Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.11 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ KẾT HÔN
GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
1.

Sự hình thành và phát triển của vấn đề kết hôn giữa công dân Việt
Nam và người nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam

2.

a.

Trước năm 2000

b.

Từ năm 2000 đến nay

Khái niệm về vấn đề kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước
ngoài
a.

Khái niệm về vấn đề kết hôn

Hôn nhân là cơ sở hình thành gia đình - tế bào của xã hội. Trong mỗi
chế độ xã hội, gia đình đều thực hiện những chức năng cơ bản mang tính
chất xã hội của nó. Một trong những chức năng cơ bản của gia đình là sinh
sản nhằm tái sản xuất ra con người, là quá trình tiếp tục nòi giống. Đó là một
quá trình cần thiết của cuộc sống trong một xã hội nhất định. Quá trình này
được thể hiện ở chỗ “hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con


người bắt đầu tạo ra những con người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ
giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái – đó là gia đình”. Nếu không có


sản xuất và tái sản xuất ra con người thì xã hội không thế phát triển, thậm
chí không thể tồn tại được. Như vậy, gia đình là một trong những thể chế cơ
bản của xã hội.
Gia đình ra đời, tồn tại và phát triển trước hết là nhờ Nhà nước thừa
nhận hôn nhân của đôi nam nữ, đồng thời quy định quyền và nghĩa vụ pháp
lý giữa họ. Hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa một người nam và một
người nữ, sự liên kết đó phải được Nhà nước thừa nhận bằng sự phê chuẩn
dưới hình thức pháp lý – đó là đăng ký kết hôn. Như vậy, đăng ký kết hôn
làm xác lập quan hệ hôn nhân và là cơ sở để hình thành gia đình. Trong xã
hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị.
Thông qua Nhà nước và bằng pháp luật, giai cấp thống trị tác động vào các
quan hệ hôn nhân và gia đình làm cho những quan hệ này phát sinh, thay đổi
hay chấm dứt phù hợp lợi ích của giai cấp đó.
Pháp luật của Nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây quy định việc
kết hôn của nam nữ phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc họ hàng thân thích.
Pháp luật của Nhà nước ta hiện nay quy định việc kết hôn của nam nữ phải
dựa trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với đạo đức xã hội chủ
nghĩa và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân lao động.
Hôn nhân là cơ sở của gia đình và gia đình là tế bào của xã hội. “Gia
đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”. Vì vậy, Nhà
nước ta luôn quan tâm củng cố chế độ hôn nhân và đề ra những biện pháp
nhằm làm ổn định quan hệ này. “Nhà nước bảo hôn nhân và gia đình…”
(Điều 64 Hiến pháp năm 1992).
Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Hệ thống pháp luật của Nhà nước ta quy định việc kết hôn phải được

đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp hai người


kết hôn cùng là công dân Việt Nam kết hôn với nhau tại Việt Nam thì cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc kết hôn là uỷ ban nhân dân cấp
cơ sở nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ. Trong trường hợp kết hôn có yếu
tố nước ngoài mà việc kết hôn tiến hành ở Việt Nam thì uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh nơi thường trú của công dân Việt Nam đăng ký việc kết hôn. Cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài thực hiện việc
đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài. Khi yêu
cầu đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ phải cùng có mặt tại cơ quan đăng ký
kết hôn, nộp tờ khai đăng ký kết hôn và những giấy tờ cần thiết khác. Trong
trường hợp có lý do chính đáng, một trong hai bên kết hôn không thể đến
nộp hồ sơ đăng ký kết hôn thì có thể gửi cho cơ quan đăng ký kết hôn đơn
xin nộp hồ sơ vắng mặt, trong đơn phải nêu rõ lý do vắng mặt và phải có xác
nhận của uỷ ban nhân dân cấp cơ sở nơi người vắng mặt cư trú.
b.

Khái niệm về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài

Trong khoa học tư pháp quốc tế nói chung và các quy định của pháp
luật Việt Nam về hôn nhân gia đình nói riêng thì quan hệ hôn nhân và
gia đình thuộc đối tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tham gia. Trên thế giới có
rất nhiều quan điểm khác nhau về “yếu tố nước ngoài” trong quan hệ
hôn nhân và gia đình. Ở Việt Nam “yếu tố nước ngoài” trong quan hệ
hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 14 Điều 8 luật hôn nhân
và gia đình năm 2000. Theo đó quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:
a)


Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;

b)

Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;


c)

Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay

đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên
quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Bên cạnh đó khoản 4 Điều 100
luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định: “Các quy định
của Chương này cũng được áp dụng với quan hệ hôn nhân và gia
đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên
định cư ở nước ngoài”.
Như vậy, theo các quy định trên, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài có thể được hiểu là các quan hệ hôn nhân và gia đình
sau:
- Có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài. Người nước ngoài là
người không có quốc tịch của nước nơi mà họ đang cư trú. Ở Việt
Nam, người nước ngoài được hiểu là người không có quốc tịch Việt
Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không có
quốc tịch. Người có quốc tịch nước ngoài có thể là người có một hoặc
nhiều quốc tịch nước ngoài. Như vậy, quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài có thể xảy ra trong các trường hợp sau: Giữa
người Việt Nam với người nước ngoài, giữa người Việt Nam với
người không có quốc tịch, giữa người nước ngoài với nhau thường trú

tại Việt Nam, giữa người không có quốc tịch với nhau thường trú tại
Việt Nam.
- Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi, chấm
dứt quan hệ hôn nhân và gia đình theo pháp luật nước ngoài (điểm c
khoản 14 Điều 8). Theo quy định này có thể hiểu rằng trong một số
trường hợp nhất định, pháp luật Việt Nam thừa nhận việc phát sinh,
thay đổi, chấm dứt các quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các công


dân Việt Nam với nhau trong một chừng mực nhất định………….
(thêm sau)
c.

Khái niệm về điều kiện kết hôn
+

Điều kiện về nội dung

+

Điều kiện về hình thức

3. Phương pháp giải quyết vấn đề về điều kiện kết hôn có yếu tố nước
ngoài
a.

Phương pháp xung đột

b.


Phương pháp thực chất

4. Vai trò của pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam trong việc điều
chỉnh vấn đề điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài
a.

Cơ sở pháp lý

Với chính sách “hoà bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả
các nước trên thế giới”, ở nước ta các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài ngày càng phát triển một cách đa dạng và phức tạp cả về bề
rộng lẫn chiều sâu. Việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài trở thành một yêu cầu cấp bách, quan trọng nhằm làm ổn định
và phát triển giao lưu dân sự quốc tế, đồng thời bảo vệ được quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân các nước có liên quan.
Việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
không chỉ phụ thuộc và pháp luật trong nước mà còn phụ thuộc và pháp luật
nước ngoài, các điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.


Để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật khác nhau trong từng
thời kỳ mà điển hình là Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt
Nam với người nước ngoài ngày 2/12/1993. Pháp lệnh 1993 là sự cụ thể hoá
quy định tại Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Pháp lệnh đã
định ra những nguyên tắc làm cơ sở cho việc chọn luật được áp dụng để giải
quyết xung đột pháp luật trong quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài.
Trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật về quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã tập trung

điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trong một
chương riêng (Chương IX).
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài theo nghĩa rộng hơn so với Luật hôn nhân và gia
đình năm 1986.
b.

Tạo điều kiện cho các quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công

dân Việt Nam và người nước ngoài phát triển thuận lợi
c.

Thúc đẩy hợp tác và giao lưu dân sự giữa Việt Nam và các

d.

khái niệm về điều kiện kết hôn có yếu tố nước ngoài

nước


CHƯƠNG II
CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ ĐIỀU KIỆN THỦ TỤC KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT
NAM VÀ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
1. Giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài
a. Điều kiện kết hôn về nội dung
- Theo quy định pháp luật của một số nước
- Theo quy định của pháp luật Việt Nam

- Theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
b. Điều kiện về thủ tục kết hôn
- Theo quy định pháp luật của một số nước
- Theo quy định của pháp luật Việt Nam
- Theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
2. Các quy định thực chất của Việt Nam về điều kiện kết hôn giữa
công dân Việt Nam và người nước ngoài
a. Điều kiện kết hôn về nội dung
b. Điều kiện về thủ tục kết hôn
3. Các quy định của pháp luật Việt Nam về huỷ bỏ việc kết hôn trái
pháp luật giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài


4. Đánh giá chung

CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT
NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
KIẾN NGHỊ
1. Thực trạng vấn đề kết hôn
a. Tình trạng chung
b. Các mặt tích cực
c. Các mặt hạn chế
2. Một số giải pháp và kiến nghị

KẾT LUẬN
Thuộc chương II
1. Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn theo pháp
luật các nước
a. Về điều kiện kết hôn

- Độ tuổi kết hôn: Các nước có quy định rất khác nhau về độ tuổi ở
một số nước: Tây Ban Nha, Chi Lê, một số bang của Mỹ: Tuổi kết hôn


đối với nam là 14, nữ là 12; Hà Lan, Pháp: tuổi kết hôn đối với nam là
18, nữ là 16, ở Anh tuổi 16 là tuổi kết hôn cho cả nam và nữ; Trung
Quốc, tuổi kết hôn đối với nam là 22, nữ là 20…
- Điều kiện cấm kết hôn:
Pháp luật của các nước: Pháp, Mỹ, Thuỵ Sỹ, Tây Đức cấm những
người có họ hàng trong phạm vi 3 đời kết hôn với nhau. Ở Anh, Bungari
(Điều 10 Bộ luật gia đình Bungari) cấm kết hôn trong phạm vi 4 đời.
- Các điều kiện khác:
Ở nhiều nước, người vợ goá hoặc ly dị chồng phải sau một thời gian
nhất định mới được tái giá (ví dụ: ở Đức, Điều 1313 Bộ dân luật Đức: 10
tháng; ở Pháp, Điều 296 Bộ dân luật Pháp; 300 ngày).
Chính từ những quy định khác nhau trên, khi có một quan hệ kết hôn
có yếu tố nước ngoài thì tất yếu sẽ dẫn đến xung đột pháp luật. Để giải
quyết xung đột pháp luật này, về lý luận cũng như thực tiễn, pháp luật
của đa số các nước nghiêng về áp dụng nguyên tắc luật nhân thân (lext
personalis) của các bên đương sự để giải quyết. Song có nước áp dụng
nguyên tắc luật quốc tịch (lex patriae), có nước lại áp dụng nguyên tắc
luật nơi cư trú (lex domiccili) của đương sự để giải quyết xung đột pháp
luật về điều kiện kết hôn.
Ở Pháp:
Theo Điều 170 Bộ luật dân sự Pháp, điều kiện kết hôn của công dân
Pháp do pháp luật của Pháp điều chỉnh, bất kể nơi tiến hành kết hôn. Xuất
phát từ quy phạm xung đột một bên này, thực tiễn xét xử của Pháp đã biến
thành quy phạm xung đột hai bên: Điều kiện kết hôn do pháp luật của nước
đương sự mang quốc tịch quyết định. Như vậy, toà án Pháp áp dụng pháp



luật của nước mà người nước ngoài mang quốc tịch để xác định điều kiện
kết hôn của họ. Tuy nhiên, khi tiến hành kết hôn ở Pháp, ngoài việc tuân thủ
luật của nước mà họ mang quốc tịch, người nước ngoài còn phải tuân theo
một số điều kiện do pháp luật của Pháp quy đinh như: Tuổi kết hôn, sự đồng
ý của cha mẹ, của người giám hộ nếu người kết hôn chưa đến tuổi thành
niên.
- Theo pháp luật của Đức:
Điều kiện kết hôn do pháp luật của nước đương sự mang quốc tịch
điều chỉnh (Điều 13 Bộ luật dân sự Đức) đồng thời chấp nhận dẫn chiếu
ngược trở lại pháp luật Đức và dẫn chiếu đến luật nước thứ 3 (Điều 27 Bộ
luật dân sự Đức).
- Ở Anh: Điều kiện kết hôn do pháp luật của nước nơi đương sự cư trú
quyết định: Nếu hai bên đương sự cư trú mỗi người mỗi nơi thì điều kiện kết
hôn sẽ được xác định theo pháp luật nơi cặp vợ chồng này sẽ chung sống.
Theo pháp luật ở Anh: Nơi cư trú của hai vợ chồng là nơi cư trú của
người chồng. Vì vậy pháp luật nơi cư trú của người chồng quyết định điều
kiện kết hôn.
- Theo pháp luật của Mỹ:
Điều kiện kết hôn giải quyết theo pháp luật nơi tiến hành kết hôn bất kể
quốc tịch và nơi cư trú của các bên đương sự.
-

Theo pháp luật các nước Đông Âu:

Điều kiện kết hôn được thống nhất theo nguyên tắc chung là luật quốc tịch
của các bên tham gia kết hôn điều chỉnh (Điều 14 Luật Tư pháp quốc tế của
Ba Lan năm 1965, Điều 19 Luật Tư pháp quốc tế và tố tụng năm 1964 của
Séc và Slovakia, Điều 91 Bộ luật hôn nhân và gia đình của Bungari…). Tuy
nhiên, pháp luật của các nước này quy định một số điều bảo lưu: không được

phép lấy nhiều vợ, nhiều chồng. Anh chị em ruột, cha mẹ nuôi và con nuôi


không được kết hôn với nhau, không được phân biệt chủng tộc, dân tộc, tôn
giáo.
- Ở Ucraina:
Việc kết hôn của người nước ngoài trên lãnh thổ Ucraina được tiến hành
trên cơ sở chung, có nghĩa là điều kiện kết hôn được xác định theo luật
Ucraina.
Điều kiện kết hôn giữa công dân Ucraina kết hôn với người nước ngoài
trên lãnh thổ Ucraina, cũng như việc kết hôn của công dân Ucraina ở nước
ngoài. Về điều kiện kết hôn đối với công dân Ucraina sẽ căn cứ vào luật hôn
nhân và gia đình Ucraina.
Để thống nhất hoá các quy phạm giải quyết xung đột pháp luật về điều
kiện kết hôn các nước đã ký kết với nhau hàng loạt các điều ước quốc tế đa
phương và song phương.
Trong số các điều ước quốc tế đa phương cần kể đến là Công ước Lahay
năm 1902 về kết hôn. Trong Công ước quy định: Điều kiện kết hôn sẽ do
luật quốc tịch của các bên tham gia kết hôn điều chỉnh.
Như vậy, theo Công ước: Nơi thường trú cũng như nơi đăng ký kết hôn
của đương sự không ảnh hưởng gì đến việc kết hôn của đương sự và xuất
phát từ trật tự công cộng Công ước quy định: Nếu luật quốc tịch của đương
sự có quy định những điều kiện nào trái với trật tự công cộngcủa nước sở
tại( nơi đăng ký kết hôn) thì nước sở tại này có quyền không chấp nhận điều
kiện ấy. Trong các điều ước song phương mà các nước ký kết với nhau để
giải quyết vấn đề kết hôn giữa công dân các nước hữu quan cũng áp dụng
nguyên tắc: Điều kiện kết hôn do luật quốc tịch của các bên điều chỉnh.
b.

Về nghi thức kết hôn


Xuất phát từ bản chất giai cấp của nhà nước, từ phong tục tập quán mà pháp
luật các nước quy định nghi thức kết hôn khác nhau: Nghi thức kết hôn dân


sự, nghi thức tôn giáo, hoặc kết hợp giữa nghi thức dân sự và nghi thức tôn
giáo.
Chẳng hạn nghi thức tôn giáo được áp dụng ở những nước theo thiên chúa
giáo, hồi giáo như Israen, Irac, Irang, một số bang của Mỹ, một số tỉnh của
Canada. Còn nghi thức dân sự hoặc kết hợp cả hai nghi thức dân sự và tôn
giáo thì được áp dụng phổ biến ở Đức, Pháp, Thuỵ Sĩ, Nhật Bản, Anh, Mỹ ,
Đan Mạch…
Thực tiễn Tư pháp quốc tế cho thấy luật nơi tiến hành kết hôn( lex loci
celebratinois ) được sử dụng như một nguyên tắc chủ đạo. Tuy nhiên, ở một
số nước việc áp dụng nguyên tắc này có kèm theo một số điều bảo lưu hoặc
cùng với việc áp dụng nguyên tắc cơ bản này còn áp dụng bổ sung thêm các
nguyên tắc khác để giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn.
- Ở Pháp.
Theo Bộ luật dân sự Pháp: Nghi thức kết hôn phải tuân theo luật nơi tiến
hành kết hôn, nhưng khi công dân Pháp kết hôn ở ngoài lãnh thổ Pháp thì
phải thông báo trước việc kết hôn này về Pháp thì cuộc kết hôn đó mới được
công nhận là hợp pháp.
- Ở Đức.
Theo Điều 13 Bộ luật dân sự Đức, khoản 3 Điều 13 Luật về Tư pháp quốc
tế sửa đổi ngày 15/7/1986. Nghi thức kết hôn do pháp luật nơi tiến hành kết
hôn quyết định. Nếu nghi thức kết hôn không phù hợp với quy định của
pháp luật nơi tiến hành kết hôn, nhưng lại đáp ứng yêu cầu của pháp luật
nước đương sự mang quốc tịch, thì cuộc kết hôn đó vẫn có giá trị pháp lý.
- Ở Anh, Mỹ:
Nghi thức kết hôn xác định theo luật nơi tiến hành kết hôn. Ngoài ra ở Mỹ

còn có học thuyết cho rằng: Nghi thức kết hôn cũng được coi là hợp pháp,
trong các trường hợp nếu nó thoả mãn yêu cầu của luật nơi một trong các


bên kết hôn cư trú vào thời điểm kết hôn, luật nơi cư trú của hai vợ chồng
vào thời điểm khởi tố vụ án về tính hợp pháp của việc kết hôn.
- Ở các nước Đông Âu:
Đều áp dụng nguyên tắc luật nơi tiến hành kết hôn để giải quyết các vấn đề
về nghi thức kết hôn (Điều 15 Luật Tư pháp quốc tế Ba Lan, mục 1 Điều 20
Luật Tư pháp quốc tế của Séc và Slovakia, mục 1 Điều 90 Luật hôn nhân và
gia đình của Bungari…).
Đối với những trường hợp kết hôn ở ngoài lãnh thổ của các nước này, một
số nước còn quy định bổ sung: Chẳng hạn theo khoản 2 Điều 15 Luật Tư
pháp quốc tế Ba Lan “Việc kết hôn được đăng ký ở nước ngoài thì nghi thức
kết hôn chỉ cần tuân theo các quy định của luật quốc tịch của hai vợ chồng
là đủ”.
Ngoài các nguyên tắc chung, ở một số nước Đông Âu còn quy định điều
bảo lưu, chẳng hạn, theo mục 1 Điều 20 Luật Tư pháp quốc tế của Séc quy
định: “ Việc kết hôn sẽ có hiệu lực nếu nó tuân theo nghi thức dân sự”.
- Ở Ucraina:
Nghi thức kết hôn giữa người nước ngoài với nhau, giữa người nước ngoài
với công dân Ucraina trên lãnh thổ Ucraina thì sẽ tuân theo pháp luật nước
đó; việc kết hôn giữa công dân Ucraina với công dân nướn ngoài, ngoài lãnh
thổ Ucraina thì nghi thức kết hôn sẽ tuân thủ theo pháp luật nơi tiến hành kết
hôn.
Ngoài nhữnng nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn
được ghi nhận trong các đạo luật trong nước, các nước còn ký kết các điều
ước quốc tế để điều chỉnh vấn đề này. Nguyên tắc cơ bản được ghi nhận
trong điều ước quốc tế đó là luật nơi tiến hành kết hôn. Ví dụ như theo Điều
15Công ước Lahay quy định: “Nghi thức kết hôn được công nhận là hợp

pháp nếu nó tuân theo luật nơi tiến hành kết hôn”.


2. Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam
a. Điều kiện kết hôn
Cùng với sự tăng cường và mở rộng các quan hệ hợp tác giữa Việt
Nam và các nước. Số lượng các cuộc kết hôn có yếu tố nước ngoài giữa
công dân Việt Nam và người nước ngoài ngày càng tăng.
Để điều chỉnh kịp thời vấn đề này, Nhà nước ta đã ban hành các văn
bản pháp luật có các quy phạm xác định điều kiện kết hôn, cũng như nghi
thức kết hôn có yếu tố nước ngoài như: Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài( Nghị định 68/CP), Thông tư số
07/2002/TT-BTP ngày 16/12/2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, vấn đề kết hôn còn được giải quyết trên cơ sở
các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký với nước ngoài.
Về điều kiện kết hôn, theo khoản 1 Điều 103 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000, Điều 10 Nghị định số 68/CP thì:
Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, mỗi bên
phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết
hôn được tiến hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì
người nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp
cấm kết hôn. Như vậy, nguyên tắc cơ bản để giải quyết xung đột pháp luật
về điều kiện kết hôn là nguyên tắc luật quốc tịch của các bên đương sự.
Khi kết hôn với công dân Việt Nam, người nước ngoài phải tuân
theo các quy định về điều kiện kết hôn theo pháp luật của nước mà người đó



là công dân. Nếu người đó có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài thì giấy tờ
xác định điều kiện kết hôn của họ sẽ theo pháp luật của nước mà người đó
có quốc tịch đồng thời thường trú vào thời điểm đăng ký kết hôn, nếu người
đó không thường trú tại một trong các nước có quốc tịch thì giấy tờ đó do cơ
quan có thẩm quyền của nước mà người đó mang hộ chiếu cấp. Đối với
người nước ngoài không quốc tịch muốn kết hôn với công dân Việt Nam và
đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam, thì giấy tờ sử
dụng trong việc đăng ký kết hôn là giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của
nước nơi người đó thường trú cấp. Đối với công dân Việt Nam định cư ở
nước ngoài, giấy tờ sử dụng trong việc đăng ký kết hôn là giấy tờ do cơ quan
có thẩm quyền của nước nơi người đó định cư hoặc Cơ quan ngoại giao,
Lãnh sự Việt Nam cấp.
Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam,
trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy
định của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam về điều kiện kết hôn.
Điều kiện kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân của các
nước đã ký hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam, sẽ căn cứ theo các
quy định của hiệp định. Nguyên tắc chung, các hiệp định trên đều áp dụng
nguyên tắc luật quốc tịch của các bên đương sự để điều chỉnh các vấn đề về
điều kiện kết hôn. Chẳng hạn theo khoản 1 Điều 20 HĐTTTP Việt NamBungari quy định: “Các điều kiện kết hôn giữa công dân của hai nước ký
kết sẽ xác định theo pháp luật của nước ký kết mà người kết hôn là công
dân”.
Tuy nhiên, trong một số hiệp định cũng có quy định bổ sung, chẳng
hạn theo khoản 1 Điều 23 hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam- Liên Xô
(cũ), khoản 1 Điều 18 Hiệp định Việt Nam- Tiệp Khắc… công dân các nước
hữu quan muốn kết hôn ngoài việc tuân thủ pháp luật nước mình họ còn phải


tuân theo các quy định của pháp luật nước nơi tiến hành kết hôn về cấm kết

hôn.
b. Nghi thức kết hôn
Theo Điều 11 Nghị định số 68/CP, việc kết hôn nếu thực hiện tại Việt
Nam thì phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
hiện theo nghi thức dân sự, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc
kết hôn giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, đó là Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh nơi thường trú của công dân Việt Nam. Trong trường hợp công
dân Việt Nam không có hoặc chưa có hộ khẩu thường trú nhưng đã đăng ký
tạm trú có thời hạn thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi tạm trú có thời hạn của
công dân Việt Nam thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa người đó với người
nước ngoài. Trong trường hợp người nước ngoài thường trú tại Việt Nam
xin kết hôn với nhau thì Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của một
trong hai bên đương sự thực hiện việc đăng ký kết hôn.
Việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam thường trú ở khu vực
biên giới với công dân của nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới
với Việt Nam thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của công dân
Việt Nam ở khu vực biên giới thực hiện. Việc đăng kí kết hôn này sẽ theo
quy định của Nghị định 68/CP và quy định của pháp luật Việt Nam về đăng
kí hộ tịch.
Nếu kết hôn ở nước ngoài thì Cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam
tại nước tiếp nhận nơi cư trú của công dân Việt Nam thực hiện đăng kí việc
kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài cư trú tại nước đó.
Trong các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với nước ngoài
việc ghi nhận nguyên tắc chung là nghi thức kết hôn được xác định theo
pháp luật của nước ký kết nơi tiến hành kết hôn. Tuy nhiên, cũng có những
bổ sung, chẳng hạn, trong Hiệp định giữa Việt Nam- Tiệp Khắc (cũ) khoản 1


Điều 18 quy định: Việc kết hôn giữa công dân hai nước ký kết nhất thiết
phải theo hình thức Nhà nước mới có giá trị.

Thủ tục đăng ký kết hôn được quy định tại Điều 13, Điều 69 (nếu ở
vùng biên giới) Nghị định số 68/CP và được cụ thể hoá trong thông tư số 07
của Bộ tư pháp.

LỜI NÓI ĐẦU (LUẬT ĐẦU TƯ)
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới, trong thời gian qua nước ta đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến ưu đãi đầu tư
như: Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1996), Luật Khuyến
khích đầu tư trong nước (1998) và gần đây nhất chính là Luật
Đầu tư năm 2005, v.v… Hệ thống các văn bản đó đã tạo nên
một khung pháp lý quan trọng điều chỉnh các hoạt động ưu đãi
đầu tư phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và thực tiễn
phát triển kinh tế- xã hội, phù hợp với yêu cầu hội nhập, tạo môi
trường thuận lợi, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư thuộc mọi
thành phần kinh tế. Nhờ hiệu quả của hệ thống chính sách pháp
luật về ưu đãi đầu tư đã ban hành, việc huy động các nguồn lực
đầu tư trong và ngoài nước cho tăng trưởng kinh tế ngày càng
gia tăng.
Tuy nhiên, những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới sâu rộng
nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,


chủ động hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra những đòi hỏi
khách quan đối với việc cần thiết phải ngày càng hoàn thiện hệ
thống pháp luật và cơ chế áp dụng pháp luật về ưu đãi đầu tư.
Đường lối đổi mới kinh tế của nước ta là tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, tạo động lực mới
cho phát triển nền kinh tế, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế, quốc tế,
nâng cao đời sống của nhân dân. Một trong các giải pháp quan
trọng để thực hiện chủ trương trên là phải tạo môi trường pháp
lý và cơ chế chính sách thuận lợi, huy động và sử dụng có hiệu
quả mọi nguồn nội lực và ngoại lực. Theo hướng này, việc hoàn
thiện hơn nữa các chính sách ưu đãi đầu tư trong các văn bản
quy phạm pháp luật sẽ tạo ra khung pháp lý, chính sách phù hợp
để các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế được đầu tư, kinh
doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch,
có trật tự kỷ cương, khuyến khích mọi người dân vươn lên làm
giàu chính đáng.
Thực tiễn tiến hành công cuộc đổi mới trong thời gian qua
cho thấy, hệ thống pháp luật về đầu tư và môi trường kinh
doanh tại Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, theo hướng
tạo ra sự bình đẳng, không phân biệt, tạo lập “một sân chơi
chung” cho các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế khác


nhau. Những khác biệt về điều kiện đầu tư, kinh doanh như điều
kiện gia nhập thị trường, các yếu tố đầu tư vào, đầu ra và hoạt
động quản lý doanh nghiệp giữa đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài đã được thu hẹp đáng kể, thậm chí nhiều chính đã
được hoà đồng. Tuy nhiên, trước đây do chính sách đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài được ban hành ở các thời điểm khác
nhau nên các chính sách về đầu tư chưa có sự nhất quán, chưa
thực sự tạo được một sân chơi bình đẳng, tình trạng phân biệt
đối xử giữa các nhà đầu tư vẫn còn tồn tại đã hạn chế việc phát
huy các nguồn lực. Những bất cập của hệ thống pháp luật tách
biệt theo thành phần kinh tế hiện nay ngày càng bộc lộ rõ trước
sự phát triển năng động đa dạng của doanh nghiệp trong nền

kinh tế thị trường.
Do đó, việc tích cực xây dựng và hoàn thiện một hệ thống
pháp luật về ưu đãi đầu tư là yêu cầu bức xúc nhằm cải thiện
môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường đầu tư kinh doanh,
môi trường pháp lý nhằm củng cố niềm tin của các nhà đầu tư,
tạo thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu
tư.
Trong thời gian qua, nước ta đã ký kết nhiều hiệp định song
phương và đa phương liên quan đến hoạt động đầu tư như
những cam kết trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định khung về khu
vực đầu tư ASEAN, Hiệp định Thương mại song phương với


Hoa Kỳ; Hiệp định Tự do, Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư với
Nhật Bản và đang tích cực đàm phán gia nhập WTO. Việc ký
kết và thực hiện các cam kết quốc tế trên một mặt đòi hỏi Việt
Nam phải mở cửa thị trường, xoá bỏ các rào cản thuế quan, phi
thuế quan hoặc các trợ cấp không phù hợp với thông lệ quốc tế,
mặt khác vẫn phải duy trì một số chính sách bảo hộ sản xuất
trong nước có điều kiện, có thời gian mở cửa thị trường theo
một lộ trình xác định.
Cuộc cạnh tranh nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế
giới và trong khu vực đang diễn ra ngày càng gay gắt, nhất là
khi Trung Quốc gia nhập WTO và các nước trong khu vực đang
cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư theo hướng tự do hoá đầu
tư, thương mại, làm cho hệ thống luật pháp về đầu tư của chúng
ta được coi là hấp dẫn trước đây, nay đang giảm dần tính cạnh
tranh so với các nước.
Chính vì các lý do nêu trên, tác giả đã chọn vấn đề “…….(tự
viết) làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. Trong luận văn

này, tác giả phác hoạ bức tranh tổng thể các quy định về ưu đãi
đầu tư của Việt Nam từ trước tới nay, đặc biệt là các quy định
mới rất cởi mở, thông thoáng, thuận lợi và minh bạch của Luật
Đầu tư (2005). Trong luận văn này, tác giả đồng thời nêu lên
những thuận lợi và khó khăn của công tác thực thi các quy định
của pháp luật ưu đãi đầu tư từ trước tới nay và nêu ra một số


giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế áp dụng pháp luật về ưu đãi
đầu tư……(sang trang khác)

Lêi c¶m ¬n
............

Trong quá trình làm luận văn tốt nghiệp, em được sự hướng
dẫn, chỉ bảo tận tình của Thầy giáo Bùi Xuân Nhự- Tiến sĩ
Luật học- Chủ nhiệm khoa Luật Quốc tế- Trường Đại học
Luật Hà Nội. Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin gửi tới thầy
lời cảm ơn chân thành nhất.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô giáo, đặc
biệt là các thầy cô trong khoa Luật Quốc tế- Trường Đại học


Luật Hà Nội đã truyền đạt cho em nhiều kiến thức quý báu, bổ
ích.
Em xin cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã không
ngừng động viên, khích lệ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp
này.
Hà Nội, ngày.....tháng.....năm....
Người viết


Nguyễn Ngọc Quang



×