý thức chính trị XHCN của GCCN nước ta hiện nay.
- Phân tích vai trò của tổ chức Công đoàn trong nâng cao ý thức chính trị XHCN của công nhân ở các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN và thực trạng vai trò đó trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của tổ chức Công đoàn trong nâng cao ý thức
chính trị XHCN của công nhân ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay.

4-

Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn


Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về GCCN và tổ chức Công đoàn của GCCN.
Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa vào kết quả nghiên cứu, khảo sát, điều tra của tác giả và kế thừa một
cách chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học, những tổng kết, báo cáo chuyên ngành
về Công đoàn cả nước, đặc biệt là của tỉnh Đồng Nai.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể
như : lịch sử - lô gíc, phân tích - tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học để nghiên cứu, thực hiện các
nhiệm vụ của đề tài đặt ra.
5-

5-Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của tổ chức Công đoàn trong nâng cao ý thức chính
trị XHCN của GCCN nói chung, công nhân ở các doanh nghiệp có vốn ĐTNN nói riêng.
- Các số liệu có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy về GCCN và Công đoàn Việt Nam
trong các nhà trường quân đội.

6-

6-Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
Ý THỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VAI TRÒ CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TRONG NÂNG CAO Ý
THỨC CHÍNH TRỊ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA CÔNG NHÂN Ở CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI
1.1. Ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân và sự cần thiết phải nâng cao ý
thức chính trị xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân nước ta hiện nay
1.1.1.Ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân Việt Nam
* Ý thức chính trị
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin toàn bộ đời sống xã hội được chia thành hai lĩnh vực lớn đó là
đời sống vật chất và đời sống tinh thần, hay nói cách khác bao gồm tồn tại xã hội và ý thức xã hội, có quan hệ
biện chứng tác động lẫn nhau.
Ý thức xã hội là toàn bộ những tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm , tư tưởng lý luận phản ánh
tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định và có tác động to lớn trở lại đối với tồn tại xã hội. Ý thức xã hội được
thể hiện dưới nhiều hình thái cụ thể như: chính trị, pháp quyền, đạo đức, triết học, nghệ thuật, tôn giáo, khoa
học. Mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh một đối tượng nhất định, một phạm vi nhất định của tồn tại xã hội.

Ở mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà thường có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng
đầu và tác động mạnh mẽ, chi phối các hình thái ý thức xã hội khác. Tuy nhiên, trong tính tổng thể của ý thức
xã hội thì ý thức chính trị có vai trò quan trọng nó quyết định đến xu hướng và nội dung của các hình thái ý
thức xã hội khác.


Theo tác giả : Ý thức chính trị là sự hiểu biết, sự quan tâm đến những vấn đề chính trị, là sự phản ánh
các quan hệ chính trị- xã hội, kinh tế- xã hội, quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia mà tập trung là phản ánh lợi
ích kinh tế cơ bản và địa vị của các giai cấp trong xã hội, mối quan hệ giữa các giai cấp đó trong việc giành và
duy trì quyền điều hành nhà nước.
Nội dung ý thức chính trị rất phong phú nhưng cái cốt lõi của nó là sự hiểu biết và nhận thức của chủ thể
về vai trò địa vị lịch sử, về đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và nhiệm vụ lịch sử của giai cấp mình
trong tiến trình phát triển của lịch sử. Theo V.I. Lênin khẳng định: “Chính trị là việc tham gia vào công việc quản
lý của Nhà nước, các định hướng của Nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ nội dung hoạt động của Nhà
nước”, do vậy, ý thức chính trị còn là sự nhận thức về Nhà nước, thái độ đối với Nhà nước của mỗi con người,
tập đoàn, giai cấp.
Nhà nước bao giờ cũng mang bản chất giai cấp, bị chi phối trực tiếp bởi một đảng của một giai cấp nào
đó, để đảm bảo quyền lực chính trị của giai cấp đó. Quyền lực chính trị là quyền làm chủ xã hội, chi phối mọi
hoạt động chính trị, xã hội của một giai cấp, liên minh giai cấp hay một tập đoàn xã hội. Quyền lực chính trị theo
đúng nghĩa của nó là: “Bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác” [20,Tr.628]. Quyền lực
chính trị nói lên thực chất hoạt động chính trị của một giai cấp, một đảng phái nhất định. Trong xã hội có giai cấp
thì giai cấp nào, nhóm xã hội nào cũng muốn nắm, muốn chi phối quyền lực chính trị, vì nếu nắm được quyền
lực chính trị là nắm được công cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với các giai cấp khác, nhóm
xã hội khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình. Do đó, ý thức chính trị còn là sự nhận thức về quyền lực
chính trị.
Trong xã hội có giai cấp , mỗi hình thái kinh tế -xã hội đều có một kết cấu giai cấp nhất định, trong đó có
những giai cấp cơ bản, những giai cấp không cơ bản và những tầng lớp xã hội khác. Vì vậy, ý thức chính trị còn
thể hiện ở quan điểm giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế, chính trị mà các giai cấp, tầng lớp đó đang
theo đuổi, ở sự liên minh giai cấp, đấu tranh và hợp tác giữa các giai cấp, tầng lớp vì những yêu cầu nhất định.
Vì vậy, chính trị thực chất là quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc. Trong

đó, trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế.V.I.Lênin cho rằng: “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”, điều đó
có nghĩa là sự hình thành, tồn tại và phát triển của chính trị là trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của sự phát
triển kinh tế, của thực trạng kinh tế, của sự liên hệ những lợi ích kinh tế cơ bản của các giai cấp, tầng lớp khác
nhau. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội thông qua hoạt động chính trị của các tổ chức chính trị của mình để
phản ánh trực tiếp vị trí, lợi ích cơ bản của giai cấp, tầng lớp mình. Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế
cho nên ý thức chính trị cũng gắn trực tiếp với vấn đề lợi ích kinh tế. Ý thức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng
xã hội của một cơ sở kinh tế xác định, thuộc ý thức xã hội và bị quyết định bởi tồn tại xã hội. Tuy nhiên, chính trị
và ý thức chính trị không phải là hậu quả tiêu cực của kinh tế, mà có sự tác động trở lại đối với kinh tế. Nếu như
không có một đường lối chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ vững được sự thống
nhất chính trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ kinh tế.
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội nên nó cũng có hai cấp độ là: cấp độ thực tiễn đời thường
và cấp độ tư tưởng lý luận. Ý thức chính trị thực tiễn đời thường được biểu hiện ở tâm lý, tình cảm, truyền
thống nảy sinh tự phát từ trong hoạt động thực tiễn, kinh nghiệm của con người, từ môi trường xung quanh và


từ ảnh hưởng chính trị trực tiếp nào đó. Ý thức chính trị thực tiễn đời thường chưa có tính hệ thống, không có
tầm nhìn lịch sử rộng lớn, không có công thức lý luận và phạm trù triết học. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó
tầm thường, ít giá trị, mà ngược lại nó có nội dung rất phong phú, bao hàm được nhiều mặt của đời sống chính
trị và ở một mức độ nào đó nó đã phản ánh được bản chất của các vấn đề chinh trị. So với cấp độ tư tưởng lý
luận thì ý thức chính trị ở cấp độ thực tiễn đời thường có điểm mạnh ở chỗ nó gần hơn với hiện thực đời sống chính
trị, do đó nó có thể phản ánh đầy đủ, toàn vẹn hơn những chi tiết của đời sống chính trị. Vì vậy, ý thức chính trị thực
tiễn đời thường là cơ sở thực tiễn để ý thức chính trị khái quát thành lý luận.
Ở cấp độ tư tưởng lý luận, ý thức chính trị được biểu hiện ở những tư tưởng, quan điểm chính trị đã
được hệ thống hóa thành một chỉnh thể mang tính hợp lý, khoa học, phản ánh được mối liên hệ bản chất, tất
yếu, phổ biến của các hiện tượng trong đời sống chính trị, được diễn tả dưới dạng các khái niệm khoa học và
đỉnh cao là các học thuyết chính trị, hệ tư tưởng chính trị.
Hệ tư tưởng chính trị là hệ thống các quan điểm tư tưởng thể hiện lợi ích căn bản của một giai cấp nhất
định được cụ thể hóa trong cương lĩnh chính trị, trong đường lối chiến lược và sách lược của chính đảng, trong
luật pháp và chính sách của nhà nước. Hệ tư tưởng chính trị không tách rời tổ chức và cơ quan chính trị, thông
qua các tổ chức và cơ quan đó mà một giai cấp nhất định tiến hành cuộc đấu tranh cho lợi ích giai cấp. Hệ tư

tưởng chính trị của giai cấp cầm quyền có vai trò rất to lớn trong đời sống xã hội: nó tác động trở lại cơ sở kinh
tế thông qua các tổ chức nhà nước, thông qua quyền lực nhà nước để bảo vệ và phát triển nền tảng kinh tế mà
giai cấp cầm quyền là người đại diện cho quan hệ sản xuất chiếm địa vị thống trị trong xã hội. Hệ tư tưởng
chính trị còn giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội nói chung; thông qua tổ chức nhà nước để
xác lập vị trí chi phối của hệ tư tưởng chính trị của giai cấp cầm quyền trong văn hóa, nếp sống và mọi lĩnh vực
tinh thần của đời sống xã hội. Bằng cách đó giai cấp cầm quyền sẽ tiến tới hình thành được sự thống nhất về
chính trị, tư tưởng, tinh thần trong xã hội mà hệ tư tưởng chính trị của nó đứng ở vị trí trung tâm mang tính chi
phối.
Ý thức chính trị thực tiễn đời thường và ý thức chính trị tư tưởng lý luận có quan hệ biện chứng với
nhau, đều là sự phản ánh hiện thực đời sống chính trị. Ý thức chính trị thực tiễn đời thường tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tiếp thu hệ tư tưởng chính trị của giai cấp, ngược lại hệ tư tưởng chính trị của giai cấp lại củng cố,
định hướng cho sự phát triển tâm lý, tình cảm của giai cấp. Vì mối quan hệ đó mà trong hoạt động thực tiễn
giáo dục ý thức chính trị cho mỗi cá nhân, cộng đồng cần giáo dục, bồi dưỡng cả ý thức chính trị thực tiễn đời
thường và ý thức chính trị tư tưởng lý luận.
Ngoài việc phân theo trình độ phát triển, ý thức chính trị còn được phân theo chủ thể bao gồm ý thức
chính trị cộng đồng và ý thức chính trị cá nhân.
Ý thức chính trị cộng đồng (Xã hội, nhóm xã hội, giai cấp, tầng lớp…) là ý thức chính trị nảy sinh từ nhu cầu lợi
ích chính trị của cả cộng đồng, nó là chuẩn mực giá trị chung về nhu cầu, lợi ích chính trị được cả cộng đồng thừa nhận.
Ý thức chính trị cá nhân là sự đánh giá, hiểu biết thừa nhận của từng cá nhân về những vấn đề hiện
thực của đời sống chính trị. Vì vậy, ý thức chính trị cá nhân rất phong phú, đa dạng, mang đậm màu sắc chủ
quan. Một vấn đề hiện thực của đời sống chính trị có thể được nhìn nhận dưới những lăng kính khác nhau, cho


nên trong thực tiễn giáo dục chính trị cho mỗi cá nhân cần khuyến khích tính tích cực, sáng tạo, đồng thời phải
có sự định hướng để tránh những nhận thức lệch lạc, không thống nhất dẫn đến những hậu quả tiêu cực.
Ý thức chính trị cộng đồng và ý thức chính trị cá nhân có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ý thức chính trị
cộng đồng chỉ tồn tại, phát triển, thể hiện thông qua ý thức chính trị của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, ý thức chính trị
cộng đồng không phải là phép cộng giản đơn của các ý thức chính trị cá nhân, mà nó là kết quả tổng hợp, kết
tinh những tinh hoa của ý thức chính trị cá nhân và được cả cộng đồng chấp nhận. Mỗi cá nhân là một phần tử
đơn nhất tạo thành cộng đồng xã hội, ý thức chính trị cá nhân được hình thành và phát triển trong quan hệ xã

hội. Mỗi cá nhân đều sống trong một xã hội cụ thể, một giai cấp cụ thể, cho nên ý thức chính trị của cá nhân đều
mang nội dung nào đó của ý thức chính trị cộng đồng, đều bị chi phối, bị định hướng bởi ý thức chính trị cộng
đồng, giai cấp mà mình là thành viên.
Tất nhiên, ý thức chính trị cộng đồng ảnh hưởng tới ý thức chính trị cá nhân không như nhau; mỗi cá
nhân có hoàn cảnh kinh tế, nghề nghiệp, môi trường giáo dục, kinh nghiệm sống riêng, cho nên việc lĩnh hội,
tiếp thu ý thức chính trị cộng đồng và ảnh hưởng tới ý thức chính trị cộng đồng cũng khác nhau.
Việc phân loại ý thức chính trị theo chủ thể đã chỉ rõ: Nhóm xã hội nào, tầng lớp nào, giai cấp nào trong
xã hội cũng có ý thức chính trị. Mỗi giai cấp, tầng lớp có điều kiện sinh hoạt vật chất riêng, có địa vị và lợi ích
khác nhau, do đó trong xã hội sẽ có nhiều loại ý thức chính trị khác nhau ( có thể đối lập hoặc không) nhưng
không phải ý thức chính trị của nhóm xã hội nào, tầng lớp nào, giai cấp nào cũng vươn tới tầm lý luận và hệ tư
tưởng chính trị. Chỉ có những giai cấp có khả năng đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một hình thái
KT-XH mới, thì mới có thể hình thành tư tưởng chính trị một cách có hệ thống, có tính lý luận, có tính khoa học
dưới dạng học thuyết. Và tất nhiên, khi ấy hệ tư tưởng chính trị của giai cấp này sẽ trở thành hệ tư tưởng thống trị
trong xã hội và ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của hình thái KT-XH.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, hệ tư tưởng chính trị thống trị trong xã hội bao giờ cũng là hệ tư
tưởng chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế - giai cấp nắm chính quyền. Ý thức chính trị của các giai cấp
khác thường chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng chính trị của giai cấp thống trị, tuy nhiên sự ảnh hưởng này chỉ là
tương đối. Cùng với cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực kinh tế, thì cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư
tưởng cũng diễn ra quyết liệt giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Trong xã hội XHCN, hệ tư tưởng chính trị của GCCN giữ vị trí thống trị. Đây là hệ tư tưởng tiến bộ, cách
mạng, nó phản ánh được những nhu cầu, lợi ích chính trị cơ bản của toàn thể nhân dân lao động, nên nó có vai
trò chủ đạo định hướng đúng đắn cho ý thức chính trị của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, nhằm mục
đích giải quyết tốt những quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong quá trình xây dựng CNXH.
*Ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân Việt Nam
Vận dụng những vấn đề đã phân tích ở trên để nghiên cứu ý thức chính trị XHCN của GCCN nước ta
trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng. GCCN Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nếu không
có một trình độ giác ngộ ý thức chính trị XHCN cao thì sẽ không thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang
đó của mình.
Ý thức chính trị XHCN là một loại hình đặc thù của ý thức chính trị nói chung, phản ánh xu hướng phát
triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người, nó khác về chất so với các loại hình ý thức chính trị đã có trong lịch



sử, thể hiện ở tính tiên tiến, khoa học và triệt để cách mạng, đồng thời ý thức chính trị XHCN có vai trò to lớn
trong dự báo khoa học, định hướng chính trị cho hoạt động thực tiễn, xây dựng niềm tin cho con người.
Theo tác giả: Ý thức chính trị XHCN của GCCN Việt Nam chính là sự hiểu biết, sự quan tâm đến những
vấn đề chính trị của GCCN, phản ánh tâm tư, tình cảm, lập trường, thái độ, trình độ giác ngộ của GCCN về chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, quyết
tâm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
*Biểu hiện ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân Việt Nam
Trước những biến động to lớn của tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt là sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước đã làm cho GCCN nước ta có sự trưởng thành cả về số lượng và chất lượng.
Trong điều kiện hiện nay, ý thức chính trị XHCN của GCCN nước ta có những biểu hiện chính sau
đây:
Một là: Sự giác ngộ về giai cấp
Giác ngộ về giai cấp (hay ý thức về giai cấp) là sự nhận thức về chính bản thân giai cấp mình trong mối
quan hệ với các giai cấp, tầng lớp khác và với tiến trình phát triển chung của xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta, giác ngộ về giai cấp là yếu tố hàng đầu của ý thức chính trị của GCCN. Sự giác ngộ về giai
cấp được biểu hiện ở hai vấn đề:
- Thứ nhất, Người công nhân hiểu về giai cấp mình ra sao? Giai cấp mình có vai trò lịch sử gì? Tại sao có
vai trò lịch sử ấy? Điều kiện để thực hiện được vai trò lịch sử này?
Nếu người công nhân chưa có sự giác ngộ giai cấp thì không hiểu được hoặc hiểu sai lệch những vấn
đề trên. Khi có giác ngộ giai cấp thì người công nhân sẽ ý thức được rằng: GCCN là giai cấp của những người
lao động trong nền công nghiệp hiện đại, là lực lượng tạo ra phần lớn sản phẩm vật chất cho xã hội, có sứ
mệnh lịch sử là xóa bỏ chế độ TBCN, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng thành công CNXH và
CNCS. Sở dĩ GCCN có sứ mệnh lịch sử ấy là xuất phát từ địa vị KT-XH của nó, vì GCCN là sản phẩm của nền
đại công nghiệp, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất hiện đại, có tinh thần cách
mạng triệt để, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có lý luận cách mạng và khoa học dẫn đường - đó là Chủ nghĩa
Mác-Lênin – tư tưởng Hồ Chí Minh. Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, GCCN phải có một trình độ
giác ngộ chính trị nhất định, phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phải xây dựng được khối liên minh vững
chắc với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức và thực hiện khẩu hiệu chiến lược của chủ nghĩa Mác- Lê nin:

“Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới liên hiệp lại”.
Chỉ khi có giác ngộ giai cấp cao thì người công nhân mới nắm được những vấn đề nêu trên một cách
đầy đủ, có tính lý luận chắc chắn, đồng thời liên hệ được với thực tiễn, và nhất là có niềm tin vào sự lãnh đạo
của Đảng, sự tất thắng của CNXH và đấu tranh chống những quan điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lịch
sử của GCCN.
- Thứ hai, Nhận thức của GCCN về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Khi có giác ngộ giai cấp, người công nhân sẽ hiểu được rằng, học thuyết Mác-Lênin là hệ tư tưởng
chính trị đúng đắn, sáng tạo của GCCN, nó chỉ ra quy luật phát triển của xã hội loài người, bản chất bóc lột của
CNTB, con đường cách mạng để GCCN hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Bên cạnh đó người công nhân


cũng sẽ ý thức được rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin vào điều kiện
cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại. Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng, của GCCN, của toàn dân tộc ta trên con đường xây dựng CNXH.
Có giác ngộ giai cấp cao, người công nhân sẽ ra sức học tập, nhận thức một cách sâu sắc, nắm vững
được nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí minh, từ đó đặt niềm tin tuyệt đối vào Chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có thái độ kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, xuyên
tạc của kẻ thù.
Hai là: Sự nhận thức về vai trò, mối quan hệ của các tổ chức trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Hệ thống chính trị là một chính thể gồm Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị- xã hội, mối quan hệ và cơ chế
hoạt động của nó, trong khuôn khổ pháp luật của giai cấp cầm quyền để tác động vào các quá trình kinh tế - xã
hội nhằm duy trì và phát triển chế độ xã hội nhất định nào đó. Vì vậy sự nhận thức về vai trò, mối quan hệ của
các tổ chức trong hệ thống chính trị của GCCN nước ta chính là hiểu biết về Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước XHCN và về các tổ chức chính trị-xã hội, mà trực tiếp là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp mình- đó là
tổ chức Công đoàn Việt Nam.
- Hiểu biết về Đảng Cộng sản Việt Nam
Nếu ý thức chính trị kém thì người công nhân không có hiểu biết nhất định về Đảng, xem nhẹ vai trò

lãnh đạo của Đảng, thờ ơ với những hoạt động của Đảng, không có ý thức phấn đấu để được đứng trong hàng
ngũ của Đảng
Người công nhân có ý thức chính trị khi nhận thức được rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của GCCN Việt Nam, là đại biểu trung thành cho lợi ích của GCCN, nhân dân lao động và của cả dân
tộc; vừa là bộ phận hợp thành vừa là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị XHCN ở nước ta. Người công nhân
thấy được tầm quan trọng của vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng
XHCN. Người công nhân quan tâm đến hoạt động của Đảng mà cụ thể là hoạt động của các tổ chức cơ sở
Đảng và đảng viên trong các đơn vị của mình.
Người công nhân có ý thức chính trị cao phải hiểu được mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam
hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh; hiểu được hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng là một tổ
chức chặt chẽ, thống nhất về ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực
hiện tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách, lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật tồn tại và phát
triển của Đảng. Đặc biệt người công nhân có ý thức chính trị cao phải tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, có ý thức phấn đấu để trở thành đảng viên, xác định động cơ vào Đảng đúng đắn, có thái độ đúng mức
trước những thiếu sót của Đảng, tích cực tham gia xây dựng chỉnh đốn Đảng, thường xuyên theo dõi các đại
hội cũng như các hội nghị Trung ương của Đảng để nắm vững đường lối của Đảng và thực hiện nghiêm chỉnh
đường lối đó.
- Hiểu biết về Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam


Nếu có ý thức chính trị thì người công nhân sẽ nhận thức được rằng: Nhà nước ta là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân; là cơ quan hành pháp tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng và thực hiện ý chí,
quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân, quản lý toàn bộ hoạt động mọi
mặt của đời sống xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Với người công nhân có ý thức chính trị cao, sẽ nhận biết được sự khác nhau về bản chất giữa nhà
nước XHCN và Nhà nước tư sản. Nhà nước XHCN mang bản chất của GCCN, không ngừng mở rộng dân chủ
cho nhân dân lao động. Còn Nhà nước tư sản là công cụ áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đối với nhân dân
lao động, nhất là đối với GCCN. Từ đó, người công nhân có ý thức trách nhiệm đối với lá phiếu của mình trong
việc chọn lựa những đại biểu xứng đáng bầu vào các tổ chức Nhà nước, đồng thời có thái độ đúng mức đối với

những yếu kém trong hoạt động của bộ máy Nhà nước, như tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu… có tinh
thần đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực đó để góp phần xây dựng một Nhà nước trong sạch, vững mạnh;
một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, mà nòng cốt là liên minh
công- nông- trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hiểu biết về tổ chức Công đoàn
Khi có ý thức chính trị thì người công nhân sẽ nhận thức được rằng Công đoàn là một tổ chức chính trịxã hội rộng lớn của GCCN, của người lao động; cùng với cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội
khác chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công nhân, viên chức và những người lao động, tích cực
tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, tham gia kiểm tra và giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ
chức kinh tế nhằm thiết thực bảo vệ lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của công nhân, viên chức, lao động, của
tập thể, của nhà nước một cách có hiệu quả. Công đoàn giáo dục công nhân, viên chức và những người lao
động nhận thức đầy đủ về mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân , lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, giáo dục kỷ luật lao
động, giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, tuyên truyền để công nhân, viên chức và người lao động vững tin
vào đường lối chủ trương của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Ngoài ra, khi ý thức chính trị của người công nhân được nâng cao thì họ sẽ hiểu được rằng: Công đoàn
là một thành viên quan trọng trong hệ thống chính trị XHCN, là cầu nối giữa Đảng và quần chúng, là người cộng
tác đắc lực của Nhà nước, Công đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, người công nhân phải
có ý thức tham gia hoạt động của tổ chức Công đoàn và ý thức trong việc xây dựng tổ chức Công đoàn vững
mạnh.
Ba là: Thái độ đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ đại hội Đảng lần
thứ VI. Từ đó đến nay, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. Thái độ của người
công nhân về vấn đề này như thế nào cũng là một biểu hiện quan trọng về trình độ ý thức chính trị của mình.
Có ý thức chính trị thì người công nhân sẽ nhận thức được rằng sự nghiệp đổi mới của chúng ta tiến
hành một cách toàn diện, mà trước hết là đổi mới tư duy chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng, qua đó mà đổi
mới về kinh tế và những lĩnh vực khác trong đời sống xã hội của đất nước nói chung, và các địa phương, các
cấp, các ngành nói riêng. Qua đó người công nhân thực sự yên tâm, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi


mới, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước sẽ tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến
lên với những thành tựu to lớn và vững chắc hơn.

Người công nhân có ý thức chính trị cao khi niềm tin này được dựa trên cơ sở nhận thức khoa học về
tính tất yếu của sự nghiệp đổi mới, về truyền thống dân tộc và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, về sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng và người công nhân có nhận thức sâu sắc rằng sự nghiệp đổi mới là quá trình phấn đấu
lâu dài, đầy khó khăn nhưng nhất định sẽ thành công, qua đó người công nhân sẽ ý thức được trách nhiệm của
mình đối với sự nghiệp đổi mới, mà trước hết là ý thức đối với những hoạt động đổi mới của đơn vị mình.
Nếu người công nhân không có hiểu biết về sự nghiệp đổi mới, không tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới,
hoặc coi sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước, chứ không phải của chính bản thân mình,
của đơn vị mình thì đó là biểu hiện yếu kém về ý thức chính trị.
Bốn là: Sự nhận thức về quyền lợi và nghĩa vụ chính trị của mình
Người công nhân có ý thức chính trị sẽ nhận thức được và tuân thủ những quyền và nghĩa vụ cơ bản
của mình được ghi trong Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời
nắm và tuân thủ những quyền lợi về nghĩa vụ cụ thể trong quy chế của ngành, địa phương, đơn vị mình đề ra.
Có ý thức chính trị cao thì người công nhân không những hiểu được những quyền lợi và nghĩa vụ cơ
bản của mình, mà còn đấu tranh để đạt được những lợi ích chính đáng và tự giác trong việc thực hiện những
nghĩa vụ của mình đối với tập thể, đối với nhà nước và đối với xã hội.
Năm là: Thái độ của giai cấp công nhân đối với bạn đồng minh của mình là giai cấp nông dân, đội ngũ
trí thức và người sử dụng lao động trong đó có giới chủ.
Người công nhân có ý thức chính trị sẽ nhận thức được rằng: tất yếu phải liên minh với giai cấp nông
nhân và đội ngũ trí thức để tạo thành một lực lượng cách mạng đông đảo, mới có thể xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Có ý thức chính trị cao thì người công nhân không những hiểu được tính tất yếu của liên minh trong
đấu tranh giành chính quyền cũng như trong xây dựng xã hội mới, mà còn nắm được nội dung của liên
minh trong tất cả các lĩnh vực, đồng thời biết vận dụng những đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
về vấn đề này để tham gia xây dựng các hoạt động của đơn vị mình, nhằm xác lập trực tiếp mối quan hệ
giữa công nhân với nông dân và đôi ngũ trí thức từ đó làm cơ sở để xây dựng mối liên minh trong phạm vi
toàn xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, GCCN không còn ở vào địa vị bị áp bức bóc lột nữa
mà đã trở thành giai cấp làm chủ về chính trị, là giai cấp lãnh đạo toàn xã hội, trong cuộc đấu tranh cải tạo xã
hội cũ và xây dựng xã hội mới. GCCN cùng toàn thể nhân dân lao động trở thành người làm chủ xã hội, làm chủ
những tư liệu sản xuất chủ yếu. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trong đó có

cả thành phần kinh tế TBCN, cho nên vẫn còn một bộ phận công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư
nhân và doanh nghiệp liên doanh. Những công nhân này vừa tham gia làm chủ cùng toàn bộ GCCN và nhân
dân lao động, vừa làm thuê xét về mặt cá nhân. Điều này sẽ lý giải vì sao khi xem xét biểu hiện ý thức chính trị
của GCCN trong giai đoạn hiện nay lại xét cả thái độ của GCCN đối với giới chủ. Giới chủ ở đây là muốn nói
đến những người tổ chức, quản lý sản xuất trong các doanh nghiệp ngoài thành phần kinh tế nhà nước và kinh


tế tập thể; còn người sử dụng lao động ở đây là nói đến người tổ chức, quản lý sản xuất trong những doanh
nghiệp thuộc thành phàn kinh tế nhà nước về kinh tế tập thể. Vấn đề này người công nhân có ý thức chính trị
khi thái độ của họ đối với người sử dụng lao động trong đó có giới chủ, phải trên cơ sở quy định của pháp luật,
đặc biệt là bộ luật lao động. Hiểu được những điều khoản cơ bản trong bộ luật lao động là người công nhân đã
hiểu được những quyền lợi và nghĩa vụ lao động của mình, từ đó sẽ có cơ sở để xây dựng mối quan hệ hài hòa
và ổn định trong lao động, cùng nhau hợp tác vì sự phát triển của đơn vị cũng như của đất nước nói chung.
Khi người công nhân có ý thức chính trị cao thì sẽ hiểu được bản chất của mối quan hệ giữa mình và
người sử dụng lao động, đặc biệt là với giới chủ, họ sẽ nhận thức được rằng sự hợp tác với giới chủ là cần
thiết nhưng phải vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở thấu tình, đạt lý, họ là những người có lập trường
kiên định, vững vàng trước mọi cám dỗ của lợi ích vật chất tầm thường, có thái độ rõ ràng dứt khoát với
những việc làm sai trái của giới chủ, không vì lợi ích trước mắt của mình mà đánh mất danh dự, nhân
phẩm, phải mang lại lợi ích cho giai cấp và toàn thể nhân dân lao động, hơn nữa họ sẽ động viên mọi
người thực hiện tốt các quy định của pháp luật, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng đối với những
biểu hiện vi phạm mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trong đó có giới chủ, trên
cơ sở tuân thủ pháp luật nhằm giải quyết hài hòa các lợi ích.
Tóm lại: từ những phân tích trên, có thể thấy sự biểu hiện ý thức chính trị XHCN của GCCN rất phong
phú, các biểu hiện đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, thúc đẩy và ảnh hưởng lẫn nhau. Từ những biểu hiện đó,
chúng ta có thể xem xét, đánh giá trình độ ý thức chính trị của từng người công nhân hoặc của cả GCCN, việc
nghiên cứu biểu hiện ý thức chính trị XHCN của GCCN có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Qua đây có thể thấy
ý thức chính trị sẽ quyết định đến các hoạt động chính trị - đó là những hoạt động nhằm phản ánh những mối
quan hệ cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự tồn vong của cả một giai cấp, một dân tộc, một quốc gia, trên tất
cả các mặt của đời sống xã hội có giai cấp, mà vấn đề trung tâm của nó là vấn đề giành, giữ và duy trì quyền
lực Nhà nước. Vì vậy, ý thức chính trị cao hay thấp sẽ dẫn đến những hành động chính trị đúng hay sai, từ đó

quyết định đến việc đạt hay không đạt được lợi ích chính trị, cho nên phải luôn luôn chú ý đến việc nâng cao ý
thức chính trị XHCN cho GCCN nói chung và công nhân trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN nói riêng.
1.1.2. Sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân nước
ta hiện nay
Việc khẳng định sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị XHCN của GCCN nước ta hiện nay được
quy định bởi nhiều lý do:
Một là, xuất phát từ vai trò của ý thức chính trị đối với các hoạt động của GCCN.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng: GCCN là “con đẻ” của nền đại công nghiệp;
sự ra đời của GCCN gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp và GCCN chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi
sản xuất đại công nghiệp đã thay thế về cơ bản nền sản xuất thủ công. Trong chế độ TBCN, GCCN hoàn toàn
không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản, họ là giai cấp bị phụ thuộc, bị áp bức bóc lột
và có lợi ích đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản. Vì vậy, ngay từ khi mới ra đời, GCCN đã đấu tranh chống giai
cấp tư sản.


Những cuộc đấu tranh đầu tiên của GCCN đều mang tính chất tự phát, mặc dù nó đã có sự phát triển
dần từ thấp đến cao và diễn ra khá sâu rộng. Khi phân tích cuộc cách mạng tháng 02 năm 1848 ở Pháp, C. Mác
đã đánh giá: “Ở Pháp cuộc đấu tranh tư bản, dưới hình thức hiện đại phát triển của nó, đã tới điểm bùng nổ của
nó, tức là cuộc đấu tranh giữa công nhân làm thuê trong công nghiệp với nhà tư bản công nghiệp, đang còn là
một hiện tượng cục bộ”[21,Tr30] và theo C. Mác, một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của cuộc cách
mạng này là do “công nhân không có lãnh tụ, không có kế hoạch hành động chung” [21,Tr.45]; hay phong trào
công nhân Mỹ, thời kỳ đầu cũng được Ph. Ăngghen nhận xét rằng: nó mới nhen nhóm lên, mới chỉ bao gồm một
loạt những chấn động vô ý thức và hình như rời rạc của các giai cấp mà do sự tiêu diệt chế độ nô lệ đối với người da
đen và sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp nên đã trở thành tầng lớp thấp kém nhất của xã hội Mỹ.
V.I. Lênin đã chỉ ra: “Nếu công nhân không tự giải phóng mình thì chẳng ai giai phóng cho họ cả. Nhưng
chỉ có bản năng thôi thì chẳng đi được xa”, và Người còn khẳng định: chỉ khi nào giai cấp vô sản và những
người nông dân nghèo tỏ ra có đầy đủ tinh thần tự giác gắn bó với lý tưởng của mình, có tinh thần hy sinh bền
bỉ, thì khi đó thắng lợi của cách mạng XHCN mới được bảo đảm, cho nên “phải nâng bản năng đó lên thành ý
thức” [17, Tr.491]. Do vậy, muốn đưa cuộc đấu tranh của GCCN chuyển từ tự phát lên tự giác thì phải đưa ý
thức giai cấp, ý thức chính trị XHCN vào phong trào công nhân, phải thường xuyên giáo dục nâng cao ý thức

chính trị cho GCCN để người công nhân hiểu rằng họ tiến hành đấu tranh không phải chỉ để bảo vệ lợi ích của
riêng mình, mà là đấu tranh bảo vệ lợi ích của toàn bộ GCCN và nhân dân lao động.
Trong thực tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, cuộc đấu tranh của GCCN đã mang tính chất tự
giác, nhằm thực hiện mục tiêu chính trị là: giành chính quyền. Nhưng việc giành được chính quyền mới chỉ là
bước đầu, bước tiếp theo GCCN phải sử dụng chính quyền đó để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới- xã
hội XHCN. Nhiệm vụ này khó khăn, phức tạp, lâu dài hơn nhiệm vụ trước rất nhiều, vì vậy để hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của mình, GCCN phải không ngừng được nâng cao trình độ mọi mặt, trong đó có trình độ ý thức chính trị
XHCN. Như vậy, việc giáo dục nâng cao ý thức chính trị XHCN cho GCCN không chỉ cần thiết, bức xúc ở những
nước GCCN chưa giành được chính quyền, mà còn ở cả những nước GCCN đã giành được chính quyền.
Khi đã được giáo dục nâng cao ý thức chính trị XHCN, GCCN sẽ có định hướng đúng đối với các hoạt
động của mình. Trong đời sống xã hội có rất nhiều mặt hoạt động như: Hoạt động lao động sản xuất, hoạt động
khoa học, hoạt động văn hóa nghệ thuật, hoạt động thể thao, hoạt động tình cảm trong quan hệ giao tiếp, đối
nhân sử thế… ở mỗi người công nhân thì những hoạt động đó đều nhằm đạt được những mục đích nhất định
nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó của mình. Những hoạt động này đều được định hướng, chi phối bởi ý thức
chính trị của bản thân người công nhân. Ý thức chính trị XHCN của người công nhân nó quyết định đến phẩm
chất, đạo đức, lối sống, hành vi của họ. Có ý thức chính trị XHCN thì những hành vi của người công nhân
mang tính tự giác, chứ không phải là những hành vi tự phát, nó đảm bảo tính đúng đắn, tránh được đến mức tối
đa những sai lầm trong hoạt động. Chẳng hạn, khi người công nhân có nhận thức đúng về sự nghiệp đổi mới
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thì họ sẽ lao động hăng say hơn, với tinh thần trách nhiệm cao hơn nhằm
đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, hoặc khi người công nhân đó đã
thấm nhuần thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì nếu họ có nhu


cầu tâm linh như lễ bái, thờ cúng… cũng chỉ giúp họ sống thiện hơn, chứ không thể đưa họ đến chủ nghĩa duy
tâm.
Ý thức chính trị XHCN có vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động của GCCN, do đó cần phải
thường xuyên giáo dục nâng cao ý thức chính trị cho GCCN.
Hai là: Xuất phát từ thực trạng ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân hiện nay; đặc
biệt là ý thức chính trị của bộ phận công nhân ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Trong những năm vừa qua ,do sự biến động to lớn của tình hình thế giới, đặc biệt là sự sụp đổ của

CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ trên lĩnh vực thông
tin, đồng thời do những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, do công tác giáo dục chính trị tư tưởng có
những biểu hiện buông lỏng…đã tác động không nhỏ đến nhận thức, tư tưởng, lối sống của công nhân. Có thể
đánh giá thực trạng ý thức chính trị của GCCN nước ta hiện nay như sau:
Nhìn chung, ý thức chính trị của GCCN nước ta còn thấp so với vị trí và vai trò quan trọng của mình
cũng như đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Phần lớn công nhân nhận thức được rằng mình là lực lượng chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất cho xã
hội, nhưng cũng có không ít công nhân không thấy được vị trí, vai trò lịch sử của giai cấp mình - đó là giai cấp
lãnh đạo cách mạng, là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến có vai trò quan trọng quyết định sự
nghiệp CNH, HĐH và sự phát triển của xã hội, số này chiếm tới 10%, chủ yếu là công nhân trong các doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Thực trạng này đã được Đảng ta đánh giá: “Một bộ phận công
nhân chưa nhận thức được vai trò và nhiệm vụ của giai cấp mình, thiếu tính tiền phong gương mẫu. Không ít
cán bộ, đảng viên thoái hóa, quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí, xa rời bản chất GCCN” [5, Tr.68].
Chính vì không nhận thức được vai trò lịch sử của mình, cho nên một bộ phận công nhân hiện nay
không tích cực trong việc học tập nâng cao trình độ chính trị. Theo báo cáo kết quả điều tra xã hội học về thực
trạng GCCN Việt Nam của Viện công nhân và Công đoàn thuộc Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đến năm
1999 số công nhân có trình độ văn hóa cấp I là 3,01%; cấp II là33,67%; cấp III là 58,16%; số công nhân lao
động giản đơn là 3,75%; công nhân từ bậc 2 đến bậc 3 là 71,4%; trung học chuyên nghiệp là10,74%; đại học là
10,16% trên dại học là 0,04%. Đặc biệt trong các doanh nghiệp liên doanh số lao động kỹ thuật chỉ
chiếm12,73% còn lại là lao động phổ thông, họ là những người từ nông thôn tới, hầu như chưa có tay nghề, chỉ
được đào tạo ngắn hạn từ các trung tâm sau khi được chọn vào doanh nghiệp, thời gian đào tạo từ 3 đến 6
tháng chiếm 32,5%.
Với sự chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường định hướng XHCN đã đặt công nhân trước những khó khăn thử thách lớn về việc làm, đời sống, thu
nhập… vì vậy công nhân chủ yếu quan tâm đến việc làm và thu nhập, ít quan tâm đến hoạt động chính trị xã
hội, nhận thức không đầy đủ về vị trị vai trò của chính trị trong tình hình phức tạp hiện nay, thậm chí có thái độ
thờ ơ với chính trị, không quan tâm đến đời sống chính trị, trách nhiệm chính trị không cao, ngại học tập và xem
thường việc học tập chính trị, không thiết tha với học tập nâng cao trình độ chính trị. Theo báo cáo của Viện
công nhân và Công đoàn số công nhân chưa học lớp chính trị nào chiếm 43,59% ,chính trị sơ cấp là 27,54%,
chính trị trung cấp là 5,94%, cử nhân chính trị là 0,66%. Điều này, một mặt phản ánh sự buông lỏng trong công



tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đảng và các tổ chức chính trị xã hội, mặt khác biểu hiện sự thiếu tích cực, tự
giác trong học tập nâng cao trình độ chính trị của công nhân, việc rèn luyện chính trị tư tưởng chưa trở thành
nhu cầu thường xuyên của công nhân. Chính vì vậy mà sự hiểu biết của GCCN về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng Việt Nam chỉ ở mức khái quát, chung chung, thâm chí có bộ phận
công nhân không nắm được chủ nghĩa Mác – Lênin là gì, dao động, hoài nghi vào hệ tư tưởng và con đường
cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Đáng chú ý hơn là một bộ phận công nhân không những không có ý thức trong việc học tập nâng cao
trình độ văn hóa, chuyên môn, lý luận chính trị, mà còn không có ý thức trong việc rèn luyện đạo đức trước
những biến động của tình hình thế giới và trong nước, trước sự chống phá của các thế lực thù địch, và trước
những khó khăn về đời sống, một bộ phận công nhân đã không giữ được lập trường vững vàng, không giữ
được bản chất giai cấp của mình, họ sống buông thả, không ít người đã mắc vào các tệ nạn xã hội như: (cờ
bạc, rượu chè, mại dâm, nghiện hút…) những tệ nạn đó đã ảnh hưởng tới sức khoẻ, đến nhân phẩm của người
công nhân, gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất cũng như an ninh trật tự xã hội.
Thái độ giai cấp công nhân đối với Đảng, nhìn chung công nhân đánh giá rất cao vai trò lãnh đạo của
Đảng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. Tuy nhiên,
ở một số tổ chức cơ sở Đảng, do trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của cán bộ đảng còn hạn chế, do sự
thiếu gương mẫu của một bộ phận đảng viên trong học tập, trong công tác, trong rèn luyện đạo đức, lối sống đã
làm cho công nhân mất niềm tin. Họ cho rằng Đảng chỉ tồn tại hình thức, còn chính quyền nắm hết mọi quyền
lực. Theo kết quả điều tra xã hội học của Viện công nhân và Công đoàn( năm 1999) cho thấy,khi được hỏi về
tác động thúc đẩy sản xuất kinh doanh của tổ chức Đảng tại doanh nghiệp thì có 75,51% công nhân trả lời có
tác dụng, 11,68% trả lời không có tác dụng và 12,81% không trả lời; con số này thể hiện tác dụng chưa cao
trong lãnh đạo sản xuất của tố chức Đảng ở cơ sở, đồng thời thể hiện sự nhận thức chưa đầy đủ của công
nhân và vai trò của tổ chức Đảng ở cơ sở. Mặc dù thấy hiệu quả hoạt động của tổ chức Đảng ở cơ sở chưa
cao, mong muốn tổ chức Đảng được chỉnh đốn để xứng đáng là đội tiên phong của GCCN, nhưng công nhân
chưa có ý thức cao trong việc tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Một vấn đề đáng lo ngại là phần lớn công
nhân không có ý thức phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Theo ban tư tưởng văn hóa của Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam đánh giá: Tốc độ phát triển đảng viên là công nhân tuy có tăng nhưng rất chậm, tỷ
lệ đảng viên là công nhân được kết nạp chiếm 10% trong tổng số đảng viên mới kết nạp trong toàn Đảng, năm

1993 đội ngũ đảng viên là công nhân lao động chiếm 8,6%, năm 1995 chiếm 8,6%, năm 1997 chiếm 9,2%, năm
1998 chiếm 9,19%; ở nhiều doanh nghiệp có vốn ĐTNN và công ty tư nhân trong nhiều năm không kết nạp
được đảng viên. Theo điều tra của Viện công nhân và Công đoàn đến năm 1999 thì chỉ có 19,73% công nhân
được hỏi trả lời có nguyện vọng gia nhập Đảng. Trong số 19,73% đó có thể có nhiều người muốn gia nhập
Đảng để có điều kiện rễ ràng hơn trên con đường thăng quan tiến chức, chứ không phải vì mục đích phục vụ
đất nước, phục vụ nhân dân. Điều này phản ánh trình độ nhận thức của công nhân đối với Đảng chưa cao.
Về thái độ giai cấp công nhân đối với Nhà nước, nhìn chung đội ngũ công nhân của chúng ta đã thuộc
lòng bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; đã biết đánh giá những cái đã thực hiện
được trong thực tiễn hoạt động của Nhà nước. Tuy nhiên, ý thức của công nhân trong việc góp phần xây dựng


một Nhà nước trong sạch vững mạnh chưa cao, thực trạng này là do bị ảnh hưởng của lối sống thực dụng, của
tư tưởng tiểu nông, công nhân thường nghĩ rằng mình là người làm công ăn lương, cho nên có đấu tranh thì
cũng không giải quyết được gì, mặc dù họ cũng rất bất bình nhưng rất ít giám đấu tranh chống những biểu hiện
tiêu cực ( như tham nhũng, quan liêu, xa hoa…); con số mà do Viện công nhân và Công đoàn đưa ra đã minh
chứng điều này khi được hỏi về vấn đề quan tâm nhất của công nhân hiện nay thì chỉ có 27,66% công nhân
đưa ra vấn đề chống tham nhũng, và 25,10% đưa ra vấn đề công bằng xã hội ( Mặc dù vấn đề tham nhũng và
bất công xã hội đang là vấn đề nổi cộm hiện nay)
Về thái độ giai cấp công nhân đối với tổ chức Công đoàn, hiện nay do tốc độ phát triển đoàn viên và xây
dựng tổ chức Công đoàn cơ sở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn chậm so với quy định của Bộ luật lao
động và yêu cầu của Tổng Liên đoàn lao động( Theo đánh giá của Tổng Liên đoàn lao động thì cho đến cuối
năm 2003 trong khu vực có vốn ĐTNN mới chỉ thành lập được 1145 công đàon cơ sở, chiếm khoảng 60% tổng
số doanh nghiệp có vốn ĐTNN, thu hút được trên 300 ngàn công nhân, lao động vào Công đoàn, trong đó số
đoàn viên mới chiếm khoảng 70% tổng số công nhân, lao động trong các doanh nghiệp đã thành lập Công
đoàn. Và hiện nay còn khoảng 70% doanh nghiệp tư nhân tuy đã đủ điều kiện nhưng chưa thành lập Công
đoàn), do vậy còn nhiều công nhân chưa có ý thức về tổ chức chính trị xã hội này của giai cấp mình.
Ở những nơi có tổ chức Công đoàn, phần lớn công nhân nhận thức được vai trò, chức năng của Công
đoàn, tuy nhiên đó chỉ là sự thừa nhận về mặt lý thuyết. Trên thực tế, công nhân thiếu tin tưởng vào hiệu quả
hoạt động của tổ chức Công đoàn, họ cho rằng Công đoàn còn quá phụ thuộc vào chuyên môn, thậm chí Công
đoàn chỉ có chức năng cơ bản để bảo vệ giám đốc, Công đoàn có thì thừa mà không có thì thiếu. Theo báo cáo

tóm tắt kết quả khảo sát xã hội học về “vai trò của Công đoàn và thái độ của công nhân, viên chức, lao động với
một số vấn đề kinh tế- xã hội cấp bách hiện nay” của Tổng Liên đoàn lao động (tháng 10/2000) thì công nhân đã
đánh giá một số mặt hoạt động của Công đoàn như sau: Về tham gia giải quyết việc làm: 43,2% công nhân trả
lời là có vai trò tốt; 36,3% trả lời bình thường; 15,2% trả lời chưa tốt; 5,3% cho rằng khó trả lời; về giải quyết vấn
đề phúc lợi xã hội: 53,6% trả lời tốt; 34,4% trả lời bình thường; 6,7% trả lời chưa tốt; 5,3% cho rằng khó trả lời;
về đấu tranh chống tham nhũng và tiêu cực: 38,2% trả lời tốt; 38,9% trả lời bình thường; 15% trả lời chưa tốt;
7,9% cho rằng khó trả lời. Những số liệu trên cho thấy còn một bộ phận không nhỏ công nhân chưa ý thức đầy
đủ về tổ chức Công đoàn, thiếu tin tưởng vào tổ chức Công đoàn.
Do không tin tưởng vào hoạt động của tổ chức Công đoàn, cho nên nhiều công nhân không muốn gia
nhập Công đoàn. Đặc biệt ở các doanh nghiệp liên doanh, đa số công nhân xuất thân từ nông thôn, tuổi còn trẻ,
mang đậm tính tự do, trình độ nhận thức về Công đoàn còn nhiều hạn chế, có tới 40% chưa biết gì về Công
đoàn, nên chưa muốn vào Công đoàn với lý do đơn giản là: vào Công đoàn sẽ làm ảnh hưởng tới mối quan hệ
với chủ và sẽ bị đuổi việc; hoặc sợ vào Công đoàn sẽ phải mất thời gian cho hoạt động Công đoàn, hoặc tính
toán thiệt hơn, cho rằng vào Công đoàn không thấy có lợi gì hơn so với không vào Công đoàn…
Về thái độ của giai cấp công nhân đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, phần lớn công nhân nhận thức
được những nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới, thấy được những khó khăn của sự nghiệp đổi mới, tin
tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Tuy nhiên, công nhân chưa thực hiện tốt trách nhiệm của mình đối
với sự nghiệp đổi mới đất nước, biểu hiện ở chỗ: công nhân đã tham gia tích cực các phong trào thi đua yêu


nước nhưng chỉ thuần tuý vì kinh tế chứ chưa nâng lên được tầm ý thức chính trị của người công nhân với tư
cách là người lao động, là người làm chủ trong chế độ XHCN; công nhân chưa ý thức được tầm quan trọng
trong việc học tập nâng cao trình độ mọi mặt để đóng góp có hiệu quả công sức của mình vào sự nghiệp đổi
mới; bên cạnh đó, ý thức của công nhân về chống tham nhũng và chống các tệ nạn xã hội chưa cao… do đó
công nhân chưa nhận thức được những nội dung cụ thể của sự nghiệp đổi mới, trước hết từ chính bản thân
mình, đơn vị mình.
Những năm gần đây, với sự phát triển mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng, các loại sách báo,
công nhân được tiếp cận nhiều với các loại thông tin, do đó nhận thức của công nhân về quyền lợi và nghĩa vụ
của mình được nâng lên. Tuy nhiên sự hiểu biết về các văn bản mới chỉ ở mức độ rất khái quát, thậm chí có bộ
phận không nhỏ công nhân không được tiếp cận hoặc không quan tâm. Có thể nêu ra những con số cụ thể sau

đây: Theo tổng hợp kết quả điều tra tình hình công nhân tại các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội của Viện chủ
nghĩa xã hội khoa học- thuộc Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2001) thì: với Hiến pháp chỉ có 46,7%
tìm đọc; 45,6% có nghe tên, song chưa đọc; 7,7% ít quan tâm; với những luật liên quan trực tiếp đến công nhân
thì tỷ lệ có khá hơn, như Bộ luật lao động: 73,8% công nhân đã tìm đọc; 23,1% có nghe tên song chưa đọc.
Ngay cả những nội quy, quy chế, quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của công nhân trong từng doanh nghiệp
công nhân cũng rất ít quan tâm. Theo báo cáo kết quả điều tra xã hội học của Viện công nhân và Công đoàn
năm 1999 cho thấy: về kết quả sản xuất kinh doanh thì chỉ có 50,47% công nhân trả lời là biết; 49,53% trả lời
không biết; về nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước thì chỉ có 46,8% công nhân trả lời biết; 53,2% trả
lời không biết; về đơn giá tiền lương thì chỉ có 63,87% công nhân trả lời biết; 36,13% trả lời không biết… chính
vì thiếu những hiểu biết cần thiết về quyền và nghĩa vụ của mình, cho nên nhiều công nhân bị thiệt thòi mà
không biết để đấu tranh, nhiều công nhân do không hiểu những nghĩa vụ của mình nên đã vi phạm kỷ luật lao
động và bị sa thải, hoặc thiệt mạng do vi phạm về an toàn vệ sinh lao động. Việc công nhân hiểu biết rất ít về
quyền và nghĩa vụ của mình, đặt ra yêu cầu cần phải đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục để công nhân hiểu rõ
hơn, giúp họ có cơ sở thực hiện tốt nghĩa vụ của mình và đấu tranh bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, để
công nhân thực sự trở thành người chủ của doanh nghiệp, người chủ của xã hội.
Về thái độ của giai cấp công nhân đối với người sử dụng lao động, trong đó có giới chủ, hiện nay phần
đông công nhân đều khẳng định phải tuân thủ tuyệt đối lệnh của giám đốc- tức là đã thấy được mối quan hệ chủ
- thợ, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, nhưng có một bộ phận công nhân đã giám đứng lên đấu tranh, kể cả ở
mức đình công để bảo vệ lợi ích kinh tế, chính trị của mình. Cả hai chiều hướng trên đều có mặt trái của nó: Nếu
phục tùng một cách tuyệt đối thì sẽ không thể hiện được quyền làm chủ của mình, hay nói cách khác là chịu nhẫn
nhục trước giới chủ, sống an phận, thấy những việc làm sai trái của giới chủ mà chỉ biết im lặng, không giám phản
ứng. Hoặc các cuộc đình công ở nước ta diễn ra nhìn chung là không đúng luật, theo báo cáo của Tổng Liên đoàn
lao động Việt Nam thì từ năm 1995 đến năm 2000 cả nước có 351 vụ đình công, và cho đến cuối năm 2003 chỉ riêng
trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã xảy ra 295 cuộc đình công, chiếm 55,7% tổng số vụ đình công tập thể của
cả nước; tất cả các cuộc đình công xảy ra đều do công nhân, lao động tự phát, không theo trình tự thủ tục quy định,
không có sự lãnh đạo của Công đoàn - điều đó cho thấy ý thức chính trị của công nhân chưa cao.


Từ sự phân tích trên có thể thấy rằng, nhìn chung ý thức chính trị của GCCN Việt Nam hiện nay chưa
thực sự tương xứng so với vai trò sứ mệnh lịch sử của mình, có biểu hiện chưa đồng bộ và chưa nhất quán.

Điều đó có nghĩa là về vấn đề này thì nhận thức đúng, có thái độ đúng, vấn đề khác lại nhận thức không đúng,
dẫn đến hành vi không đúng. Bên cạnh đó, ý thức chính trị của GCCN hiện nay còn biểu hiện sự không đồng
đều ở độ tuổi và ở các đơn vị khác nhau. Thường những công nhân lớn tuổi- những người đã được rèn luyện
thử thách qua cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, họ có quan điểm sống theo chuẩn mực đề cao yếu
tố chính trị tinh thần, họ có điều kiện để so sánh giữa cuộc sống của người dân nô lệ với cuộc sống của người
dân làm chủ đất nước, do đó họ có ý thức chính trị cao hơn. Còn đối với những công nhân trẻ, lớn lên trong thời
bình, có học vấn cao hơn, nhưng chưa được giáo dục thế giới quan và nhân sinh quan một cách đầy đủ, chưa
được rèn luyện thử thách, thiếu kinh nghiệm cuộc sống, những chuẩn mực đạo đức mới đang hình thành
nhưng chưa rõ ràng, vì vậy, họ là người thường đề cao các yếu tố kinh tế, kĩ thuật, xem nhẹ yếu tố chính trị tinh
thần, dễ hoang mang dao động trong việc định hướng phấn đấu, dễ bị ảnh hưởng bởi những tác động xấu của
cơ chế thị trường, bản lĩnh chính trị không vững vàng.
Đối với những công nhân ở các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước thường có ý thức
chính trị cao hơn so với những công nhân ở các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác (đặc biệt ở
những doanh nghiệp có vốn ĐTNN) bởi vì trong các doanh nghiệp nhà nước duy trì được bầu không khí dân
chủ, cởi mở hơn, người công nhân không cảm thấy mối quan hệ giữa chủ và thợ, mà họ thấy được mình là
người chủ doanh nghiệp, hơn nữa ở các doanh nghiệp nhà nước cũng đã tạo điều kiện về vật chất, về thời gian
cho các hoạt động chính trị. Còn ở các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là các doanh
nghiệp có vốn ĐTNN thì công nhân thường có biểu hiện tự ti, cho rằng mình là người làm thuê do đó tốt nhất là
nên tập trung vào công việc chuyên môn, không cần chú ý đến vấn đề chính trị; hơn nữa một bộ phận giới chủ
trong các doanh nghiệp này cũng không tạo môi trường và điều kiện cho công nhân nâng cao ý thức chính trị, làm
cho công nhân bị phai nhạt dần ý thức chính trị, thờ ơ với những hoạt động chính trị, thậm chí còn bị ảnh hưởng của
lối sống thực dụng trong hoạt động chính trị.
Ở những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đời sống công nhân được nâng cao cả về vật chất và tinh thần,
thì ý thức chính trị của công nhân thường cao hơn, ở đó công nhân phấn khởi, tin tưởng và làm việc với tinh thần
trách nhiệm cao hơn. Còn ở những doanh nghiệp hoạt động chưa có hiệu quả, công nhân thiếu việc làm, thu nhập
thấp, lương hưởng không kịp thời thì công nhân thường xuất hiện tâm lý lo lắng, chán chường, kỷ luật lao động lỏng
lẻo, thiếu tin tưởng, hoài nghi dao động. Tuy nhiên, không phải cứ trong các doanh nghiệp nhà nước, các doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả thì công nhân sẽ có ý thức chính trị cao, thực tế cho thấy: bầu không khí cởi mở, dân chủ,
hiệu quả sản xuất kinh doanh cao mới chỉ là môi trường thuận lợi để phát triển ý thức chính trị; ý thức chính trị không
hình thành một cách tự phát, mà phải qua thực tiễn đấu tranh giai cấp, qua giáo dục, phụ thuộc vào hoạt động của

các tổ chức chính trị- xã hội trong doanh nghiệp đó như tổ chức Đảng, Công đoàn, đoàn thanh niên… thường ở
những doanh nghiệp mà hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng của các tổ chức chính trị xã hội được tiến hành tốt thì
ý thức chính trị của công nhân sẽ được nâng cao, ngược lại những doanh nghiệp mà hoạt động giáo dục chính trị tư
tưởng của các tổ chức chính trị - xã hội không tốt thì ý thức chính trị của công nhân sẽ thấp, công nhân thờ ơ với
những hoạt động chính trị.


Ba là: Xuất phát từ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với giai cấp công nhân nước ta.
Như đã trình bày ở trên, trong thực tiễn cách mạng GCCN Việt Nam thông qua Đảng tiên phong của
mình đã lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, giành độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước
đi lên xây dựng CNXH. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng đồng thời là thất bại của kẻ thù, do đó đã làm
cho kẻ thù nhục nhã và cay cú, đặc biệt trong khi công cuộc cải tổ, cải cách ở các nước XHCN bị thất bại - điều
đó đúng với âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, thì ở Việt Nam sự nghiệp đổi mới đã giành được thắng lợi, chúng ta
đã giành được nhiều thành tựu to lớn, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, xã hội ổn định đời sống nhân dân không
ngừng được cải thiện, thế và lực của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế - điều đó làm cho
kẻ thù đã cay cú lại càng cay cú hơn. Với bản chất hiếu chiến xâm lược, các thế lực thù địch không từ bỏ dã
tâm xâm lược, chống phá cách mạng nước ta, chúng xác định Việt Nam là một trong những trọng điểm chống
phá.
Hiện nay, kẻ thù vẫn đang tiếp tục tấn công chúng ta bằng những phương thức và thủ đoạn mới. Nếu
như trước đây chúng lấy hình thức đấu tranh vũ trang làm chủ yếu thì ngày nay, chúng tập trung vào các hình
thức và thủ đoạn phi vũ trang kết hợp với răn đe bằng quân sự với chiến lược “Diễn biến hòa bình” kết hợp với
bạo loạn lật đổ, chúng tấn công ta một cách tổng lực trên tất cả các lĩnh vực, trong đó mặt trận chính trị - tư
tưởng là nóng bỏng nhất, hòng hạ bệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc đường lối đổi mới
của Đảng và mục đích cuối cùng là xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ CNXH ở nước
ta. Để thực hiện mục đích đó các thế lực thù địch một mặt lớn tiếng rêu rao, tuyên truyền những quan điểm sai
trái của mình để phủ nhận vai trò sứ mệnh lịch sử của GCCN, xuyên tạc và bôi nhọ Đảng và Nhà nước ta, nói
xấu chế độ ta, gây mất lòng tin trong công nhân. Có thể đưa ra một số ví dụ như: Họ cho rằng GCCN mà các
nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lênin nói đến chỉ là những người “vai u thịt bắp”, lao động nặng nhọc, là tầng
lớp xã hội nghèo khổ, dốt nát, tối tăm, chỉ là những “đám dân đen đáng thương hại”, không thể có khả năng giải
phóng xã hội và cải tạo thế giới; họ còn cho GCCN mà C. Mác- Ph. Ăngghen nói tới ở thế kỷ XIX ngày nay đã

“biến mất”, đã “hòa tan” vào các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác, vì vậy địa vị kinh tế - xã hội của GCCN đã
thay đổi, GCCN cũng không còn vai trò sứ mệnh lịch sử nữa; hoặc các thế lực thù địch tuyên truyền rằng ở
nước ta không có dân chủ, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta vi phạm quyền tự do dân chủ... Mặt
khác, các thế lực thù địch tìm cách mua chuộc, lôi kéo đội ngũ cán bộ, công nhân, nhất là tầng lớp trẻ; chúng
tuyên truyền lối sống thực dụng, tuyên tryền văn hóa phẩm đồi trụy… làm cho đội ngũ công nhân đi vào con
đường ăn chơi xa đọa, bỏ bê công việc, vi phạm phẩm chất nhân cách, sống buông thả, an phận thủ thường,
không quan tâm tới vấn đề chính trị- xã hội, thờ ơ, lãnh đạm, dẫn đến phai nhạt dần bản chất GCCN, phai nhạt
mục tiêu lý tưởng của giai cấp mình… thực tế đó đòi hỏi GCCN phải được thường xuyên giáo dục, tu dưỡng
rèn luyện trong tổ chức để không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, tay nghề và lý luận nhất là nâng
cao ý thức giai cấp- ý thức chính trị XHCN, củng cố vững chắc niềm tin khoa học, củng cố mối quan hệ gắn bó
và tình cảm tốt đẹp đối với Đảng, đối với Nhà nước, với chế độ, với dân tộc.
Từ việc nghiên cứu về ý thức chính trị XHCN, biểu hiện của nó ở GCCN và sự cần thiết phải nâng cao ý
thức chính trị XHCN cho GCCN ở nước ta hiện nay, có thể thấy ý thức chính trị XHCN là một yếu tố quan trọng
để GCCN có cơ sở hoàn thành sứ mệnh lịch sử to lớn và trọng đại của mình. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện


nay có nhiều biến động phức tạp, ý thức chính trị của GCCN chưa ngang tầm với đỏi hỏi của sự nghiệp đổi mới
đất nước.Vì vậy, cần phải xây dựng GCCN vững mạnh về mọi mặt trong đó có ý thức chính trị XHCN, theo đúng
nghị quyết Trung ương 7 khóa VII của Đảng ta, “ cần xây dựng GCCN phát triển về số lượng và chất lượng, nâng
cao giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình”. Để làm
được điều đó phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức chính trị- xã hội trong đó quan trọng nhất là tổ chức
Đảng và tổ chức Công đoàn.
1.2. Vai trò của tổ chức Công đoàn trong nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của công nhân ở
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
1.2.1. Vị trí, chức năng của tổ chức Công đoàn
*Vị trí của Công đoàn
Trong điều 2 chương I của Bộ luật lao động (07/1990) đã công bố: Những người lao động Việt Nam làm
việc trong các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, xí nghiệp có vốn ĐTNN, đơn vị sự
nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội (gọi chung là cơ quan, đơn vị, tổ chức) đều có quyền thành lập và gia
nhập tổ chức Công đoàn trong khuôn khổ “Điều lệ Công đoàn Việt Nam”. Vậy Công đoàn là tổ chức như thế

nào?
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ. “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội
của GCCN và của người lao động. Cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo bảo vệ
quyền lợi của cán bộ, công nhân viên chức và những người lao động khác, tham gia quản lý nhà nước và xã
hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân, viên
chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [12, Tr.17].
Như vậy, Công đoàn Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, một bộ phận hợp thành của hệ thống
chính trị XHCN ở Việt Nam, đại biểu cho lợi ích của GCCN, đội ngũ trí thức và những người lao động khác,
được Hiến pháp thừa nhận.
Những năm đầu thế kỷ XX, dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, GCCN và nhân dân lao động Việt
Nam chịu 2 tầng áp bức bóc lột rất nặng nề và hà khắc, cuộc sống vô cùng cơ cực lầm than. Do đó, mặc dù còn
non trẻ nhưng GCCN Việt Nam đã vùng dậy tiến hành hàng loạt các cuộc đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột
đó. Tuy nhiên, những cuộc đấu tranh của công nhân ở các hầm mỏ, đồn điền, xưởng thợ lúc này mới chỉ mang
tính tự phát, diễn ra lẻ tẻ, chưa có sự phối hợp liên kết trong phạm vi lớn, thiếu sự tổ chức tập trung, cho nên
kết quả các cuộc đấu tranh này còn rất hạn chế, mới chỉ dừng lại ở đòi một số quyền lợi kinh tế trước mắt nào
đó, thậm chí còn nhiều cuộc đấu tranh bị đàn áp đẫm máu. Thực tế đó đã làm cho GCCN nhận thức được rằng
nếu không tổ chức, liên kết nhau lại để tạo ra sức mạnh cần thiết thì không thể giành được thắng lợi và do đó
GCCN Việt Nam đã đứng ra thành lập các tổ chức như hội nghề nghiệp, nghiệp đoàn, công hội. Chẳng hạn Hội
ái hữu viên chức ngành lục lộ ở Bắc kỳ, sau đó là hội Trí tri, hội Hợp thiện và tiêu biểu nhất là Công hội đỏ Ba
Son do đồng chí Tôn Đức Thắng đứng đầu. Sự ra đời của tổ chức Công hội đỏ Ba Son chứng tỏ phong trào
công nhân đã bước đầu có tổ chức, chuẩn bị cơ sở để chuyển thành đấu tranh mang tính tự giác. Tuy nhiên,


trên thực tế tổ chức Công hội đỏ Ba Son chỉ hoạt động trong phạm vi hẹp, thời gian tồn tại không lâu, bản thân
tổ chức này chưa có chính cương, điều lệ, tôn chỉ, mục đích, cho nên tổ chức này chỉ được coi là tổ chức Công
đoàn sơ khai ở Việt Nam.
Người đặt cơ sở lý luận và nền tảng tư tưởng cho việc thành lập Công đoàn Việt Nam là Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Thực tiễn nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Người đã tiếp cận được với chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng
thời thông qua hoạt động thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân Quốc tế, Người đã nhận thức được sự
cần thiết phải thành lập tổ chức Công đoàn. Trong tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Người đã

chỉ rõ: “Việc cần thiết hiện nay là phát động một cuộc tuyên truyền rộng lớn để thành lập các tổ chức Công đoàn
ở các nước thuộc địa và phát triển các tổ chức Công đoàn hiện có dưới hình thức phôi thai” [22, Tr.126].
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” viết năm 1927, Người đã trình bầy rõ hơn về tổ chức, nhiệm vụ của
tổ chức công hội với tư cách là cơ quan của công nhân để chống lại bọn Tư sản và đế quốc chủ nghĩa. Theo
Người: “Tổ chức công hội trước hết là để công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với
nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho
công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới” [23, Tr.302].
Những lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, và tư tưởng Hồ Chí Minh về việc thành lập tổ chức Công đoàn
cách mạng đã được các hội viên của tổ chức Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội truyền bá rộng rãi
trong phong trào công nhân, chính những lý luận này đã có ảnh hưởng lớn tới phong trào công nhân, do đó
nhiều tổ chức công hội bí mật được thành lập vào cuối những năm 20 của thể kỷ XX. Từ đó, phong trào công
nhân Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, phạm vi mang tính chất toàn quốc, hàng loạt
các cuộc bãi công lớn đã nổ ra. Các phong trào này đã có sự phối hợp giữa nhiều xí nghiệp, nhiều địa phương
với nhau, diễn ra sôi nổi liên tục và rộng khắp trong cả nước, với nhiều hình thức đấu tranh. Trước sự phát triển
của phong trào công nhân và nhu cầu tập hợp lực lượng, Đông dương Cộng sản Đảng đã triệu tập Đại hội
thành lập Tổng công hội đỏ Bắc kỳ vào ngày 28/07/1929. Đại hội đã thông qua chính cương, điều lệ và quyết
định xuất bản tờ báo Lao động và tạp chí “Công hội đỏ”- đây chính là cơ quan ngôn luận và truyền bá lý luận
của Tổng công hội đỏ Bắc kỳ vào phong trào công nhân.
Sự ra đời của Tổng công hội đỏ Bắc kỳ là kết quả tất yếu của sự phát triển của phong trào công nhân
với sự truyền bá lý luận cách mạng của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc và các đảng viên Cộng sản vào phong trào
công nhân nước ta. Từ đây GCCN Việt Nam đã có tổ chức đại diện cho quyền lợi của mình. Tổng công hội đỏ
Bắc kỳ đã trở thành tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam, ngày thành lập tổ chức này đã trở thành ngày
thành lập Công đoàn Việt Nam (28/07/1929). Như vậy, chúng ta khẳng định rằng sự ra đời và phát triển của
Công đoàn Việt Nam là một tất yếu khách quan, đáp ứng những đòi hỏi của cuộc đấu tranh của GCCN Việt
Nam.
Trong từng giai đoạn cách mạng để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và điều kiện lịch sử, Công đoàn đã
mang nhiều tên gọi khác nhau: Tổng công hội đỏ Bắc kỳ, Nghiệp đoàn ái hữu, Hội công nhân phản đế, Hội công
nhân cứu quốc, Tổng Công đoàn Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Mặc dù vậy, bản chất cách
mạng và mục tiêu cơ bản lâu dài của Công đoàn Việt Nam là không thay đổi.



Đối với Công đoàn Việt Nam, GCCN Việt Nam là cơ sở xã hội để hình thành, tồn tại và phát triển tổ
chức Công đoàn. Công đoàn sinh ra để bảo vệ lợi ích hợp pháp của công nhân, đồng thời mọi hoạt động của
Công đoàn đều phải đặt đươi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong, bộ tham mưu chiến
đấu của GCCN Việt Nam. Công đoàn hoạt động theo đường lối, mục tiêu chính trị do Đảng đề ra, bảo đảm sự
thống nhất hành động trong GCCN để GCCN hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình. Công đoàn kết nạp
đông đảo công nhân, viên chức vào tổ chức Công đoàn. Mọi công nhân viên chức đều có quyền tự nguyện gia
nhập và ra khỏi tổ chức Công đoàn theo quy định của điều lệ Công đoàn Việt Nam. Cơ quan lãnh đạo của Công
đoàn Việt Nam bao gồm những người được quần chúng công nhân viên chức tín nhiệm bầu bằng phiếu kín, đại
diện cho tiếng nói của công nhân viên chức và đấu tranh bảo vệ lợi ích của họ. Nội dung hoạt động của Công
đoàn nhằm bảo vệ lợi ích vật chất, tinh thần và đáp ứng yêu cầu nguyện vọng chính đáng của công nhân viên
chức.
Từ vấn đề trên cho thấy tổ chức Công đoàn Việt Nam là một tổ chức mang tính chất giai cấp của GCCN
và tính chất quần chúng rộng rãi. Hai tính chất này có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, do vậy trong hoạt động
thực tiễn xây dựng và phát triển tổ chức Công đoàn cần phải quán triệt sâu sắc hai tính chất này. Nếu chỉ coi
trọng tính chất giai cấp thì về mặt tổ chức sẽ bị bó hẹp, tự thu mình lại, không tập hợp đoàn kết được đông đảo
quần chúng công nhân, viên chức vào tổ chức Công đoàn, và trên thực tế sẽ khó tồn tại đúng với bản chất của
nó; ngược lại nếu quá coi trọng tính chất quần chúng, xem nhẹ tính chất GCCN thì sẽ dẫn tới xa rời mục tiêu
chính trị, biến Công đoàn trở thành tổ chức phường hội mất phương hướng hoạt động và sẽ đánh mất bản chất
cách mạng của tổ chức Công đoàn.
Công đoàn Việt Nam là một tổ chức chính trị- xã hội của GCCN và người lao động Việt Nam nó là một
bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị XHCN. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin Công đoàn là tổ
chức đứng giữa Đảng và chính quyền Nhà nước - đứng giữa có nghĩa là Công đoàn không phải là tổ chức
mang tính chất đảng phái, nhà nước mà Công đoàn là tổ chức chính trị- xã hội độc lập, có tổ chức, có tôn chỉ
mục đích hoạt động riêng. Tuy vậy, Công đoàn không tách biệt, đối lập với các thành viên trong hệ thống chính
trị XHCN, đặc biệt là đối với Đảng và Nhà nước, mà trái lại có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau.
Trong mối quan hệ với Đảng, Công đoàn phải chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng
lãnh đạo tổ chức Công đoàn nhằm phát huy có hiệu quả vai trò của Công đoàn thông qua các nghị quyết đại
hội, nghị quyết của các cấp uỷ Đảng; Đảng tôn trọng tính độc lập tương đối về mặt tổ chức của Công đoàn,
nghĩa là việc xây dựng tổ chức và tiến hành hoạt động của Công đoàn phù hợp với điều lệ của tổ chức Công

đoàn. Tuy nhiên, vấn đề cần lưu ý là không được đồng nhất giữa tính độc lập tương đối về mặt tổ chức của
Công đoàn với sự biệt lập, không phụ thuộc của Công đoàn với Đảng. Nếu nhầm lẫn, sẽ dẫn đến sự lệch lạc,
làm cho mục tiêu hoạt động của Công đoàn đi theo xu hướng phường hội, chỉ đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế
trước mắt mà không đấu tranh cho mục tiêu chính trị cuối cùng là xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột. Công đoàn chỉ
có tính độc lập tương đối về tổ chức chứ không độc lập về mặt chính trị tư tưởng, Công đoàn không thể có hệ
tư tưởng riêng biệt khác với hệ tư tưởng của Đảng.
Công đoàn có trách nhiệm là cầu nối giữa Đảng với GCCN và toàn thể người lao động. V.I. Lênin cho
rằng: Công đoàn là bộ phận truyền lực từ Đảng Cộng sản đến quần chúng. Nghĩa là Công đoàn là người tuyên


truyền, phổ biến chủ trương, đường lối nghị quyết của Đảng đến với quần chúng. Công đoàn vận động quần
chúng nỗ lực thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng và nắm bắt tâm tư nguyện vọng của quần
chúng phản ảnh với Đảng, tạo cơ sở để Đảng lãnh đạo Nhà nước hoàn thiện chế độ chính sách đối với người
lao động, bảo đảm lợi ích hợp pháp cho người lao động. Bên cạnh đó, Công đoàn còn có trách nhiệm trong
việc tham gia xây dựng và chỉnh đốn Đảng, bồi dưỡng và giới thiệu những công nhân ưu tú để kết nạp vào
Đảng, giáo dục vận động quần chúng tích cực tham gia đấu tranh phê bình xây dựng các tổ chức Đảng trong
sạch, vững mạnh.
Trong mối quan hệ với Nhà nước, Công đoàn là người cộng tác đắc lực của Nhà nước. Quan hệ giữa
Công đoàn và Nhà nước là quan hệ bình đẳng, phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau. Nhà nước không chỉ đạo hoạt động
của Công đoàn, không can thiệp vào hoạt động của Công đoàn, mà Nhà nước tạo mọi điều kiện về vật chất, về
môi trường pháp lý để cho Công đoàn hoạt động. Nhà nước ta là Nhà nước XHCN, mang bản chất GCCN, là
Nhà nước của dân, do dân, vì dân; mà Công đoàn lại là tổ chức chính trị - xã hội của GCCN, cho nên cả Nhà
nước và Công đoàn đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, đều có mục đích chung là xây dựng nước Việt Nam
hoà bình thống nhất, độc lập dân tộc và CNXH. Vì vậy, Công đoàn phải có trách nhiệm trong việc tham gia xây
dựng chính quyền Nhà nước, tuyên truyền vân động công nhân và người lao động thực hiện tốt các chính sách
phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước, góp phần bồi dưỡng, giới thiệu đội ngũ cán bộ cho Nhà nước. Đồng
thời, Công đoàn còn có trách nhiệm tham gia kiểm tra hoạt động của Nhà nước, giúp cơ quan Nhà nước thực
hiện tốt chức năng của mình, chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, hành chính trong hoạt động của Nhà nước. Vấn
đề này đã được V.I.Lênin khẳng định: “Không có một nền móng như các tổ chức Công đoàn thì không thể thực
hiện được các chức năng Nhà nước” [18, Tr.250]. Bên cạnh mối quan hệ với Đảng và Nhà nước, Công đoàn

Việt Nam còn là thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Quan hệ giữa Công đoàn với các thành viên khác
trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam là quan hệ bình đẳng, hợp tác, phối hợp và thống nhất hành động nhằm thực
hiện thắng lợi đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Công đoàn Việt Nam là một thành viên trong hệ thống chính trị XHCN ở Việt Nam, có mối quan hệ chặt
chẽ, gắn bó hữu cơ với các tổ chức trong hệ thống chính trị. Công đoàn có trách nhiệm vận động, tập hợp, tổ
chức, giáo dục và xây dựng GCCN thành lực lượng cách mạng chủ yếu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Thực tiễn đã chứng minh từ khi ra đời đến nay, hoạt động của Công đoàn Việt Nam đã góp phần không
nhỏ vào tiến trình phát triển của lịch sử cách mạng nước ta.
Khi GCCN chưa giành được chính quyền, với tư cách là trường học đấu tranh giai cấp, Công đoàn đã
tập hợp tổ chức công nhân đấu tranh chống lại bọn thực dân, phong kiến. Nhờ có sự chỉ đạo của tổ chức Công
đoàn cho nên những cuộc đấu tranh của GCCN Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX đã phát triển mạnh mẽ
với quy mô rộng lớn, đã thể hiện được sức mạnh của sự đoàn kết và nòng cốt của khối liên minh công nông
trong đấu tranh giành chính quyền.
Khi GCCN đã giành được chính quyền và trở thành giai cấp lãnh đạo mọi mặt đời sống xã hội thì Công
đoàn là trường học quản lý, trường học kinh tế và trường học giáo dục cộng sản chủ nghĩa của GCCN.
Là trường học quản lý, Công đoàn giúp cho công nhân nâng cao trình độ hiểu biết về kinh tế và tham gia
vào qúa trình quản lý sản xuất, quản lý xí nghiệp và quản lý xã hội.


Là trường học kinh tế, Công đoàn đã vận động công nhân tích cực tham gia vào việc hoàn thiện các
chính sách kinh tế, đẩy mạnh phong trào thi đua XHCN, nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm,
hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay Công đoàn vận động công nhân tích cực tham
gia vào việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng
XHCN, nhằm góp phần khắc phục tình trạng nước nghèo và chậm phát triển để đến năm 2020 nước ta trở
thành một nước công nghiệp;
Là trường học giáo dục cộng sản chủ nghĩa, Công đoàn đã giáo dục công nhân và người lao động có
thái độ lao động mới, tích cực tự giác, có tính tổ chức, tính kỷ luật cao, chân trọng thành quả lao động và sống
bằng kết quả lao động chân chính của mình. Cùng với việc giáo dục thái độ lao động mới, Công đoàn còn tham
gia giáo dục chính trị tư tưởng, pháp luật, văn hóa, lối sống để hình thành thế giới quan khoa học, phương pháp
luận biện chứng và nhân sinh quan cộng sản cho GCCN.

* Chức năng của tổ chức Công đoàn
Một là, chức năng bảo vệ lợi ích: đây là chức năng quan trọng nhất của tổ chức Công đoàn. Trong xã
hội cũ, khi GCCN còn là giai cấp bị áp bức, bóc lột thì Công đoàn đứng ra tập hợp tổ chức công nhân đấu tranh
chống bọn bóc lột, đòi lại quyền lợi chính đáng của GCCN và đấu tranh giành lấy chính quyền dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Trong thời kỳ qúa độ lên CNXH, đặc biệt là giai đoạn hiện nay đang thực hiện nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, Công đoàn càng phải hoàn thành chức năng bảo vệ lợi ích của GCCN. Tuy nhiên, bảo vệ
lợi ích của GCCN viên chức trong giai đoạn hiện nay không phải là chống lại Nhà nước, không mang tính chất
đối kháng giai cấp, mà chỉ là đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực xã hội, sự thoái hóa biến chất, sự vi
phạm chính sách pháp luật Nhà nước của một số người, yêu cầu họ thực hiện đúng chính sách pháp luật của
Nhà nước để bảo đảm quyền lợi của công nhân. Việc bảo vệ lợi ích của GCCN ở đây cũng chính là bảo vệ chính
quyền Nhà nước, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh thực sự của dân, do dân, vì dân.
Để thực hiện chức năng này, Công đoàn phải tham gia một loạt các hoạt động như: cùng chính quyền
giải quyết việc làm cho công nhân, cải tiến các chính sách chế độ, tiền lương, phân phối phúc lợi, thực hiện luật
lao động, giải quyết tranh chấp lao động. Với chức năng bảo vệ lợi ích, Hiến pháp năm 1992 đã quy định cụ thể
đối với tổ chức Công đoàn trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn ĐTNN như sau: hướng dẫn
công nhân và viên chức ký các hợp đồng lao động với chủ; đại diện cho công nhân và viên chức trong việc xây
dựng và ký kết các thoả thuận với chủ doanh nghiệp và thúc đẩy việc thực hiện theo các điều đã được thoả
thuận; tổ chức các buổi đối thoại với mục tiêu hòa giải sự bất hòa giữa chủ và công nhân theo luật định.
Hai là, chức năng tham gia quản lý: ở xã hội cũ, GCCN là những người làm thuê, họ chưa có chính
quyền , Nhà nước lúc này là Nhà nước của giai cấp thống trị bóc lột, là công cụ để đàn áp quần chúng nhân dân
lao động. Do vậy, GCCN phải chịu sự thống trị, sự áp bức của Nhà nước này và do đó họ không được tham gia
vào công việc quản lý của Nhà nước. Khi GCCN giành được chính quyền, trở thành giai cấp lãnh đạo xã hội, họ
cùng với những người lao động trở thành người quản lý xã hội, thì tổ chức Công đoàn từ vị trí đối lập với nhà
nước của giai cấp thống trị bóc lột, đã trở thành chỗ dựa, thành người cộng tác đắc lực của Nhà nước. Vì vậy,
Công đoàn có quyền và có nghĩa vụ tham gia quản lý các công việc của Nhà nước. Chức năng tham gia quản lý
của Công đoàn chính là sự phối hợp hoạt động giữa Công đoàn với các cấp quản lý của Nhà nước trên tất cả


các lĩnh vực của đời sống xã hội theo mục tiêu thống nhất, đảm bảo và bảo vệ lợi ích của GCCN, để công tác
quản lý đạt hiệu quả cao, hạn chế những yếu kém khuyết điểm trong công tác quản lý. Như V. I .Lênin đã từng

chỉ ra: sự tham gia của Công đoàn vào công tác quản lý kinh tế, và việc Công đoàn lôi cuốn quần chúng rộng
rãi tham gia vào công tác đó, đồng thời cũng là biện pháp chủ yếu để đấu tranh chống sự quan liêu hoá bộ máy
kinh tế của chính quyền Xô Viết và tạo khả năng thực sự kiểm tra thực tế của nhân dân đối với kết quả sản xuất
kinh doanh. Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế còn tồn tại nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu khác
nhau, với nhiều loại hình doanh nghiệp như: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Vì vậy nội dung tham gia quản lý của Công đoàn rất đa dạng,
phong phú, tuỳ theo tính chất của mỗi đơn vị mà tổ chức Công đoàn có những nội dung tham gia quản lý khác
nhau. Chẳng hạn trong các doanh nghiệp nhà nước, Công đoàn có thể tham gia vào việc xây dựng chiến lược
phát triển sản xuất kinh doanh, tham gia xây dựng và củng cố bộ máy quản lý của doanh nghiệp, hoặc trong các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Công đoàn có thể tham gia kiểm tra giám sát việc thực hiện các hợp đồng, thoả
thuận của chủ doanh nghiệp, việc chấp hành pháp luật, chấp hành các luật định của doanh nghiệp, việc thực
hiện chế độ phân phối phúc lợi đối với công nhân…
Ba là, chức năng giáo dục: đây là chức năng cơ bản của Công đoàn. Trước đây, khi GCCN còn bị áp
bức bóc lột thì Công đoàn đã tổ chức giáo dục để công nhân thấy rõ bản chất của giai cấp bóc lột, hình thức
biện pháp để đấu tranh chống giai cấp bóc lột đạt hiệu quả. Trong giai đoạn hiện nay, chức năng giáo dục của
Công đoàn được thể hiện ở việc giúp đỡ công nhân không ngừng nâng cao giác ngộ chính trị tư tưởng, lý
tưởng niềm tin cách mạng, phẩm chất đạo đức, tác phong công tác. Nói cách khác, chức năng giáo dục của
Công đoàn hiện nay là Công đoàn phải thực sự là trường học CSCN của GCCN. Nội dung giáo dục của Công
đoàn bao gồm cả giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, giáo
dục truyền thống….Tất cả những nội dung đó đều nhằm xây dựng một đội ngũ công nhân sống có lý tưởng, có
hoài bão, có niềm tin, có văn hóa, có đạo đức, có lỷ luật; qua đó đảm bảo cho GCCN có đủ cơ sở hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình, xứng đáng là giai cấp tiên phong, giai cấp lãnh đạo trong quá trình xây dựng CNXH,
đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay.
Ba chức năng trên của Công đoàn có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó chức năng bảo vệ lợi ích là
trọng tâm, là mục tiêu hoạt động của Công đoàn, chức năng tham gia quản lý là phương tiện để đạt được mục
tiêu, chức năng giáo dục là động lực tinh thần để đạt mục tiêu. Việc xác định đúng chức năng của Công đoàn có
ý nghĩa rất quan trọng, về mặt lý luận nó phản ánh đầy đủ bản chất của tổ chức Công đoàn , về mặt thực tiễn
nó tránh được sự trùng lặp chồng chéo giữa Công đoàn với Nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội khác,
đồng thời làm cho công nhân có niềm tin vào tổ chức Công đoàn, thấy được sự cần thiết của việc tồn tại tổ
chức Công đoàn .

1.2.2. Vai trò của tổ chức Công đoàn trong nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa của công nhân
ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
* Công đoàn trực tiếp giáo dục lý luận chính trị cho công nhân
Giáo dục lý luận chính trị là hoạt động quan trọng nhất để nâng cao ý thức chính trị XHCN cho công
nhân, đây là nhiệm vụ của tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có tổ chức Công


đoàn. Trong tình hình biến động phức tạp hiện nay, mục tiêu hàng đầu của công tác giáo dục lý luận chính trị là
nhằm củng cố và tăng cường sự thống nhất về tư tưởng và hành động, khắc phục tâm trạng bi quan, giảm sút
niềm tin về CNXH, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho GCCN, qua đó làm cho GCCN nâng cao giác ngộ
giai cấp, nêu cao trách nhiệm trong thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Đặc biệt, đối với đội ngũ công
nhân trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, họ phần đông xuất thân từ nông thôn, tuổi đời còn trẻ, kinh nghiệm
cuộc sống còn ít, chưa được học lý luận chính trị nhiều (thậm chí có người chưa học), họ sớm bị tác động của
nền kinh tế thị trường, sớm tiếp xúc với lối sống thực dụng, bị ảnh hưởng của những hiện tượng tiêu cực…, cho
nên ở họ chưa hình thành rõ nét mục tiêu, lý tưởng, hoài bão cách mạng, dễ ngả nghiêng dao động. Vì vậy,
công tác giáo dục lý luận chính trị đối với đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN lại càng
quan trọng hơn. Xuất phát từ tình hình đó, công tác giáo dục lý luận chính trị của Công đoàn cần tập trung vào
các nội dung cơ bản sau đây.
Trước hết, Công đoàn cần giáo dục, tuyên truyền để công nhân nhận thức rõ vị trí, vai trò của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN của chúng ta hiện
nay.
Như đã trình bầy ở phần trên, chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết mang tính cách mạng và khoa học, là
học thuyết duy nhất chỉ ra con đường để GCCN tiến hành đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và
giải phóng nhân loại, xây dựng thành công CNXH và CNCS ở phạm vi từng nước cũng như trên phạm vi toàn
thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt
Nam. Thực tiễn cáh mạng Việt Nam hơn 70 năm qua đã chứng minh chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh luôn là vũ khí vô địch của GCCN và nhân dân lao động Việt Nam, nhờ đó mà chúng ta đã giành được
thắng lợi to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, và ngày nay chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vẫn đang là vũ khí tư tưởng không gì thay thế được trong sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vấn đề này đã được đại hội Đảng VII khẳng định:

“Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” và
đến đại hội Đảng IX, Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt
Nam theo con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”[8, Tr.20].
Công đoàn với tư cách là tổ chức chính trị- xã hội của GCCN, là trường học CSCN của GCCN, do đó
Công đoàn phải có trách nhiệm góp phần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục để công nhân hiểu được bản chất cách
mạng và khoa học, nắm được vị trí, vai trò cũng như những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, có như vậy công nhân mới có cơ sở để đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, những luận
điệu và thủ đoạn xuyên tạc, đả kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù
địch. Đây có thể coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong việc nâng cao ý thức chính trị XHCN cho GCCN trong
giai đoạn hiện nay, như nghị quyết 9 của Bộ chính trị đã chỉ rõ: “khi các thế lực thù địch ra sức tấn công nền tảng
tư tưởng của Đảng nhằm đẩy chúng ta đi chệch hướng, thì đấu tranh để bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng là vấn đề quan trọng, trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong công
tác chính trị, tư tưởng và lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta” [6, Tr.7- 8].


×