Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác xoá đói giảm nghèo tại huyện chợ mới, tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.85 KB, 69 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy giáo hướng
dẫn PGS.TS Nguyễn Minh Phương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em
trong suốt quá trình nghiên cứu và tạo mọi điều kiện thuận lợi để em có thể
hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn các thầy, cô trong Khoa Tổ chức
và Quản lý nhân lực – Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, những người đã trực
tiếp giảng dạy, truyền đạt kiến thức và tạo mọi điều kiện trong suốt quá trình
học tập.
Chân thành gửi lời cảm ơn các cán bộ tại UBND huyện Chợ Mới, tỉnh
Bắc Kạn đã chia sẻ nhiều tư liệu và kinh nghiệm quý báu liên quan đến vấn đề
nghiên cứu của khóa luận và giúp em hoàn thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 2016
Sinh viên

Dương Thị Hiền

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1


STT

Viết tắt

Từ, cụm từ

1

HĐND



Hội đồng nhân dân

2

LĐTB&XH

3

UBND

Ủy ban nhân dân

4

XĐGN

Xoá đói giảm nghèo

Lao động - Thương binh và xã hội

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2


Đói nghèo lâu nay đã trở thành một vấn đề được các quốc gia hết sức
quan tâm, đây không chỉ là vấn đề của riêng những người rơi vào cảnh đói
nghèo, mà còn là một vấn đề xã hội lớn, cần tới sự quan tâm của toàn xã hội vì
đói nghèo có thể gây ra những tác động tiêu cực cả về mặt kinh tế và xã hội sâu

sắc. Vì vậy vấn đề làm sao để XĐGN trở thành một trong những mục tiêu quốc
gia quan trọng của các nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang và chưa
phát triển. Để có thể thực hiện công cuộc XĐGN thì đây không chỉ là nhiệm vụ
của bộ máy lãnh đạo mà còn là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân. Phải phát huy
truyền thống “lá lành đùm lá rách” của toàn dân trong nhiệm vụ XĐGN.
Cũng như các quốc gia trên thế giới, Việt Nam nhận thức được tầm quan
trọng của công tác XĐGN và coi đó là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến
lược ổn định kinh tế xã hội. Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, nhân dân
sinh sống chủ yếu dựa trên sản xuất lúa gạo vì vậy không thể tránh được tình
trạng đói nghèo trên cả nước. XĐGN trở thành mục tiêu xuyên suốt trong hầu
hết các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước song song với việc
đẩy mạnh cải cách, tạo ra những động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đảng và nhà nước ta đã có những chính sách và giải pháp giải quyết những vấn
đề đói nghèo nhưng chưa thể áp dụng cho tất cả mọi nơi và cho từng đối tượng
từng khu vực ở từng địa phương
Huyện Chợ Mới - Tỉnh Bắc Kạn là huyện có địa bàn rộng, kinh tế chủ
yếu là nông nghiệp, đất đai chủ yếu là đồi núi, diện tích đất trồng trọt nói
chung và đất canh tác nói riêng rất hạn hẹp, chất đất xấu, thời tiết khắc nghiệt
vì vậy cuộc sống của người dân còn hết sức khó khăn. Huyện được thành lập
mới từ năm 1998, từ đó đến nay công tác XĐGN được các cấp chính quyền đặc
biệt quan tâm. HĐND huyện đã đề ra một số biện pháp, chính sách thực hiện
chương trình XĐGN, thành lập Ban chỉ đạo XĐGN từ các huyện đến các xã,
3


dành nhiều ngân sách đầu tư cơ sở hạ tầng xã nghèo, lập quỹ cho vay XĐGN,
xây dựng các mô hình XĐGN... đã góp phần không nhỏ giúp người dân thoát
nghèo và cải thiện đời sống. Tuy nhiên, vì địa bàn rộng, dân cư thưa thớt chủ,
chủ yếu là các dân tộc ít người trên vùng núi cao nên việc tiếp cận các chính
sách hỗ trợ XĐGN còn hạn chế, tình trạng nghèo đói vẫn còn tồn tại.

Qua thực tế trên, em nhận thấy vấn đề nghèo đói của huyện còn rất phổ
biến, cần phải được thực hiện đồng bộ hơn nữa để đạt kết quả cao hơn. Chính
vì vậy em đã chọn đề tài viết khóa luận tốt nghiệp là: “Nâng cao hiệu quả
công tác xoá đói giảm nghèo tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn”.
2. Lịch sử nghiên cứu
Xóa đói giảm nghèo là một chủ trương lớn và nhất quán của Đảng và
Nhà nước nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu
hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân
tộc.Vì vậy, vấn đề này được nhiều nhà khoa học quan tâm. Cho đến nay ở Việt
Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn, luận án đề cập đến vấn
đề XĐGN như:
Các công trình do Bộ LĐTB&XH làm chủ biên có: Đói nghèo ở Việt
Nam (Hà Nội, 1993); Nhận diện đói nghèo ở nước ta (Hà Nội, 1993); XĐGN
(Hà Nội, 1996); XĐGN với tăng trưởng kinh tế (Nxb Lao động, 1997).
Về luận văn, luận án có các công trình sau:
- Luận án Tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hằng: Vấn đề XĐGN ở nông
thôn nước ta hiện nay, 1999;
- Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Hằng: Vấn đề giảm nghèo trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2001;
- Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Bùi Thị Lý: Vấn đề XĐGN ở tỉnh Phú
4


Thọ hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
- Cuốn sách “XĐGN ở vùng dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay - Thực
trạng và giải pháp” (2002) của tác giả Hà Quế Lâm, đã tập trung vào một số
vấn đề, làm rõ một số nguyên nhân của tình trạng đói nghèo. Đặc biệt chú
trọng phân tích đánh giá quá trình XĐGN ở nước ta trong đó phân tích sâu về
người dân tộc thiểu số ở vùng cao, miền núi.

Đào Tấn Nguyễn (2004), Giải pháp tín dụng góp phần thực hiện XĐGN
của Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, đã phân tích về hoạt động tín dụng
cho vay hộ nghèo tham gia chương trình XĐGN ở Việt Nam rút ra một số bài
học kinh nghiệm ban đầu về tín dụng cho người nghèo, ý thức tiết kiệm và hỗ
trợ lẫn nhau giữa phụ nữ nghèo và tính chất xã hội hoá về công tác XĐGN
thông qua Hội Liên hiệp phụ nữ cùng với dịch vụ tín dụng.
Nguyễn Thị Nhung (2012), Giải pháp XĐGN nhằm phát triển kinh tế xã hội ở các tỉnh Tây Bắc Việt Nam, đã phân tích thực tiễn về XĐGN ở Việt
Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội; khái quát những thành tựu, hạn
chế nguyên nhân tác động XĐGN ở Việt Nam. Đề xuất tạo sự liên kết chặt chẽ
giữa giảm nghèo với tiếp cận thị trường, chú trọng và phát huy vai trò của
XĐGN thông qua cơ chế khuyến khích, ưu đãi để người nghèo chủ động tham
gia vào thị trường.
Lê Quốc Lý (2012), Chính sách XĐGN thực trạng và giải pháp, đã
nghiên cứu về vấn đề đói nghèo, thực trạng đói nghèo ở Việt Nam, những chủ
trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về công cuộc đổi mới,
chống đói nghèo, những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện chính
sách XĐGN, từ đó đề xuất các định hướng, mục tiêu, cơ chế, chính sách và giải
pháp để XĐGN cho giai đoạn tiếp theo.
Ngoài ra còn rất nhiều tài liệu liên quan đến XĐGN, nhiều đề tài,
5


luận văn của nhiều tác giả đã nghiên cứu về công cuộc XĐGN ở một số huyện
trên cả nước.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản và đánh giá thực
trạng công tác XĐGN tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, khóa luận đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác XĐGN tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về đói, nghèo và XĐGN làm

căn cứ để nghiên cứu thực trạng và đánh gia kết quả XĐGN tại địa phương;
- Khảo sát đánh giá thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng trong việc thực
hiện công tác XĐGN tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn;
- Đề xuất các giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác
XĐGN trên địa bàn huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công cuộc XĐGN của huyện Chợ Mới, tỉnh
Bắc Kạn.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: 15 xã và 1 thị trấn của huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn.
Về thời gian: Đề tài tập trung đánh giá thực trạng XĐGN ở huyện Chợ
Mới giai đoạn 2010 – 2015 và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả XĐGN ở
huyện Chợ Mới giai đoạn 2016-2020.
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Kết quả thực hiện XĐGN ở huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn đã đáp ứng
tiến độ và yêu cầu của nhân dân địa phương hay chưa? Có thể nghiên cứu chỉ
ra những nguyên nhân của những hạn chế vướng mắc không?
- Bằng cách nào để đẩy mạnh công tác XĐGN và nâng cao hiệu quả thực
6


hiện XĐGN ở huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn?
7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, bài khóa luận sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu các tài liệu liên quan đến vấn đề XĐGN đó là:
Các Chỉ thị, Nghị quyết, Chương trình XĐGN của Tỉnh ủy, HĐND, UBND
tỉnh Bắc Kạn. Các Chỉ thị, Nghị quyết của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện,
các xã, thị trấn trên địa bàn toàn huyện; Chương trình XĐGN của huyện giai
đoạn 2005 – 2010, 2010 – 2015; Số liệu của các phòng ban liên quan đến nội

dung cần nghiên cứu; Ngoài ra luận văn còn sử dụng các số liệu điền dã tại các
xã, thị trấn trong huyện.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và thu thập thông tin từ tài liệu: Tiến
hành phân tích và tổng hợp những tài liệu liên quan đến quá trình xây dựng kế
hoạch và thực hiện công tác XĐGN nhằm phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra xã hội học như: ghi chép, thống kê.
8. Kết cấu khóa luận
Chương 1: Cơ sở lý luận nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo
Chương 2: Thực trạng hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo tại huyện
Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo
tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn

7


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Quan niệm và các tiêu chí đánh giá nghèo đói
1.1.1. Quan niệm về nghèo đói
Nghèo đói được coi là một vấn nạn của xã hội ăn sâu vào mọi phương
diện của đời sống và xã hội. Nó không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế
kém phát triển, mà còn tồn tại ngay tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển.
Tuy nhiên tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng quốc gia mà có
những cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau về định nghĩa, tính chất và mức độ
nghèo đói khác nhau.
Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, quan điểm về đói
nghèo đã được hiểu rộng hơn, sâu hơn và cũng có thể được hiểu theo các cách
tiếp cận khác nhau và đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về nghèo. Ngân hàng
thế giới (WB) đưa ra quan điểm về nghèo như sau: Nghèo là một khái niệm đa

chiều vượt qua phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ dựa trên thu
nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như: dinh dưỡng, sức
khỏe, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và
không có quyền lực. [Trích từ Đại học Kinh tế quốc dân, Những lý luận
chung về đói nghèo và xóa đói giảm nghèo, />
ngày

15/11/2015]
Nghiên cứu của UNDP, UNFPA, UNICEF trong công trình “XĐGN ở
Việt Nam-1995" đã đưa ra định nghĩa:"Nghèo là tình trạng thiếu khả năng
trong việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham gia vào lĩnh vực kinh
tế.”
Hội nghị bàn về giảm nghèo đói ở khu vực châu Á Thái Bình Dương do
8


ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc - Thái Lan đưa ra khái niệm về
đói nghèo: Nghèo là một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn
những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội phong tục tập quán của
địa phương. [Trích từ Đại học Kinh tế quốc dân, Những lý luận chung về đói
nghèo và xóa đói giảm nghèo, ngày 15/11/2015] Khái niệm
này bao gồm hai phương diện: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
- Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng
và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã
được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập
quán của địa phương.
- Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức
trung bình của cộng đồng.
Quan niệm về nghèo đói ở nước ta cũng như ở các nước khác đơn giản

hơn, trực diện hơn: Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có
những điều kiện về cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại,
quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng.
Nếu chỉ xác định nghèo đói thông qua thu nhập hay chi tiêu được quy
đổi thành tiền thì không thể xác định hết các đối tượng nghèo đói cần được hỗ
trợ. Vì vậy, theo xu hướng tiếp cận đói nghèo mở rộng hiện nay, nghèo đói có
thêm một khái niệm mới là nghèo đa chiều:
Nghèo đa chiều là vấn đề nghèo đói được nhìn nhận trên nhiều mặt, không
hẳn chỉ là đói ăn, thiếu uống hoặc thiếu các điều kiện sống, sinh hoạt khác mà nghèo
đói còn được gây ra bởi các rào cản về xã hội và các tác nhân khác ngăn chặn
những cá nhân hoặc cộng đồng tiếp cận với các nguồn lực, thông tin và dịch vụ.
9


Như vậy nghèo không chỉ đơn thuần là một cá thể mà nó bao gồm các yếu tố kìm
hãm cá thể đó không tiếp cận được đến các nguồn lực không biết và không thể tìm ra
các giải pháp cho bản thân để thoát ra khỏi tình trạng hiện có.
Khái niệm nghèo đa chiều được đề cập ở Việt Nam từ năm 2013. Đề án
tổng thể “Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang
đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020” theo Quyết định số 1614/QĐ-TTg
ngày 15/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó các tiêu chí đo lường
nghèo gồm: Các tiêu chí về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản như: tiếp cận về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp
cận thông tin. Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt gồm 10 chỉ số: 1) trình độ
giáo dục của người lớn; 2) tình trạng đi học của trẻ em; 3) tiếp cận các dịch vụ
y tế; 4) bảo hiểm y tế; 5) chất lượng nhà ở; 6) diện tích nhà ở bình quân đầu
người; 7) nguồn nước sinh hoạt; 8) loại hố xí/nhà tiêu; 9) sử dụng dịch vụ viễn
thông; 10) tài sản phục vụ tiếp cận thông tin.
1.1.2 Quan niệm về xóa đói giảm nghèo
- Khái niệm về xóa đói: Xóa đói là làm cho bộ phận dân cư nghèo sống

dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy
trì mức sống, từng bước nâng cao mức sống đến mức tối thiểu và có thu nhập
đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chát duy trì cuộc sống. [Trích từ Đại học Kinh
tế quốc dân, Những lý luận chung về đói nghèo và xóa đói giảm nghèo,
ngày 15/11/2015]
- Khái niệm về giảm nghèo: Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư
nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Điều này
được thể hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống. Hay
giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao
10


hơn. [Trích từ Đại học Kinh tế quốc dân, Những lý luận chung về đói nghèo
và xóa đói giảm nghèo, ngày 15/11/2015]
Xét trên góc độ một nền kinh tế thì giảm nghèo là quá trình từng bước
thực hiện chuyển đổi trình độ sản xuất từ cũ, lạc hậu sang trình độ sản xuất mới
cao hơn. Mục tiêu hướng tới là trình độ sản xuất tiên tiến của thời đại.
Ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ
người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách
nhanh nhất, trên cơ sở có nhiều lựa chọn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình
trạng nghèo đói.
Trong thời gian qua nhờ thực hiện các cơ chế, chính sách có hiệu quả,
công cuộc XĐGN của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá cao, do đó công cuộc XĐGN đạt được nhiều kết quả
tốt, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia và quốc tế giảm nhiều. Do vậy, Việt
Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong những nước giảm tỷ lệ
đói nghèo tốt nhất. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang là một nước nghèo, có mức
thu nhật bình quân đầu người vào loại thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn lớn. Vì vậy,
XĐGN vẫn luôn được coi là chính sách hàng đầu trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội.

1.1.3. Nội dung của xóa đói giảm nghèo
Trong những năm qua, Ðảng và Nhà nước ta luôn coi XĐGN là một nội
dung hết sức quan trọng trong các chính sách xã hội. Với mục tiêu nâng cao
đời sống nhân dân gắn với bảo đảm các quyền của con người, vì sự phát triển
toàn diện của con người. Ðồng thời, coi con người vừa là động lực, vừa là nhân
tố quan trọng nhất để đẩy mạnh phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công cuộc XÐGN được chính thức phát động và đẩy mạnh vào đầu
11


những năm 90, thế kỷ 20, cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước. Hàng loạt
chương trình XÐGN đã và đang được triển khai trong chiến lược phát triển bền
vững, chính sách XÐGN được đặt trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội của cả nước và từng địa phương.
Nội dung của XĐGN được thực hiện trên các nội dung chính sau:
- Tạo điều kiện cho người nghèo có điều kiện phát triển sản xuất, gia
tăng thu nhập bằng các biện pháp:
+ Cấp tín dụng ưu đãi cho người nghèo: cho vay lãi thấp giúp họ có vốn
sản xuất, và từ đó có thể thoát nghèo.
+ Hỗ trợ đất sản xuất bằng cách giảm các thuế đất.
+ Thực hiện hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng về đường xá, công trình thủy lợi,
tạo điều kiện cho người dân tham gia sản xuất, nâng cao năng suất lao động để
thoát nghèo.
- Tạo điều kiện cho người dân có điều kiện học hỏi kỹ thuật canh tác sản
xuất bằng cách mở các lớp tập huấn sản xuất, phổ biến kiến thức tới từng thôn,
bản; nâng cao lao động cho người nghèo.
- Dựa trên từng cơ sở, vùng miền, xác định được thế mạnh, có kế hoạch
phát triển các ngành nghề giúp giải quyết tình trạng thất nghiệp, tăng thêm thu
nhập cho người nghèo.
- Tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội được tiếp cận với các dịch vụ
cơ bản như hỗ trợ về y tế bằng việc cấp thẻ bảo hiểm y tế, cấp thuốc miễn phí

cho người nghèo thông qua chương trình 137, 135. Hỗ trợ về giáo dục: miễn
giảm học phí cho con em của gia đình thuộc đối tượng nghèo, đói…
- Tạo điều kiện cho họ có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ an sinh xã hội.
Để thực hiện được hiệu quả các nội dung trên thì cần phải có nguồn tài
chính đóng góp của các cá nhân tổ chức. Nguồn tài chính của chương trình
12


XĐGN thường dựa trên: Ngân sách nhà nước ( bao gồm cả ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương), huy động cồng đồng, huy động quốc tế, vốn
tín dụng để thực hiện toàn diện các chính sách đã đề ra.
1.1.4. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo
Chúng ta thấy rằng khái niệm nghèo đói có thể đuợc thống nhất nhưng
chuẩn mực đói nghèo giữa các khu vực không thể giống nhau. Các tiêu chí xác
định chuẩn nghèo có tính biến động, nó thay đổi theo thời gian, tưong ứng với
biến đổi về sự phát triển kinh tế xã hội. Chuẩn nghèo (hay còn gọi là đường
nghèo, ngưỡng nghèo hoặc tiêu chí nghèo) là công cụ để phân biệt người nghèo
và người không nghèo. Những người được coi là nghèo khi mức sống của họ
thấp hơn mức sống tối thiểu chấp nhận được, tức là thấp hơn chuẩn nghèo.
Một thước đo nghèo đói tốt sẽ đánh giá chính xác tác động các chính sách
của nhà nước tới người nghèo. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc
xác định các đối tượng được trợ giúp phù hợp, hoạch định các kế hoạch giải
pháp và giúp người nghèo tiếp cận với các giải pháp đó.
1.1.4.1. Các tiêu chí xác định chuẩn nghèo của thế giới
Để thuận lợi cho việc đánh giá mức độ đói nghèo, trên thế giới người ta
đưa ra hai mức chuẩn nghèo là 01 USD/1ngày/người và 02 USD/1ngày/người.
Theo đó, nếu lấy mức 01 USD/1ngày/1người thì vào thời điểm năm 1999 cả
thế giới có khoảng 1,2 tỷ nghười nghèo và nếu lấy mức 02 USD/1ngày/1người
thì thế giới có khoảng 2,8 tỷ người nghèo trên tổng dân số thế giới (khoảng 6 tỷ
người). Ngoài ra, WB và các tổ chức quốc tế cũng đưa ra khuyến nghị về

chuẩn nghèo cho các quốc gia như sau:
- Đối với các nước chậm phát triển: 0,5 USD/ngày/người.
- Đối với các nước đang phát triển: 0,1 USD/ngày/người.
- Đối với các nước Châu Mỹ và nước đang phát triển ở mức khá: 02
13


USD/ngày/người.
- Đối với các nước Châu Âu: 4 USD/ngày/người
- Đối với các nước công nghiệp: 14 USD/ngày/người.
Chuẩn nghèo khuyến nghị nêu trên là căn cứ vào thu nhập và mức sống
cụ thể của từng khu vực, từng vùng, vì nếu thấp hơn mức đó con người không
thể bảo đảm được mức sống tối thiểu và không tồn tại được.
1.1.4.2. Các tiêu chí xác định chuẩn nghèo của Việt Nam
Ở Việt Nam cũng như các nước trên thế giới có nhiều quan niệm khác
nhau về chuẩn nghèo. Chuẩn nghèo Việt Nam là một tiêu chuẩn để đo lường
mức độ nghèo của các hộ dân tại Việt Nam. Chuẩn này khác với chuẩn nghèo
bình quân trên thế giới. Theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 30 tháng 01 năm 2011 ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận
nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011- 2015 như sau:
a) Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
b) Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
c) Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
d) Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000
đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
Theo chuẩn trên, nhiều hộ nghèo thoát nghèo nhưng vẫn không đủ điều
kiện sống và do đời sống khó khăn nên rất nhiều người vẫn muốn thuộc diện

nghèo, đói để nhận các khoản hỗ trợ như như vay vốn ưu đãi, bảo hiểm y tế…
Thực tế cho thấy rằng không thể duy trì chuẩn nghèo 400.000-500.000 đồng
như hiện nay mà cần rà sát và ban hành chuẩn nghèo mới cho năm 2016.
14


Theo Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 19/11/2015 ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống
trung bình áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 quy định như sau:
∗ Hộ nghèo
a) Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
- Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;
- Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến
1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
b) Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
- Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
- Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến
1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
* Hộ cận nghèo
a) Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ
thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
b) Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ
thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
* Hộ có mức sống trung bình
a) Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng.

b) Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
1.300.000 đồng đến 1.950.000 đồng.
15


Mức chuẩn nghèo trên là căn cứ đo lường và giám sát mức độ thiếu hụt
về thu nhập và tiếp cận các dịch vụ cơ bản của người dân, là cơ sở xác định đối
tượng để thực hiện các chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội, hoạch định
các chính sách kinh tế xã hội khác trong giai đoạn 2016-2020.
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo
Nhìn nhận thực tế những tổn thất mà nghèo đói gây ra đối với Việt Nam
nói chung và địa phương nói riêng, chúng ta có thể khẳng định tầm quan trọng
của việc nâng cao hiệu quả công tác XĐGN. Một quy luật tất yếu đó là khi vấn
đề nghèo đói được giải quyết thì đời sống của nhân dân nói riêng và nền kinh
tế nói chung đều tăng nên. Nếu như không còn đói nghèo thì xã hội sẽ bền
vững phát triển.
Xóa đói giảm nghèo là chương trình mục tiêu Quốc gia và được triển
khai đến tất các địa phương trong nước. Mục đích lớn nhất của chương trình đó
là giải quyết mọi vấn đề liên quan đến đời sống người nghèo cả về vật chất lẫn
tinh thần để đưa cuộc sống nhân dân lên bằng hoặc cao hơn mức sống trung
bình. Hiện nay chương trình đã được thực hiện ở các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện và bước đầu thu được kết quả là xóa đói thành công, nhiệm vụ giảm
nghèo đang tiếp tục được tiến hành. Đây cũng có thể coi là thành công bước
đầu của chương trình song không vì vậy mà sự cần thiết của nhiệm vụ giảm
nghèo lại giảm đi, nó không chỉ mang lại cho người nghèo một cuộc sống tốt
đẹp hơn mà còn có tác động tích cực đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện
nguồn lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người
nghèo rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình
và cộng đồng. Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo,

nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng nghèo đói, khi có những dao động về thu
16


nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Do vậy, việc nâng cao
hơn nữa hiệu quả công tác XĐGN là cần thiết.
Tỉnh Bắc Kạn nói chung và huyện Chợ Mới nói riêng cũng không nằm
ngoài quy luật đó. Nghèo đói làm cho đời sống nhân dân trên địa bàn gặp rất
nhiều khó khăn, không thể duy trì được các điều kiện sống cơ bản. Khi cuộc
sống chưa ổn định người dân sẽ có xu hướng ít hoặc không quan tâm đến đời
sống kinh tế -xã hội xung quanh thay đổi như thế nào, điều đó ảnh hưởng sâu
sắc đến sự phát triển của nền kinh tế địa phương.
Từ những phân tích trên có thẻ thấy rằng công tác XĐGN rất quan trọng
và thực sự cần thiết. Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo liên tục giảm nhưng số hộ nghèo,
hộ cận nghèo vẫn còn tương đối lớn. Ranh giới giữa thoát nghèo và tái nghèo
là hết sức mong manh cho nên nhiệm vụ giảm nghèo bền vững vẫn còn rất
nặng nề và cần được đẩy mạnh hơn nữa. Sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế
cũng như toàn bộ đời sống của nhân dân trong huyện, trong tỉnh và trên cả
nước phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của chương trình XĐGN.
1.2.1. Khái niệm hiệu quả và hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo
a) Khái niệm hiệu quả
Có thể hiểu đơn giản, hiệu quả được định nghĩa là đạt được một kết quả
giống nhau nhưng sử dụng ít thời gian, công sức và nguồn lực nhất. Hay theo
một cách hiểu khác: Hiệu quả là sự đo lường chi phí đầu vào với kết quả đầu ra
(Hiệu quả = Kết quả/Chi phí) hoặc Hiệu quả là đại lượng so sánh, là một phạm
trù phản ánh kết quả đạt được sau quá trình tiến hành. [Trích từ http://www.từđiển.com/hiệu%20quả]
Trong thực tế nhiều lúc người ta sử dụng khái niệm hiệu quả như mục
tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp khác người ta lại sử dụng như công cụ
đề nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.
17



b) Khái niệm hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo
Hiệu quả công tác XĐGN là những kết quả mang lại sau khi đã tiến hành
các chương trình, chính sách hỗ trợ XĐGN, các kết quả này được phản ánh dựa
trên các mặt của đời sống xã hội của người nghèo, mức độ tiếp cận với các dịch
vụ cơ bản của xã hội. Không chỉ có vậy, hiệu quả XĐGN không đơn giản là
việc phân phối lại thu nhập một cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng
trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên thoát nghèo.
Nhìn chung, trong những năm vừa qua hiệu quả của công tác XĐGN
mang lại cho đời sống nhân dân trên toàn huyện không ngừng được cải thiện
về mọi mặt, thu nhập chính đáng của người nông dân ổn định, trình độ dân trí
được nâng cao, chăm sóc tốt sức khoẻ nhân dân, giúp họ có thể tự mình vươn
lên trong cuộc sống, sớm hoà nhập vào cuộc sống cộng đồng, xây dựng được
các mối quan hệ xã hội lành mạnh, giảm được khoảng cách quá lớn giữa người
giàu với người nghèo.
1.2.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo
Tăng trưởng kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Nó là điều kiện cần thiết đầu tiên để khắc phục tình trạng nghèo đói, lạc hậu,
cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân cư. Tăng trưởng và đói
nghèo là vấn đề mà xã hội quan tâm hàng đầu và mang tính toàn cầu, nó không
là vấn đề riêng của bất kỳ quốc gia nào.
Tăng trưởng đã khó, nhưng tăng trưởng đi đôi với XĐGN còn khó hơn,
tăng trưởng nhanh đồng nghĩa với sự giảm nghèo nhưng chỉ đúng khi nền kinh
tế phát triển một cách bền vững, mặt khác nghèo đói cũng làm nguyên nhân
kìm hãm sự phát triển của xã hội vì vậy cần phối hợp sao cho hợp lý mối quan
hệ trên. Không thể tăng trưởng mà tỷ lệ đói nghèo lại cao và không thể chọn
chiến lược phát triển chấp nhận tăng trưởng bất chấp mọi vấn đề gì xảy ra sau
18



này hay nói cách khác tăng trưởng bằng mọi giá, nếu như vậy đến một lúc nào
đó nền kinh tế sẽ tự phá vỡ, nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc và các tệ nạn xã hội
do nhiều nguyên nhân dẫn đến nhưng trong đó quan trọng nhất là đói nghèo .
Tăng trưởng kinh tế giúp XĐGN trên diện rộng, song việc cải thiện tình
trạng của người nghèo( về thu nhập khả năng tiếp cận, phát triển các nguồn
lực) lại phụ thuộc vào loại hình tăng trưởng kinh tế. Việc phân phối lợi ích tăng
trưởng trong các nhóm dân cư bao gồm cả các nhóm thu nhập phụ thuộc vào
các đặc tính tăng trưởng. Phân tích tình hình biến đổi về thu nhập của các
nhóm dân cư cho thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn
và kết quả đã làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo.
Xóa đói giảm nghèo phải dựa trên tăng trưởng kinh tế trên diện rộng với
chất lượng cao và bền vững, tạo ra những cơ hội thuận lợi để người nghèo và
cộng đồng người nghèo tiếp cận được cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh và
hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng. Thực tiễn những năm qua đã chứng
minh rằng, nhờ kinh tế tăng trưởng cao nhà nước có sức mạnh vật chất để hình
thành và triển khai các chương trình hỗ trợ vật chất, tài chính và cho các xã khó
khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đồng
người nghèo nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Tăng trưởng kinh
tế là điều kiện quan trọng để XĐGN trên quy mô rộng, không có tăng trưởng
mà chỉ thực hiện các chương trình tái phân phối hoặc các biện pháp giảm
nghèo truyền thống thì hiệu quả mang lại sẽ không lớn.
Tăng trưởng trên diện rộng với chất lượng cao và bền vững, trước hết tập
chung cơ cấu và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề, tạo
điều kiện nhiều hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển nhằm tạo ra
nhiều việc làm phi nông nghiệp, tăng thu nhập cho người nghèo, giúp họ tự
vươn lên thoát nghèo bền vững.
19



Đối với mỗi đơn vị, địa phương, khi đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của
công tác XĐGN, trước hết cần đánh giá mức độ cải thiện đời sống của người
dân, mà trực tiếp là thu nhập, thu nhập tăng, đời sống được nâng lên và đáp
ứng các nhu cầu tối thiểu về cuộc sống được đáp ứng. Mặt khác đối với hiệu
quả về mặt xã hội được đánh giá thông qua giải quyết lao động, người lao động
có công ăn việc làm, có thu nhập sẽ làm giảm nguy cơ bất ổn xã hội, tệ nạn xã
hội, từng bước xây dựng xã hội ổn định và phát triển.
1.2.3. Ảnh hưởng của đói nghèo đến phát triển kinh tế - xã hội
Trước đây người ta thường đánh đồng nghèo đói với mức thu nhập thấp
vì mức thu nhập của người dân chính là chỉ tiêu phản ảnh mức độ phát triển
kinh tế xã hội của một địa phương hay của cả nước. Quan niệm này có ưu điểm
là thuận lợi trong việc xác định số người nghèo dựa theo chuẩn nghèo, ngưỡng
nghèo. Nhưng thực tế đã chứng minh việc xác định đói nghèo theo thu nhập
chỉ đo được một phần của cuộc sống, thu nhập thấp không phản ánh hết được
các khía cạnh của đói nghèo.
Đói nghèo có ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội và quá trình
phát triển của địa phương. Nếu không giải quyết thành công các nhiệm vụ và
yêu cầu XĐGN thì sẽ gây ra nhiều hậu quả và hệ lụy nghiêm trọng:
+ Gia tăng phân hoá giàu nghèo, có nguy cơ đẩy tới phân hoá giai cấp
với hậu quả là sự bần cùng hoá và do vậy sẽ đe doạ tình hình ổn định chính trị
và xã hội làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế -xã hội.
+ Không thể thực hiện được công bằng xã hội, sự lành mạnh xã hội nói
chung và mục tiêu phát triển bền vững.
+ Không tạo được tiền đề để khai thác và phát triển nguồn lực con người
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta
đạt tới trình độ phát triển tương đương với quốc tế và khu vực, tháo khỏi nguy
20


cơ lạc hậu và tụt hậu.

Xóa đói giảm nghèo được coi là yếu tố cơ bản đảm bảo sự công bằng,
phát triển kinh tế xã hội. Khi công cuộc XĐGN thành công đó là cơ sở để tăng
trưởng và phát triển một nền kinh tế xã hội bền vững, góp phần vào sự nghiệp
đổi mới đất nước. Hơn thế nữa nó còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị xã hội,
XĐGN thành công còn nâng cao trình độ dân trí, chăn sóc tốt sức khoẻ nhân
dân, giúp họ có thể tự mình vươn lên trong cuộc sống, sớm hoà nhập vào cuộc
sống cộng đồng, xây dựng được các mối quan hệ xã hội lành mạnh, giảm được
khoảng trống ngăn cách giữa người giàu với người nghèo, ổn định tinh thần, có
niềm tin vào bản thân, từ đó có lòng tin vào đường lối và chủ trương của đảng
và Nhà nước. Đồng thời hạn chế và xoá bỏ được các tệ nạn xã hội khác, bảo vệ
môi trường sinh thái.
1.3. Yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo
Trong những năm qua, cả nước nói chung và huyện Chợ Mới nói riêng
đã tập trung nhiều nguồn lực, triển khai các chế độ, chính sách giảm nghèo,
nhờ đó, công tác giảm nghèo đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần
quan trọng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phương. Tuy nhiên là một huyện miền núi, việc tiếp cận với các chính
sách hỗ trợ XĐGN tuy được triển khai đến người dân nhưng việc trực tiếp
nhận được hỗ trợ từ các chính sách đó còn rất hạn chế, nếu có nhận được thì
cũng chưa đầy đủ cho nên hiệu quả mang lại chưa cao. Vì vậy yêu cầu cần thiết
là phải nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác XĐGN tại địa phương.
Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đại hội Đảng bộ tỉnh: XĐGN nhằm
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhanh chóng tạo ra các yếu
tố bên trong bền vững. Tạo cơ hội cho người nghèo, hộ nghèo có điều kiện
phát triển, đa dạng hóa sinh kế, tăng thu nhập, vượt qua nghèo đói, vươn lên
21


khá giả; tăng cường và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản
xuất và dân sinh ở các huyện nghèo, xã nghèo đặc biệt khó khăn; giảm thiểu

tình trạng gia tăng bất bình đẳng về thu nhập và mức sống giữa các vùng và các
nhóm dân cư; ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo thuộc diện gia đình người có công; bảo
vệ trẻ em và phụ nữ nghèo. Phấn đấu giữ vững tốc độ giảm tỷ lệ hộ nghèo;
giảm tỷ lệ hộ nghèo phát sinh, củng cố các thành quả giảm nghèo, kết quả giảm
nghèo bền vững toàn diện.
Để thực hiện yêu cầu trên, huyện chú trọng công tác tuyên truyền nhằm
tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người dân về công tác giảm nghèo, qua
đó khơi dậy tinh thần tự lực trong phát triển kinh tế gia đình. Ngoài ra, huyện
cũng triển khai một số yêu cầu nhằm thúc đẩy quá trình giảm nghèo như:
- Ưu tiên các chương trình, dự án, chính sách sớm tạo ra động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Thực hiện đầy đủ kịp thời các chính sách phục vụ
cho nhu cầu sản xuất, an sinh xã hội của người nghèo, xã nghèo.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền, trách nhiệm
của người đứng đầu để thực hiện chương trình giảm nghèo đạt hiệu quả.
- Tập trung đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã nghèo, xã
đặc biệt khó khăn. Áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển giao công
nghệ thích hợp để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Có thể nhận thấy, các chương trình, chính sách giảm nghèo được huyện
triển khai đầy đủ đã mang lại hiệu quả nhất định; nhất là các chính sách vay
vốn phát triển kinh tế, tạo việc làm, công tác khuyến nông - khuyến lâm, hỗ trợ
làm nhà ở… đã góp phần từng bước cải thiện đời sống của nhân dân. Đến hết
năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo của huyện còn 14,64%, giảm 5,47% so với năm
2014.
Năm 2016, việc đánh giá hộ nghèo đa chiều là cơ sở quan trọng để các
22


cấp chính quyền tập trung nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác XĐGN, giúp
cho nhiều gia đình có hoàn cảnh khó khăn được tiếp cận các chính sách ưu tiên
của Nhà nước, sự trợ giúp của xã hội, bởi thay vì việc xác định hộ nghèo chỉ

dựa trên một tiêu chí thu nhập như trước đây thì nay còn có thêm nhiều tiêu chí
khác như: Giáo dục - đào tạo, y tế, việc làm, bảo hiểm xã hội, điều kiện sống,
tiếp cận thông tin. Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo một cách bền vững,
huyện cũng đã đề ra giải pháp là tiếp tục tổ chức thực hiện tốt công tác dạy
nghề, nâng cao chất lượng hiệu quả dạy nghề, đa dạng hoá hình thức để chuyển
dịch cơ cấu lao động phù hợp với hiện đại hoá nông nghiệp và xây dựng nông
thôn mới, đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình dự án và các chính sách
hỗ trợ phát triển sản xuất, cải thiện đời sống cho đồng bào vùng khó khăn,
vùng sâu, vùng xa để đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác XĐGN đã
đề ra.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo
tại huyện Chợ Mới
1.4.1. Nhân tố bên trong
Là huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao, đặc biệt hộ nghèo người dân tộc thiểu số
chiếm tỷ lệ lớn và dù có không ít chương trình mục tiêu, dự án được triển khai
song hiệu quả chưa cao, công tác XĐGN vì vậy là thách thức cho chính
quyền, nhân dân và bản thân hộ nghèo.
Theo quan điểm phát triển mới, song song với việc tiếp thêm các nguồn
tài nguồn mới cho cư dân nông thôn và người nghèo, điều quan trọng hơn hết
là khơi dậy tinh thần chủ động và sáng tạo cộng đồng nơi họ sinh sống. Từ đó
kích hoạt lên các nguồn nội lực hiện có và hình thành một tinh thần chủ động,
để các đối tượng thụ hưởng có thể phát huy một các hiệu quả nhất sự hỗ trợ từ
bên ngoài. Để khởi động qúa trình này, khâu quan trọng trước nhất cần làm là
23


thay đổi tư duy, để từ đó dẫn đến thay đổi hành vi của cư dân nông thôn và
người nghèo. Đây là cách tiếp cận hợp lý nên được nghiên cứu, áp dụng trong
các chương trình giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới trong giai
đoạn tới.

Có rất nhiều yếu tố tác động trong đó phải kể đến sự vượt khó từ nội lực,
của chính những hộ gia đình thuộc diện đói nghèo. Các hội, đoàn thể còn phát
động phong trào tạo vốn tự có để giúp nhau phát triển sản xuất bằng việc đóng
góp xây dựng quỹ hội. Trong nhiều năm qua, các hội, đoàn thể đã huy động
được nhiều triệu đồng và đã giúp đỡ cho nhiều lượt hội viên nghèo trong xã
được vay vốn phát triển sản xuất. Bên cạnh công tác phát động phong trào tạo
vốn và huy động vốn, Hội LHPN xã còn duy trì và đẩy mạnh công tác tương
trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất, chăn nuôi, làm kinh tế gia đình, giúp người
nghèo vươn lên tự XĐGN.
1.4.2. Nhân tố bên ngoài
- Nhà nước
Trên thực tế, Chợ Mới đã dành được nhiều sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước trong việc triển khai thực hiện các chương trình giảm nghèo. Có thể kể đến
như chính sách tín dụng ưu đãi dành cho hộ nghèo; chính sách dạy nghề, tạo việc
làm và xuất khẩu lao động; hỗ trợ tiền điện, điều kiện chăm sóc sức khỏe và các
dịch vụ y tế; hỗ trợ nhà ở… Ngoài ra, hàng loạt dự án khuyến nông-lâm-ngư
nghiệp và hỗ trợ phát triển ngành nghề, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại các xã
đặc biệt khó khăn, triển khai nhân rộng các mô hình giảm nghèo, cấp phát các mặt
hàng trợ giá, trợ cước, các mặt hàng chính sách vùng đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi hay đào tạo cán bộ làm công tác giảm nghèo tại cơ sở... góp phần vào
công tác giảm nghèo bền vững.
Các chính sách trên đã tạo cơ sở để các địa phương đề ra kế hoạch thực
24


hiện các phương án giảm nghèo nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của
nhân dân. Tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ
các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội.
- Địa phương
Các hoạt động của Ban XĐGN từ cấp huyện đến cấp xã rất có hiệu quả,

ngoài kinh phí của chương trình 134, 135 của Chính phủ, hàng năm từ cấp tỉnh
đến cấp huyện đều cố gắng tập trung mọi nguồn lực để xây dựng và sửa chữa
hạ tầng cơ sở: Điện, đường, trường, trạm, hệ thống thuỷ lợi phục vụ cho tưới
tiêu.
Hàng năm huyện đã dành một phần kinh phí cho việc hỗ trợ người nghèo
xoá nhà tranh tre dột nát, hỗ trợ nông dân khai hoang phục hoá ruộng đất, trợ
cước, trợ giá đầu vào cho nông dân như: Giống cây trồng, con giống, phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật. Thành lập quỹ vì người nghèo để hỗ trợ hộ nghèo thuộc
diện gia đình chính sách, các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm thường
xuyên được tăng cường, cử cán bộ có trình độ kỹ thuật nông, lâm nghiệp trực
tiếp xuống công tác tại các cơ sở.
Theo thống kê năm 2006 toàn huyện Chợ Mới có 42 cán bộ, công chức
cấp xã có trình độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên và 42/42 là trình độ chuyên
môn kỹ thuật nông, lâm nghiệp, đội ngũ cán bộ có chuyên môn ở cấp huyện
thường xuyên tăng cường chuyển giao, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân, phát
hành các tờ bướm, tờ rơi tuyên truyền và hướng dẫn cách trồng trọt, chăn nuôi,
hướng dẫn cách làm ăn, làm giàu chính đáng.
- Các đoàn thể và cộng đồng
Được sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các ban ngành,
đoàn thể từ cấp tỉnh đến cơ sở, các tổ chức, cá nhân đóng trên địa bàn thường
xuyên dành cho đối tượng đói nghèo những điều kiện để vươn lên làm kinh tế.
25


×