Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

NGHỆ THUẬT QUÂN sự VIỆT NAM TRONG CHIẾN THẮNG điện BIÊN PHỦ và 30 4 NHỮNG vấn đề về xây DỰNG nền QUỐC PHÒNG TOÀN dân HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.43 KB, 19 trang )

I. SỨC MẠNH VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TRONG CHIẾN DỊCH
ĐBP
Sau bảy năm tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam (tính đến năm 1952)
Thực dân Pháp đã bị thiệt hại hơn 30 vạn binh lính và sĩ quan. Các kế hoạch của
Lơcơléc, Valuy đến Đácgiăngliơ, Bôla, Pinhông, Rơve, Tatixinhi theo nhau bị phá
sản. Người Pháp lúc nào cũng như phải làm lại từ đầu. Cuộc chiến tranh không trận
tuyến của thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam đã làm cho quân Pháp mệt mỏi,
suy yếu. Chính phủ Pháp theo đó mà dựng lên đổ xuống 17 lần, năm viên Cao ủy và
sáu viên Tổng chỉ huy Quân đội Pháp o Đông Dương lần lượt bị triệu hồi.
Nhân dân Việt Nam qua bảy năm kháng chiến đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Hồ Chủ tịch, càng chiến đấu, càng trưởng thành và lớn mạnh. Từ những đội vệ
quốc quân nhỏ bé đã từng bước phát triển bao gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương và dân quân tự vệ hình thành lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ. Nhờ có
đường lối chiến tranh nhân dân trong sự kết hợp hai phương thức tiến hành chiến
tranh là: chiến tranh du kích về chiến tranh chính quy (chiến tranh bằng các binh
đoàn chủ lực), từ thế bị động quân và dân ta đã chuyển dần sang thế chủ động, liên
tiếp giành được nhiều thắng lợi qua các chiến dịch: Việt Bắc 1947, Biên Giới 1950,
Hòa Bình 1951-1952, Tây Bắc-Thượng Lào 1952-1953.
Trước những thất bại liên tiếp đó ở Đông Dương dư luận Pháp ngày càng chán
ngán với cuộc chiến tranh này. Bế tắc và lúng túng Chính phủ Pháp không còn muốn
tiếp tục cuộc chiến tranh quá tốn kém và vô vọng, nhưng cũng chưa muốn nhường
chỗ cho người Mỹ nhảy vào. Họ cho rằng một giải pháp tốt nhất lúc này là với sự
giúp đỡ tiền bạc và vũ khí của Mỹ, trong một thời gian tương đối ngắn cố giành một
trận thắng quyết định trên chiến trường, để từ đó rút khỏi cuộc chiến tranh bằng một
“lối thoát danh dự” trên bàn đàm phán.
Ngày 7.5.1953 với sự thỏa thuận của Mỹ, Thủ tưởng Pháp Rênê Maye đã cử
Tướng bốn sao NaVa thay Tướng XaLăng sang cầm đầu đạo quân viễn chinh Pháp ở
Đông Dương. Kế hoạch NaVa được ra đời trong hoàn cảnh đó nhằm cứu vãn danh dự
cho nước Pháp.
Kế hoạch quân sự đại quy mô mang tên NaVa mà nội dung cơ bản là:
- Một mục tiêu: Kết thúc chiến tranh Đông Dương trong vòng 18 tháng.


- Hai biện pháp: Tăng quân: đưa thêm quân từ chính quốc, quân lê dương, quân ngụy
bản xứ và đi đôi với việc xin thêm tiền bạc, vũ khí Mỹ; Tập trung quân: thành lập các
tiểu đoàn cơ động hình thành các binh đoàn cơ động chiến lược (cụm cơ động có tính
chiến lược-groupe mobilès).
- Hai giai đoạn: Giai đoạn Đông Xuân 1953-1954: giữ thế phòng ngự ở phía Bắc,
thực hành tiến công chiến lược phía Nam; Giai đoạn Thu Đông 1954 đến giữa năm
1955: đưa toàn bộ lực lượng ra phía Bắc thực hành “Tổng giao chiến”, giáng đòn
quyết định tạo thế mạnh trên bàn đàm phán để nước Pháp rút ra khỏi cuộc chiến tranh
trên thế thắng.


Ngay từ đầu năm 1953, thực hiện kế hoạch, NaVa đã huy động được 480.000
quân với 267 tiểu đoàn, trong đó gồm 84 tiểu đoàn cơ động, riêng chiến trường Bắc
Bộ có 44 tiểu đoàn tinh nhuệ. Về không quân, ngoài sự chi viện của Mỹ, NaVa còn
có trong tay 300 máy bay chiến đấu và máy bay vận tải. Mở đầu cho kế hoạch này, 6
tháng cuối năm 1953, NaVa đã mở hàng loạt các cuộc hành quân càn quét lớn ở
nhiều nơi (Lạng Sơn, Trị Thiên, Ninh Bình, Thanh Hóa) nhằm tiêu hao, tiêu diệt lực
lượng của ta và thăm dò ý đồ quân sự của ta. Các cuộc hành binh ấy chỉ gây ra cho ta
một ít tổn thất về kho tàng như ở Lạng Sơn. Trong khi đó chúng lại bị quân và dân
địa phương đã đánh cho những đòn thiệt hại nặng nề, loại khỏi vòng chiến đấu 12
Tiểu đoàn (gần bằng số quân cơ động vừa được tăng thêm). Còn các đơn vị chủ lực
của ta (trừ Đại đoàn 320 đang đối phó với địch ở đồng bằng Bắc Bộ) vẫn “án binh bất
động” vừa huấn luyện, vừa chờ lệnh xuất quân.
Cuối tháng 9.1953 Bộ Chính trị đã họp để thông qua kế hoạch tác chiến Đông
Xuân 1953-1954. Đây là một kế hoạch đồ sộ chứa đựng nhiều nét đặc sắc về nghệ
thuật quân sự mà trong đó mưu kế chiến lược đã được Bác Hồ khái quát bằng một cử
chỉ hết sức đơn giản, như lời kể sau này của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Bàn tay
Bác đang đặt trên bàn bỗng giơ lên rồi nắm lại, sau đó Bác lại mở xòe rộng, năm
ngón tay ra năm hướng, Người nói: “Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức
mạnh, không sợ! Ta buộc địch phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không con”.

Đó chính là mưu kế chiến lược căng địch ra mà đánh. Điều đầu tiên là việc chọn
hướng, địa bàn mở chiến dịch, tình hình địch ta và khả năng trình độ tác chiến của ta
lúc đó chưa cho phép quân ta đánh lớn, đánh tiêu diệt lớn ở chiến trường đồng bằng,
đô thị. Nhưng yêu cầu của chiến tranh lúc đó là quân ta phải đánh tiêu diệt lớn, giải
phóng một vài vùng đất đai rộng lớn thì mới làm chuyển biến cơ bản và nhanh chóng
cục diện chiến tranh. Muốn đánh bại các biện pháp thủ đoạn chiến lược chiến dịch
của địch, đánh tiêu diệt lớn, trong khi kẻ địch lại đông quân và vũ khí trang bị hơn ta
để giành được thắng lợi, ít thương vong thì ta phải chọn hướng địch yếu và ở địa bàn
rừng núi thiên hiểm.
Mở đầu chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, quân ta tiến lên Tây Bắc, đòn tiến
công chiến lược đầu tiên đã điểm trúng huyệt khiến NaVa vội vã điều động 6 tiểu
đoàn cơ động tăng cường cho Điện Biên Phủ, biến nó thành một tập đoàn cứ điểm
mạnh với binh lực lên tới 9 tiểu đoàn, kế hoạch NaVa bắt đầu bị đảo lộn. Ngay sau đó
ta chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược. Chọn Điện Biên Phủ là chọn
hướng, địa bàn, mục tiêu chính xác. Tuy là rừng núi xa hậu phương chiến lược nhưng
địch vẫn có thể cơ động các binh đoàn cơ động đi ứng cứu. Để hạn chế các lực lượng
cơ động đó (một thủ đoạn tác chiến lợi hại có hiệu lực của địch) thì ta phải phân tán
các lực lượng cơ động của địch ra các chiến trường khác, bảo đảm không có thể cơ
động nhiều lực lượng ứng cứu cho Điện Biên Phủ có thế mới bảo đảm chắc thắng cho
Điện Biên Phủ. Như thế là làm cho địch phải tan mà ta thì tụ. Đó là mưu kế chiến
lược nhằm chia địch, phân tán địch. Muốn mưu kế được thực hiện thì ta phải nghi
binh, lừa địch, điều động địch. Nghi binh lừa địch, điều động địch cũng phải làm có
hiệu lực. Có thế địch mới bị mắc lừa, buộc địch phải đến nơi ta lựa chọn và giam
chân địch ở đó.


Để tạo thế cho chiến dịch Điện Biên Phủ, ta đã cho một số đơn vị chủ lực nhỏ
mà tinh đánh vào các hướng địch yếu nhưng lại hiểm và có ý nghĩa chiến lược và
buộc phải ứng cứu. Đó là các hướng Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào, Đông Bắc
Campuchia và Bắc Tây Nguyên. Ở các hướng đó quân địch nhanh chóng bị tiêu diệt,

ta giải phóng được một số thị trấn, thị xã. Trước nguy cơ mất quân, mất đất địch buộc
phải tung lực lượng cơ động ra các hướng đó để cứu vãn tình thế. Còn ta thì đẩy
mạnh chiến tranh du kích trong cả nước và vẫn bố trí một số các đơn vị chủ lực tinh
nhuệ để kìm giữ và giam chân các lực lượng cơ động này.
Nhờ mưu kế đó ta đã điều động khoảng 70 tiểu đoàn cơ động trên tổng số 84
tiểu đoàn cơ động địch ra các chiến trường trên toàn Đông Dương. Buộc địch phải tổ
chức bảy con nhím. Ở Bắc Lào hai cụm cứ điểm; ở Trung Lào một cụm cứ điểm; ở
Hạ Lào một cụm cứ điểm; ở Tây Nguyên hai cụm cứ điểm, và Điện Biên Phủ một
cụm cứ điểm (tập đoàn cứ điểm mạnh nhất).
Ta đã thành công trong việc điều động phân tán địch trên năm chiến trường.
Quả đấm mạnh của địch đã bị xòe ra thành năm ngón tay. Mà chính Tướng NaVa
cũng phải thú nhận rằng hơn 80% lực lượng cơ động của quân Pháp đã bị phân chia
ra các chiến trường Đông Dương và khi quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ thì
lực lượng cơ động địch không thể tập trung lớn để đối phó được nữa.
Tại chiến trường chính Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy chiến dịch (bộ phận đi
trước) có sự tham gia ý kiến của đồng chí Mai Gia Sinh-Phó đoàn chuyên gia Trung
Quốc, đề ra kế hoạch với phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” quyết tâm tiêu
diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ chỉ 2 ngày 3 đêm trong điều kiện địch còn đang
phòng ngự lâm thời. Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, chỉ huy trưởng chiến
dịch đi sau. Nhưng vì mới đến, sau khi nghe báo cáo Đại tướng mặc dù rất phân vân
nhưng chưa có đủ yếu tố để bác bỏ phương án đã chọn của bộ phận đi trước bởi nó
rất khác với suy tính báo cáo gửi lên Bộ Chính trị trước đó.
Diễn biến trên toàn chiến trường Đông Dương lúc này đã có những thay đổi.
Đặc biệt là ở Điện Biên Phủ, NaVa điên cuồng mù quáng quyết tâm tăng cường xây
dựng công sự, sân bay, bổ sung lực lượng lên tới 12 tiểu đoàn nhằm biến nơi đây
thành “cối xay thịt” để nghiền nát chủ lực ta. Trước tình hình đó, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đã quả cảm quyết đoán nhạy bén nắm bắt tình hình đề nghị thay đổi
phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” và
đã được Thường vụ Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch phê chuẩn. Bằng quyết định
đó, Đại tướng đã phải trải qua những trăn trở cực kỳ khó khăn, cân nhắc thận trọng,

xử lý khôn khéo, kiên trì thuyết phục để vừa giữ vững được nguyên tắc, vừa bảo đảm
được đoàn kết nhất trí cao trong lãnh đạo và với chuyên gia bạn. Sau đó Đại tướng
chỉ đạo chuyển đổi đội hình, bố trí lại lực lượng và thực hành nghi binh chiến lược
trực tiếp ở Điện Biên Phủ bằng việc cho một đại đoàn chủ lực (Đại đoàn 308) đánh
sang Bắc Lào. Nhờ đó ta đã có thể chủ động từng bước tập trung được một lực lượng
hơn 5 đại đoàn chủ lực để thực hiện chuyển sang vây hãm dài ngày, phát huy được
tinh thần trí tuệ của toàn quân và sức mạnh của toàn dân cho cuộc chiến đấu quyết
định vận mệnh của dân tộc.


Mặc dù trận địa đã được bố trí, pháo lớn đã kéo lên vị trí chiến đấu với bao công sức
và xương máu. Nhưng Đại tướng vẫn quyết tâm kéo pháo ra để kéo vào vị trí tác
chiến mới.
Trói địch lại mà diệt
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ địch đã ở vào thế cô lập, cố thủ trong một thung
lũng bị ta bao vây tiến công từ bốn phía kể cả trên không. Muốn đập tán cái “cối xay
thịt”, diệt trừ “con nhím” khổng lồ này trước hết ta đã từng bước vô hiệu hóa nó bằng
cách đánh của Việt Nam. Ta đã xây dựng cả một hệ thống giao thông hào, một hệ
thống trận địa tiến công và bao vây tạo điều kiện cho quân ta triển khai vận động tiến
công. Đây là lần đầu tiên quân ta tiến hành bao vây, tiến công một tập đoàn cứ điểm
trong điều kiện quân Pháp có vũ khí trang bị hiện đại hơn ta. Cùng với việc triệt phá
các nguồn hỏa lực của địch: pháo binh, xe tăng và máy bay chi viện, bằng hệ thống
hầm hào trận địa với chiến thuật “vây, lấn, triệt, phá” quân ta từng bước thắt chặt
vòng vây, tạo thành ưu thế ở từng không gian và thời gian chiến dịch đã tạo nên sức
mạnh to lớn trong quá trình tiến công để tiêu diệt tập đoàn cứ điểm giành thắng lợi.
Đặc biệt là ngày từ năm 1953 Bộ Quốc phòng đã sớm cho thành lập các trung đoàn
pháo và pháo phòng không, một yếu tố rất quan trọng để tạo nên sức mạnh ở Điện
Biên Phủ. Một điều rất hay và rất sáng tạo là lần đầu tiên ở Việt Nam và cũng là rất
hiếm ở trên thế giới, ta đã cho kéo pháo lên núi cao vào hầm chĩa thẳng pháo xuống
đầu kẻ địch mà chế áp. Với cách đánh này, vừa bảo vệ được pháo, vừa nâng cao được

uy lực và mức chính xác, hiệu quả đến mức khiến cho viên chỉ huy pháo binh của
Pháp và Pirôt bất ngờ hoảng loạn mà tự sát. Còn lực lượng pháo phòng không cũng
làm nên một kỳ tích. Lần đầu tiên pháo phòng không của ta xuất hiện nhờ có sự giúp
đỡ kịp thời của các nước bạn: Liên Xô, Trung Quốc nên ta đã cố gắng kết hợp mọi
biện pháp bảo đảm giữ bí mật đến phút nổ súng. Trong quá trình chiến đấu pháo
phòng không đã liên tục cơ động trên nhiều trận địa dự bị, bảo đảm tiêu diệt lực
lượng địch, giữ gìn lực lượng ta, bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay địch. Đặc biệt sáng
tạo đó là lực lượng phòng không đã thực hành bao vây đường không, ngăn chặn có
hiệu quả đường tiếp tế bằng máy bay của địch, yểm hộ tích cực cho bộ binh thực
hành tiến công. Có thể thấy bằng quyết định thay đổi phương châm tác chiến và cách
đánh thích hợp, ta đã chủ động vây hãm địch dài ngày, từng bước triệt phá hỏa lực tại
chỗ, triệt đường tiếp tế trên bộ và trên không của địch. Trói địch lại để ta tập trung
binh hỏa lực lần lượt tiến công từng bộ phận nhằm tiêu hao đánh bại ý chí chiến đấu
của địch, tiến tới tiêu diệt gọn hoàn toàn một tập đoàn cứ điểm khi chúng vẫn còn
đông quân.
Trận đánh Điện Biên Phủ ta đã tiêu diệt và bắt sống 17 tiểu doàn trong tổng số 84 tiểu
đoàn cơ động của địch. Nó là một trận đánh tiêu diệt có ý nghĩa chiến lược, là đỉnh
cao thắng lợi của cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược giải phóng
được một nửa đất nước.
Trận Điện Biên Phủ xứng đáng là một trận đánh tiêu biểu, nổi tiếng lịch sử quân sự
thế giới, đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nền nghệ thuật quân


sự Việt Nam, đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, đánh bại sức mạnh sắt thép
và đô la của can thiệp Mỹ. Như một Xương Giang-Bạch Đằng-Chi Lăng-Đống Đa,
Điện Biên Phủ đã ghi thêm một trang sử vàng hào hùng và oanh liệt của dân tộc ta.
Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là một đòn tiêu diệt chiến lược đánh vào đạo
quân viễn chinh Pháp, nó còn là một đòn khai tử chủ nghĩa thực dân. Thắng lợi đó đã
đem lại niềm tin mãnh liệt, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao mạnh
mẽ trên toàn thế giới, nhất là ở lục địa châu Phi, đã tạo nên phản ứng dây chuyền

không những dẫn đến độc lập ở các thuộc địa Pháp mà còn cho các dân tộc đang bị
áp bức khác.
Ngày nay, để bảo vệ Tổ quốc, muốn đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí
công nghệ cao có máy bay và tên lửa hành trình kết hợp với lục quân cơ giới thì ta
vẫn phải tiến hành chiến tranh nhân dân ba thứ quân, kết hợp chiến tranh du kích với
chiến tranh chính quy bằng các lực lượng... Bài học về chiến thắng Điện Biên Phủ
mãi mãi là một bài học lịch sử chứng minh cho sức mạnh chính trị, tinh thần và sức
mạnh tiềm lực về nghệ thuật quân sự Việt Nam.
II. NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG
MỸ CỨU NƯỚC: CHIẾN DỊCH HUẾ-ĐÀ NẴNG: BAO VÂY, CHIA CẮT
ĐỊCH, TÁC CHIẾN TRONG HÀNH TIẾN
Huế - Đà Nẵng là một chiến dịch tiến công được hình thành trong quá trình phát triển
chiến cuộc mùa Xuân 1975, trên cơ sở các chiến dịch cấp quân khu (Quân khu Trị
Thiên ở phía Bắc và Quân khu 5 ở phía Nam). Mục đích ban đầu của chiến dịch
nhằm thực hiện mưu kế chiến lược là ghìm các lực lượng cơ động tổng dự bị chiến
lược của địch ở đây (sư đoàn dù và sư đoàn lính thủy đánh bộ) và ở Sài Gòn, buộc
địch bị sơ hở ở Tây Nguyên, tạo thế cho Tây Nguyên mở trận đột phá vào nơi hiểm
yếu Buôn Ma Thuột, đồng thời phối hợp với chiến trường chính Tây Nguyên giải
phóng các vùng phụ cận, tiến tới bao vây, cô lập các thành phố lớn là Huế và Đà
Nẵng.
Trong khi chiến dịch Tây Nguyên đang giành thắng lợi, tạo ra một đột biến về chiến
lược, quân ngụy có nguy cơ không còn đủ sức phòng ngự, để giữ vững địa bàn chiến
lược. Chiến thắng Tây Nguyên - Buôn Ma Thuột tạo ra thời cơ cho đòn chiến lược
thứ hai Huế - Đà Nẵng gối đầu.
Sau khi mất Tây Nguyên, địch hoang mang co về phòng thủ chiến lược. Ở phía Bắc,
chúng rút khỏi thị xã Quảng Trị để tập trung bảo vệ Huế. Nắm thời cơ chiến lược, ta
nhanh chóng giải phóng Quảng Trị ngày 19-3, quyết định mở chiến dịch giải phóng
Huế bằng lực lượng Quân đoàn 2 và Quân khu Trị Thiên. Từ ngày 21 đến ngày 23-3,
Quân đoàn 2 của ta bỏ qua các mục tiêu thứ yếu, từ ba hướng: bắc, tây, nam tiến
xuống chia cắt đèo Hải Vân, bao vây Huế, tiêu diệt một số cứ điểm địch.

Trước khả năng bị hợp vây tiêu diệt, địch bỏ thành phố Huế rút chạy ra cửa Thuận
An và cửa Tư Hiền với ý đồ bảo toàn lực lượng, rồi cơ động theo đường biển vào Đà
Nẵng. Âm mưu đó đã bị các cánh quân vu hồi và lực lượng pháo binh của ta đập tan.


Bộ Tổng tư lệnh đã điều hành chiến lược một cách kịp thời, đưa ngay Sư đoàn 2
Quân khu 5 chuyển lên hướng Đà Nẵng cùng Quân đoàn 2 đánh chiếm Đà Nẵng.
Ngày 25-3, Quân đoàn 2 của ta tiến vào giải phóng Huế, tiêu diệt và làm tan rã toàn
bộ Sư đoàn bộ binh 1 và Lữ đoàn thủy quân lục chiến 147 của địch. Trận tiến công
giải phóng Huế kết thúc vào đúng lúc ta bắt đầu trận tiến công Đà Nẵng, căn cứ liên
hợp quân sự lớn thứ hai của ngụy.
Trên hướng Quân khu 5 (hướng Nam), ngày 24-3, Sư đoàn 2 giải phóng Tam Kỳ,
ngày 25-3, Lữ đoàn 52 và bộ đội địa phương giải phóng Quảng Ngãi, chia cắt chiến
lược Đà Nẵng với phía Nam. Khi Đà Nẵng đã rơi vào tình trạng hỗn loạn, tuy quân
địch còn đông, nhưng chúng đã mất tinh thần, tan rã về tổ chức, rối loạn về chỉ huy.
Quân đoàn 2 tiến vào từ hướng Bắc, Tây Bắc và Tây Nam kết hợp với cơ giới, xe
tăng nhanh chóng đánh vào bán đảo Sơn Trà. Sư đoàn 2 và các lực lượng khác của
Quân khu 5 trên hướng Nam và Đông Nam, đánh lướt qua các mục tiêu vòng ngoài,
phát triển nhanh chóng thọc sâu vào thành phố. Từ ngày 27-3, bộ đội ta tiến về Đà
Nẵng từ tất cả các hướng. Ngày 28-3, Đà Nẵng hoàn toàn nằm trong tầm pháo chiến
dịch. Diễn biến tác chiến rất nhanh, khiến kẻ địch không kịp co cụm và tổ chức
phòng ngự chiến dịch, chúng hoàn toàn tan rã.
Ngày 29-3, Quân đoàn 2 từ hướng Bắc, Tây Bắc và hướng Tây, Sư đoàn 2 từ hướng
Nam và Đông Nam tác chiến trong hành tiến, tiến nhanh vào giải phóng Đà Nẵng.
Được các lực lượng biệt động, tự vệ quần chúng hỗ trợ, các cánh quân của ta tiến
nhanh và hội tụ nhau ở trung tâm Đà Nẵng, giải phóng hoàn toàn thành phố, thắng lợi
một cách nhanh chóng. Đồng thời quân ta phát triển tiến công trong ngày kết hợp với
các lực lượng địa phương và dân quân du kích chiếm lĩnh bán đảo Sơn Trà và thị xã
Hội An, kết thúc chiến dịch trong thời hạn kỷ lục.
Trong chiến dịch ta đã tiêu diệt quân đoàn 1, đánh thiệt hại nặng sư đoàn lính thủy

đánh bộ và tiêu diệt các đơn vị khác, lực lượng dù địch rút chạy vào bảo vệ Sài Gòn
(trên đường rút chạy đã để lại sư đoàn dù 3 ở đèo Phượng Hoàng nhằm bảo vệ Nha
Trang và sau đó đã bị tiêu diệt trong chiến dịch Tây Nguyên). Trong thời gian ngắn ta
đã giải phóng hai thành phố là Huế, Đà Nẵng và các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam,
Quảng Ngãi.
Trong chiến dịch này, nổi bật là nghệ thuật bao vây, chia cắt, khiến kẻ địch không kịp
co cụm, tan rã nhanh chóng. Lần đầu tiên ta tổ chức những trận hợp vây quy mô lớn
(quy mô quân đoàn), phát triển nhanh chóng vào chiều sâu chiến dịch bằng tác chiến
trong hành tiến, bỏ qua những mục tiêu thứ yếu, nên đã giành được những thắng lợi
to lớn, giòn giã.
Hai đòn chiến lược liên tiếp là Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng trong tháng 3-1975,
quân và dân ta đã xóa sổ quân khu 2, quân đoàn 2 và làm tan rã quân khu 1, quân
đoàn 1 ngụy quân Sài Gòn, 12 tiểu khu từ các tỉnh từ Quảng Trị vào tới Khánh Hòa
và Tây Nguyên được hoàn toàn giải phóng đã tạo thời cơ đột biến chiến lược, lực
lượng ta ngày càng mạnh. Quân đoàn 3 được thành lập rút ra từ các lực lượng chủ
yếu của bộ đội Tây Nguyên vừa giành được chiến thắng đang trên đà phát triển tiến
công. Ta phát triển từ tiến công thành tổng tiến công và nổi dậy. Ngày 31-3-1975, Bộ


Chính trị và Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa,
động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tiến lên giành toàn thắng.
III. CHIẾN CUỘC MÙA XUÂN 1975 ĐIỂM HỘI TỤ NHỮNG SÁNG TẠO
CỦA NỀN NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã phải trải qua một chặng đường
dài chiến đấu và chiến thắng oanh liệt quân giặc ngoại xâm, lập nên những kỳ tích
huyền thoại như: chiến thắng Như Nguyệt, Bạch Đằng, Hàm Tử, Tốt Động, Chúc
Động, Chi Lăng, Xương Giang, Rạch Gầm, Soài Mút, Ngọc Hồi, Đống Đa... đã vẽ
lên bức tranh hoành tráng sinh động và rực rỡ về tài thao lược của ông cha ta trong
tinh hoa nghệ thuật quân sự, tạo nên sức mạnh để đánh địch và thắng địch bằng chiến
tranh nhân dân.

Phát huy truyền thống đó, trong thời đại Hồ Chí Minh ta có chiến thắng Điện Biên
Phủ lừng lẫy địa cầu và đến chiến cuộc mùa Xuân 1975 với chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử toàn thắng, là những biểu hiện đặc sắc nhất tài năng sáng tạo của Đảng ta và
nhân dân ta trong nghệ thuật lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh để giành thắng lợi. Nghệ
thuật đó thể hiện sâu sắc tính kế thừa truyền thống dân tộc, vừa đậm nét tính thời đại
với ba đòn chiến lược tài tình.
Vào giai đoạn cuối cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc, thực hiện mệnh lệnh
chiến lược của Hồ Chủ tịch trước khi Người đi xa là: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho
ngụy nhào”. Từ những chiến thắng kế tiếp chiến thắng ta đã đánh cho Mỹ cút. Nhưng
tập đoàn tay sai cùng với âm mưu xâm lược của Mỹ vẫn còn đó. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, ta đã thực hiện thành công cách đánh chiến lược được đề ra trong suốt
cuộc kháng chiến là: đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới đánh đổ hoàn
toàn quân địch. Nhờ có nghệ thuật chỉ đạo chỉ huy tài giỏi, tạo thế, tạo lực, tạo thời
cơ, phát hiện sớm và nhạy bén nắm bắt thời cơ, hạ quyết tâm chính xác, kịp thời, sử
dụng nghệ thuật mưu kế trên nền tảng chiến tranh nhân dân, phát triển tiến công táo
bạo và thần tốc, đánh địch bất ngờ và liên tục, nên chiến cuộc mùa Xuân 1975 đã
giành được thắng lợi hoàn toàn trong thời gian ngắn bằng ba đòn chiến lược: Tây
Nguyên, Huế-Đà Nẵng, Sài Gòn. Đó là nghệ thuật sử dụng lực lượng khôn khéo để
luôn đánh địch trên thế mạnh, tạo nên sức mạnh áp đảo quân địch trong chiến đấu,
thực hiện những chiến dịch đánh tiêu diệt lớn bằng các đòn chiến lược, buộc địch từ
chỗ bị đánh bất ngờ đến bị động lúng túng phải co cụm chiến lược rồi rút lui chiến
lược mà dẫn đến sự tan rã và bị thất bại hoàn toàn, thực hiện trọn vẹn tiêu chí của Hồ
Chủ tịch là: “Đánh cho ngụy nhào”.
Với 60 ngày đêm cuối cùng của cuộc kháng chiến trường kỳ 30 năm, chúng ta đã tập
trung toàn bộ sức lực, trí tuệ của cả một dân tộc, đấu mưu đấu trí một cách quyết liệt
nhất để đi đến giành thắng lợi trọn vẹn.
Mưu kế lập ra “hình trận” và “thế trận”, tạo ra “thời cơ” làm cho địch nhiều mà hóa
ít. Mở đầu chiến cuộc mùa Xuân 1975 mưu kế chiến lược của ta đã tạo ra một hình
trận chiến lược rất đẹp là ghìm địch ở hai đầu Nam Bắc chiến tuyến ở Sài Gòn và
Huế-Đà Nẵng, bằng cách áp sát của các quân đoàn chủ lực của ta (Quân đoàn 1 ở bờ

Bắc sông Bến Hải, Quân đoàn 2 ở Tây Huế và Quân đoàn 4 ở Đông Bắc Sài Gòn)


vào gần các khu vực trọng yếu đó, buộc địch phải tập trung cả hai sư đoàn tổng dự bị
chiến lược vào giữ Sài Gòn và Huế-Đà Nẵng, để sơ hở ở quãng giữa là Tây Nguyên.
Hình trận này đã tạo ra thế trận có lợi cho mặt trận Tây Nguyên. Đặt Quân đoàn 1,
Quân đoàn 2 ở phía Bắc chiến tuyến và Quân đoàn 4 ở phía Nam chiến tuyến là cách
nghi binh chiến lược cho Tây Nguyên. Khi địch đã bị giữ chặt ở Huế và Sài Gòn thì
ta mở cuộc tiến công lớn ở Tây Nguyên là nơi địch sơ hở và công phá vào Buôn Ma
Thuột lại là nơi hiểm yếu của khâu yếu nhất trong hệ thống phòng ngự của địch. Mưu
kế chiến lược tiếp theo là bí mật đưa hai sư đoàn nữa lên Tây Nguyên là mưu kế hay
của ta, của Bộ Thống soái mà trực tiếp là Đại tướng Võ Nguyên Giáp Tổng Tư lệnhngười đã có kinh nghiệm tác chiến lớn, người có trình độ chỉ huy các chiến dịch lớn,
người có tri thức chỉ huy tác chiến binh chủng hợp thành. Hai sư đoàn bất ngờ tăng
thêm cho Tây Nguyên đó là cái nút trong mưu kế chiến lược. Do bất ngờ đột ngột
tăng cho Tây Nguyên hai sư đoàn nữa mà địch không hay biết, không kịp đối phó. Và
nhất là khi xe tăng của Sư đoàn 316 cán xích trên đường phố Buôn Ma Thuột thì mọi
chuyện đối với địch là đã quá muộn. Hai sư đoàn đó là Sư đoàn 316 và Sư đoàn 968
thành ra tại thời điểm đó ở Tây Nguyên có 4 sư đoàn và một số trung đoàn độc lập
cùng các binh chủng chiến đấu hùng mạnh, được phối hợp với Sư đoàn 3 Sao Vàng
Quân khu 5 đã tạo nên quả đấm thép làm cho lực lượng ta vượt trội hơn địch. Ở Tây
Nguyên, quân ta từ một lực lượng chiến dịch bỗng trở thành một lực lượng chiến
lược. Quả đấm thép đó đã đủ sức mạnh đánh ghìm địch ở Plây-Cu; cắt Đường 19 và
Đường 14; phá vỡ Buôn Ma Thuột và chủ động đánh bại phản kích của Sư đoàn 23
ngụy Sài Gòn, làm nên đột biến về chiến tranh. Hai sư đoàn và thời cơ tăng thêm cho
Tây Nguyên là cái nút trong mưu kế chiến lược đánh bại địch trong chiến cuộc mùa
Xuân năm 1975. Địa điểm và thời cơ sử dụng hai sư đoàn này là “chữ thời” về tài
năng và trí tuệ trong nghệ thuật chỉ huy.
Ở Tây Nguyên thế trận của ta là phá vỡ chỗ yếu: Buôn Ma Thuột của địch, để từ trên
cao phát triển xuống đồng bằng. Mưu kế đó là: nghi binh thu hút, ghìm địch ở đầu
mạnh, để tiến công phá vỡ địch ở đầu yếu. Mưu kế chiến dịch là đánh nghi binh ở

phía Bắc: ở Plây-cu; tập trung sức mạnh ở phía Nam; ở Buôn Ma Thuột, thực hành
đột phá đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột. Hình trận chiến dịch ở Tây Nguyên còn
được thể hiện trong việc sử dụng “chính-kỳ”. Ở giai đoạn đầu được xác định như sau:
Sư đoàn 968 được sử dụng có tính chất như một mũi chính binh, nhưng thực chất lại
là đánh nghi binh để kẻ địch tưởng rằng ta sẽ tiến công Plây-cu; còn Sư đoàn 316, các
Trung đoàn 24, 95B và các binh chủng là chính binh đánh thẳng vào thị xã Buôn Ma
Thuột nhưng được sử dụng một cách bí mật làm kẻ địch bị bất ngờ nên có tính chất
như một tập đoàn kỳ binh. Nhưng sau đó khi thế trận đã bắt đầu chuyển hóa thì
“chính”, “kỳ” cũng biến hóa theo một cách linh hoạt. Dùng lực lượng tương đối lớn
(Sư đoàn 968) đánh nghi binh lừa địch ở phía Bắc trước hết nhằm vào Plây-cu làm
cho địch tin rằng ta sẽ mở chiến dịch ở Bắc Tây Nguyên. Đó là nghệ thuật nghi binh
thần kỳ. Trong khi đó các đơn vị chủ lực bí mật di chuyển xuống Nam Tây Nguyên
(Sư đoàn 10 tiến về Đức Lập, Sư đoàn 320 đứng chân ở Tây Cẩm Ga). Sư đoàn 316
tiến vào Buôn Ma Thuột, tiếp đến Sư đoàn 3 Sao Vàng Quân khu 5 và Trung đoàn
95A đánh cắt Đường 19, Sư đoàn 320 đánh cắt Đường 14, Trung đoàn 25 cắt Đường
21, tạo ra thế trận chia cắt địch về chiến lược và chiến dịch, làm cho các cụm quân


địch bị cô lập, tách rời nhau, không chi viện được cho nhau, tạo thế trận cho Nam
Tây Nguyên tập trung đòn đánh vào Buôn Ma Thuột được thuận lợi; nhờ đó các mũi
đánh chính kết hợp với mũi thọc sâu, vu hồi đã đánh bại địch một cách nhanh chóng,
chiếm được thị xã Buôn Ma Thuột, hoàn thành trận then chốt thứ nhất. Hình trận bao
giờ cũng cần có lực lượng dự bị - đội dự bị để sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống.
Sau khi giải phóng Buôn Ma Thuột ta đã linh hoạt, chủ động sử dụng ngay Sư đoàn
10 về làm đội dự bị để sẵn sàng đánh địch phản kích. Sư đoàn 10 sau khi đánh Đức
Lập xong, chuyển về Buôn Ma Thuột vừa bố trí đón lõng đánh địch ở nơi ta dự kiến
chúng sẽ đổ quân, vừa tiến công trong hành tiến nên đã đánh bại phản đột kích của
Sư đoàn 23 ngụy hòng ứng cứu chiếm lại Buôn Ma Thuột, làm nên chiến thắng trong
trận then chốt thứ hai.
Hai trận then chốt này đã tạo thành trận then chốt quyết định là giải phóng Buôn Ma

Thuột một cách chắc chắn, địch không còn khả năng chiếm lại. Sau khi mất Buôn Ma
Thuột và Sư đoàn 23 phản kích bị đánh bại, tất cả các thủ đoạn tác chiến, các hình
thức chiến thuật của địch bị đánh bại ở Tây Nguyên, gây ra một sự đột biến về chiến
dịch, tác động lớn đến chiến lược của địch, làm hoảng loạn về tư tưởng và thế bố trí
chiến lược của địch; buộc địch phải rút lui để co cụm phòng ngự. Tổng thống ngụy
Nguyễn Văn Thiệu liền ra lệnh rút chạy khỏi Tây Nguyên. Do đó, tuy ta không đánh
Plây-cu và KonTum nhưng hai tỉnh lỵ đó cũng được giải phóng. Khi quân địch rút
chạy liền bị quân ta truy kích và đã bị tiêu diệt hoàn toàn; phản ứng dây chuyền đó
tạo ra đột biến về chiến dịch; chiến dịch đã thắng lợi lại càng thắng lợi hơn, thắng lợi
một cách đột ngột, rất nhanh, tạo ra đột biến về chiến tranh.
Chiến thắng của chiến dịch Tây Nguyên là khởi điểm dẫn đến sự tan rã và suy sụp về
chiến lược của địch, đồng thời đã cổ vũ, động viên rất mạnh mẽ khí thế của quân và
dân ta ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương, càng củng cố quyết tâm chiến đấu, lòng
tin vào thắng lợi cuối cùng và tạo đà cho quân và dân ta những điều kiện thuận lợi để
chuyển sang chiến dịch gối đầu Huế-Đà Nẵng và cuộc quyết chiến chiến lược: chiến
dịch Hồ Chí Minh.
Thế trận chiến lược phát triển đã tạo ra thời cơ chiến lược. Trong khi chiến dịch Tây
Nguyên đang trên đà thắng lớn, chiến dịch Huế-Đà Nẵng lập tức được gối đầu, đến
khi chiến dịch Tây Nguyên vừa kết thúc thắng lợi thì chiến dịch Huế-Đà Nẵng đã
hoàn thành bước một (giải phóng Thừa Thiên-Huế). Đến khi chiến dịch Huế-Đà
Năng vừa kết thúc ta đã dồn được toàn lực vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng:
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Đó là thời cơ chiến lược. Trên đà chiến thắng, các
binh đoàn chủ lực của ta hành tiến với khí thế “Thần tốc, táo bạo, quyết thắng”. Sau
khi đập tan tuyến phòng ngự từ xa Phan Rang, cùng với việc giải phóng Bình Thuận,
Ninh Thuận, quần đảo Trường Sa, địch bị tan vỡ từng mảng trong từng ngày một
cách nhanh chóng và đột ngột. Chỉ huy địch rối loạn, chiến lược của chúng chuyển
sang bị động đối phó và rút lui.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ngày càng quyết liệt. Chiến dịch
Hồ Chí Minh bắt đầu, 17 giờ ngày 26.4.1975: năm cánh quân của ta gồm 4 quân đoàn
chủ lực và Đoàn 232 trong thế bao vây Sài Gòn, từ vị trí xuất phát tiến công được

lệnh vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài tiến thẳng vào trung tâm Sài Gòn. Với sức


mạnh của 15 sư đoàn và mũi thọc sâu của lữ đoàn xe tăng, 10 giờ 45 phút ngày
30.4.1975 xe tăng và xe bọc thép của ta tổ chức thành cụm cơ động thọc sâu đã tiến
thẳng vào dinh Độc Lập, bắt sống toàn bộ Bộ thống soái ngụy Sài Gòn, giành toàn
thắng.
Chiến cuộc mùa Xuân năm 1975, điểm hội tụ những sáng tạo của nền nghệ thuật
quân sự Việt Nam, khẳng định sự đúng đắn về sự lãnh đạo tài tình của Đảng ta; về
sức mạnh của chiến tranh nhân dân; về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh; về phát huy
nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc để chống lại mọi cuộc chiến tranh xâm
lược là “dĩ đoản chế trường”; “thế thắng lực”; “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”
vận dụng thế thời một cách tài tình, sáng tạo.
Trong chiến dịch Tây Nguyên và trận đánh Buôn Ma Thuột có mấy điểm hay nổi bật
về mưu kế như sau: Hai điểm hay về mưu kế chiến lược: Một là, hình trận chiến lược
căng địch ra hai đầu Nam Bắc chiến tuyến để hở quãng giữa Tây Nguyên. Hai là, đột
ngột tăng cường cho Tây Nguyên hai sư đoàn. Và hai điểm hay về mưu kế chiến
dịch: Một là, dùng một sư đoàn để đánh nghi binh và hai là, gạn lọc tình huống để
một sư đoàn đánh cắt đường bộ và chủđộng dùng một sư đoàn tinh nhuệ sẵn sàng đón
đánh địch phản kích bằng đổ bộ đường không. Các mưu kế đều nhằm xây dựng hình
trận, tạo ra thế trận và tranh thủ thời cơ để đánh đòn quyết định.
Cuộc kháng chiến trường kỳ 30 năm của dân tộc ta đã đánh thắng hai đế quốc to là
Pháp và Mỹ mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu và Chiến
dịch Hồ Chí Minh toàn thắng; đưa đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập, thống nhất, kiến thiến đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội. Những
chiến thắng vẻ vang đó mãi mãi sẽ là những bài học rất quý báu cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc của các thế hệ chúng ta ngày nay và mai sau.
Ngày nay, chiến tranh hiện đại thường sẽ là chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao.
Để bảo vệ Tổ quốc, muốn đánh bại được cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ khí công
nghệ cao của địch. chiến lược bảo vệ Tổ quốc của ta vẫn phải là chiến tranh nhân dân

ba thứ quân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Muốn vậy ta phải
có trang bị vũ khí, có công cụ, có tinh thần thì mới chiến đấu được. Ta không có đủ
sức mạnh về không quân thì phải kết hợp với sức mạnh của tên lửa phòng không,
súng pháo phòng không để chống lại hỏa lực đường không của địch; phải có vũ khí
chống tăng và vũ khí đánh máy bay lên thẳng cùng với quân đổ bộ của địch. Chiến
đấu đánh địch ở trên bộ cũng quan trọng như đánh địch ở trên không. Phải đánh
mạnh, đánh đau thì mới đánh bại được ý chí xâm lược của địch.
Chiến tranh nhân dân là cốt lõi của học thuyết quân sự Việt Nam, là sử dụng nghệ
thuật “dĩ đoản, chế trường”, “thế thắng lực”, “lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn”.
Vẫn phải là đánh địch bằng mưu kế có hình trận và thế trận, nghi binh lừa địch, có
“chính-kỳ”; có tạo thế-tạo lực-tạo thời cơ, có dám đánh và quyết đánh thì mới tìm ra
cách đánh để đi đến thắng lợi. Ta có kém địch về vũ khí thì phải vận dụng phương
châm lấy hiện đại là chính kết hợp với một nửa hiện đại và thô sơ và có một ít vũ khí
công nghệ cao để đánh lại hiện đại tinh xảo. Tinh thần ý chí chiến đấu của toàn dân,


toàn quân dưới sự lãnh đạo của Đảng, tài thao lược và trí tuệ tinh hoa sáng tạo của
nghệ thuật quân sự Việt Nam vẫn là nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi.
IV. ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN 1975 - KHẲNG ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI QUÂN SỰ
ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG VÀ MẤY VẤN ĐỀ VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN
NAY
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là chiến dịch
Hồ Chí Minh của quân và dân ta đã kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước vĩ đại. Với thắng lợi đó, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã hoàn
thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, mở ra một bước
ngoặt mới trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Đã 41 năm trôi qua, kể từ ngày "30-4" lịch sử, nhưng ký ức và niềm tự hào về chiến
thắng hào hùng, oanh liệt đó vẫn và sẽ mãi mãi còn nguyên vẹn trong mỗi chúng ta.
Đặc biệt, những bài học kinh nghiệm quý báu được đúc rút qua cuộc kháng chiến vĩ

đại là tài sản vô giá của dân tộc và trách nhiệm của chúng ta hôm nay là tiếp tục
nghiên cứu, vận dụng, phát huy vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa (XHCN) trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) đất nước, tăng cường hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
sâu rộng.
Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV của Đảng (năm 1976) đã khẳng định: "Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của
cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng ta"1. Và: "trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự
độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng" 2. Phát biểu tại Hội nghị Trung ương
lần thứ 25 (khóa III), Bí thư thứ Nhất Lê Duẩn cũng đã nhấn mạnh: "Để thắng Mỹ,
không những phải có đường lối chính trị đúng mà còn phải có đường lối quân sự
đúng"3.
Đường lối quân sự của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được
hình thành trên cơ sở nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về chiến tranh
cách mạng, về xây dựng lực lượng cách mạng và tổ chức quân đội cách mạng... kết
hợp với truyền thống quân sự quý báu của dân tộc vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ
thể của cách mạng Việt Nam. Đường lối đó có sự kế thừa kinh nghiệm của cuộc
kháng chiến chống Pháp, được bổ sung, phát triển và hoàn thiện từng bước trong quá
trình chiến tranh. Là một bộ phận của đường lối cách mạng, nên đường lối quân sự
không đơn thuần chỉ gồm những quan điểm, tư tưởng quân sự, chủ trương, giải pháp
trong lĩnh vực quân sự, trong đấu tranh vũ trang, mà nội hàm của nó rộng lớn hơn,
luôn gắn chặt với phương pháp cách mạng, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, các vấn đề
về chiến lược, sách lược để huy động cho được sức mạnh tổng hợp của cả nước, của
toàn dân nhằm hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: đánh thắng đế quốc
Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên
CNXH.



Để giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã tiến hành
chiến tranh nhân dân với những nội dung và hình thức hết sức phong phú, sáng tạo.
Bao trùm nhất của đường lối là tiến hành chiến tranh nhân dân trên cả hai miền Nam
- Bắc; kết hợp tiến công ở miền Nam với bảo vệ miền Bắc, đánh thắng chiến tranh
phá hoại của Mỹ ở miền Bắc với tăng cường sức mạnh mọi mặt cho miền Nam, phối
hợp chặt chẽ giữa các chiến trường Nam, Bắc nước ta với chiến trường hai nước bạn
Lào và Cam-pu-chia. Thực hiện chiến tranh nhân dân, Đảng ta đã động viên, tổ chức
toàn dân tiến hành chiến tranh với hai lực lượng cơ bản là lực lượng quân sự và lực
lượng chính trị, hai hình thức đấu tranh cơ bản là đấu tranh quân sự và đấu tranh
chính trị, chiến tranh cách mạng và khởi nghĩa của quần chúng, tiến công với nổi dậy,
làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ...
Tư tưởng nhất quán của đường lối quân sự trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là
tư tưởng chiến lược tiến công. Thực hành tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược
(rừng núi, nông thôn đồng bằng, thành thị) với phương pháp đánh địch và hình thức
đấu tranh thích hợp ở mỗi vùng, trong từng thời gian. Nắm vững tư tưởng chiến lược
tiến công, thực hành tiến công địch một cách toàn diện, liên tục, đều khắp, từ nhỏ đến
lớn, từ thấp đến cao, từ bộ phận đến toàn cục, phát triển tuần tự, xen kẽ với những
bước nhảy vọt, đánh bại các chiến lược, các bước leo thang mở rộng chiến tranh của
đế quốc Mỹ. Với việc thực hiện triệt để tư tưởng chiến lược tiến công, chúng ta đã
luôn nắm quyền chủ động về chiến lược, chiến dịch, có điều kiện để thực hiện từng
bước chuyển hóa thế trận, so sánh lực lượng ta - địch, thay đổi cục diện chiến trường
theo hướng có lợi, tạo và nắm chắc thời cơ tiến lên tổng tiến công và nổi dậy giành
thắng lợi quyết định, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn nhất, có lợi nhất.
Phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân là
nội dung cơ bản, biểu hiện tập trung nhất của đường lối quân sự, được thể hiện rõ
trong kháng chiến chống Mỹ. Đó là phương thức kết hợp chặt chẽ chiến tranh chính
quy của bộ đội chủ lực với chiến tranh nhân dân địa phương, do lực lượng vũ trang
(LLVT) địa phương làm nòng cốt; kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự của LLVT
ba thứ quân với nổi dậy giành quyền làm chủ của lực lượng chính trị quần chúng. Với
phương thức đó, ta đã phát huy được sức mạnh lớn nhất của toàn dân, vai trò thế

mạnh của mỗi LLVT, thực hiện đánh địch ở các quy mô: đánh lớn, đánh vừa, đánh
nhỏ đan xen; vận dụng các hình thức tác chiến: phòng ngự, phản công, tiến công, lấy
tiến công là chủ yếu. Để thực hiện phương thức trên ở quy mô ngày càng lớn, trình
độ ngày càng cao, Đảng ta coi trọng xây dựng cả lực lượng quân sự và lực lượng
chính trị, LLVT ba thứ quân (bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân
quân, tự vệ), trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của bộ đội chủ lực. Cũng vì thế,
với sự dày công xây dựng, trong những năm cuối của cuộc chiến tranh (1973, 1974),
ta đã tổ chức được nhiều binh đoàn chủ lực với các thành phần binh chủng kỹ thuật
hiện đại, có đủ khả năng tiến hành những chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng
quy mô lớn. Các binh đoàn chủ lực không ngừng phát triển lớn mạnh cả về quy mô tổ
chức biên chế lực lượng và trang bị trong quá trình chiến đấu và là một trong những
cơ sở quan trọng để Đảng ta hạ quyết tâm chiến lược: mở cuộc Tổng tiến công chiến
lược mùa Xuân 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nghệ
thuật quân sự của chiến tranh nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước


rất đặc sắc, đầy sức sáng tạo, có sự kế thừa nghệ thuật quân sự truyền thống của dân
tộc. Đó là nghệ thuật tổ chức toàn dân đánh giặc, với LLVT ba thứ quân làm nòng
cốt; nghệ thuật huy động sức mạnh tổng hợp lớn nhất của cả nước cho chiến tranh;
nghệ thuật đánh địch bằng mưu cao, kế hiểm, thế trận vững chắc; nghệ thuật sử dụng
lực lượng, tạo lập và chuyển hóa thế trận, lựa chọn địa bàn, mục tiêu, thời điểm tác
chiến; nghệ thuật tiến công để giành quyền làm chủ, làm chủ để tiến công; nghệ thuật
vận dụng thời gian, không gian trong chiến tranh... Nghệ thuật quân sự của chiến
tranh nhân dân được thể hiện ở các cấp độ quy mô khác nhau, trong tất cả các hình
thức tác chiến, với nội dung hết sức phong phú, sinh động, phù hợp với quy luật vận
động, phát triển của chiến tranh.
Thực tiễn sinh động của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại suốt mấy
chục năm của nhân dân ta, mà tâm điểm là những thắng lợi to lớn, đặc biệt là Đại
thắng mùa Xuân năm 1975 đã khẳng định đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo,
độc lập, tự chủ của Đảng ta. Đường lối đó đang có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong

công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, nhất là trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng,
bảo vệ Tổ quốc.
Tình hình thế giới, khu vực hiện cho thấy, mặc dù xu thế chủ đạo là hòa bình, hợp
tác, phát triển, nhưng bên cạnh đó cũng đang có những diễn biến hết sức phức tạp,
tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung
đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, ly khai, hoạt động
khủng bố, tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với
tính chất ngày càng phức tạp. Đối với nước ta, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh
các hoạt động chống phá bằng chiến lược "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ.
Chúng tăng cường mở rộng sự phối hợp lực lượng phản động trong và ngoài nước,
lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình đổi mới đất nước và những khó
khăn, thách thức trong tiến trình hợp tác, hội nhập kinh tế của ta để chống phá toàn
diện trên các lĩnh vực, nhằm thúc đẩy "tự diễn biến", gây mất ổn định chính trị, tạo cớ
can thiệp dưới các hình thức.
Trong bối cảnh tình hình trên, hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và CNXH, tiếp tục đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hai nhiệm vụ đó có mối
quan hệ biện chứng, tác động thúc đẩy lẫn nhau. Thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng
đất nước sẽ tạo nguồn lực vật chất, tinh thần to lớn, làm cơ sở, nền tảng vững chắc
cho bảo vệ Tổ quốc; tương tự như vậy, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc sẽ
bảo đảm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho xây dựng, phát
triển đất nước nhanh và bền vững. Vì thế, xây dựng đất nước phải được thực hiện
đồng thời và gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc, tuyệt đối không được coi nhẹ nhiệm vụ
nào.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong tình hình
mới rất nặng nề, yêu cầu cao. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược này, vấn đề
quan trọng hàng đầu là, phải nắm vững tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc của Đảng, trên
cơ sở đó có giải pháp phù hợp với tình hình chung và điều kiện cụ thể của đất nước.



Phải nhận thức rõ: bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới không đơn thuần là bảo vệ
vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, mà còn phải gắn chặt với bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo
vệ nền văn hóa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới và lợi ích quốc gia dân tộc. Do đó, yêu cầu
đặt ra là, phải phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ
thống chính trị; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; kết hợp chặt chẽ
kinh tế-xã hội với quốc phòng-an ninh, kết hợp quốc phòng với an ninh và đối ngoại.
Tăng cường quốc phòng-an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc là sự nghiệp trọng đại
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong đó LLVT nhân dân giữ vai trò nòng cốt.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của chúng ta hiện nay có những thuận lợi rất cơ bản, đó là
sau 20 năm đổi mới, tiềm lực mọi mặt của đất nước được tăng cường, vị thế quốc tế
của nước ta được nâng cao; Đảng ta có bản lĩnh chính trị vững vàng, dày dạn kinh
nghiệm; nhân dân ta có truyền thống cách mạng, một lòng tin tưởng vào Đảng và chế
độ; LLVT vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Nhưng
cũng cần thấy, bên cạnh đó có không ít khó khăn, thách thức, trong đó thách thức lớn
nhất là các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa
bình”, gia tăng các hoạt động chống phá cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, với những thủ đoạn mới rất nguy hiểm. Vì thế, chúng ta phải
thường xuyên cảnh giác, tích cực, chủ động và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu, hành động chống phá của địch trên cả lĩnh vực kinh tế, chính trị-tư tưởng,
quốc phòng-an ninh, văn hóa, lối sống... Đặc biệt, trong quá trình tham gia hội nhập
kinh tế quốc tế, ta cần phải tỉnh táo, phân biệt rõ đối tác với đối tượng, kết hợp linh
hoạt hợp tác với đấu tranh, phải giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, bình đẳng, cùng
có lợi trong xử lý các mối quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là với những vấn đề nhạy
cảm, phức tạp. Đồng thời, đề phòng kẻ địch sử dụng những thủ đoạn thâm độc như
thông qua hợp tác kinh tế để "mặc cả" về chính trị, hoặc lợi dụng những khó khăn, sơ
hở của ta trong lộ trình thực hiện cam kết với các thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới để chống phá.
Trên cơ sở quán triệt đường lối, quan điểm quân sự, quốc phòng của Đảng, nhất là

các Nghị quyết Đại hội IX, X, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về chiến lược bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới, tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân và
nền an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện, ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đó phải là một nền quốc phòng mang
tính nhân dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, quản lý
thống nhất của Nhà nước. Với những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đẩy mạnh
CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, có thể khẳng định rằng,
nền quốc phòng mà chúng ta xây dựng sẽ ngày càng hiện đại, khai thác tốt mọi nguồn
lực, tiềm lực của đất nước cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trong
quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải coi trọng xây dựng lực lượng, thế
trận quốc phòng toàn dân gắn với lực lượng, thế trận an ninh nhân dân; phải kết hợp
chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, kết hợp quốc phòng với an ninh và đối ngoại. Sự
gắn kết thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân biểu hiện ở sự đan
xen nhau trong triển khai tổ chức, bố trí lực lượng và phối hợp hoạt động của hai lực
lượng. Việc bố trí thế trận đó phải bảo đảm sử dụng được nhân lực, vật lực của cả


quốc phòng và an ninh một cách hợp lý nhất trên địa bàn cả nước, từng khu vực, mỗi
địa phương, mỗi ngành trong mọi tình huống. Đồng thời, phải coi trọng xây dựng khu
vực phòng thủ tỉnh (thành phố), xây dựng căn cứ hậu phương các cấp, xây dựng các
công trình quốc phòng, quan tâm đúng mức đến công tác phòng thủ dân sự...
Tiếp tục xây dựng LLVT nhân dân, trước hết là quân đội nhân dân và công an nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự xứng đáng là lực
lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, và nhân dân; là lực
lượng nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng-an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đối
với quân đội nhân dân, phải chăm lo xây dựng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Tập trung đầu tư và
phát triển công nghiệp quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị,
nhằm nâng cao khả năng sản xuất và bảo đảm vũ khí trang bị cho LLVT, cho quân
đội, nhất là đối với các quân chủng, binh chủng kỹ thuật, những đơn vị làm nhiệm vụ

sẵn sàng chiến đấu. Trong quá trình xây dựng quân đội, phải coi trọng cả lực lượng
thường trực và dự bị động viên, phấn đấu từng bước rút ngắn khoảng cách về trình độ
mọi mặt, nhất là khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của lực lượng dự bị động
viên so với lực lượng thường trực.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quyết tâm, nỗ lực của toàn dân, toàn quân, cùng với
việc phát huy truyền thống vẻ vang và những kinh nghiệm quý báu thu được trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tin
tưởng rằng chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN trong thời kỳ mới.
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG THẾ TRẬN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN
TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân là một nội dung quan trọng của sự
nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
hiện nay. Yêu cầu cơ bản của nền quốc phòng toàn dân là phải xây dựng cả lực lượng
và thế trận, đáp ứng mọi yêu cầu của phương thức đấu tranh vũ trang và phi vũ trang
trong điều kiện mới. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân là xây dựng toàn bộ các
nội dung cấu thành thế trận trên phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, cơ sở.
Bài viết này đề cập đến một số vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải kết hợp chặt chẽ với thế
trận an ninh nhân dân trong thế trận chung bảo vệ Tổ quốc.
Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học - công nghệ, xu thế toàn cầu hoá
kinh tế và những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị, quân sự trên thế giới hiện
nay đã đặt ra những thách thức rất mới đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân
dân ta. Đồng thời, điều đó làm cho quốc phòng và an ninh ngày càng trở thành những
vấn đề không thể tách rời nhau; trong nhiệm vụ quốc phòng có an ninh, trong nhiệm
vụ an ninh có quốc phòng; khái niệm quốc phòng và khái niệm an ninh được mở rộng
và toàn diện hơn. Sự thâm nhập và xen lồng lẫn nhau giữa nhiệm vụ quốc phòng và
nhiệm vụ an ninh càng làm cho việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải gắn kết
với xây dựng nền an ninh nhân dân. Sự kết hợp giữa quốc phòng với an ninh trên cả



thế trận và lực lượng là phù hợp với yêu cầu xây dựng quốc phòng trong xu thế toàn
cầu hoá kính tế đang phát triển. Đó là sự gắn kết giữa hai lĩnh vực cơ bản trong cùng
mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu khách quan, là đòi hỏi tất
yếu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế và sự chống
phá quyết liệt của các thế lực thù địch, nhất là chiến lược “diễn biến hoà bình” của
chúng.
Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân kết
hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân”. Đến Đại hội IX, Đảng ta đề cập một
cách cụ thể việc kết hợp lực lượng và thế trận của nền quốc phòng toàn dân với nền
an ninh nhân dân trong thế trận và lực lượng chung hợp thành sức mạnh bảo vệ Tổ
quốc, phản ánh sâu sắc mối quan hệ chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh của sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới.
Tại Hội nghị BCHTW lần thứ 8, Khoá IX, Đảng ta nhấn mạnh: “Củng cố và hoàn
thiện nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh, thành phố, đặc biệt là trên
các địa bàn chiến lược; xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc”. Quan điểm xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân
khắc phục những biểu hiện tách rời nhiệm vụ quốc phòng và nhiệm vụ an ninh cả về
mặt nhận thức cũng như trong chỉ đạo thực tiễn và tổ chức xây dựng.
Không thể đơn giản cho rằng quốc phòng chỉ hướng vào chống xâm lược của kẻ thù
bên ngoài, an ninh là để giữ gìn ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trong nước;
mà hai lĩnh vực này cần phải kết hợp chặt chẽ với nhau cả về lực lượng và thế trận.
Thế trận bảo vệ Tổ quốc là sự thống nhất và kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa thế trận
quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và các hoạt động đối ngoại nâng cao
vị thế đất nước trên trường quốc tế, bảo đảm "trong ấm ngoài êm". Vấn đề kết hợp
chiến lược quốc phòng với chiến lược an ninh trên cả phương diện tổ chức lực lượng,
xây dựng thế trận, cả phương diện hoạt động thực tiễn cần phải được cụ thể hoá bằng
những chủ trương, chính sách cụ thể. Thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an
ninh nhân dân vừa phải bảo đảm sử dụng có hiệu quả mọi lực lượng, cả vật chất và

tinh thần, cả con người và trang bị, nhằm hoàn thành thắng lợi những yêu cầu của
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; vừa phải phù hợp với tính chất đặc thù của từng lĩnh vực
hoạt động cụ thể. Lực lượng của nền quốc phòng toàn dân cũng như lực lượng của
nền an ninh nhân dân bao gồm toàn bộ lực lượng vật chất, tinh thần của quốc gia,
trong đó quân đội nhân dân và công an nhân dân đóng vai trò nòng cốt. Vai trò nòng
cốt của quân đội không chỉ biểu hiện ở việc trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng, chống mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch; mà
còn thể hiện ở việc tuyên truyền, vận động, hướng dẫn và giúp đỡ các tầng lớp nhân
dân thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc là một nội
dung chủ yếu trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
Theo quan điểm của Đảng, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là một nội
dung quan trọng và là cơ sở của việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế


trận an ninh nhân dân của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Quán triệt quan điểm
quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân của Đảng, Chính phủ đã ban hành các
chỉ thị như: Chỉ thị 56/CT ngày 11/3/1989, Chỉ thị 245/HĐBT (nay là Chính phủ) về
xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc;
Chỉ thị 58/TTg ngày 15/2/1993 của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 610/TTg ngày
22/12/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác
quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Các chỉ thị này của Chính phủ đã cụ thể
hoá vấn đề xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) bao gồm đầy đủ các nội
dung, yêu cầu và biện pháp xây dựng, cả về cơ chế quản lý, điều hành và hoạt động
trong xây dựng khu vực phòng thủ.
Hội nghị BCHTW lần thứ 8, Khoá IX của Đảng chỉ rõ: “Củng cố và hoàn thiện nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân gắn với trế
trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh, thành phố, đặc biệt là trên địa bàn chiến
lược; xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc”. Tư tưởng trên đây của Đảng
chẳng những nói lên sự cần thiết, tầm quan trọng của việc xây dựng khu vực phòng

thủ tỉnh, thành phố trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân; mà còn chỉ ra
những nội dung cụ thể về xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố ở nước ta
nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh lịch sử mới.
Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) là đơn vị tổ chức về quốc phòng - an ninh theo
địa bàn hành chính của tỉnh (thành phố) ở Việt Nam; tạo thành thế trận quốc phòng
an ninh cả nước. Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) được xây dựng vững mạnh về
mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự, an ninh, dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của cấp
tỉnh (thành phố) tạo thành sức mạnh tổng hợp, tập trung chủ yếu vào những khu vực
phòng thủ then chốt để phòng thủ địa phương, chống âm mưu, hành động phá hoại và
xâm lược của kẻ thù. Khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) giữ vị trí chiến lược quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Như vậy, vấn đề xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ
quốc. Đây là nét mới trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân của nước ta trong
xây dựng thế trận quốc phòng. Xây dựng khu vực phòng thủ là xây dựng tỉnh (thành
phố) vững mạnh không chỉ về quốc phòng, an ninh mà còn cả về chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hoá. Khu vực phòng thủ vừa phải bảo đảm được yêu cầu bảo vệ và tác chiến
trên địa bàn toàn tỉnh (thành phố), vừa nằm trong thế trận liên hoàn phòng thủ quốc
gia, góp phần củng cố sự vững chắc của thế trận quốc phòng toàn dân của đất nước,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Thứ ba, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội là yêu cầu quan trọng của việc xây
dựng thế trận quốc phòng toàn dân.
Trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, việc xây dựng cơ sở chính trị - xã hội
có tầm quan trong to lớn. Không thể có thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc nếu
như không xây dựng được cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân thực
sự vững mạnh. Đảng ta đã sớm nhận thức đúng đắn và quan tâm đúng mức đến việc
xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân. Đại hội IX của Đảng


nhấn mạnh: "Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, thế trận quốc phòng toàn dân và an

ninh nhân dân; coi trọng xây dựng thế trận trên các địa bàn chiến lược trọng yếu; xây
dựng lực lượng dân quân, tự vệ và công an, bảo vệ cơ sở".
Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân đòi hỏi phải tạo dựng
được “thế trận lòng dân” thực sự vững chắc. Đồng thời, một nền quốc phòng toàn
dân, toàn diện vì mục đích chính nghĩa bảo vệ đất nước, bảo vệ cuộc sống yên bình
và hạnh phúc của mọi tầng lớp nhân dân, tự bản thân nó đã có sức quy tụ lòng người,
quy tụ mọi lực lượng vật chất - tinh thần tạo nên sức mạnh to lớn. Đó là mối quan hệ
biện chứng, tác động lẫn nhau giữa “thế trận lòng dân” và thế trận quốc phòng toàn
dân của nước ta. Theo tinh thần phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư tại Hội nghị
BCHTW lần thứ 8, Khoá IX, xây dựng “thế trận lòng dân” là yêu cầu, là nội dung cơ
bản, là vấn đề mấu chốt của việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới.
Thực chất xây dựng “thế trận lòng dân” là quá trình khơi dậy, quy tụ và phát huy
chính trị - tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân trong một thế trận quốc phòng - an
ninh chung, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng "thế trận lòng
dân" là nét đặc sắc trong nghệ thuật giữ nước, chống ngoại xâm, phản ánh bản chất
và sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân nước ta. Đó cũng là sự trở ngại lớn nhất
đối với những hành động phá hoại, những mưu toan thôn tính, xâm lược của kẻ thù.
Không dựa vào lực lượng của nhân dân mà chỉ dựa vào lực lượng vũ trang, chỉ sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ quân sự, thì khó khăn trong việc giải quyết các tình
huống, dễ dẫn đến tổn thất. Một khi xao nhãng củng cố nhân tâm, không quan tâm
đến dân để trăm họ ai oán, lòng dân ly tán, không xây dựng được “bức thành lòng
dân”, thì đó là nguy cơ mất nước trước hoạ xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Xây
dựng thế trận quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp toàn dân, toàn quân, của cả hệ
thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, việc tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, củng cố lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và với chế độ xã hội chủ nghĩa là yêu cầu đặc
biệt quan trọng của chiến lược xây dựng sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trong
điều kiện mới.
Các thế lực thù địch đang thực hiện một cách ráo riết nhưng hết sức khéo léo, tinh vi

những biện pháp “đánh vào lòng người”, nhằm huỷ hoại cơ sở chính trị - xã hội, gây
mất ổn định, làm cho dân “xa” Đảng, đối lập dân với Đảng, thì vấn đề xây dựng ‘thế
trận lòng dân” vừa là đòi hỏi bức thiết của tình hình, vừa đặt ra yêu cầu phải có nội
dung và phương thức xây dựng mới phù hợp. Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, xây
dựng "thế trận lòng dân" phản ánh sâu sắc cội nguồn sức mạnh to lớn của nền quốc
phòng toàn dân nước ta là từ nhân dân.
Yêu cầu cơ bản có ý nghĩa quyết định của thế trận quốc phòng toàn dân trong điều
kiện mới là: khi chưa xảy ra chiến tranh thì toàn dân hăng hái lao động sản xuất, mọi
công dân đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khi xảy ra chiến tranh thì
thực hiện chiến tranh nhân dân "cả nước một lòng toàn dân đánh giặc", tạo ra những
"tấm lưới sắt", "bức thành đồng", "thiên la địa võng" bảo vệ Tổ quốc. Đó là sức mạnh


của nền quốc phòng toàn dân nước ta, là bí quyết chiến thắng của nhân dân ta trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



×