Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Đề cương ôn thi môn triết học có đáp án chi tiết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.57 KB, 38 trang )

1. Phân tích vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
2. phân tích sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
3. Phân tích sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học mác
lê nin
4. Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn. Sự vận dụng của
Đảng ta đối với vấn đề này
5. Phân tích tầm quan trọng của Nguyên tắc lịch sử cụ thể. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề
này
6. Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc phát triển. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
7. Phân tích cơ sở lý luận khắc phục bệnh kinh nghiệm, giáo điều. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn
đề này
8. Phân tích cơ sở lý luận chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
9. Phân tích cơ sở lý luận của bài học chống tả khuynh, hữu khuynh trong nhận thức và thực tiễn. Sự
vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
10. Phân tích cơ sở lý luận chỉ ra khuynh hướng, con đường vận động và phát triển của sự vật hiện
tượng. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
11. Phân tích mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
12. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Sự vận dụng của
Đảng ta đối với vấn đề này
13. Phân tích mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự vận dụng của Đảng ta đối
với vấn đề này
14. Phân tích làm rõ tính độc lập tương đối của đời sống tinh thần với đời sống vật chất của xã hội. Ý
nghĩa phương pháp luận rút ra từ đó.
15. Bỏ qua
16. Để ý thức tác động lại vật chất cần điều kiện gì. Sự tác động đó phụ thuộc vào những yếu tố nào, kết
quả của tác động đó. Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra
17. Phân tích quan điểm sau của Lênin: Phát triển là sự đấu tranh của các mặt đối lập. Ý nghĩa phương
pháp luận được rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này
18. Phân tích luận điểm: thực tiễn luôn cao hơn nhận thức (Lý luận). Ý nghĩa phương pháp luận được rút
ra từ việc nghiên cứu vấn đề này


19. Phân tích luận điểm sau của Lênin: Mác coi sự vận dộng của xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Vận dụng việc nghiên cứu vấn đề đó vào xem xét con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam.
20. Phân tích luận điểm sau của Hồ Chí Minh: Thực tiễn ko có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng, lý luận không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ
việc nghiên cứu vấn đề này
21. Phân tích để làm rõ sự khác biệt căn bản về nội dung của Chủ nghĩa duy vật biện chứng với các hình
thức duy vật khác trong lịch sử
22. Phân tích để làm rõ sự khác biệt về bản chất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng với các hình thức
duy vật khác trong lịch sử
23. Phân tích để làm rõ sự khác biệt căn bản về thế giới quan duy vật biện chứng với các hình thức thế
giới quan khác trong lịch sử
24. Phân tích luận điểm sau của chủ nghĩa Mác: “ vũ khí của sự phê phán không thể thay thế được sự
phê phán bằng vũ khí. Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bởi lực lượng vật chất, song lí luận
có thể trở thành vật chất một khi nó được thâm nhập vào quần chúng”
25. Phân tích để làm rõ vai trò của triết học với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan.

1


Câu 1: Phân tích vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn
đề này?
Phân tích vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:
- Khái niệm:
+ vật chất: trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán Lê nin đã định nghĩa:
vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
+ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan. Tuy nhiên không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc của con người là trở
thành ý thức. Ngược lại ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới do nhu cầu của việc con
người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động. Vì vậy ý thức là cái

vật chất được đem vào trong đầu óc con người và được cải biến ở trong đó.
- Cơ sở lý luận: trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất là cái có trước, ý thức có sau,
vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Điều này được thể hiện:
+ Nội dung: Vật chất là tiền đề, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại, phát triển của ý thức. Vật chất có
trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, là nguồn gốc sinh ra ý thức. Ý thức là
sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Não
người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc
vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan. Trong mối quan hệ giữa
con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả qía trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là
sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa
học về giới tự nhiên, nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có
sau.
+ Bản chất của ý thức: Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chấtm là hình ảnh chủ quan về thế giới vật
chất nên nội dung của ý thức đc quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển cả ý thức, hình thức biểu
hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định.
Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà con quyết định cả
hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
+ Xu hướng vận động: Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó, vật chất phát triển đến
đâu thì ý thức hình thành, phát triển đến đó, vật chất biến đổi thì ý thức biến đổi theo.
Như vậy, vật chất quyết định cả nội dung và khuynh hướng vận động phát triển của ý thức. Vật chất cũng
còn là điều kiện môi trường để hiện thực hóa ý thức, tư tưởng.
* Sự vận dụng của Đảng ta:
Nguyên tắc quan trọng được Đảng vận dụng là nguyên tắc tôn trọng khách quan – xuất phát từ thực tế
khách quan.
- Yêu cầu của nguyên tắc:
+ Mục đích ,đường lối, chủ trương con người đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ quan mà
phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu của cuộc sống, xuất phát từ sự vật
để nhận thức sự vật.
+ không được lấy ý chí áp đặt cho thực tế, chủ quan duy ý chí
+ không được lấy tình cảm cá nhân làm xuất phát điểm cho những vấn đề quan trọng đề ra phương

hướng, mục tiêu
+ tôn trọng quy luật, sự thật.
+ khi có mục đích, đường lối, chủ trương đúng phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện nó.
- Vận dụng yêu cầu:
+ Nếu tự giác vận dụng đúng thì con người sẽ nhận thức được sự vật, đề ra phương hướng mục tiêu
đúng đắn
+ Bếu lơ là, nhận thức sai sự vật dẫn đến cách nhìn nhận sự vật hiện tượng không đúng, đưa ra mục
tiêu, phương hướng thiếu chính xác, k thực tế
Liên hệ thực tiễn ( có 2 lựa chọn )
Lựa chọn 1
1. Giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1986
Giai đoạn này Đảng ta đã đề ra các chính sách sau:
- Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng . Muốn phát triển ngành công nghiệp nặng cần có nhiều vốn,
nhân lực.Trong khi đó giai đoạn này nước ta mới trải qua chiến tranh, bị tàn phá nặng nề, khó
khăn về tài chính cũng như trình độ dân trí còn thấp. Vì vậy việc đề ra chính sách ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng là chưa tôn trọng thực tế khách quan.
- Xóa bỏ các thành phần kinh tế. Trong điều kiện nước ta đứng dậy sau chiến tranh việc phát triền
nền kinh tế nhiều thành phần sẽ góp phần đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu, xây dựng cơ sở
hạ tầng...Tuy nhiên Đảng ta chưa tôn trọng thực tế khách quan, đã xóa bỏ các thành phần kinh tế
chỉ thừa nhận thành phần kinh tế nhà nước và tập thể.

2


Duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp.Thời kỳ chiến tranh, chúng ta rất thành công
trong việc huy động, tổ chức sức mạnh của mỗi người, mỗi vùng và sức mạnh của cả nước; sức
mạnh trong và ngoài nước; sức mạnh của quá khứ, hiện tại, tương lai tạo nên một lực lượng vật
chất khổng lồ của chiến tranh nhân dân, đánh bại những thế lực hơn chúng ta nhiều lần về tiềm
lực kinh tế và tiềm lực quân sự để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nhưng khi hòa
bình lập lại thì cơ chế này không còn phù hợp nữa,nó kìm chế sự phát triển kinh tế xã hội. Việc

Đảng ta chủ trương duy trì cơ chế quản lý này là chưa tôn trọng thực tế khách quan.
- Chưa thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Sau chiến tranh, tỷ lệ mù chữ ở nước ta còn
rất cao. Tuy nhiên Đảng ta lại chưa thực sự có những chính sách để giáo dục phát triển.
Với những chính sách trên có thể nói thời kỳ từ năm 1976 đến 1986 Đẳng ta đã chưa thực sự dựa trên
thực tế khách quan để đưa ra các chủ trương chính sách. Điều này đã khiến cho những chính sách này
không phù hợp với thực tế, làm cho nền kinh tế nước ta trì trệ, kém phát triển, làm giảm niềm tin của nhân
dân với sự lãnh đạo của Đảng. Khi kinh tế yếu kém dẫn đến chính trị quốc phòng an ninh cũng trở nên mờ
nhạt, văn hóa tư tưởng lạc hậu
2. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay
Trong giai đoạn này Đảng ta đã đổi mới trong nhận thức, các chính sách đưa ra cũng có nhiều thay
đổi theo hướng tích cực. Được thể hiện thông qua các chính sách lớn:
- Đưa ra 3 chương trình kinh tế: Lương thực- thực phẩm; hàng tiêu dùng; xuất khẩu
- Thừa nhận các thành phần kinh tế
- Xóa bỏ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp
- Ưu tiên phát triển khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, coi giáo dục đào tạo là quốc sách hàng
đầu.
Với những chính sách được đề ra xuất phát từ thực tế khách quan, nền kinh tế nước ta luôn tăng
trưởng cao trong khu vực và trên thế giới, hội nhập sâu rộng với thế giới, đời sống của người dân
không ngừng được cải thiện và nâng cao, làm tăng niềm tin của nhân dân với Đảng.
Lựa chọn 2
Giai đoạn 76-85:
Trong giai đoạn 10 năm trước đổi mới này, Đảng ta xác định bước đi của thời kì quá độ là ngắn, tiến
hành xóa bỏ các thành phần kinh tế tư nhân, xóa bỏ quan hệ sản xuất phi XHCN, không quan hệ với các
nước tư bản, tập trung phát triển công nghiệp nặng, ít quan tâm đến công nghiệp nhẹ. Đảng ta đã chủ
quan, duy ý chí, đề cao tuyệt đối hóa vai trò của ý thức, chưa phát huy được tính năng động chủ quan, cũng
nhu vai trò tích cực của nhân tố con người. Đảng ta đã chủ trương kế hoạch hóa tập trung , nhà nước quản
lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chi tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống
dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các
chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ
chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế

hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà
nước bù, lãi thì Nhà nước thu. Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của
mình. Những thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.
Hậu quả trước tiên có thể nhận thấy được là về mặt kinh tế, hàng hóa trên thị trường trở nên khan
hiếm, nền kinh tế trở nên khó khăn. Khi kinh tế yếu kém dẫn đến chính trị quốc phòng an ninh cũng trở nên
mờ nhạt, văn hóa tư tưởng lạc hậu
Giai đoạn 86 đến nay:
Với đường lối đổi mới đúng đắn do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và rất quan trọng.Đảng ta đã nhận định bước đi của thời kỳ quá độ được xác định dài, cam
go, thăng trầm, thậm chí có cả những lúc thụt lùi đồng thời chấp nhận kinh tế tư nhân và những mặt trái của
nó. Tập trung phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Những thành tựu đó đã tăng cường sức mạnh
tổng hợp làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc
và chế độ XHCN, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế. Từ đại hội VIII của Đảng năm
1996, đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh CNH, HDH phấn đấu đến năm 2020 cơ bản
trở thành một nước CN, thực hiện mục tiêu” độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu nước mạnh, XH
công bằng dân chủ văn minh. Kinh tế trở nên tăng trưởng và phát triển đã giúp cho chính trị giữ được vị thế,
văn hóa tư tưởng trở nên phong phú.
Tuy nhiên chúng ta đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức: tụt hậu xa hơn về kinh tế, so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu,
diễn biến hòa bình do các thế lực thù địch gây ra. Bởi vậy chúng ta phải “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu
nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người VN, quyết tâm đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu”
lấy việc “ phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững”.
Bên cạnh đó Đảng ta chủ trương đổi mới hệ thống chính trị dân chủ hoá đời sống xã hội nhằm phát huy đầy
đủ tính tích cực và quyền làm chủ của nhân dân. Mặt khác đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện hệ thống
-

3



chính sách xã hội phù hợp có ý nghĩa then chốt trong việc phát huy tính tích cực của người lao động như:
cơ chế quản lý mới phải thể hiện rõ bản chất của một cơ chế dân chủ, và cơ chế này phải lấy con người làm
trung tâm, vì con người, hướng tới con người là phát huy mọi nguồn lực. Cơ chế quản lý mới phải xây dựng
đội ngũ quản lý có năng lực và phẩm chất thành thạo về nghiệp vụ. Trong khi đó, xác định nhân tố con
người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, Đảng ta chủ trương đảm bảo lợi ích của người lao động là động
lực mạnh mẽ của quá trình nâng cao tính tích cực của con người: cần quan tâm đúng mức đến lợi ích vật
chất, lợi ích kinh tế của người lao động đảm bảo nhu cầu thiết yếu của họ hoạt động sáng tạo như ăn, ở,
mặc, đi lại, học hành, khám chữa bệnh, nghỉ ngơi. Cũng cần có chính sách đảm bảo và kích thích phát triển
về mặt tinh thần, thể chất cho nhân dân, tăng cường xây dựng hệ thống cơ chế chính sách phù hợp để giải
quyết tốt vấn đề ba lợi ích tập thể, và lợi ích xã hội nhằm đảm bảo lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của
người lao động. Đảng và Nhà nước đã dần khắc phục thái độ trông chờ và ỷ lại vào hoàn cảnh bằng cách
nhanh chóng cổ phần hoá các công ty nhà nước để tạo sự năng động, sáng tạo trong hoạt động cũng như
cạnh tranh, nhất là trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Đảng cũng đã cương quyết giải thể các công ty làm ăn
thua lỗ như: Tổng công ty sành sứ Việt Nam, Tổng công ty nhựa, Tổng công ty rau quả Việt Nam… để tránh
việc nhà nước bỏ vốn vào nhưng lại luôn phải bù lỗ cho các công ty này. Ngoài ra chúng ta cũng cần nâng
cao trình độ nhận thức tri thức khoa học cho nhân dân nói chung và đặc biệt đầu tư cho ngành giáo dục.
Chúng ta cần xây dựng chiến lược giáo dục, đào tạo, với những giải pháp mạnh mẽ phù hợp để mở rộng
quy mô chất lượng ngành đào tạo, đối với nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo, cải tiến nội dung
chương trình giáo dục, đào tạo phù hợp với từng đối tượng, trường lớp ngành nghề. Kết hợp giữa việc nâng
cao dân trí, phổ cập giáo dục với việc bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao
động để đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực hiện đồng bộ và có hiệu
quả các giải pháp trên sẽ kích thích tính năng động và tài năng sáng tạo của người lao động ở nước ta. Sự
nghiệp đất nước càng phát triển thì tính tích cực và năng động của con người càng tăng lên một cách hàng
hợp với quy luật.
Câu 2: Phân tích sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn
đề này
*Khái niệm về ý thức, vật chất theo quan điểm duy vật biện chứng ( DVBC )
+ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào

cảm giác.
+ ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan. Tuy nhiên không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc của con người là trở
thành ý thức. Ngược lại ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới do nhu cầu của việc con
người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động. Vì vậy ý thức là cái
vật chất được đem vào trong đầu óc con người và được cải biến ở trong đó.
Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có, ý thức có thể tạo ra tri
thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái không có thực trong thực tế. Ý thức có thể tiên đoán
dự báo về tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại, giả thuyết, lý thuyết khoa học hết sức trừu
tượng và có tính khái quát cao. Tuy nhiên sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh bởi vì ý thức bao
giờ cũng chỉ là phản ánh sự tồn tại
*Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất
Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con
người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thưc, con
người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo,
nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người
tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng,
kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện… để thực hiện mục tiêu của mình.
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó. Hơn nữa, sự
phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần, phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không
thụ động,máy móc, nguyên si thế giới vật chất. Vì vậy, ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ
yếu : Tích cực hoặc tiêu cực.
- Tích cực: Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có tình cảm cách mang, có nghị lực, có
ý chí thì hành động của con người phù hợp với quy luật khách quan, con người có năng lực vượt qua những
thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, thế giới được cải tạo – đó là sự tác động tích cực
của ý thức, ý thức sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất. Vai trò của ý thức
thể hiện ở vai trò của tri thức, trí tuệ, tình cảm và ý chí. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực
tiễn mà còn là động lực của thực tiễn. Không có sự thúc đẩy của tình cảm, ý chí, hoạt động thực tiễn sẽ diễn
ra một cách chậm chạp, thậm chí không thể diễn ra được. Nhờ ý chí và tình cảm, ý thức quy định tốc độ và

bản sắc của hoạt động thực tiễn. Tinh thần, dũng cảm, dám nghĩ dám làm, lòng nhiệt tình, chí quyết tâm,

4


tình yêu, niềm say mê với công việc, khả năng sáng tạo và vượt qua khó khăn nhằm đạt tới mục tiêu xác
định đều có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động thực tiễn làm cho nó diễn ra nhanh hay chậm
- Tiêu cực: Còn nếu ý thức của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, bản chất quy luật
khách quan thì ngay từ đầu hướng hành động của con người đã đi ngược lại các quy luật khách quan, hành
động ấy sẽ có tác động tiêu cực đối với hành động thực tiễn, đối với hiện thực khách quan,khi đó ý thức sẽ
kìm hãm sự phát triển của vật chất. Ý thức sai lầm, trái quy luật khách quan của con người có tác động tiêu
cực thậm chí phá hoại các điều kiện khách quan, hoàn cảnh khách quan, kéo lùi lịch sử. Bởi mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ tác động qua lại. Không nhận thức được điều này sẽ rơi vào quan
niệm duy vật tầm thườngvà bệnh nảo thủ trì trệ trong nhận thức và hành động.
Tác động này được phụ thuộc vào 4 nhân tố:
+ ý thức tư tưởng mang nội dung gì
+ năng lực tổ chức triển khai nội dung đến đâu
+ mức độ thấm nhuần ý thức tư tưởng đến đâu
+ điều kiện vật chất và hoàn cảnh lịch sử
Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành động của
con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không
hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý thức có thể thấy:
Vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sáng tạo của ý thức. Là điều kiện tiên
quyết để thực hiện ý thức, ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại vật chất, sự tác động ấy không phải tự
thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt động vật chất) của con người. Sức mạnh của ý th ức trong
sự tác động này phụ thuộc vào trình độ phản ánh của ý thức, mức độ thâm nhập của ý thức vào những
người hành động, trình độ tổ chức của con người và những điều kiện vật chất, hoàn cảnh vật chất, trong đó
con người thành động theo định hướng của ý thức.
* Ý nghĩa phương pháp luận: Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan ,

tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan.
Nguyên tắc: Phát huy vai trò nhân tố chủ quan
- yêu cầu: + Phải tôn trọng tri thức khoa học
+ Phải làm chủ tri thức khoa học
+ xác định nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực.
+ phải đáp ứng thỏa đáng những nhu cầu chính đáng của con người trong điều kiện có thể
- vận dụng yêu cầu
+ Con người tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần
chúng để nó trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hướng dẫn quần chúng hành động, mặt khác phải
tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách
mạng để có sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong định hướng hành động
+ phát huy tính năng động chủ quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và
khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay
cho hiện thực, lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, lấy tình cảm làm xuất phát điểm cho chiến lược, sách
lược….,mặt khác, cũng cần phải chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lí
luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động… trong nhận thức và thực tiễn, luôn luôn xác định rằng: nguồn lực con người
là nguồn lực của mọi nguồn lực.
* Liên hệ thực tiễn ( có thể lấy liên hệ ở câu 1)
Xuất phát từ đâu và đi theo con đường nào? Chỉ có thể và phải xuất phát từ những điều kiện – hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của đất nước Việt Nam và con người Việt Nam, của dân tộc và lịch sử trong bối cảnh
khu vực thế giới hiện đại, theo quy luật chung mà chủ nghĩa Mac – Lênin đã nêu ra.
Thực tế là, chúng ta bước vào con đường xã hội chủ nghĩa từ một xuất phát điểm về kinh tế xã hội
rất thấp - nhất là lực lượng sản xuất. Đó là tình trạng sản xuất nhỏ, kinh tế tự nhiên, kinh tế hiện vật còn khá
phổ biến, kỹ thuật thô sơ, thủ công nửa cơ khí. Sản xuất hàng hoá còn chưa trở thành phổ biến, thị trường
bị chia cắt, thậm chí có nơi, có lúc khép kín kể cả trong kinh tế đối ngoại. Phương thức tổ chức, quản lý nền
kinh tế dựa trên lĩnh vực kinh tế của chúng ta là tập trung lực lượng sản xuất, đổi mới phương thức, tổ chức
quản lý, phân phối sản phẩm.
Muốn phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cả
quy mô bề rộng lẫn chiều sâu, tạo đường băng để đất nước “cất cánh” một cách hiện thực hướng tới năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá chứ không dừng lại ở phương hướng chung.

Nghĩa là, phải xây dựng một chương trình khả thi cho cả công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế
khác, chú trọng cho phát triển nông nghiệp, cho các vùng kinh tế – xã hội trọng điểm, cho vùng núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng cũ…
Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010 của Đảng ta đã khẳng định : con
đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước,
vừa có những bước tuần tự vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng
mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,

5


tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa
học và công nghệ, bảo đảm cho khoa học và công nghệ thật sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và
động lực chủ yếu trong phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu về khoa học và công nghệ.
Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác
là phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới của thời đại để từng bước phát triển kinh tế trí
thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào
tạo là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi nhân tố con người đóng vai
trò hết sức quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Con đường đi lên của nước ta là sự
phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập hệ thống
chính trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ
để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó
khăn, phức tạp cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu
tranh giữa cái mới và cái cũ.
Câu 3: Phân tích sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng
* Thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng

Thế giới quan duy vật
- Thế giới quan duy vật là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò
quyết định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của con người
trong cuộc sống hiện thực.
Thế giới quan duy vật thừa nhận chỉ có 1 thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất không
sinh ra, không bị mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn, vô hạn vô tận.. Thế giới quan duy vật cũng thừa nhận mối
quan hệ giữa vật chất và tinh thần thì vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức
song ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất. Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật
chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Sự phát triển của Thế giới quan duy vật
+ Thế giới quan duy vật chất phác: là thế giới quan thể hiện trình độ nhận thức ngây thơ, chất phác
của những nhà duy vật. Tuy còn nhiều hạn chế cả về trình độ nhận thức cũng như nội dung phản ánh
nhưng thế giới quan duy vật chất phác thời cổ đại đã có những đóng góp lớn lao vào quá trình phát triển
nhận thức. Điều ấy thể hiện: Sự ra đời của thế giới quan duy vật thời cổ đại đã đánh dấu bước chuyển hoá
từ giải thích thế giới dựa trên thần linh sang giải thích thế giới dựa vào giới tự nhiên, nó định hướng cho con
người nhận thức thế giới phải xuất phát từ chính bản thân thế giới và nó đã đặt ra nhiều vấn đề - từ đó thế
giới quan duy vật ở các giai đoạn sau tiếp tục phát triển, hoàn thiện.
+ Thế giới quan duy vật siêu hình: là thế giới quan duy vật được hình thành và phát triển bằng
phương pháp tư duy siêu hình. Thế giới quan duy vật siêu hình biểu hiện rõ nét vào thời cận đại, vào thế kỷ
thứ XVII – XVIII ở các nước Tây Âu. Thế giới quan duy vật siêu hình thời cận đại tuy góp phần chống thế
giới quan duy tâm, góp phần giúp con người đạt được một số hiệu quả trong nhận thức từng lĩnh vực hẹp
song vì phát triển tư tưởng về vật chất của các nhà duy vật thời cổ đại và phương pháp nhận thức là
phương pháp siêu hình nên ngoài những hạn chế mà các nhà duy vật thời cổ đại đã mắc phải, các nhà duy
vật thời cận đại còn mang nặng tư duy máy móc, không hiểu thế giới là một quá trình với tính cách là lịch sử
phát triển của vật chất trong các mối liên hệ đa dạng, phức tạp và trong trạng thái vận động không ngừng,
vĩnh viễn.
+ Thế giới quan duy vật biện chứng: là thế giới quan duy vật được hình thành và phát triển bằng
phương pháp tư duy biện chứng. Thế giới quan này được C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào giữa thế kỷ
thứ XIX, V.I.Lênin và những người kế tục ông phát triển. Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng là
kết quả kế thừa tinh hoa các quan điểm về thế giới trước đó, trực tiếp là những quan điểm duy vật của

L.Phơbách và phép biện chứng của F.Hêghen; là kết quả sử dụng tối ưu thành tựu của khoa học, trước hết
là thành tựu của Vật lý học và Sinh học. Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng còn là kết quả tổng
kết sự kiện lịch sử diễn ra ở các nước Tây Âu, khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã hình thành và
đã bộc lộ cả những mặt mạnh cũng như những mặt hạn chế của nó.
Phương pháp biện chứng
- Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng vào tư
duy chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại giữa chúng, trong sự móc xích của chúng, trong sự vận động của
chúng, trong sự phát sinh và tiêu vong của chúng
- Sự phát triển của phương pháp duy vật
+ Phép biện chứng cổ đại. Phép biện chứng cổ đại thể hiện trong triết học ấn độ, Trung Quốc và rõ
nhất là trong triết học Hy Lạp cổ đại. Về đại thể, phép biện chứng cổ đại coi thế giới là một chỉnh thể thống

6


nhất; giữa các bộ phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau; thế
giới và các bộ phận của nó không ngừng vận động và phát triển.
Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát. Phép biện chứng cổ đại mới chỉ được tạo nên
từ một số quan điểm biện chứng mộc mạc, thô sơ, mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở những kinh
nghiệm trực giác mà chưa được minh chứng chắc chắn bằng các tri thức khoa học, chưa là hệ thống lý luận
chung nhất với các nguyên lý, quy luật, phạm trù và do vậy, cũng chưa xác định rõ đối tượng, phạm vi
nghiên cứu của phép biện chứng.
+ Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức. Ra đời vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX,
phát triển đến đỉnh cao ở Ph.Hêghen (1770-1831). Trong triết học Ph.Hêghen, ông đã xây dựng và áp dụng
phép biện chứng vào nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Qua đó, họ đã xây dựng được
hệ thống phạm trù, quy luật chung, thống nhất, có lôgíc chặt chẽ của nhận thức tinh thần, và trong một ý
nghĩa nào đó, là của cả hiện thực vật chất. Mặc dù có nhiều “hạt nhân hợp lý” và “lấp lánh mầm mống phôi
thai của chủ nghĩa duy vật” nhưng phép biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức cũng mắc phải những
hạn chế nhất định. Đó là biện chứng của “ý niệm tuyệt đối”, của cái phi vật chất, là biện chứng của khái
niệm, của tư duy thuần tuý, phản ánh một lực lượng thần bí nào đó ở bên ngoài thế giới vật chất. Tuy nhiên,

biện chứng cổ điển Đức đã tạo ra bước quá độ chuyển biến về thế giới quan và lập trường từ chủ nghĩa duy
vật siêu hình sang thế giới quan khoa học duy vật biện chứng. Cũng chính nhờ có hệ thống phạm trù, quy
luật đó mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo và phát triển thành những phạm trù, quy luật của phép biện
chứng duy vật.
+ Phép biện chứng duy vật. Ph.Ăngghen định nghĩa “phép biện chứng...là môn khoa học về những qui
luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. V.I.Lênin
viết “phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và
không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người phản ánh vật chất luôn luôn
phát triển không ngừng”. Hồ Chí Minh đánh giá “chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện
chứng”. Khác với các phép biện chứng trước đó, sự ra đời của phép biện chứng duy vật gắn liền với những
thành tựu phát triển rực rỡ của khoa học tự nhiên đã phản ánh “bản chất đích thực” của thế giới và thực tiễn
cách mạng trong thế kỷ XIX, tạo cơ sở vững chắc để các nhà kinh điển triết học Mác khái quát và xây dựng
phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với
phương pháp biện chứng. Phép biện chứng duy vật có vai trò vô cùng to lớn và quan trọng đối với hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng đã làm
cho phép biện chứng duy vật không chỉ dừng lại ở phương pháp giải thích thế giới mà đã trở thành phương
pháp cải tạo thế giới, thực sự là công cụ thế giới quan, phương pháp luận chung nhất, đúng đắn và khoa
học nhất của giai cấp vô sản trong quá trình đấu tranh cách mạng, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
*Thực chất sự thống nhất của thế giới quan duy vật và phép biện chứng
Thực chất sự thống nhất của thế giới quan duy vật và phép biện chứng được thể hiện ở chỗ tư tưởng
quan điểm đưa ra phải là quan điểm duy vật khi giải thích về thế giới. Những quan điểm duy vật ấy luôn
chứa đựng trong đó phương pháp đưa ra đánh giá chỉ trong triết học Mác – Lê nin mới có: quan điểm duy
vật bao hàm cả phương pháp biện chứng
Kế thừa những tư tưởng hợp lý của các học thuyết triết học trong lịch sử, tổng kết thành tựu các khoa
học của xã hội đương thời C.Mac và Ph.Angghen đã sáng tạo nen chủ nghĩa duy vật biện chứng với sự
thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng. Sự thống nhất này đã mang lại cho con
người một quan niệm hoàn toàn mới về thế giới – quan niệm về thế giới là một quá trình với tính cách là vật
chất không ngừng vận động, chuyển hóa và phát triển
Quá trình ra đời của triết học Mác
- Sự kế thừa tinh hoa tư tưởng của nhân loại

+ Về mặt lí luận có: Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị cổ điển Anh, Chủ nghĩa xã hội không
tưởng Pháp
+ Về mặt Khoa học xã hội: Định luật bảo toàn năng lượng – Maye, Học thuyết tế bào
Schleider( 1938) và Schwann (1939), Học thuyết tiến hóa – Đácuyn
+ Kế thừa duy vật siêu hình của Phoiobach và duy tâm biện chứng của Heghen
-Tư tưởng duy vật: Hạt nhân hợp lý nhất của các nhà tư tưởng trước Mac (phoiobach), gạt bỏ mặt hạn
chế của duy vật siêu hình (chỉ xem xét sự vật hiện tượng độc lập tách rời không phát triển, nếu có sự phát
triển vận động thì chỉ là sự thay đổi về lượng, không có sự thay đổi về chất)
- Tư tưởng duy tâm: gạt bỏ mặt hạn chế của duy tâm biện chứng (Heghen)
Vai trò của triết học Mác
- thể hiện trong định hướng nhận thức và thực tiễn mục tiêu của lịch sử xã hội loài người. Dù chủ nghĩa
tư bản đã tự điều chỉnh để tồn tại và phát triển nhưng những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản vẫn k giải
quyết được. Lý tưởng của nhân loại chỉ có thể là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trong tương lai.
- vận dụng dáng tạo nội dung lý luận, thế giới quan và phương pháp luận triết học mác xít là cơ sở để
giải quyết đúng quy luật những vấn đề đặt ra của thời đại hiện nay như quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc.
Chỉ có thể dựa trên những nguyên lý cơ bản của triết học Mác-Lênin mới giải quyết đúng những vấn đề căn

7


bản nhất của thời đại ngày nay, thúc đẩy lịch sử xã hội loài người phát triển theo xu thế tiến bô, hợp quy
luật.
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin được xác lập trên nền tảng thế giới quan duy vật
khoa học. Chính vì vậy mà giữa Thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng có sự thống nhất hữu
cơ với nhau. Sự thống nhất này đã mang lại cho con người một quan niệm hoàn toàn mới về thế giới – quan
niệm thế giới là một quá trình với tính cách là vật chất không ngừng vận động, chuyển hóa và phát triển.
Câu 4. Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc toàn diện? Sự vận dụng củađảng ta qua hai giai
đoạn. (hoặc nguyên tắc chống lại cách nhìn phiến diện một chiều)
1 Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc toàn diện
* Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là mối liên hệ phổ biến.

Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Cở sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới. Trên cơ sở đó, phép chứng
duy vật xem xét thể giới như một chỉnh thể. Theo đó, các sự vật, hiện tượng dù có phong phú, đa dạng thế
nào thì cũng chi là những dạng cụ thể của một thế giới duy nhất và thống nhất thế giới vật chất. Nội dung
nguyên lý mối liên hệ phổ biến: Các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy
định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ
giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác
nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế
giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự
tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật
biện chứng khẳng định rằng, liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng
trong thế giới. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: Tính
khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Về sự tồn tại của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng cho rằng, các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại
độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau. Ví dụ, bão từ xảy ra trên mặt trời sẽ tác động
đến từ tnrờng trái đất, từ đỏ tác động đến mọi sự vật, trong đó có con người. Việc thải các chất độc hại vào
môi trường sẽ gây nên nạn ô nhiễm môi trường, tạo ra hiệu ứng nhà kính...,khẳng định tính thống nhất vật
chất của thế giới là cơ sở, là cái quyết định các mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật, hiện
tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chi là những
dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng
không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau theo
những quan hệ xác định.
Về vai trò của các mối liên hệ
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn
tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất, tính quy luật của sự vật, hiện
tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của
chúng với sự vật, hiện tượng khác.
Các tính chất của mối liên hệ

Các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng có tính khách quan. Tính khách quan của chủng biểu hiện ở chỗ,
các mối liên hệ là tự thân, vốn có của sự vật, hiện tượng, gắn liền với sự tồn tại, vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng, không do ai sáng tạo ra, cũng không do sự áp đặí chủ quan của con người. Sự vật, hiện
tượng nào cũng tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác. Ngay cả những vật vô tri, vô giác
cũng đang hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác. thân con người. Các mối
liên hệ của các sự vật, hiện tượng không chỉ có tính khách quan mà còn có tính phố biến. Tính phổ biến của
mối liên hệ thể hiện ở chỗ, các mối liên hệ này tồn tại ở mọi nơi, mọi chỗ, ờ bất kỷ một sự vật, hiện tượng
nào trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài những mối liên hệ. Bên cạnh
đó, các mối liên hệ biểu hiệiỊ dưới các hình thức riêng biệt cụ thể, khác nhau và biến đổi tũỳ theo điều kiện
lịch sử - cụ thể nhất định. Nhưng dù dưới hình thức nào thì chúng cũng chỉ là biểu hiện tính phổ biến của
các mối liên hệ.
Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phép biện chứng duy vật đã xây dựng nguyên tắc toàn diện là
một nguyên tắc phương pháp luận quan trọng của phép biện chứng duy vật.
* Yêu cầu
- Muốn nhận thức đúng bản chất của sự vật hiện tượng, chúng ta phải xem xét tất cả các mối liên hệ
của sự vật hiện tượng này với sự vật hiện tượng. Phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ giữa sự
vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt của các mối
liên hệ trung gian, gián tiếp. Phải đặt sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu vào trong không gian và thời gian
nhất định, nghĩa là phải nghiên cứu quá trình vận động của sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và
phán đoán cả tương lai của nó.

8


- Để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực
tiễn của con người. Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng, trong mỗi
hoàn cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh một số mối liên hệ nào đó của sự vật, hiện tượng phù hợp với
nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức của con người về sự vật, hiện tượng cũng mang tính tương đối,
không đầy đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó, chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức

đã có về sự vật, hiện tượng và tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối cuối cùng về sự vật, hiện
tượng mà không thể bổ sung, không thể phát triển
* Vận dụng yêu cầu
+ Tránh sự phiến diện trong cách nhìn nhận, đánh giá
+ Xét nhiều: thông tin nhiều, mang tính khách quan. Bản chất, chức năng quy luật tiềm ẩn bên trong
sự vật hiện tượng, liên hệ giữa các sự vật hiện tượng được bộc lộ rõ thuộc tính
+ Xét có trọng tâm, trọng điểm: Lựa chọn những sự vật hiện tượng tiêu biểu, hoặc những thuộc tính
tiêu biểu của sự vật hiện tượng để đánh giá, qua những đặc tính đó, thuộc tính của sự vật hiện tượng bộc lộ
rõ nét nhất
+ tập trung tối đa tâm lực, trí lực, vật lực để xem xét sự vật hiện tượng.
Tầm quan trọng của nguyên tắc toàn diện
- Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận,
giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật
khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự
vật. Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ, phải biết chú ý tới
mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự
chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản chất của sự vật và có phương pháp tác động phù
hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của bản thân.
- Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp cận khoa học, cho
phép tính đến mọi khả năng của vận động, phát triển có thể có của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu,
nghĩa là cần xem xét sự vật hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất với tát cả các mặt, các bộ phận, các
yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối liên hệ của chúng. Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi, để nhận thức
được sự vật, hiện tượng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
Mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh nhất định,
con người chỉ phản ảnh một số mối liên hệ nào đó của sự vật, hiện tượng với nhu cầu nhất định của mình,
nên nhận thức của con người về sự vật và hiện tượng mang tính tương đối. Nắm được điều đó sẽ tránh
tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự vật hiện tượng và các tri thức về sự vật phải thường xuyên được bổ
sung và phát triển.
- Trong hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng cần quán triệt nguyên tắc toàn diện. Khoa
học tự nhiên rất cần đến quan điểm toàn diện, bởi việc nghiên cứu trong các ngành khoa học tự nhiên không

tách rời nhau, ngược lại phải trong mối liên hệ với nhau, thâm nhập vào nhau. Có những sự vật, hiện tượng
đòi hỏi phải có sự nghiên cứu liên ngành giữa các khoa học. Trong lĩnh vực xã hội, nguyên tắc toàn diện
đóng vai trò vô cùng quan trọng. Chúng ta không thể hiểu được một hiện tượng xã hội nếu tách nó ra khỏi
những mối liên hệ, những sự tác động qua lại với các hiện tượng xã hội khác
2. Sự vận dụng của Đảng ta:
*. Giai đoạn 1976 – 1986
Đường lối chính sách được Đảng và nhà nước đưa ra đã vi phạm nguyên tắc toàn diện, dẫn đến 1
số chủ trương đường lối sai:
- Phiến diện một chiều, cần ưu tiên phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghệp nhẹ
lại ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
- Không nhận thức đúng đắn vai trò của các thành phần kinh tế mà chỉ thừa nhận tp kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể
- Chỉ duy trì hình thức phân phối bình quân mà mà không thừa nhận các hình thức phân phối khác,
tập trung quan liêu bao cấp
- Đầu tư phát triển kinh tế nhưng không đúng, không coi trọng giáo dục đào tạo
Các chính sách trên chưa xem xét xã hội Việt Nam trên tất cả các phương diện mà chỉ thông qua
thắng lợi của 2 cuộc chiến tranh, do sự nóng vội đưa đất nước ta nhanh chóng theo con đường CNXH nên
đã đưa ra những chủ trương sai lầm, phát triển công nghiệp nặng (sắt, thép…) trong khi lương thực thực
phẩm thiếu thốn, xóa bỏ thành phần kinh tế TBCN, các thương gia, tiểu thương không có điều kiện phát
triển, bộ máy tập trung quan liêu bao cấp cùng nền giáo dục không được coi trọng làm cho đất nước càng
ngày càng kém phát triển: kinh tế suy thoái, văn hóa xã hội trì trệ…
*. Giai đoạn 1986 – nay
Nghị quyết trung ương VIII đề cập đến việc đổi mới toàn diện: cuộc sống vật chất, tổ chức quản lý,
kế hoạch đào tạo…:
- Thực hiện 3 chương trình kinh tế: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dung và hàng xuất khẩu (tức là
phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp) và phát triển công nghiệp nặng mũi nhọn khi
có điều kiện

9



- Thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần
- Xóa bỏ quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thừa nhận cơ chế thị trường định hướng XHCN
- Ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo
=> Nền kinh tế có sự phục hồi và dần phát triển, nước ta từ nước phải nhập khẩu lương thực trở thành
nước xuất khẩu lương thực, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao.
Câu 5. Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc lịch sử cụ thể? Sự vận dụng của đảng ta qua hai
giai đoạn.
1: Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc lịch sử cụ thể
* Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử cụ thể là mối liên hệ phổ biến
Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử-cụ thể là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng
duy vật. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không
gian và thời gian cụ thể xác định. các sự vật, hiện tượng cũng như các bộ phận cùa chúng không tồn tại biệt
lập nhau mà có sự liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh
hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện
không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể làm
thay đổi hòan toàn bản chất của sự vật.
Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu:
Thứ nhất: Khi phân tích xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong điều kiện không gian và thời
gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những điều kiện không gian ấy có ảnh hưởng như thế nào đến tính
chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng đến sự vật,
hiện tượng.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó cần phải phân tích nguồn gốc
xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Có như vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý luận đó.
Việc tìm ra điểm mạnh và điểm yếu có tác dụng trực tiếp đến quá trình vận dụng sau này.
Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều kiện cụ thể của nơi được
vận dụng. Điều kiện này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của sự vận dụng đó.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc lịch sử – cụ thể là nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận
động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó, biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn..

* Yêu cầu
- Xem xét tất cả những điều kiện hoàn cảnh liên quan đến sự phát triển của sự vật hiện tượng, để thấy
được sự ảnh hưởng của điều kiện hoàn cảnh chi phối sự vật hiện tượng, qua đó nhìn nhận sự vật hiện
tượng một cách khách quan, công bằng hơn.
- Không chỉ đánh giá sự vật hiên tượng ở hiện tại mà còn quan tâm đến quá khứ. Xem xét sự vật hiện
tượng đó đã diễn ra như thế nào, không được phủ nhận sạch trơn quá khứ
* Vận dụng yêu cầu
- Tự giác nhìn nhận sự vật trong mọi giai đoạn phát triển, điều kiện cụ thể để thấy rõ bản chất của sự vật
hiện tượng
Tầm quan trọng của nguyên tắc lịch sử cụ thể:
- Nguyên tắc lịch sử đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động thực tiễn cũng như nhận thức. Khi
xem xét sự vật hiện tượng, chúng ta phải xem xét sự vật hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển,
chuyển hóa trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên tác động lên
quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể, gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể mà trong đó sự vật hiện tượng tồn tại
- Giá trị của nguyên tắc lịch sử cụ thể ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử
phong phú và đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức
được bản chất của nó.
- Nguyên tắc LS-CT yêu cầu phải nhận thức sự vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển
theo những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó; phải chỉ rõ được
những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình.
- Ntac LS-CT yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng
thái chất lượng thay thế nhau; yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển thành sự vật, hiện tượng mới
thông qua sự phủ định biện chứng.
- Ntac LS-CT còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển, tiêu
vong của chúng, cho phép nhận thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng từ đó mới có định hướng
đúng cho hoạt động thực tiễn của con người.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể không chỉ kết hợp các sự kiện riêng lẻ, mô tả các sự kiện mà tái hiện sự kiện, chỉ
ra mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa vai trò của

chúng để tạo nên bức tranh khoa học về các quá trình lịch sử.
2. Sự vận dụng của Đảng ta

10


*. Giai đoạn 1976 – 1986
Đường lối chính sách được Đảng và nhà nước đưa ra đã vi phạm nguyên tắc lịch sử – cụ thể, dẫn đến 1
số chủ trương đường lối sai:
- Thực tế khách quan: nghèo nàn, trình độ dân trí thấp lại ưu tiên phát triển công nghiệp nặng là
chủ quan duy ý chí
- Các thành phần kinh tế tạo ra nguồn lực chủ yếu cho nền kinh tê, tạo ra cơ sở hạ tầng, vật chất
kỹ thuật thì không được coi trọng
- Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp chỉ phù hợp trong thời chiến nhưng vẫn áp dụng trong thời
bình
- Không xuất phát từ thực tế khách quan vai trò của giáo dục
*. Giai đoạn 1986 - nay
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng cơ sở vật chất để đẩy mạnh quá trình
phát triển nền KTTT định hướng XHCN nhanh chóng đưa đất nước trở thành nước công nghiệp hóa hiện
đại hóa. Và việc nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng để tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những
mặt yếu kém phát huy những mặt mạnh đang là vấn đề bức thiết. Cụ thể :
Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước mắt cần tiếp tục cải tiến hành chính
trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài với những qui định rõ ràng thông suốt và đơn giản. Về lâu dài cần tiến tới
xây dựng một hành lang pháp lý chung cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước để tạo một sân
chơi bình đẳng.
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước. Trong lĩnh vực này, huy động tiết
kiệm là mục tiêu hàng đầu, từ đó sẽ phát huy được hết các nguồn nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tiếp tục cân đối lại các thành phần kinh tế và các ngành; chú trọng phát triển kinh tế giữa các vùng
hợp lý hơn. Tăng cường hội nhập hợp tác với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới; giữ vững vai trò của
Nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô, định hướng nền KTTT theo định hướng XHCN, lấy công bằng xã hội

làm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm nguồn nhân lực thông qua hệ thống giáo dục đào tạo, bảo đảm y
tế, nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động. Giữ vững an ninh, trật tự xã hội, củng cố sự nghiệp quốc
phòng an ninh nhằm ngăn chặn mọi thế lực phản động phá hoại trong và ngoài nước; Tích cực cải tạo xã
hội, xoá bỏ các tệ nạn xã hội như tham nhũng, nghiện hút, mại dâm, ma tuý, hạn chế ô nhiễm môi trường,
giữ vững sự cân bằng sinh thái. Muốn vậy cần nâng cao nhận thức con người trong việc bảo vệ giữ gìn
cuộc sống của chính họ; vận dụng sáng tạo, không rập khuôn các mô hình KTTT trên thế giới; Có phương
hướng kết hợp định hướng XHCN với tăng trưởng kinh tế trong những năm tới.
Câu 6. Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc phát triển? Sự vận dụng của đảng ta qua hai giai
đoạn.
1 Phân tích tầm quan trọng của nguyên tắc phát triển
* Cơ sở lý luận nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
Khái niệm sự phát triển
Quan điểm biện chứng xem xét sự phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Quá trình đó
diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Dù trong hiện thực khách
quan hay trong tư duy, sự phát triển diễn ra không phải lúc nào cũng theo đường thẳng, mà rất quanh co,
phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như
sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao hơn.
Nội dung của sự phát triển
Mọi sự vật, hiện tượng đểu nằm trong quá trình vận động, phát triển, trong đó phát triển được xem
như trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quả trình phát triển sự vật, hiện tượng chuyển hóa sang
chất mới cao hơn, hoàn thiện hơn. Phương thức của sự phát triển là sự thay đổi về chất trên cơ sở những
thay đổi về lượng. Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là những mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn bên
trong sự vật, hiện tượng, khuynh hướng của sự phát triển diễn ra theo đường “xoáy ốc”
Tính chất của sự phát triển
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển cũng có ba tính chất cơ bản: Tính
khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, như trên đã phân tích theo quan điểm
duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là quá trình giải quyết

liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật. Nhờ đó sự vật luôn luôn phát
triển. Vì thế sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được hiểu là nó diễn ra ở mọi
lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan. Ngay cả các
khái niệm, các phạm trù phản ánh hiện thực cũng nằm trong quá trình vận động và phát triển; chỉ trên cơ sở

11


của sự phát triển, mọi hình thức của tư duy, nhất là các khái niệm và các phạm trù, mới có thể phản ánh
đúng đắn hiện thực luôn vận động và phát triển.
- Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật,
mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Tồn tại ở
không gian khác nhau, ở thời gian khác nhau, sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát
triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu tố, điều kiện.
Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể làm thay đổi chiều
hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
*Ý nghĩa phương pháp luận
Từ nguyên lý vê sự phát triên, phép biện chứng duy vật rút ra những nguyên tắc phương pháp luận
dùng để chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn: Mọi sự vật hiện, tượng trong thế giới đều nằm trong
quá trình vận động và phát triển, nên trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải quán
triệt nguyên tắc phát triển.
Nguyên tắc phát triển đặt ra các yêu cầu sau:
- Xem xét bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong các quá trình phát sinh, phát triển
trong sự vận động, biến đổi, chuyển hoá của chúng. Để có nhận thức đúng đắn về sự vật và vận dụng kết
quà nhận thức ấy vào thực tiễn, chúng ta không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại, mà phải thấy khuynh
hướng phát triển trong tương lai. Phải phân tích để làm rõ những biến đổi của sự vật, khái quát những hình
thức biểu hiện của sự biến đổi đó để tìm ra khuynh hướng biến đổi chính cùa sự vật đó.
- Phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đom giản đến phức tạp, từ kém

hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau cho nên
phải có sự phân tích cụ thể từng giai đoạn để tìm ra nhõng cách thức hoạt động, phương pháp tác động phù
hợp nhằm thúc đẩy những biến đổi có lợi và sự kìm hãm nhữiỊg biến đổi có hại.
- Trong nhận thức, để phản ánh được sự vận động và phát triển của thế giới khách quan, nội dung của
các luận điểm khoa học không thể là bất biến. Nội dung của chúng cũng thay đổi, phát triển. Vì vậy cần phải
có cái nhìn mềm dẻo, linh hoạt trong việc xây dựng, phát triển các khái niệm khoa học nhằm phản ánh sự
phát triển của sự vật hiện tượng một cách kịp thời.
Vận dụng yêu cầu
Để quán triệt nguyên tắc phát triển, chúng ta cần khắc phục những sai lầm sau:
- Chúng ta cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, v.v... trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Từ đó, cần có quan điểm đứng đắn trong nhận thức về cái mới và tạo điều kiện cho sự
khẳng định cái mới, cần xây dựng quan điểm đúng đắn, khoa học trong việc nắm bắt hiện thực và có sự
định hướng, niềm tin khoa học vào những xu hướng phát triển tất yếu, hợp quy luật của hiện thực;
- Chúng ta cần có cái nhìn động, linh hoạt tránh tuyệt đổi hóa một hiện tượng, một khuynh hướng nào
đó. Từ đó phải ra sức tìm tòi cái mới, cũng như vận dụng một cách linh hoạt trong việc sử dụng các phương
tiện tác động vào đối tượng, nhất là khi tình hình đã thay đổi nhằm ủng hộ cái mới;
- Trong quá trình xây dựng các quyết sách và thực hiện các quyết sách phải tránh các cách nhìn cực
đoan cả tả khuynh và hữu huynh, cần nhận thức trạng thái chín muồi của đối tượng mà xây dựng và thực
hiện các quyết sách một cách hiệu quả cho sự ra đời của cái mới
Tầm quan trọng của nguyên tắc phát triển:
Nguyên tắc phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo
hiện thực, cải tạo chính bản thân con người. Song để thực hiện được chúng, bản thân mỗi con người cần
nắm chắc cơ sở lý luận của chúng, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.
2.Sự vận dụng của Đảng ta:
Trước đổi mới (1986)
Đảng ta xác định mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là mâu
thuẫn giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự khái quát đó lại chưa phản
ánh thật đầy đủ và chi tiết những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và của thế giới trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm về mâu thuẫn, đồng
thời nhận thức và giải quyết những mặt khác nhau của mâu thuẫn đó, bởi tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước

ta về thực chất là giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn của thời kỳ quá độ. Đến Đại hội IX (2001), Đảng ta
xác định cụ thể các loại mâu thuẫn trong những chặng đường trước mắt của thời kỳ quá độ, đó là, mâu
thuẫn giữa thực trạng kinh tế-xã hội kém phát triển với yêu cầu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh; mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường tư bản chủ nghĩa và
xã hội chủ nghĩa; mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với các thế lực cản trở con
đường phát triển của nước ta vươn tới mục tiêu đó; mâu thuẫn giữa nhân tố chủ quan với yếu tố khách
quan trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xác định mâu thuẫn, Đảng ta cũng đề ra các phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Việc giải quyết
những mâu thuẫn xã hội bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, nhưng phương diện
khách quan của mâu thuẫn quy định nội dung phương pháp giải quyết những mâu thuẫn đó. Do vậy, muốn
giải quyết những mâu thuẫn xã hội, chúng ta phải căn cứ vào bản chất, trạng thái (đã chín muồi hay chưa)

12


của mâu thuẫn; phải căn cứ vào điều kiện chủ quan và khách quan; trong và ngoài nước; phải tính đến thời
điểm giải quyết mâu thuẫn để tìm ra phương pháp giải quyết thích hợp. Vận dụng sáng tạo một trong những
phương pháp giải quyết mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ có ý nghĩa hết sức quan trọng mà
V.I.Lênin đã chỉ ra trong Chính sách kinh tế mới là "kết hợp các mặt đối lập một cách có nguyên tắc". Cụ thể,
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về bản chất là sự kết hợp giữa cơ chế thị
trường với sự quản lý có kế hoạch kinh tế - xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa; kết hợp nhiều thành
phần kinh tế trong một cơ cấu kinh tế hỗn hợp nhưng thống nhất; vừa đấu tranh, vừa hợp tác để phát huy
mọi tiềm năng, mọi nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống
nhân dân và từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới; sử dụng các hình thức kinh tế quá độ như, kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cổ
phần hoá doanh nghiệp quốc doanh v.v.
Cùng với việc xác định mâu thuẫn, đề ra các phương pháp giải quyết mâu thuẫn, Đảng ta cũng xác
định động lực của công cuộc đổi mới đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Về nội lực, động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân
và trí thức do Đảng ta lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm

năng và các nguồn lực của các thành phần kinh tế. Đây là động lực trực tiếp có ý nghĩa quyết định đối với
công cuộc đổi mới. Về ngoại lực, là sức mạnh của thời đại, sức mạnh đoàn kết quốc tế. Đây là các nguồn
lực căn bản cho sự phát triển của đất nước. Chúng ta cần ra sức tranh thủ những thành tựu khoa học, công
nghệ, lực lượng sản xuất, văn minh vật chất và văn minh tinh thần của nhân loại đã đạt được từ trước tới
nay; hợp tác có hiệu quả với các quốc gia, các tổ chức và các doanh nghiệp trên thế giới để phát triển đất
nước. Nội lực và ngoại lực tạo thành một tổng hợp lực to lớn, đủ sức mạnh để đưa đất nước tiến lên. Muốn
vậy, chúng ta phải thực hiện được điểm mấu chốt là hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí
tuệ và tinh thần của toàn dân tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút tốt hơn và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực bên ngoài. Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực
tổng hợp để phát triển đất nước.
Câu 7. Cơ sở lý luận khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều bệnh giáo điều. Sự vận dụng
của Đảng ta?
*Khái niệm:
- Bệnh kinh nghiệm: là sự tuyệt đối hóa những kinh nghiệm thực tiễn trước đây và áp dụng 1 cách
máy móc vào hiện tại khi điều kiện đã thay đổi.
Biểu hiện:
+ trong nhận thức và hành động luôn xem thường lý luận, ngại học tập để nâng cao nhận thức lý luận.
+ khi tiếp thu lý luận 1 cách giản đơn thậm chí là bớt xén để lý luận phù hợp với kinh nghiệm
+ xem tri thức kinh nghiệm là tri thức tuyệt đích, đóng vai trò quyết định của hoạt động nhận thức và thực
tiễn.
Bệnh kinh nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm thông thường. Tri thức kinh nghiệm thông
thường là trình độ thấp của tri thức. tri thức này chỉ khái quát thực tiễn với những yếu tố và điều kiện đơn
giản, hạn chế. Nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm mọi nơi mọi lúc, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh
nghiệm và thất bại trong thực tiễn khi điều kiện hoàn cảnh đã thay đổi
- Bệnh giáo điều: là tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh
nghiệm thực tiễn, vân dụng lý luận 1 cách máy móc không tính đến điều kiện lịch sử cụ thể mỗi nơi mỗi lúc.
Biểu hiện:
+Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn 1 cách nguyên si máy móc dập khuôn.
+ Xa rời thực tế trong cả nhận thức và hành động.

Trong thực tiễn, bệnh giáo điều có 2 hình thức biểu hiện: giáo điều lý luận – vận dụng lý luận 1 cách
máy móc.. và giáo điều kinh nghiệm – áp dụng máy móc kinh nghiệm của nước khác, nơi khác vào nước
mình, địa phương mình.
- Cơ sở lý luận:
+ do vi phạm quan hệ biện chững thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Trong mối quan hệ đó, thực tiễn có vai trò quyết định, vì
thực tiễn là hoạt động vật chất, còn lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh thần. Vai trò quyết định của thực
tiễn đối với lý luận thể hiện ở chổ : chính thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn để kiểm
tra nhận thức và lý luận; nó cung cấp chất liệu phong phú sinh động để hình thành lý luận và thông qua hoạt
động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức mạnh cải tạo hiện thực. Lý luận
mặc dù được hình thành từ thực tiễn nhưng nó có vai trò tác động trở lại đối với thực tiễn. Sự tác động của
lý luận thể hiện qua vai trò xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn (lý luận là kim chỉ nam
cho hoạt động thực tiễn), vai trò điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả
hơn.

13


+ Do có sự yếu kém về tri thức lý luận. Từ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, ta rút ra
được quan điểm thực tiễn. Quan điểm thực tiễn đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng phải gắn với thực
tiễn, phải theo sát sự phát triển của thực tiễn để điều chỉnh nhận thức cho sự phù hợp với sự phát triển của
thực tiễn, hiệu quả của thực tiễn để kiểm tra những kết luận của nhận thức, kiểm tra những luận điểm của lý
luận. Quan điểm thực tiễn cũng đòi hỏi những khái niệm của chúng ta về sự vật phải được hình thành, bổ
sung và phát triển bằng con đường thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn chứ không phải bằng con đường suy diễn
thuần túy, không phải bằng con đường tự biện. Do thực tiễn luôn vận động và phát triển nên phải thường
xuyên tổng kết quá trình vận dụng lý luận vào thực tiễn, xem nó thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho
phù hợp.
* Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm thông thường. Tri thức này chỉ khái quát thực tiễn
với những yếu tố và điều kiện đơn giản hạn chế. Để khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiêu quả, một mặt phải

quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ
sung , vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn. Mặt khác hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội CN.
Kinh tế thị trường đòi hỏi mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, phải thường
xuyên bám sát thị trường để ứng phó, để chủ động về quyết sách kinh doanh phù hợp. Khi thị trường hóa
toàn bộ các yếu tố của quá trình sản xuất thì sẽ khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm
Bệnh giáo điều là tuyệt đối hóa lý luận, tuyệt đối hóa kiến thức đã có trong sách vở, coi nhẹ kinh
nghiệm thực tiễn, vận dụng lý luận một cách máy móc, không tính đến điều kiện lịch sử cụ thể mỗi nơi.
Nguyên nhân là do hiểu biết lý luận còn nông cạn, chưa nắm chắc thực chất của lý luận, lý luận chưa được
vận dụng, kiểm nghiệm và khái quát từ thực tiễn nên xa rời thực tiễn, mất tính sinh động và sáng tạo của lý
luận. Để khắc phục bệnh giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Lý luận phải luôn gắn liền với thực tiễn, phải khái quát từ thực tiễn, vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn và không ngừng sáng tạo cùng thực tiễn. Hồ Chí Minh nói :” Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-lenin. Thực tiễn không có lý luận thì thành thực tiễn mù quáng. Lý
luận mà không có thực tiễn là lý luận suông”.
* Sự vận dụng của Đảng
Trước đổi mới (trước 1986)
Do chưa nhận thức đầy đủ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, chưa gắn lý luận với thực tế điều kiện,
hoàn cảnh ở nước ta nên đã chủ quan, nóng vội, bỏ qua những bước đi cần thiết.
- Căn bệnh giáo điều, xuất phát từ sự lạc hậu, yếu kém về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự yếu
kém về lý luận làm cho chúng ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt
xén sơ lược, không đến nơi đến chốn, CNXH được hiểu một cách giản đơn, ấu trĩ. căn “bệnh” giáo điều biểu
hiện ở nước ta là qua việc xóa bỏ chế độ tư hữu, tiến hành cải tạo XHCN; xóa tất cả các thành phần kinh tế,
chỉ còn kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể.
- Căn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa biểu hiện ở việc bắt chước một cách rập khuôn theo mô hình XHCN
ở Liên Xô (cũ): Liên Xô có bao nhiêu bộ ta cũng có bấy nhiêu bộ, Liên Xô phát triển công nghiệp nặng thì ta
cũng phát triển công nghiệp nặng mà không xem xét đến điều kiện cụ thể của Việt Nam, đồng thời không
chú ý đến phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ trong khi nước ta là một nước nông nghiệp với tất cả
những điều kiện vật chất khách quan đều thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Sự nhận thức giản đơn, yếu
kém trong việc vận dụng xơ cứng lý luận vào trong còn thể hiện ở việc hiểu và vận dụng chưa đúng các quy

luật khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở nước ta (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các quy luật sản xuất hàng hoá, quy luật thị
trường...), quá nhấn mạnh một chiều vai trò của quan hệ sản xuất, của chế độ công hữu, chế độ phân phối
bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ.
Hậu quả của những sai lầm xuất phát sự nhận thức yếu kém về lý luận và xa rời thực tiễn đã làm cho
đường lối chính sách của Đảng ta đề ra không phù hợp với thực tiễn nên đất nước lâm vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế xã hội: Nnhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn
chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát
triển; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo
của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. Cơ
chế tập trung quan liêu, bao cấp trong phát triển kinh tế còn nặng nề, chưa bị xóa bỏ. Chậm đổi mới cơ chế
và bộ máy quản lý, thiếu hiểu biết và ít kinh nghiệm quản lý nhưng lại chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm,
quá tập trung quyền lực nhà nước, dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, bao
cấp trong phân phối... làm cản trở sự sáng tạo, tạo nên sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội.
Thời kỳ đổi mới ( sau 1986 )
Nhận thức được những sai lầm trên, từ ĐH Đảng lần VI (1986), Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi
mới toàn diện tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có mọi phương hướng đổi mới phải xuất phát
từ thực tiễn như Văn kiện Đại hội VI của Đảng đã xác định “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan”. Đại hội VI đã rút ra bốn bài học kinh nghiệm trong đó bài học
thứ hai là "Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng

14


lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng". Nền kinh
tế hàng hóa nhiều thanh phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước từng bước
được hình thành.
Đại Hội Đảng lần IX cũng đã nhấn mạnh “Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống xã
hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào…”.
Đại hội IX tiếp tục khẳng định "Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với

thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam,
tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình sẵn có nào; đổi mới toàn diện,
đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Có những điều chỉnh, bổ sung và
phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp, biện pháp; tìm và lựa chọn những giải pháp mới, linh hoạt,
sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì trệ, làm chuyển biến tình hình".
Hiện nay, công cuộc đổi mới ở nước ta càng đi vào chiều sâu, những biến đổi trên thế giới nhanh
chóng, phức tạp, khó lường thì những vấn đề mới đặt ra ngày càng nhiều, trong đó có những vấn đề liên
quan đến nhận thức về CNXH và con đường xây dựng CNXH. Không ít vấn đề về nhận thức lý luận còn
chưa đủ rõ; không ít vấn đề về thực tiễn, nhất là những vấn đề bức xúc nảy sinh từ cuộc sống, chưa được
giải quyết kịp thời và tốt nhất.
Thực tiễn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn: đất nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi toàn diện và cơ bản, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt,
hệ thống chính trị và khối đại đòan kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường, giữ vững an ninh, quốc
phòng, vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối
đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Câu 8: Phân tích cơ sở lý luận chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
* Quan điểm duy vật biện chứng về vận động, phát triển
Vận động
- Khái niệm: Vận động là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không
gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp
- Tính chất:
+ Giữa các hình thức vận động có sự khác nhau về chất, biểu hiện những trình độ phát triển của kết cấu vật
chất
+ Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó các hình
thức vận động thấp hơn
+ Mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng bao giờ cũng đuợc đặc trưng
bằng một hình thức vận động cơ bản
Phát triển
- Khái niệm:

Phát triển là quá trình vận động tiến lên từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
tới hoàn thiện.
Phát triển là khuynh hướng chung của thế giới
- Tính chất:
+ Phát triển mang tính khách quan,nó là cái vốn có của bản thân sự vật hiện tượng.
+ Phát triển không chỉ là sự thay đổi về mặt số lượng hay khối lượng mà nó còn là sự thay đổi về chất.
+ Phát triển mang tính kế thừa nhưng trên cơ sở có sự phê phán, lọc bỏ, cải tạo và phát triển, không kế
thừa nguyên xi hay lắp ghép từ cái cũ sang cái mới một cách máy móc, hình thức.
+ Tùy vào từng sự vật, hiện tượng,quá trình cụ thể, phát triển còn bao gồm cả sự thụt lùi đi xuống nhưng
khuynh hướng chung là đi lên, là tiến bộ. Theo quan điểm duy vật biện chứng thì khuynh hướng của sự phát
triển diễn ra theo đường xoáy ốc.
+ Nguồn gốc của sự phát triển là ở trong bản thân sự vật hiện tượng, do mâu thuẫn của sự vật hiên tượng
quy định.
* Nguồn gốc, động lực của vận động và phát triển là nguyên tắc thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản,
phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển, theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản phổ
biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng.
Dựa trên những thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã tìm thấy nguồn gốc của
vận động và phát triển ở mâu thuẫn, ở sự đấu tranh giữa các khuynh hướng, các mặt đối lập tồn tại trong
các sự vật và hiện tượng. Mâu thuẫn biện chứng cũng nằm trong quá trình phát triển. Khi mới xuất hiện,
mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản của hai khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau không ngừng
phát triển và đi đến sự đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, mâu thuẫn được giải
quyết và mâu thuẫn mới hình thành. Sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. C. Mác viết: “Cái cấu thành bản
chất của sự vận động biện chứng, chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa

15


hai mặt ấy và sự dung hợp giữa hai mặt ấy thành một phạm trù mới”. V.I. Lênin nhấn mạnh: “ Sự phát triển

là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Khái niệm: Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động
trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề để tồn tại của nhau.
- Tính chất:
+ Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến
+ Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú: mỗi sự vật hiện tượng đều có thể bao hàm nhiều loại mâu
thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau.
- Quá trình vận động của mâu thuẫn:
+ các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau. Sự thống nhất dùng để chỉ sự liên hệ,
ràng buộc không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để
tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập bao hàm sự đồng nhất của nó. Sự đấu tranh của các mặt đối lập
dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh
của nó rất phong phú, đa dạng tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể của sự vật, hiện
tượng. Quá trình thống nhất và đấu trang của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng.
Sự chuyển hóa diễn ra hết sức phong phú, đa dạng tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy
thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể
+ Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh là tuyệt đối, còn sự thống nhất là
tương đối. Trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.
+ Tác động qua lại dẫn đến sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá trình. Lúc mới xuất hiện,
mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành 2 mặt đối lập. Khi 2 mặt đối lập của mâu thuẫn xung
đột với nhau gay gắt và khi điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải
quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và quá trình tác động, chuyển hóa giữa 2 mặt
đối lập lại tiesp diễn, làm cho sự vật hiện tượng luôn luôn vận động phát triển
- Ý nghĩa phương pháp luận
+ Trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ
các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động, phát triển
+ Trong nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử – cụ thể, tức là phân tích
cụ thể từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp, phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại
mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định, những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương

pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
Hoạt động thực tiễn là nhằm giải quyết mâu thuẫn tạo ra sự biến đổi của sự vật Dó đó, phải xác định
đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải
quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh của các mặt đối lập. Đối với mâu
thuẫn khác nhau có phương pháp giải quyết khác nhau.
* Sự vận dụng của Đảng: Mâu thuẫn trong quá trình CNH, HDH đất nước
Trước 1986
Đại hội Đảng toàn quốc lần III (1960 ) đã xác định: CNH là nv trung tâm của trong suốt thời kì quá độ.
Nội dung cơ bản của CNH khi đó được xác định là: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên
cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: CM QHSX, CM
KHKT, CM tư tưởng văn hóa. Trong công nghiệp nặng thì chú trọng công nghiệp cơ khí chế tạo máy móc để
sản xuất ra tư liệu sản xuất, trang bị công cụ sản xuất cơ khí máy móc cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân
Nhận thức về công nghiệp hóa hiện đại hóa: Xem công nghiệp hóa chỉ là quá trình tạo ra máy móc,
coi trọng ngành công nghiệp nặng phục vụ cho nền sản xuất xã hội, coi nhẹ nông nghiệp và các ngành dịch
vụ khác.
=> Việc áp dụng các cơ sở trên của công nghiệp hóa trong thời kì nước ta vừa mới bị tàn phá nặng nề do 2
cuộc chiến tranh là chủ quan, nóng vội về đường lối.
+ Đưa máy cày ồ ạt vào đồng ruộng thay cho sức kéo của súc vật vừa không phù hợp với điều kiện bậc
thang ở nước ta vừa không tận dụng được sực kéo, gây lãng phí
+ Việc đầu tư tràn lan ở nhiều cơ sở sản xuất máy móc trong khi vốn không có, người lao động không
có trình độ cũng như quản lí kém hiệu quả dẫn đến ngành nông nghiệp ko được coi trọng, thiếu lượng thực
lực phẩm, kinh tế đình trệ, đói kém và lạc hậu
Sau 1986
Đại hội đảng VIII (1986) đã tập trung nói rõ về CNH, HDH ở nước ta từ mục đích đến tiến hành từng
bước, thứ tự ưu tiên các ngành trong cơ cấu kinh tế, đến cả việc xác định động lực của quá trình CNH, HDH
là như thế nào…,mở ra một chặng đường mới đẩy mạnh CNH, HDH. Thời kì quá độ của nước ta hiện nay
có 3 mâu thuẫn cơ bản
- Mâu thuẫn 1 bên là lực lượng sản xuất phát triển và đang tự tìm con đường giải phóng với bên kia là
quan hệ sản xuất đang kìm hãm, MT giữa lực lượng lao động và QHSX TBCN (thành phần tư bản tư
nhân, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài..) => MT QHSX Và LLSX


16


Mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu thỏa mãn các nhu cầu vật chất và văn hóa ngày càng tăng của
nhân dân với 1 nên là nền sản xuât quá thấp kém, còn đang ở trình độ nền sx giản đơn và mang
nhiều tính tự cấp, tự túc > MT giữa SX và nhu cầu
- Mâu thuẫn giữa một bên là sự phát triển tự phát đi lên CNTB và 1 bên là sự can thiệp có định hướng
của chúng ta phát triển theo con đường dẫn tới CNXH
Phương hướng giải quyết
- Đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân với tình trạng quan liêu bao cấp của hệ thống chính trị: Giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng, bằng sự tiên phong gương mẫu của Đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng
- Tập trung xây dựng nền văn hóa VN tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
-

Câu 9 Phân tích cơ sở lý luận của bài học chống tả khuynh, hữu khuynh trong nhận thức và thực
tiễn. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
1. phân tích cơ sở lý luận của bài học chống tả khuynh hữu khuynh trong nhận thức và thực tiễn
- Khái niệm:
+ tả khuynh: có thể hiểu là tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn có sự thay đổi sớm về lượng nhưng
không tính đến việc lích lũy về chất.
+ hữu khuynh: là tư tưởng bảo thủ trì trệ, không dám thực hiện sự thay đổi về chất khi đã có sự tích
lũy đủ về lượng.
- Biểu hiện của tả khuynh- hữu khuynh trong nhận thức và thực tiễn:
+ tả khuynh: nóng vội, luôn muốn đốt cháy giai đoạn, không quan tâm đến tính khách quan vốn có
của sự vật.
+ hữu khuynh: bảo thủ, tuyệt đối hóa về sự thay đổi về mặt quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận
động, phát triển của sự vật, không kịp thời chuyển những thay đổi về tính quy định vốn có sang tính khách
quan vốn có của sự vật.
- Nguyên nhân:

+ Vi phạm sự thống nhất giữa tác động qua lại của sự vật hiện tượng.
+ vi phạm nguyên lý của quy luật lượng chất, cụ thể:
Cơ sở lý luận của bài học chống tả khuynh, hữu khuynh là quy luật chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại, chỉ ra cách thức vận đông, phát
triển của sự vật, hiện tượng
Các khái niệm
- Chất là tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng được biểu hiện thông qua các thuộc tính và đặc
điểm cấu trúc của sự vật. Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác. Tính quy
định là cái vốn có của sự vật, hiện tượng để phân biệt sự vật này với sự vật khác. Tính quy định này được
thể hiện thông qua các thuộc tính.
- Lượng của sự vật là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, chỉ rõ về mặt quy mô, tốc độ, trình độ
phát triển của sự vật, hiện tượng. Nói đến lượng sự vật tức là sự vật đó lớn hay bé, tốc độ phát triển nhanh
hay chậm, trình độ cao hay thấp..v..v..đo bằng các đại lượng cụ thể, bằng số tuyệt đối như trong lượng, thể
tích hoặc so sánh với vật thể khác, thời kỳ này với thời kỳ khác. Ví dụ tốc độ của ánh sáng là
300.000km/giây, một cái bàn có chiều cao 80 phân, một nước có 50 triệu dân..v..v
- Độ là giới hạn mà trong đó lượng biến đổi chưa gây nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật vẫn là
nó, mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một độ thích hợp khi lượng biến đổi vượt quá giới hạn độ thì sự
vật không còn là nó.
- Điểm nút là điểm mà tại đó lượng biến đổi đã gây nên sự thay đổi căn bản, tập hợp những điểm nút
gọi là đường nút.
- Sự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải thông qua bước nhảy. Bước nhảy là một
phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi căn bản từ chất sự vật này sang chất của sự vật khác.
Nội dung của quy luật
- Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất của nó và ngược lại, sự thay đổi
về chất của sự vật tương ứng với thay đổi về lượng của nó. Sự thay đổi về lượng có thể chưa làm thay đổi
ngay lập tức sự thay đổi về chất của sự vật. ở một giới hạn nhất định, lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất
của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá giới hạn nhất định, thì chất cũ
sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm
thay đổi căn bản chất của sự vật ấy gọi là độ. Những thay đổi về lượng vượt quá giới hạn độ sẽ làm cho

chất của sự vật thay đổi căn bản. Điểm mà tại đó sự thay đổi căn bản về chất được thực hiện gọi là điểm
nút. Bước nhảy là bước thay đổi căn bản về chất của sự vật do sự thay đổi lượng trước đó gây ra. Đồng
thời, sự thay đôi về chất lại tác động đến lượng, thúc đẩy lượng tiếp tục phát triển.
- Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại: Mọi
sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự
thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới
lại có chất mới cao hơn... Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi.

17


Y/cầu của quy luật:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về lượng đến một
giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Phương
pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, "đốt cháy giai đoạn" muốn
thực hiện những bước nhảy liên tục.
Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của tự nhiên diễn ra
một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những
sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những
thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, "hữu
khuynh" thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
2. Sự vận dụng của Đảng: Vận dụng vào thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt nam
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, qua đó tiềm năng của các thành phần kinh tế được khai thác để
phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân,
đảm bảo xây dựng thành công CNXH.
Trước 1986

Chúng ta chưa tích lũy đầy đủ những điều kiện vật chất cho CNXH, nóng vội xây dựng quan hệ sản xuất
XHCN. Sau năm 1975 khi đất nước được thống nhất, cả nước đi lên CNXH, chúng ta đã nóng vội và nhất
loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần dựa trên cơ sở công hữu XHCN về tư liệu sản xuất, mọi
thành phần kinh tế khác bị coi là bộ phận đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xoá
bỏ, làm như vậy là chúng ta đã đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, tạo ra mâu thuẫn giữa một bên là lực lượng sản xuất thấp kém với một bên là quan hệ sản xuất được
xã hội hoá giả tạo, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, hay nói cách khác khi lực lượng
sản xuất của chúng ta còn quá thấp kém chưa tích luỹ đủ về lượng (tính chất và trình độ) đã vội vã thay đổi
chất (quan hệ sản xuất XHCN) làm cho đất nước lâm vào tình trang khủng hoảng kinh tế – xã hội.
Sau 1986
Từ đại hội VI của đảng cộng sản Việt nam đến nay, khắc phục sai lầm trên chúng ta thực hiện xây
dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xuất phát từ tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nước
ta là đa dạng, không đồng đều và chưa cao.
Thực tiễn sau 15 năm đổi mới đã khẳng định chủ trương xây dựng kinh tế nhiều thành phần là phù họp với
phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta. Nó đã thực sự giải phóng , phát triển và khơi dậy các tiềm năng của
sản xuất. Khơi dậy năng lực sáng tạo chủ động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất đưa nước ta ra khỏi
thời kỳ khủng hoảng kinh tế- xã hội với những kết quả đáng mong đợi:
- Thực hiện 3 chương trình kinh tế: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dung và hàng xuất khẩu (tức là
phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp) và phát triển công nghiệp nặng mũi nhọn khi
có điều kiện
- Thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần
- Xóa bỏ quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thừa nhận cơ chế thị trường định hướng XHCN
- Ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo
Câu 10. Phân tích cơ sở lý luận chỉ ra khuynh hướng, con đường vận động và phát triển của sự vật
hiện tượng. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
1.Cơ sở lý luận chỉ ra khuynh hướng, con đường vận động và phát triển của SV HT là: Quy luật phủ
định của phủ định
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong. Sự
vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó gọi là phủ định. Phủ định là sự thay thế sự vật này
bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển. Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để

chỉ sự phủ định tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
Đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là tính khách quan và tính kế thừa. Trong quá trình phủ định
biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tốt, mặt tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu
cực. Do đó, phủ định đồng thời cũng là khẳng định.
2. Nội dung của quy luật phủ định của phủ định
Sự vật ra đời và tồn tại đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật ấy, những nhân tố
mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra - sự vật đó không còn nữa mà
bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị
phủ định bởi sự vật mới khác. Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự
trùng lặp hoàn toàn, mà nó được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực thích
hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định hai lần phủ định của phủ định được thực hiện, sự

18


vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Ví dụ trên cho thấy, từ sự khẳng định ban đầu (hạt thóc ban đầu),
trải qua sự phủ định lần thứ nhất (cây lúa phủ định hạt thóc) và sự phủ định lần thứ hai (những hạt thóc mới
phủ định cây lúa), sự vật dường như quay trở lại sự khẳng định ban đầu (hạt thóc), nhưng trên cơ sở cao
hơn (số lượng hạt thóc nhiều hơn, chất lượng hạt thóc cũng sẽ thay đổi).
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ,
bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng sự
vật sẽ ngày càng phát triển.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực đã
có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới
với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội dung toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng
định ban đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi
đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo.Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của
sự vật - xu hướng phát triển. Song sự phát triển đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường
"xoáy ốc". Sự phát triển theo đường "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát

triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường "xoáy ốc" dường
như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát
triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc".
Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái khẳng định và cái phủ định, nhờ
đó phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển; nó bảo tồn nội dung tích cực của các giai đoạn trước
và bổ sung thêm những thuộc tính mới làm cho sự phát triển đi theo đường "xoáy ốc".
3. ý nghĩa phương pháp luận
Nghiên cứu về quy luật phủ định của phủ định, chúng ta rút ra một số ý nghĩa phươngpháp luận sau đây:
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật.
Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo một đường thẳng, mà diễn ra quanh
co, phức tạp, trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ
trước.ở mỗi chu kỳ phát triển sự vật có những đặc điểm riêng biệt. Do đó, chúng ta phải hiểu những đặc
điểm đó để có cách tác động phù hợp với yêu cầu phát triển.
Theo quy luật phủ định của phủ định, mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ
thay thế cái lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ, do
đó, trong hoạt động của mình, con người phải biết kế thừa tinh hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch
trơn.
4. Vận dụng: hình thái kinh tế xã hội theo đường xoắn ốc
Loài người đã, đang và sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế xã hôi. Đó là xã họi cộng sản nguyên thủy,
chiễm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Hình thái kinh tế xã hội có tính lịch
sử, có sự ra đời phát triển, diệt vong . Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi, chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay
thế. Đó là khi phương thức sản xuất cũ đã trở lên lỗi thời, hoặc khủng hoảng do mâu thuẫn của quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất quá lớn không thể phù hợp thì phương thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và xuất
hiện một phương thức sản xuất mới hoàn thiện hơn, có quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất.
Có thời kỳ nước ta mắc phải căn bệnh phủ định sạch trơn, đây là thời gian đánh giá về giá trị của
CNTB là xấu, phải tránh xa còn CNXH thì toàn màu hồng. Vào giai đoạn này, tất cả những sản phẩm hàng
hóa cũng như những văn hóa tư tưởng của CNXH được đề cao tuyệt đối, còn của CNTB thì được cho là sai
lệch, không tốt.
Sau những năm đổi mới, đất nước ta đã biết nhìn nhận và kế thừa chọn lọc những giá trị, những
thành tựu mà CNTB mang lại.

Tóm lại, có thể thấy sự vận động của không chỉ Việt Nam mà toàn nhân loại đều tất yếu đi theo quy luật này.
Tuy nhiên khi cái mới xuất hiện, ban đầu sẽ là cái cá biệt, non yếu. Vì vậy chúng ta cần quan tâm bảo vệ để
nó tồn tại, phát triển và được nhân rộng ra.
Câu 11: Phân tích mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận. Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
*Khái niệm
- Thực tiễn: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử – xã hội của
con người nhằm cải biến tự nhiên, xã hội và bản thân con người
Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
+ lao động sản xuất vật chất là hình thức thực tiễn cao nhất, là hoạt động trực tiếp tác động vào tự
nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội
+ hoạt động chính trị – xã hội là hoạt động của con người trực tiếp tác động vào xã hội, cải biến các
quan hệ xã hội theo hướng tiến độ
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động của các nhà khoa học tác động nhằm làm cải biến
các quan hệ xã hội theo hướng tiến bộ
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan trọng khác nhau,không thể thay
thế được cho nhau song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau

19


- Lý luận: là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối quan hệ bản chất, những
quy luật của các sự vật, hiện tượng
Để hình thành lí luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm, nhận thức kinh nghiệm
là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật, hiện tượng, kết quả của nhận thức kinh
nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức
kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở cấp độ thấp nhưng là cơ sở để
hình thành lí luận
Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò của nó, có thể phân chia lí luận
thành
+ Lý luận ngành: lí luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển của một ngành, nó là cơ sở

để sáng tạo tri thức cung như phương pháp luận cho hoạt động của ngành đó, như lí luận văn học, nghệ
thuật…
+ Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con người, là thế giới quan
và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con người.
*Mối quan hệ biện chứng giữa lí luận và thực tiễn
- Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận: lý luận hình thành, phát triển
xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
+ Thực tiễn là cơ sở của lý luận:Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như
thất bại, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố, các điều kiện trong các
hình thức thực tiễn để hình thành lý luận,. Quá trình hoạt động thực tiễn còn là cơ sở đẻ bổ sung và điều
chỉnh những lý luận đã được khái quát. Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh những
vấn đề mới đòi hỏi quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó, lý luận được bổ sung , mở
rộng.
+ Thực tiễn là động lực của lý luận.Hoạt động của con người là nguồn gốc các cá nhân, hoàn thiện
các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với xã hội. Lý luận được vận đụng làm phương pháp cho hoạt
động thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người và càng kích thích con người tiếp tục bám sát thực tiễn để
khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người, làm cho lý luận ngày
càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Qua đó, thực tiễn thúc đẩy một ngành khoa học mới ra đời – khoa
học lý luận.
+ Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động
của con người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hoen, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng
của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không tạo ra những sản phảm đáp ứng nhu cầu của con người , mà
phải thông qua hoạt động thực tiễn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của lý luận. Tính chân lý của lý luận là sự phù hợp của lý luận với hiện thực
khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận với hoạt động thực tiễn của
con người. Do đó, mọi lý luận phiải thông qua thực tiễn kiểm nghiệm.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tình toàn vẹn của nó. Thực tiễn có
nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, chỉ có lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới
đạt đến chân lý.
- Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ

sung và phát triển trong thực tiễn. Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận
khoa học và ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản khoa học, phản
động, lạc hậu.
+Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ đạo, soi
sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra
rằng: "Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi". Lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức
đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan, giúp con người xác định đúng
mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp váp. Lý luận khoa học thâm nhập
vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh vật chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt
động của con người trở nên tự giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những mò mẫm,
tự phát.
+ Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong tương lai, từ đó
chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô
tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không
đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu không thể lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự
báo tương lai là chức năng quan trọng của lý luận.
+ Lý luận cách mạng có vai trò to lớn đối với thực tiễn cách mạng. Lênin cho rằng: "Không có lý luận
cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng". Mác thì nhấn mạnh: "Lý luận khi thâm nhập vào quần
chúng thì nó biến thành lực lượng vật chất".
* ý nghĩa phương pháp luận

20


Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng, giúp chúng
ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và rút ra được những quan điểm đúng đắn trong
nhận thức và cuộc sống.
Trước hết, cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất
phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý
luận, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý luận phải

liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn giữaấy, sách vở, xa rời thực tiễn.
Đồng thời cần phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát huy vai trò của lý luận yêu cầu
phải nâng cao trìnhđộ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp tư duy cho toàn Đảng, toàn dân nghĩa là chuyển
từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, từ tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng duy vật; đổi
mới công tác lý luận, hướng công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ những căn cứ
khách quan của đường lối chính sáchcủa Đảng.
Nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh kinh
nghiệmvà bệnh giáo điều.
*Sự vận dụng của Đảng ta đối với vấn đề này
Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép phát triển kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá
độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung hoà và tồn tại nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu do lịch sử để lại
song đưa chúng cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề nan giải, khó khăn. Bên cạnh việc thừa nhận sự
tồn tại của kinh tế tư bản tư nhân, đương nhiên phải thường xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản
chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong các thành phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất
giữa chúng để cùng phát triển.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó là bài học về quán triệt quan
điểm thực tiễn - nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cơ bản và hàng đầu của triết học
Mác xít. Sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi
sáng. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong
hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi
về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực
tiễn rồi mới có kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận.
Vì vậy, quá trình đổi mới ở nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng kết lý luận,
đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quá trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải
mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ
thực tiễn. Ví dụ như vấn đè chống lạm phát, vấn đề khoán trong nông nghiệp, vấn đề phân phối sản phẩm...
Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định.
Câu 12. Phân tích mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (hoặc nội dung cơ bản
nhất của quy luật chi phối sự phát triển của lịch sử loài người). Sự vận dụng của Đảng ta đói với quy

luật này.
1. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn
lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản
xuất ở một trình độ nhất địnhvà quan hệ sản xuất tương ứng.
- Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu
đời sống của mình. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó "lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động" . Chính người lao động là
chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao
động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Trong
các yếu tố của LLSX, LLSX hàng đầu là người lao động. Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là
một yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất.Trong sự phát triển
của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản
xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã
hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và
quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra,
nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của con người Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát,
quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội, quyết định quan hệ về tổ chức quản lý
sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác. Quan hệ tổ chức và quản lý sản
xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi

21


ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.

2. Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không
tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã
hội. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương
đối và tác động trửo lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quyết định mục đích của sản
xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội,
đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ… do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, ngược lại sẽ kìm hãm. Và khi
quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ
sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Sự phát triển của LLSX bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội là phải không ngừng
phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Sự phát triển đó được đánh dấu bằng trình độ của
LLSX.Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ
năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học
vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Khi sản xuất dựa trên
công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân.
Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có
tính chất xã hội hóa. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển" của lực lượng sản
xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản
xuất phát triển.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù
hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành
"xiềng xích" của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự
phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.

Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi,
phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.
- Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động
sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, v.v. và
do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác
động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công
xã nguyên thuỷ, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội
cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
3. Sự vận dụng của Đảng ta
Giai đoạn 76-86:
Đường lối kinh tế chủ đạo của Việt Nam từ thời kỳ này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng
chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động. Công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển.
Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa được cải tạo, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống
nhất.
Hội nhập kinh tế thông qua triển khai các hiệp định hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là
trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ Kinh tế từ năm 1978.Thời kỳ này được nhắc đến với danh từ "bao
cấp". Nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tập trung kế hoạch hóa. Nhà nước lên kế hoạch cho mọi hoạt động
kinh tế, các xí nghiệp nhà máy cứ theo kế hoạch nhà nước mà làm. Thành phần kinh tế tư nhân bị cấm.
Nông dân làm việc trong các hợp tác xã.
Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm, thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt
giảm. Kết quả này do nhiều nguyên nhân trong đó có cả “do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và
Nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội”[18] dẫn tới "chủ quan,
nóng vội, đề ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả năng, những chủ


22


trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn cứ xác đáng, dẫn đến lãng phí lớn về sức người,
sức của; ... rất bảo thủ, trì trệ trong việc chấp hành đường lối của Đảng và nhiều nghị quyết của Trung
ương, trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về nhiều mặt của đất nước.... kéo dài cơ chế quản
lý quan liêu bao cấp với cách kế hoạch hóa gò bó, cứng nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền
chủ động cho cơ sở, địa phương và ngành, và cũng không tập trung thích đáng những vấn đề mà Trung
ương cần và phải quản lý... duy trì quá lâu một số chính sách kinh tế không còn thích hợp, cản trở sản xuất
và không phát huy nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo của những người lao động... chưa nhạy
bén trước những chuyển biến của tình hình, thiếu những biện pháp có hiệu quả. Hậu quả nghiêm trọng phải
kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn
quốc để thực thi "đánh tư sản mại bản", làm cạn kiệt tiết kiệm vốn liếng của người dân và làm xáo trộn kinh
tế trầm trọng.
Giai đoạn 86 đến nay:
Là thời kỳ chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam. "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định 2 hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa" . Theo quan điểm của Đảng ta, "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc" .Xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân
loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ
biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công
nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.

Câu 13. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng?Sự vận
dụng của Đảng ta đói với quy luật này.
1. Khai niệm CSHT và KTTT
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã
hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ
cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của đời sống
kinh tế - xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị
trong xã hội đó.
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể
xã hội, v.v. được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm
riêng, có quy luật vận động phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và đều
hình thành trên cơ sở hạ tầng. Song, mỗi yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có
những yếu tố như chính trị, pháp luật có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn những yếu tố như triết
học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp với nó
2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
2.1 Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với
nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Vai trò quyết định của cơ
sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết thể hiện ở chỗ: Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một
kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc thượng tầng là do tính chất của cơ sở hạ
tầng quyết định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về
mặt chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các
mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu hiện những
đối kháng trong đời sống kinh tế. Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền,
triết học, tôn giáo, v.v. đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ: cơ sở hạ tầng
thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Quá trình đó diễn ra không chỉ trong
giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay

trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó, có
những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chính
trị, pháp luật, v.v.. Trong kiến trúc thượng tầng, có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật, v.v.

23


hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó phải
thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
2.2. Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng,
nhưng đó không phải là sự phù hợp một cách giản đơn, máy móc. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng, cũng như
các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và tác động một
cách mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động
đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau.
Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng vì đó là bộ máy
bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học,
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng chúng đều bị nhà nước,
pháp luật chi phối.
Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ
tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có
thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư
tưởng.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến trúc thượng
tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát
triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.
3. Vận dụng của Đảng ta
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, các kiểu tổ chức kinh
tế, các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cùng tồn

tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
Tương ứng với sự đồng nhất về bản chất kinh tế là sự tác động của nhiều hệ thống quy luật kinh tế.
Hệ thống quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa; hệ thống quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa nhỏ và hệ
thống quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần là Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo ra một hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho sự phát triển của
các thành phần kinh tế, đồng thời Nhà nước sử dụng tổng thể các biện pháp - trong đó biện pháp kinh tế là
quan trọng nhất - nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất. Kinh tế Nhà nước không ngừng được củng cố
và phát triển cả về chất và về lượng ở những vị trí nòng cốt của nền kinh tế.
Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của
mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít. Bởi vậy, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân
ta, việc giáo dục truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo trong đời
sống tinh thần của xã hội là việc làm thường xuyên, liên tục của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh
vực kiến trúc thượng tầng.
Xây dựng hệ thống chính trị, xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng cộng sản
lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực của xã hội thuộc về
nhân dân thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo, tích cực chủ động
của mọi cá nhân. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ:
”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”. Như vậy, tất cả các tổ
chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị - xã hội kkhông tồn tại như một mục đích tư nhân mà vì phục vụ
con người, thực hiện cho được lợi ích và quyền lợi thuộc về nhân dân lao động.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là một bước giải quyết mâu thuẫn
giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng điều chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc
thượng tầng là một quá trình diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.
Câu 14: Phân tích làm rõ tính độc lập tương đối của đời sống tinh thần đối với đời sống vật chất của
xã hội. Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ đó?
1. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất

của xã hội.
Các yếu tố cấu thành tồn tại xã hội gồm: phương thức sản xuất vật chất các yếu tố thuộc điều kiện tự
nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân cư. Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động
lẫn nhau tạo thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất là
quan trọng nhất.
- Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ toàn bộ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn
tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân có quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất với nhau.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội

24


Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Tồn tại xã hội quyết định nội dung của ý thức xã hội; nội dung của ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã
hội .C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng tồn tại xã hội thế nào thì ý thức xã hội thế ấy, đời sống tinh
thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất, do đó không thể tìm nguồn gốc của tư
tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó mà phải tìm trong hiện thực vật chất.
Ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ở những thời kỳ lịch
sử khác nhau, điều kiện đời sống vật chất khác nhau thì ý thức xã hội cũng khác nhau. Mỗi khi tồn tại xã hội
(nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị,
pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật... tất yếu sẽ biến đổi theo.
Tồn tại xã hội quyết định sự biến đổi của ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội nhất là phương thức sản xuất
thay đổi thì ý thức xã hội cũng thay đổi theo; sự biến đổi của ý thức xã hội là sự phản ánh đối với sự biến đổi
của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của một thời đại nào đó sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ vào ý
thức của thời đại đó. Theo C.Mác: “ ...không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế căn cư vào ý
thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng
sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội”(C.Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.15.).
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội cũng chỉ ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý

thức xã hội không phải một cách giản đơn, trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải
bất cứ tưtưởng, quan niệm, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ
kinh tế của thời đại, nhưng nếu xét đến cùng thì các mối quan hệ kinh tế bao giờ cũng được phản ánh bằng
cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Triết học Mác - Lênin khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nhưng cũng khẳng định ý thức
xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được xem xét
trong quan hệ biện chứng với tồn tại xã hội, vẫn do tồn tại xã hội quyết định, nhưng ý thức xã hội có quy luật
vận động nội tại riêng và luôn tác động mạnh mẽ trở lại tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội được biểu hiện trên những đặc điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, do đó khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự biến
đổi của ý thức xã hội. Trong nhiều trường hợp, ý thức xã hội có thể tồn tại lâu dài ngay cả khi tồn tại xã hội
đã thay đổi. Điều đó là do:
- Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nên ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của
tồn tại xã hội.
- Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán và do tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
- Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong
xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ cố tình duy trì để
bảo vệ lợi ích của mình.
→Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay phải thường xuyên tăng cường công tác
tư tưởng; kiên trì đấu tranh xoá bỏ các tàn dư tư tưởng, ý thức lạc hậu. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh
làm thất bại các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch về mặt tư tưởng, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân ta.
Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội: chủ nghĩa duy vật lịch sử thừa nhận trong điều
kiện nhất định tư tưởng con người có thể vượt trước tồn tại xã hội. Tính phản ánh vượt trước của ý thức xã
hội chỉ xuất hiện ở một bộ phận những tư tưởng khoa học, tiên tiến. Những tư tưởng này có khả năng phản
ánh sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tương lai và hình thành các dự báo khoa học.
Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó: Lịch sử phát triển của đời sống tinh
thần của xã hội cho thấy ý thức xã hội của một xã hội có thể kế thừa những giá trị của ý thức xã hội của các

xã hội trước đó. Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội cho phép thế hệ sau tiếp thu thành quả
của thế hệ trước và vận dụng vào thực tiễn mới để phát triển cao hơn. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa và
phát triển những tinh hoa tư tưởng nhân loại, trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ
điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng. Ý thức xã hội
được biểu hiện dưới nhiều hình thái cụ thể khác nhau, mỗi hình thái phản ánh các mặt khác nhau của đời
sống vật chất xã hội và mỗi hình thái có phương thức phản ánh riêng, có chức năng xã hội nhất định. Các
hình thái ý thức xã hội này luôn tác động lẫn nhau và sự tác động này phản ánh quy luật nội tại trong quá
trình phát triển của ý thức xã hội.
Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội, nhất là ý thức tư tưởng tiến bộ góp
phần to lớn vào thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, ngược lại ý thức xã hội lạc hậu, phản tiến bộ có thể kìm
hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.

25


×