Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

khóa luận tốt nghiệp Bước đầu tìm hiểu tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở huyện Cẩm Khê - tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.91 KB, 55 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, tình hình tôn giáo trên thế giới có nhiều
diễn biến phức tạp. Nằm trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, Việt Nam là
một quốc gia đa tôn giáo, bên cạnh các tôn giáo lớn có tổ chức với số lượng
tín đồ đông đảo còn có các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian truyền thống. Tôn
giáo đã và đang trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, các
hoạt động của tôn giáo được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, số người theo
tôn giáo ngày càng tăng. Hiện nay, ngoài xu hướng hành đạo đồng hành cùng
dân tộc, thuần tuý tôn giáo, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật cũng đã xuất hiện
các hoạt động tôn giáo không bình thường, có phần lấn lướt chính quyền,
vi phạm một số qui định của Nhà nước về hoạt động tôn giáo: Một số
chức sắc tôn giáo ngấm ngầm hoạt động chống đối chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, có tư tưởng vọng ngoại, tìm mọi cách cung
cấp thông tin sai lệch về tình hình tôn giáo ở trong nước; một số tôn
giáo lợi dụng việc đòi lại đất đai cơ sở thờ tự để có những hoạt động
chống đối chính quyền, gây khiếu kiện rất phức tạp, hoặc gây điểm
nóng tôn giáo; có giáo phái đòi tách khỏi Giáo hội và sự quản lý của
Nhà nước; nhiều tổ chức đội lốt tôn giáo nhằm tập hợp lực lượng chống
lại chính quyền, tạo cớ để các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp vào
công việc nội bộ của nước ta… Trước tình hình đó, Đản g và Nhà nước
ta đã xác định phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động
tôn giáo để vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng,
vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo đi ngược lại lợi ích
của nhân dân, của dân tộc.
Huyện Cẩm Khê là một huyện miền núi của Phú Thọ, với 2 tôn
giáo lớn là phật giáo và công giáo; trong đó số lượng tín đồ công giáo
chiếm tỉ lệ cao nhất tỉnh. Trong thời gian qua,ban công tác tôn giáo của


huyện đã quan tâm chú ý nhiều hơn đến hoạt động lãnh đạo công tác


tôn giáo; cụ thể hóa quan điểm,đường lối của Đảng,chính sách pháp
luật của Nhà Nước về tôn giáo vào tình hình cụ thể ở địa phương. Với
những nỗ lực đó công tác tôn giáo của huyện đã đạt dược những kết
quả khả quan; góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc,giúp đồng
bào có đạo yên tâm “sống tốt đời,đẹp đạo”, với phương châm: “ Đạo
pháp - dân tộc - chủ nghĩa xã hội”.
Tuy nhiên,nhìn nhận lại quá trình lãnh đạo công tác tôn giáo của
huyện Cẩm Khê vẫn thấy còn nhiều vấn đề tồn tại,chậm khắc phục,nhất
là đời sống và trình độ dân trí của đồng bào tôn giáo vẫn còn thấp so
với mặt bằng chung của huyện.
Trước thực tế trên trong công tác tôn giáo của huyện Cẩm Khê cần
phải nhìn nhận và đánh giá lại,để có thể phát huy được những ưu
điểm,đồng thời khắc phục những tồn tại. Qua đó đúc rút những kinh
nghiệm,những bài học trong việc lãnh đạo công tác tôn giáo trên địa
bàn huyện sao cho đúng đắn, phù hợp nhất đáp ứng mong mỏi của nhân
dân.
Từ tình hình đặt ra nói trên,chúng em chọn đề tài “ Bước đầu tìm
hiểu tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở huyện Cẩm Khê - tỉnh
Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu khoa học của
mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thực tế việc đi vào nghiên cứu tôn giáo, đề ra chủ trương chính
sách đối với tôn giáo ngày càng được quan tâm ở nhiều góc độ khác nhau trên
bình diện cả nước, thể hiện ở nhiều đề tài như :
GS Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo
ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia; PGS. TS Nguyễn Đức Lữ Chủ nhiệm đề tài (2002) Đổi mới chính sách tôn giáo và Nhà nước quản lý
tôn giáo hiện nay- những bài học kinh nghiệm và kiến nghị cụ thể, Đề tài


nhánh thuộc đề tài cấp Nhà nước.Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo

trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ; TS
Hoàng Minh Đô - Chủ nhiệm đề tài (2002), Đạo Tin lành ở Việt Nam- Thực
trạng, xu hướng phát triển và những vấn đề đặt ra hiện nay trong công tác
lãnh đạo, quản lý, Thuộc đề tài độc lập cấp Nhà nước; Ths.Đặng Thị LươngHiệu quả vận động công tác tôn giáo của tỉnh Nam Định trong thời kỳ đổi
mới......
Có rất nhiều đề tài đã đề cập đến công tác tôn giáo và cũng đã đưa ra
một số giải pháp nâng cao hiệu qủa công tác tôn giáo nhưng là ở địa
phương khác,có những đặc điểm khác với huyện Cẩm Khê. Đồng thời để đi
sâu nghiên cứu Tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở huyện Cẩm
Khê- tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay thì chưa có đề tài nào
thực hiện.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về tình hình tôn giáo ở
huyện Cẩm Khể - tỉnh Phú Thọ và công tác tôn giáo ở huyện Cẩm Khê
trong giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về tình hình tôn
giáo, công tác tôn giáo trên địa bàn huyện Cẩm Khê- tỉnh Phú Thọ
trong thời gian từ năm 2001-2010.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu thực trạng tình hình tôn
giáo và công tác tôn giáo ở huyện Cẩm Khê - tỉnh Phú Thọ để đưa ra một số
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo ở huyện Cẩm Khê.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
+ Đề tài làm sáng tỏ đặc điểm và tình hình công tác tôn giáo ở
huyện Cẩm Khê- tỉnh Phú Thọ hiện nay.


+ Đánh giá thực trạng công tác tôn giáo của huyện Cẩm Khê, từ đó
chỉ ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.

+ Đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác
tôn giáo của huyện Cẩm Khê- tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa
duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp như: lịch sử
và logíc, điều tra xã hội học, so sánh, phân tích, thống kê và tổng hợp, đặc
biệt chú trọng đến phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp về khoa học của đề tài
Đề tài trình bày khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo; chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn
giáo, công tác tôn giáo. Đề tài phân tích thực trạng tình hình tôn giáo và công
tác tôn giáo ở huyện Cẩm Khê - tỉnh Phú Thọ hiện nay và đưa ra một số giải
pháp để nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo ở huyện Cẩm Khê - tỉnh Phú
Thọ.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
đề tài được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.


Chương 1
TÔN GIÁO VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA
CÔNG TÁC TÔN GIÁO
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về tôn giáo và giải quyết
vấn đề tôn giáo
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
Tín ngưỡng:
“Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng,
một lực lượng siêu nhiên, tôn sùng vào một điều gì đó pha chút huyền bí, hư
ảo, vô hình tác động mạnh đến tâm linh con người, trong đó bao hàm cả niềm

tin tôn giáo”[ Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học - NXB Chính trị Quốc
gia]
Hainechelin đã rút ra một định nghĩa khá đầy đủ về tôn giáo, từ sự
nghiên cứu kỹ lưỡng, và công phu các tác phẩm của C. Mác và Ph. Ăngghen:
“Tôn giáo là một sự phản ánh đặc biệt, hoang đường và sai lệch trong ý thức
xã hội những mối liên hệ giữa con người với nhau và với tự nhiên, bởi con
người cả trong xã hội nguyên thuỷ cũng như trong các xã hội được phân chia
thành giai cấp (cổ đại, phong kiến, tư bản ) cũng đều bị đặt dưới sự thống trị
của những sức mạnh ở bên ngoài mà họ không nhận biết được, cũng như
không chi phối và kiểm soát được, vì thế mà đối với chúng họ cảm thấy có sự
sợ hãi bí ẩn, sự sợ hãi này theo sự giải trình của các nhà thờ, sẽ sản sinh ra các
vị thần” [ Tôn giáo và đời sống hiện đại” – Thông tin KHXH chuyên đề,
H.1997, tr.6.]
Như vậy có thể hiểu tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng liêng. Niềm tin
đó phải ít nhiều có tính hệ thống, được thực hiện bằng những luật lệ, lễ nghi
tôn giáo, có phương tiện vật chất để thực hiện niềm tin, thậm chí có cả tổ
chức để truyền bá, bảo vệ và thực hiện niềm tin.


Chức sắc:
“Là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo.”
Tín đồ:
“Là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận.”
1.1.2. Bản chất, chức năng của tôn giáo theo Học thuyết Mác – Lênin
a. Bản chất xã hội của tôn giáo:
– Tôn giáo là sản phẩm sáng tạo của con người
C. Mác cho rằng không phải tôn giáo sáng tạo ra con người mà chính con
người đã sáng tạo ra tôn giáo: “Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của
con người chưa tìm được bản thân mình hoặc đã lại để mất bản thân mình một
lần nữa.... Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của

thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự
không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [C.Mác –
Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Sđd, tr.570.]
Ông đã làm rõ bản chất xã hội của tôn giáo. Tôn giáo không phải cái tự
có mà là sản phẩm của con người xã hội, cũng tức là phương thức tồn tại của
con người. Tôn giáo là sự phản ánh xã hội con người vào trong ý thức của
con người. Song sự phản ánh đó chỉ là sự phản ánh phi lí tính, hoang đường,
bóp méo hiện thực, để rồi sau đó lấy cái phi lí, hoang đường làm chuẩn mực
để giải thích hoặc chi phối hiện thực của con người.
Tôn giáo ra đời là sản phẩm do con người sáng tạo ra trong quá trình
con người tồn tại trong điều kiện xã hội nhất định, từ khi con người có khả
năng tư duy trừu tượng và muốn giải thích thế giới, giải thích xã hội mà mình
đang sống. Điều đó tạo nên sự đa dạng trong biểu hiện tôn giáo cũng như tâm
thức tôn giáo, giữa những người hướng về tôn giáo độc thần hay tôn giáo đa
thần; giữa một bên thiên về các thiên thần; một bên thiên về các nhiên thần và
nhân thần.
– Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt


Tôn giáo là sản phẩm có ý thức của con người, là sự phản ánh của ý thức
con người về trạng thái xã hội .Vì thế tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội
đặc biệt phản ánh cái tồn tại xã hội đã sinh ra nó.
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph. Ăngghen đã làm rõ bản chất của
tôn giáo trên cơ sở xem tôn giáo như là một hình thái ý thức xã hội:
“ Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc
của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang
hình thức những lực lượng siêu trần thế” [ C.Mác – Ph.Ăngghen, Toàn tập,
tập 21, Sđd, tr.445 – 446.]
Như vậy, tôn giáo chính là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt. Tôn giáo

trong quá trình phản ánh xã hội con người vào trong ý thức con người, không
phải là một sự phản ánh đơn giản, mà là một sự phản ánh chịu tác động rất
nhiều yếu tố trung gian; đó là cách thức suy nghĩ, lập luận và cảm nhận của
con người về thế giới mà con người đang sống và về chính bản thân mình
theo những hình thức trưng cho từng người trong từng hoàn cảnh địa lý và
lịch sử nhất định.
– Tôn giáo là hiện tượng xã hội có tính lịch sử
Về luận điểm này, Ăngghen đã khắng định rằng: “Tất cả các vị thần ấy chỉ có
thể tiếp tục tồn tại trong trí tưởng tượng chừng nào dân tộc tạo ra các vị thần ấy
còn tồn tại; khi dân tộc đó tiêu vong thì các vị thần ấy cũng tiêu vong theo”
[C.Mác – Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Sđd, tr.445 – 446.]
Lật lại lịch sử có thể thấy rằng: những tôn giáo cũ, nảy sinh một cách tự
nhiên trong các bộ lạc và các dân tộc không hề có tính chất tuyên truyền sẽ mất
sức đề kháng một khi nền độc lập của các bộ lạc và các dân tộc đó bị phá vỡ.
Với tính chất là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo phản ánh xã hội con
người và bản thân con người trong xã hội đó. Cũng chính vì vậy, tôn giáo
mang những đặc trưng riêng cho từng cộng đồng người trong những hoàn
cảnh địa lý và lịch sử nhất định. Điều đó giúp chúng ta hiểu được vì sao tôn


giáo luôn có sự biến đổi tương ứng với các thời kỳ lịch sử khác nhau, tôn giáo
là sản phẩm của lịch sử, luôn chịu sự chi phối của lịch sử. Tôn giáo có thể có
tính độc lập tương đối, song xét đến cùng không chấp nhận quan điểm tôn
giáo có thể thoát ly khỏi những điều kiện lịch sử trong đó nó tồn tại; tức là
luôn luôn đặt nó trong sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng, cái đã sản sinh
ra nó. Và từ đó để thấy rằng mọi “Tự do tín ngưỡng hay tự do tôn giáo” hoàn
toàn không có nghĩa là “thả nổi” tôn giáo hoặc tôn giáo không liên quan gì
đến đời sống kinh tế - chính trị - xã hội.
Tóm lại, khi nghiên cứu về bất kì tôn giáo nào cũng phải gắn tôn giáo đó
với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, xã hội cụ thể. Nắm được bản chất tôn

giáo theo quan điểm mác xít để chống lại các quan điểm của chủ nghĩa duy
tâm: tách tôn giáo ra khỏi đời sống hiện thực, coi tôn giáo như một yếu tố ở
bên ngoài thế giới vật chất, khẳng định tính độc lập tuyệt đối của tôn giáo.
b. Các chức năng cơ bản của tôn giáo
Chức năng của tôn giáo là những phương thức tác động của tôn giáo
trong xã hội.
– Chức năng thế giới quan của tôn giáo
Tôn giáo thể hiện cách cảm nhận thế giới, một cách giải thích về thế giới
và các quá trình trong thế giới ấy, về con người, về sự tồn tại của con người.
Đồng thời có cả sự đánh giá về thế giới, thái độ nhìn nhận xét đoán thế giới.
Trong tôn giáo, thế giới, giới tự nhiên, con người hiện ra không phải chỉ
bằng con đường nhận thức, mà còn dưới dạng trực quan bằng hình tượng, đa
màu sắc. Điều đó tạo nên cảm quan xác định về thế giới, có nghĩa là con
người không thờ ơ với thế giới.
Thế giới quan tôn giáo không đưa ra những tiêu chí, những cái tuyệt đối,
thông qua đó mà nhìn nhận thế giới, xã hội, con người. Với ý nghĩa là một
hình thái ý thức xã hội đặc biệt, tôn giáo gắn cho tồn tại xã hội một ý nghĩa,
kêu gọi con người hướng tới một thế giới khác, tạo khả năng cho người ta tin,


bỏ lại phía sau mình cái “ở đây”, “bây giờ”, nuôi hy vọng vào một thế giới
“hư ảo”.
Với tính cách là hình thức phản ánh thế giới hiện thực, thế giới quan tôn
giáo đã mang lại cho con người những tri thức dưới dạng bị đảo ngược, không
chân thực, tôn giáo giải thích mơ hồ về thế giới. Thế giới quan tôn giáo dựa
trên cơ sở của chủ nghĩa duy tâm, đề cao thực thể tinh thần, coi đó là cái sáng
tạo, chi phối thế giới hiện thực. Thế giới quan tôn giáo thường xa lạ với thế
giới quan khoa học. Những chức sắc trong các tổ chức tôn giáo đóng vai trò
quan trọng trong việc tuyên truyền thế giới quan tôn giáo mong hình thành
trong tín đồ hệ thống những quan niệm về thế giới, từ đó hướng họ vào việc

thực hiện những qui chuẩn, giá trị tôn giáo.
– Chức năng “đền bù hư ảo”
Đây không chỉ là chức năng chủ yếu, đặc thù mà còn là chức năng phổ
biến của tôn giáo. Ở đâu có tôn giáo ở đó có chức năng đền bù hư ảo.
Tôn giáo giống như liều thuốc an thần thường làm dịu, làm nhẹ nỗi đau
của con người. Niềm tin vào đấng tối cao mong được sự che chở, cứu vớt
thường làm cho con người có cảm giác được đền bù, xoa dịu, hạnh phúc cho
dù đó chỉ là “hạnh phúc hư ảo”.
Chức năng đền bù hư ảo được C. Mác phát biểu rất cô đọng: “Sự nghèo
nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản
kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng
sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là
tinh thần của những trật tự không có tinh thần. “Tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân” – nghĩa là chủ động nhân dân thấy tôn giáo có chức năng an ủi,
“giảm đau”, khác hoàn toàn việc cho rằng “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân” là người dân thụ động tiếp nhận mà không chắc có muốn hay không.
Đây cũng là lý do tại sao tôn giáo vẫn còn tồn tại trường kỳ trong xã hội ngày
nay, khi thế giới còn hiện tượng con người chưa thể giải thích bằng khoa học
và hơn nữa, khi mà vẫn còn một bộ phận nhân dân trong xã hội chưa thể làm


chủ được bản thân; vẫn phải sử dụng tôn giáo như một thứ thuốc phiện để làm
vơi đi những nỗi đau, những khó khăn gặp phải trong cuộc sống nơi trần thế.
Lênin đã viết về tính ru ngủ của tôn giáo như sau: “Đối với ai suốt đời
vẫn là lao động và sống trong cảnh thiếu thốn, tôn giáo dạy họ phải sống theo
tinh thần cam chịu và nhẫn nhục trong cuộc sống dưới trần gian, bằng cách
làm cho họ hy vọng sẽ được đền đáp khi lên thiên đàng”. Tuy nhiên, tôn giáo
nhiều lắm chỉ bù đắp nỗi bất hạnh của con người một cách tạm thời, hư ảo,
thuần tuý tinh thần theo C. Mác nói nó chỉ là “hạnh phúc tưởng tượng”.
Những biểu hiện tiêu cực và hệ quả xã hội của nó, như là “thuốc phiện” của

nhân dân cản trở sự nhận thức và hành động của quần chúng trong cuộc đấu
tranh để cải tạo xã hội trần tục một cách hiện thực.
– Chức năng điều chỉnh hành vi
Tôn giáo nào cũng có hệ thống những chuẩn mực, giá trị nhằm điều
chỉnh hành vi của tín đồ trong các quan hệ xã hội của họ. Chức năng điều
chỉnh hành vi được thực hiện vừa tự giác, vừa bắt buộc tuỳ thuộc vào sự nhận
thức của tín đồ, vào việc duy trì các quy phạm giáo luật, các điều kiêng kị của
tổ chức tôn giáo. Ví dụ, tín đồ đạo Cơ đốc có lễ xưng tội, tín đồ đạo Phật cầu
niệm Phật để tự nhận thức, điều chỉnh những hành vi của mình.
Những hành vi được điều chỉnh ở đây không chỉ là những hành vi trong
thờ cúng mà ngay cả trong cuộc sống hàng ngày trong gia đình cũng như
trong xã hội của các tín đồ. Vì vậy, hệ thống những chuẩn mực, giá trị trong
lý thuyết đạo đức và xã hội mà tôn giáo tạo ra đã ảnh hưởng sâu sắc và quan
trọng đến mọi hoạt động của con người. Tất nhiên ở đây cần phải lưu ý rằng
những chuẩn mực, giá trị tôn giáo đã bị tước bỏ khá nhiều những đặc trưng
khách quan và phụ thuộc vào những giá trị siêu nhiên, hư ảo.
Với những hệ thống giá trị đạo đức tôn giáo mà có giá trị Chân - Thiện Mỹ còn phù hợp với giá trị đạo đức đương thời, mang tĩnh xuyên thời gian và
không gian thì cần khuyến khích và phát huy. Ngược lại, với những giá trị
đạo đức đã lỗi thời, không còn phù hợp với chuẩn mực đạo đức đương thời thì


cần phải hạn chế, điều chỉnh, thậm chí xoá bỏ để giúp quần chúng tín đồ xây
dựng cuộc sống hạnh phúc thực sự nơi trần thế.
Tuy nhiên, không phải lúc nào tôn giáo cũng là một nhân tố liên kết xã
hội mà nhiều khi trong những điều kiện lịch sử nhất định, tôn giáo lại là nhân
tố gây mất ổn định xã hội.


Chức năng liên kết xã hội


Trong lịch sử xã hội có giai cấp, tôn giáo là một bộ phận quan trọng của
kiến trúc thượng tầng, do đó cũng là nhân tố liên kết xã hội, góp phần duy trì,
bảo vệ những trật tự xã hội hiện hành dựa vào những hệ thống giá trị và chuẩn
mực chung của xã hội.
Chức năng liên kết của tôn giáo thể hiện khả năng liên kết giữa những
người có chung một tín ngưỡng tôn giáo. Sự liên hệ này được thực hiện chủ
yếu trong hoạt động thờ cúng, sự giao tiếp với thánh thần được coi là sự giao
tiếp tối cao.
Tính liên kết của các tôn giáo được thực hiện do những quy định trong
giáo lý, giáo luật đòi hỏi những việc như truyền giảng, cầu nguyện đòi hỏi cả
một cộng đồng tham gia; việc trừng phạt những người đi ngược lại mục đích
của cộng đồng tôn giáo… Chính những đòi hỏi đó quy định tính liên kết của
mỗi tôn giáo, kéo theo liên kết về tình cảm, trong làm ăn kinh tế, văn hoá,
giáo dục… Do vậy, phạm vi liên kết có thể rộng hoặc hẹp. Với chức năng
này, tôn giáo đóng vai trò là một trong những nhân tố tạo nên sự liên kết trong
xã hội, bảo đảm sự thống nhất của xã hội.

- Chức năng giao tiếp
Các tín đồ của một tôn giáo giao tiếp với nhau thông qua các sinh hoạt
tôn giáo. Sự giao tiếp (liên hệ) với nhau đó tạo nên sự gắn kết trong cộng
đồng, trong tín hữu.


Chức năng giao tiếp của tôn giáo còn được biểu hiện ở chỗ, các tín đồ
không những chỉ liên hệ với nhau với tư cách là những người đồng tín
ngưỡng mà còn liên hệ với những người khác không cùng tín ngưỡng . Đó
chính là sự giao tiếp xã hội rộng lớn, ngoài phạm vi tôn giáo, mang tính kinh
tế, chính trị, văn hoá…
Đặc biệt các tín đồ tôn giáo còn có mối liên hệ, mối giao tiếp với một
thực thể siêu nhiên đó là thần thánh. Tín đồ giao tiếp với thần thánh thông qua

việc thực hiện các nghi thức cầu cúng trong các không gian tôn giáo.
Ngoài các chức năng nêu trên tôn giáo còn có nhiều chức năng khác như
chức năng nhận thức, chức năng văn hoá, chức năng đạo đức… Các chức
năng trên của tôn giáo tồn tại với tư cách là một hệ thống. Chúng không biệt
lập mà bao chứa lẫn nhau, tuỳ trong hoàn cảnh khác nhau mà có những biểu
hiện khác nhau. Nội dung xã hội của các chức năng của tôn giáo có biến đổi
và thường được các giai cấp khác nhau lợi dụng.
Nhờ có hệ thống chức năng riêng của mình, tôn giáo đã có tác động
không nhỏ tới con người và xã hội.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về
tôn giáo và công tác tôn giáo
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo một
tôn giáo nào là nguyên tắc được quán triệt trước sau như một, thể hiện ngày
càng đầy đủ và cụ thể hơn trong các văn kiện của Đảng và trong Hiến pháp
của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và trong các văn
kiện của Đảng, Chính phủ.
Quan điểm trên được cụ thể hóa và phát triển trong các Đại hội VII, VIII,
IX, X; Chỉ thị số 37 của Bộ Chính trị năm 1998 về công tác tôn giáo trong
tình hình mới; Nghị quyết số 25 – NQ/TW (Hội nghị TW lần thứ 7 khóa IX);
Điều 70 trong Hiến pháp năm 1992; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị
định số 22/2005/NĐ-CP (01/03/2005) hướng dẫn thi hành một số điều của
Pháp lệnh.


Về vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
khẳng định: Pháp luật Việt Nam là ý chí và nguyện vọng của hơn 86 triệu
người dân Việt Nam. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam luôn đảm bảo quyền
tự do tín ngưỡng đối với những người theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo.
Nhìn chung, Nghị quyết 25-NQ/TW đã thể hiện một cách đầy đủ nhất
quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tín ngưỡng,

tôn giáo, với những quan điểm sau:
Thứ nhất, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân. Thực
hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo
đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng
trước pháp luật.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo
tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị
tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với
Tổ quốc và nhân dân. Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do
tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước, kích động chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.
Thứ ba, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động
quần chúng.
Điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo vào sự nghiệp chung
của đất nước là mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,


văn minh. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền
và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu
cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc;
thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó

có đồng bào tôn giáo.
Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Công tác tôn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội,
các cấp, các ngành, các địa bàn. Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của
toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Tổ chức bộ mày và đội ngũ cán
bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp, cần được củng
cố và kiện toàn. Công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo và đầu tranh
chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối chế độ chỉ thành công nếu làm tốt
công tác vận động quần chúng.
Thứ năm, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa
nhận hợp pháp được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ, được
hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh
sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng
quy định của pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều
phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên
truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo
đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.


Trên cơ sở những quan điểm về công tác tôn giáo đã được đưa ra trong
Nghị quyết 25, Đảng ta đã xác định những nhiệm vụ cơ bản của công tác tôn
giáo như sau:
Một là, thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
Hai là, tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo đúng

chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Ba là, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “Tốt
đời, đẹp đạo” trong quần chúng, chức sắc, nhà tu hành, tín đồ ở cơ sở, xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Bốn là, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối
hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng về tôn
giáo, dân tộc để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ ta.
Năm là, hướng dẫn các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền
về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; kiên quyết đấu tranh làm thất
bại những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù
địch bên ngoài đối với tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo ở nước ta.
Sáu là, tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công
tác tôn giáo. Tăng cường nghiên cứu cơ bản, tổng kết thực tiễn, góp phần
cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương,
chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TÔN GIÁO VÀ NỘI DUNG CÔNG TÁC
TÔN GIÁO Ở HUYỆN CẨM KHÊ - TỈNH PHÚ THỌ

2.1. Đặc điểm tình hình tôn giáo ở huyện Cẩm Khê - tỉnh Phú Thọ


Về Phật giáo:
Đạo Phật có một ban đại diện Phật giáo huyện, gồm 9 thành viên, dưới
sự hướng dẫn của Ban trị sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ và sự quản lý của Uỷ ban
nhân dân huyện, sự hướng dẫn hoạt động của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
huyện.
Toàn huyện hiện nay có khoảng 5.500 phật tử, phần lớn là những người
cao tuổi, sinh hoạt ở 34 chùa. Tương ứng có 34 ban hộ tự với 180 thành viên;

có 27 Ban đại diện hội Phật giáo xã.
Trong đó:
+ Từ 70 tuổi trở lên: 63 người;
+ Dưới 70 tuổi

: 117 người;

+ Là nam

: 28 người;

+ Là Đảng viên

: 50 người;

+ Người có trình độ văn hoá từ THCS trở lên: 95 người [ Huyện ủy
Cẩm Khê: Báo cáo của BCH Đảng bộ huyện Cẩm Khê khóa VIII trình Đại
hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thư XXVII nhiệm kỳ 2007-2012].
Với đặc điểm như vậy, công tác giáo dục phật tử đã được Ban trị sự Phật
giáo tỉnh và Ban đại diện Phật giáo huyện đặc biệt quan tâm. Trong 5 năm từ
2002-2009, đã tổ chức được 8 cụm với sự tham gia của hơn 1.000 phật tử.
Thông qua những đợt tập huấn đã giúp cho các phật tử cũng như những tầng
lớp nhân dân hiểu sâu sắc hơn về con đường tu luyện và chân lý mà Đức Phật
giác ngộ đạt được để thường xuyên tu dưỡng đạo tâm, giáo dục các phật tử
đoàn kết, hoà hợp, yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau trong gia đình và cộng
đồng dân cư nhằm góp phần phấn đấu xây dựng cõi cực lạc ngay trên quê
hương.
Về cơ sở vật chất: hiện nay, toàn huyện có 13 nhà chùa được xếp hạng di tích
lịch sử văn hoá, trong đó có 1 chùa được xếp hạng cấp Quốc gia là chùa Long
Khánh (xã Phương Xá); 12 chùa được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp

tỉnh. Việc sửa chữa, xây dựng, tôn tạo nơi thờ tự được quan tâm. Trong năm


2008 số tiền đầu tư là 730.000.000 đồng [Báo cáo tình hình và công tác tôn
giáo năm 2009 – Ban chỉ đạo công tác tôn giáo huyện Cẩm Khê- tỉnh Phú
Thọ.]
Trong thời gian qua, các chùa đã tích cực vận động hội viên và gia đình
gương mẫu tham gia vào các cuộc vận động do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và
các ban ngành ở địa phương phát động như “Quỹ vì người nghèo”, ủng hộ
nạn nhân nhiễm chất độc màu da cam, ủng hộ quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ
khuyến học, ủng hộ đồng bào bị thiên tai. Trong năm 2009, ủng hộ được được
số tiền là hơn 70.000.000 đồng. Thông qua những hoạt độn trên đã khẳng
định những người con Phật đã và đang từng bước thực hiện có hiệu qủa tinh
thần đạo đức Phật giáo là từ bi, cứu khổ, cùng vui chia sẻ với chúng sinh,
đồng hành cùng dân tộc.
Tuy nhiên,có một số vấn để cần phải lưu ý như sau:
- Ngày 20/08/2008, Văn phòng UBND huyện nhận thùng hàng nói về
Phật giáo, lãnh đạo UBND huyện chỉ đạo Công an huyện phối hợp cùng các
cơ quan chức năng khác mở thùng hàng thấy có 98 đĩa VCD, 15 đĩa DVD và
95 cuốn sách các loại. Tất cả các văn hóa phẩm trên đều không có nhà xuất
bản, vi phạm Luật xuất bản của Pháp luật Nước CHXHCN Việt Nam, không
có chứng minh được nhập khẩu.
Nội dung các tài liệu mệnh danh Sư phụ Trần Tâm là người Việt Nam di
tản sang Mỹ từ năm 12 tuổi có hướng tu hành đã tự tu và khẳng định trong thế
kỉ XXI, mình là vị Minh sư duy nhất cầu nối giữa con người với Thượng đế.
- Ngoài ra, HĐND – UBND huyện còn nhận được bưu kiện của Sư cô
Như Hoa: Trần Thị Vinh – Chùa Mật Tông Phúc Hoa gửi tới. Trong bưu kiện
cũng có những cuốn sách không có giấy phép xuất bản.
- Trong Hội Phật giáo huyện hầu hết là các cụ bà cao tuổi, xuất thân và
gắn bó với nông nghiệp, nông thôn nên trình độ nhận thức phần lớn còn hạn

chế, trình độ văn hoá thấp, học kinh phật chủ yếu bằng phương pháp truyền


khẩu nên việc tổ chức thực hiện các buổi lễ tại nhà chùa chưa được trang
nghiêm.
- Nhiều chùa, việc thực hiện các thủ tục đón nhận chưa đúng với quy
định của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 22/CP của Chính
phủ như tại chùa Cả xã Sơn Nga.
Về đạo Công giáo
Đạo Công giáo được du nhập vào địa bàn huyện Cẩm Khê từ cuối thế kỉ
XIX, đầu thế kỉ XX cùng với quá trình mở rộng phạm vi cai trị của thực dân
Pháp. Một số dân phu từ Nam Định di cư lên đã đem theo đạo Công giáo và
truyền vào khu vực Dư Ba, xây dựng ở đây một nhà thờ làm nơi cầu nguyện.
Sau đó, đạo này đã tiếp tục được truyền bá sang một số làng khác, xã khác.
Trong huyện có 19 nhà thờ, hầu hết được xây dựng trong những năm 10 – 20
của thế kỉ XX, trong đó có một số nhà thờ lớn như nhà thờ Dư Ba (xã Tuy
Lộc), nhà thờ Phượng Cát (xã Phượng Vỹ), nhà thờ Tam Sơn, nhà thờ Suông
(xã Hương Lung), nhà thờ Tạ Xá, Yên Tập…, với hơn 25% dân số theo đạo
Công giáo và là địa phương có số nhà thờ, giáo dân nhiều nhất tỉnh Phú Thọ.
Tính đến cuối năm 2009, có 33.269 giáo dân, chiếm 25.87% dân số toàn
huyện, giáo dân cư trú xen kẽ tại 18 xã, thị trấn trong huyện (có 5 xã và 1
thôn toàn tòng là Phượng Vỹ, Ngô Xá, Hương Lung, Yên Tập, Tạ Xá và thôn
Dư Ba thuộc xã Tuy Lộc), có 6 giáo sứ, 19 nhà thờ với 191 chức việc. Đạo
công giáo có 6 linh mục đang làm nhiệm vụ mục vụ, ngoài linh mục còn có
các tu sĩ, các chức việc trong ban hành giáo, các tổ chức hội đoàn, một số
Chủng sinh đang học ở Đại chủng viện và tu sinh thường xuyên trở về địa
phương giúp việc cho các linh mục trong các dịp lễ ở Thánh đường [BCĐ
công tác tôn giáo huyện Cẩm Khê: [ Báo cáo tình hình và công tác tôn giáo
năm 2001, 2006, 2008.2009, 2010.]
Đời sống của đại bộ phận giáo dân đã có bước cải thiện, xóa được hộ

đói, giảm được hộ nghèo, bình quân mỗi năm giảm 0.54% hộ nghèo.


Trong quá trình hoạt động, các Linh mục, tu sĩ và tín đồ công giáo cũng
đã tham gia các hoạt động từ thiện, ủng hộ nạn nhân bị lũ lụt. Như Linh mục
Đặng Văn Mạnh, Linh mục Nguyễn Quang Dĩnh ở nhà thờ xã Ngô Xá đã
thăm và tặng quà cho 26 hộ gia đình giáo dân bị ngập nhà do lũ, mỗi xuất trị
giá 500.000 đồng. Tòa giám mục Hưng Hóa đã hỗ trợ cho các gia đình bị
ngập lụt do cơn bão số 4 năm 2009, với số tiền là 50.000.000 đồng.
Tuy nhiên, ngoài những mặt tích cực trên, tình hình đạo Công giáo trên
địa bàn huyện cũng có một số vấn đề phải lưu ý:
– Từ ngày 04/9 đến 14/9/2008, trên địa bàn huyện có 69 lượt giáo dân
đến nhà thờ Thái Hà để xem “Đức mẹ hiện hình” theo tin tuyên truyền, khi về
có đem theo tài liệu tuyên truyền. Qua theo dõi, nắm tình hình không có vấn
đề gì đáng ngại. Tuy nhiên, cấp ủy cơ sở và các cơ quan chức năng, lực
lượng công an đã tăng cường bám sát tình hình thực tiễn và tập trung tuyên
truyền nên giáo dân không đi nữa, đến nay tình hình đã ổn định.
Trong ngày lễ Noel năm 2009, Công an huyện đã phối hợp với Công an xã
Yên Tập phát hiện và thu giữ 07 đĩa DVD có nội dung các bài hát Tôn giáo
nhưng không dán tem, không có nhãn theo quy định và 04 cuốn sách Kinh
khổ 12x13cm dày 125 trang, không có tên nhà xuất bản và không có giấy
phép xuất bản. [ Huyện ủy Cẩm Khê: Báo cáo của BCH Đảng bộ huyện Cẩm
Khê khóa VIII trình Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thư XXVII nhiệm kỳ
2007-2012.]
Với đặc điểm của đạo Phật và đạo Công giáo như trên đã tác động mạnh
mẽ đến việc thực hiện công tác tôn giáo của địa phương, giúp cho công tác
tôn giáo của huyện đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng có không ít hạn chế,
những bài học cần rút ra trong hoạt động lãnh đạo và thực hiện công tác tôn
giáo của các cấp chính quyền tại địa bàn huyện Cẩm Khê.
Như vậy, cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn trên đây đã đặt ra yêu cầu đối

với các cấp lãnh đạo nước ta nói chung và các cấp lãnh đạo huyện Cẩm Khê


nói riêng, phải tăng cường công tác tôn giáo trong quá trình lãnh đạo, nhằm
thực hiện hiệu quả hơn nữa trong lĩnh vực này.
2.2. Một số nội dung cơ bản trong công tác tôn giáo ở huyện Cẩm Khê tỉnh Phú Thọ
* Quán triệt Nghị quyết về công tác tôn giáo:
Để quán triệt các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương và của Tỉnh ủy về
công tác tôn giáo như: NQ số 24-NQ/TW năm 1990 của Bộ Chính trị về công
tác tôn giáo, Nghị quyết số 25-NQ/TW (Hội nghị TW lần 7 khóa IX); Điều 70
trong Hiến pháp 1992; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị quyết số
22/2005/NĐ-CP (01/03/2005) hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh;
Quyết định số 2564/2006/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ
ngày 13/9/2006 về “Ban hành quy định một số điểm thực hiện pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Phú Thọ”, Hướng dẫn số 02/HD-MT của
Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh Phú Thọ này 05/3/2009 hướng dẫn công tác dân
tộc, tôn giáo của Ủy ban Mặt trận tổ quốc các cấp năm 2009. Huyện ủy đã
phối hợp với các cơ quan chức năng ban hành nhiều văn bản nhằm cụ thể hóa
quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Từ đó xác
định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan, ban, ngành, đoàn
thể trong huyện trong việc thực hiện chính sách tôn giáo.
+ Kế hoạch số 78/KH-UB ngày 29/2/2000 của Ủy ban nhân dân huyện
Sông Thao (Tên gọi cũ của huyện Cẩm Khê) về việc triển khai thực hiện Nghị
định số 26/1999/NĐ-CP về các hoạt động tôn giáo. Mục đích là thống nhất
những nội dung, biện pháp tổ chức chỉ đạo thực hiện Nghị định số
29/1999/NĐ-CP của Chính Phủ về các hoạt động tôn giáo, đạt kết quả, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác tôn giáo trong tình hình mới trên địa bàn
huyện. Nêu cao vai trò ủa cấp ủy Đảng, Chính quyền và các đoàn thể, các tổ
chức xã hội từ huyện đến cơ sở trong việc hướng dẫn, động viên các chức sắc,
chức việc và người có đạo thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách

của Đảng, Nhà nước đối với công tác tôn giáo trong tình hình mới.


+ Nghị quyết số 04-NQ/HU ngày 10/4/2001 của BTV Huyện ủy về việc
tăng cường lãnh đạo của các cấp ủy đối với công tác vận động quần chúng ở
các xã có đồng bào công giáo. Nghị quyết nêu lên tinh thần và kết quả của
quá trình xây dựng các tổ chức quần chúng và công tác vận động quần chúng
nhân dân ở các xã có đồng bào theo đạo công giáo; phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp về tăng cường lãnh đạo của các cấp ủy đối với công tác
vận động quần chúng nhân dân ở các xã có đồng bào theo đạo công giáo đến
năm 2005. Nghị quyết này là cơ sở để Ủy ban MTTQ huyện xây dựng
chương trình hành động số 05/CT-MT.
+ Chương trình số 05/CT-MT của Ủy ban MTTQ huyện Sông Thao ngày
10/7/2001 về việc tổ chức thực hiện Nghị quyết 04 của Ban thường vụ Huyện
ủy về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác vận động quần
chúng ở các xã có đồng bào Công giáo. Chương trình đã khái quát tình hình
công tác Mặt trận tổ quốc tham gia lãnh đạo thực hiện công tác vận động quần
chúng ở các xã có đồng bào Công giáo trong các năm trước đó. Từ đó, đưa ra
phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu và giải pháp của chương trình tổ chức
thực hiện Nghị quyết 04-NQ/HU của Ban Thường vụ Huyện ủy: Tăng cường
vận động quần chúng nhân dân ở các xã có đồng bào theo đạo công giáo của
Mặt trận tổ quốc đến năm 2005.
+ Chương trình hành động số 106-CTr/HU ngày 14/5/2003 về việc thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa IX về
công tác tôn giáo. Nội dung của chương trình hành động này là nhằm tổ chức
học tập quán triệt Nghị quyết 25 tới cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành và đội
ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo. Đồng thời tổ chức học tập, quán triệt sâu
rộng tới đảng viên, hội viên, đoàn viên các đoàn thể nhân dân. Chương trình
cũng đề ra một số chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện
thành công Nghị quyết.

+ Chỉ thị số 17-CT/HU ngày 19/6/2009 về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
công tác Tôn giáo. Chỉ thị nêu khái quát tình hình hoạt động tôn giáo trên địa


bàn huyện cùng với những hạn chế, yếu kém trong công tác tôn giáo của
huyện. Trên cơ sở đó, Huyện ủy yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận tổ
quốc, các cơ quan, ban ngành từ huyện đến cơ sở triển khai thực hiện tốt một
số nhiệm vụ trong công tác tôn giáo như tăng cường tuyên truyền chủ trương,
chính sách của Đảng về tôn giáo vào quần chúng nhân dân; tuyên truyền chủ
trương sống tốt đời đẹp đạo; Lương – Giáo đoàn kết, tăng cường công tác
quản lý các hoạt động tôn giáo; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước...
+ Ban chỉ đạo công tác tôn giáo phải luôn báo cáo tình hình , thực trạng
cũng như công tác tôn giáo của huyện.
* Việc tổ chức thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị, Kế hoạch, chương trình
hành động trên đã được Huyện ủy phân công trách nhiệm rõ ràng cho các cơ
quan, đơn vị, ban ngành chức năng trong huyện mà trực tiế là Ban chỉ đạo
công tác tôn giáo, Ủy ban Mặt trận tổ quốc huyện và các xã.
Sau khi có các Nghị quyết về công tác tôn giáo, Ban thường vụ Huyện ủy
đã tiến hành mở hội nghị cán bộ toàn huyện triển khai, quán triệt Nghị quyết.
Thành phần gồm các đồng chí trong Ban chấp hành Đảng bộ huyện, thủ
trưởng các cơ quan ban ngành, Mặt trận tổ quốc, đoàn thể ở huyện, Bí thư chi
đảng bộ trực thuộc, thường trực đảng, khối dân vận xã, thị trấn; trọng điểm
chỉ đạo là các xã có đồng bào công giáo.
Cụ thể: Sau Hội nghị quán triệt học tập Nghị quyết số 25-NQ/TW về
công tác tôn giáo, các chi đảng bộ cơ sở và Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể
huyện đã xây dựng kế hoạch và triển khai học tập từ trong cán bộ, đảng viên,
đoàn viên, hội viên đến quần chúng nhân dân và các chức sắc, tín đồ tôn giáo.
Xác định những nội dung tập trung chỉ đạo thực hiện, các mặt yếu kém để
khắc phục rút kinh nghiệm chỉ đạo, đồng thời chọn điểm chỉ đạo phù hợp với
điều kiện thực tế của đơn vị mình. Tính đến hết năm 2003, đã có 100% các

chi, đảng bộ trực thuộc, các cơ quan, các ngành, Mặt trận tổ quốc, các đoàn
thể huyện xây dựng được chương trình thực hiện Nghị quyết.


Cùng với việc triển khai học tập Nghị quyết TW 7 và các chương trình
hành động của Tỉnh ủy, Huyện ủy, Ban thường vụ Huyện ủy đã thường xuyên
lãnh, chỉ đạo các ngành, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục thực
hiện tốt các Chỉ thị, Nghị quyết chuyên đề của Trung ương, của Tỉnh ủy,
Huyện ủy về công tác vận động quần chúng, công tác phát triển hội viên là
phụ nữ ở các xã đông đồng bào công giáo trong huyện.
Chỉ đạo chặt chẽ việc sơ, tổng kết các Nghị quyết chuyên đề như: Nghị
quyết số 18-NQ/TU về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW 7 của Bộ Chính trị
khóa VIII về đại đoàn kết dân tộc, tăng cường mặt trận thống nhát; Tổng kết
kết quả thực hiện Nghị quyết 04-NQ/HU của Ban thường vụ huyện Cẩm Khê
về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với công tác vận động quần
chúng ở các xã có đồng bào công giáo. Chỉ đạo việc khảo sát, điều tra tình
hình quần chúng, tình hình đảng viên có đạo và đảng viên tham gia các chức
sắc, chức việc tôn giáo.
Ngoài ra, Ủy ban kiểm tra Huyện ủy có kế hoạch kiểm tra việc tổ chức
thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị, các chương trình hành động. Ban dân vận
Huyện ủy phối hợp với Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Mặt trận tổ quốc huyện có
nhiệm vụ tham mưu, giúp Ban thường vụ Huyện ủy đôn đốc việc triển khai
thực hiện, tổng hợp kết quả, báo cáo BTV Huyện ủy giải quyết theo định kỳ.
Trong quá trình thực hiện, kịp thời phát hiện, đề xuất, kiến nghị để điều chỉnh,
bổ sung nhằm thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết, Chỉ thị, Chương trình
hành động do Huyện ủy đề ra.
2.3. Thực tác trạng công tác tôn giáo ở huyện Cẩm Khê- tỉnh Phú Thọ
2.3.1 Một số yếu tố tác động đến hiệu quả công tác tôn giáo ở huyện
Cẩm Khê – Tỉnh Phú Thọ hiện nay
Vị trí địa lý:

Cẩm Khê là một huyện miền núi, nằm ở phía Tây của tỉnh Phú Thọ, có
tổng diện tích tự nhiên là 23.425ha. Địa hình cao đều từ Đông sang Tây, có


chiều dài 30km, kéo dài theo sông Hồng, giáp với Huyện Thanh Ba. Độ cao
so với mực nước biển ở mức 9.7 – 15m [BCH Đảng bộ huyện Cẩm Khê- tỉnh
Phú Thọ: Lịch sử Đảng bộ huyện Cẩm Khê, 2007]
Suốt chiều dài phía Tây – Nam là tầng thấp của dáy núi thuộc đoạn cuối
của vòng cung Hoàng Liên Sơn, như một bức tường tạo thành ranh giới tự
nhiên với huyện Yên Lập. Phía Đông Nam giáp với Huyện Tam Nông bằng
con sông Bứa chảy ra sông Hồng.
Đơn vị hành chính: Huyện có 30 xã và 1 thị trấn. Trong đó có 26 xã
miền núi, 1 xã hưởng chính sách 135 của Chính Phủ.
Dân số: Huyện có trên 130.000 người, trong đó có 95% sống ở nông
thôn, còn lại sống ở thị trấn. Tính bình quân trong vòng 80 năm, dân số Cẩm
Khê tăng khoảng 1.200 người mỗi năm; mật độ dân số là 554.7 người
Lịch sử của huyện: Trải qua mấy ngàn năm, địa giới và tên gọi của huyện đã
có nhiều lần thay đổi. Thời đại Hùng Vương, vùng đất này thuộc Bộ Văn
Lang – là bộ lớn nhất của Nhà nước Văn Lang cổ đại. Vào đời Hán, đất Cẩm
Khê có tên là Hồi Hồ, thời Thục Minh gọi là Ma Khê, đời vua Lê Thánh Tông
(1460) đổi là Hoa Khê. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) tên huyện là Cẩm
Khê. Từ tháng 10/1977 đến tháng 3/2002 tên gọi là huyện Sông Thao. Từ
4/2002, tên huyện trở về tên gọi cũ là Cẩm Khê [BCH Đảng bộ huyện Cẩm
Khê- tỉnh Phú Thọ: Lịch sử Đảng bộ huyện Cẩm Khê, 2007.]
Kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2001 – 2005 là 8.8%.
Nguồn thu nhập chính của người dân là nông nghiệp và ngành nghề truyền
thống như đan lát, mộc, sản xuất vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, phân loại theo
tiêu chí mới có 10.830/29.533 hộ là hộ nghèo, bằng 36.67% dân số toàn
huyện. Trong đó, có 9/14 xã có đồng bào Công giáo có tỷ lệ hộ nghèo cao
hơn bình quân của huyện.[ BCĐ công tác tôn giáo huyện Cẩm Khê: Báo cáo

tình hình và công tác tôn giáo năm 2001, 2006, 2008.2009, 2010.]
Tôn giáo: Cẩm Khê là huyện có đông đồng bào theo đạo của tỉnh Phú Thọ,
với 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo. Chiếm 22.8% số đồng bào


theo đạo của tỉnh Phú Thọ. Trong đó: số lượng tín đồ, chức sắc của Công giáo
chiếm 29.47% số lượng tín đồ, chức sắc Công giáo của tỉnh. Ngoài ra trên địa
bàn huyện còn tồn tại loại hìn tín ngưỡng dân gian với 28 đình, 5 đền, 6 miếu
[Hội Phật giáo huyện Cẩm Khê: Báo cáo của ban đại diện Phật giáo huyện
khóa II trình Đại hội Đại biểu Phật giáo huyện Cẩm Khê- khóa III, nhiệm kỳ
2007- 2012.]
Văn hóa – xã hội: Qua quá trình giao lưu, đan xen văn hóa giữa các miền
tạo nên một vùng văn hóa phong phú, đa dạng trong đó nền tảng văn hóa
truyền thống Hùng Vương vẫn được bảo tồn và không ngừng phát triển. Cẩm
Khê tự hào với những giá trị văn hóa xa xưa còn được bảo tồn đến ngày hôm
nay. Ông Đặng Văn Đăng – với bút danh “Bút tre” người sáng tác thơ ca
mang đâm phong cách nghệ dân gian ở những năm 60 – 70 của thế kỷ XX.
Tuy đã đi xa nhưng những tác phẩm thơ ca do ông sáng tác vẫn sống mãi và
là niềm tự hào của nhân dân Cẩm Khê.
Huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục năm 2003; có 67% hộ gia đình
đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; 64% khu dân cư đạt tiêu chuẩn văn hóa; 31
xã, thị trấn có bác sỹ, có đài truyền thanh từ năm 2002.
Với những yếu tố trên đã tạo ra những thuận lợi cũng như những khó
khăn đối với tình hình tôn giáo của huyện Cẩm Khê:
Những thuận lợi cơ bản:
+ Trong quá trình hội nhập, mở cửa của đất nước cùng với những kinh
nghiệm và thành quả đạt được trong thời gian qua đã tạo ra điều kiện thuận lợi
trong phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương, cơ sở hạ tầng được đầu tư; cơ sở
vật chất cho tôn giáo được quan tâm, ngày càng khang trang và hoàn thiện hơn.
+ Chính quyền và nhân dân trong huyện đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong

lao động, sự lãnh chỉ đạo của các cấp ủy Đảng ngày càng được tăng cường,
tạo nên mối quan hệ bền chặt giữa đồng bào Lương – Giáo và giữa các tín đồ,
chức sắc tôn giáo với nhau. Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lãnh, chỉ đạo
của Đảng bộ huyện trong công tác tôn giáo.


×