Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Công tác biên mục tại thư viện trường đại học sư phạm nghệ thuật trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.37 KB, 26 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những gì tôi viết trong đề tài nghiên cứu là do tôi thực
hiện.
Mọi tham khảo dùng trong đề tài nghiên cứu này đều được trích dẫn về
tác giả, thời gian rõ ràng.
Mọi sao chép không hợp lệ tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Ký tên


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Lê Thị
Hiền giáo viên môn Phương pháp nghiên cứu khoa học. Đã tận tình hướng dẫn
dạy bảo chúng em trong suốt quá trình học.
Em chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong Khoa Thư viện – Thông tin,
trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức trong 4 năm học
tập. Với vốn kiến thức tiếp thu được trong quá trình học không chỉ là nền tảng
trong quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là hành trang quí báu để em bước
vào đời một cách vững chắc và tự tin.
Em chân thành cảm ơn các anh, chị cán bộ trong thư viện trường Đại học
Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
cho em trong thời gian khảo sát, nghiên cứu. Em xin gửi lời cảm ơn đến chị
Nguyễn Thị Lư cán bộ thư viện trường đã giúp đỡ em trong quá trình thu thập số
liệu.Trong quá trình thực hiện, em không thể tránh khỏi những thiếu sót vì vậy
em rất mong nhận được những đóng góp quí báucủa thầy cô và các bạn.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ kĩ thuật đã
khiến cho cuộc sống của con người thay đổi nhanh chong và đạt được những
bước tiến kì diệu. Những thành tựu của cuộc cách khoa học công nghệ hiện dại
trong công nghệ thông tin và truyền thông, cùng với sự bùng nổ thông tin, máy
tính, mạng internet…Cũng chính vì vậy lượng thông tin được tạo ra với khối
lượng lớn. Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển đòi hỏi mỗi
người phải không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn và trình độ
hiểu biết tổng hợp về xã hội. Thư viện và cơ quan thông tin luôn là một địa chỉ
tin cậy cho mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp, trình
độ có nhu cầu học tập và nghiên cứu. Thư viện không chỉ là nơi lưu trữ các loại
tài liệu đơn thuần mà thư viện còn là có vai trò trong học tập, nghiên cứu, giúp
cho việc thừa kế và phát huy các phát minh khoa học …
Nhận thức được vai trò của thư viện trong mọi hoạt động sống của xã hội
Đảng và nhà nước đã có những chỉ dẫn thông qua Pháp lệnh thư viện. Trong
pháp lệnh thư viện chỉ rõ tổ chức và hoạt động của thư viện là trách nhiệm của
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội- nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp, đơn vị vũ trang
nhân dân ( sau được gọi là tổ chức) trong hoạt động thư viện. Nhận thấy bệnh
viện cũng là nơi có nhu cầu tin cao với số lượng cán bộ, học sinh, sinh viên,
bệnh nhân và người nhà bệnh nhân. Chính vì vậy chúng em đã tìm hiểu về công
tác phục vụ bạn đọc trường Sư Phạm Nghệ Thuật Trung Ương. Đề tài này một
phần giúp cho mọi người hiểu rõ hơn tầm quan trọng của thư viện. Tại đó bạn
đọc thoải mái tìm kiếm những tư liệu cần thiết cho nhu cầu học tập và nghiên
cứu của mình. Qua khảo sát chúng em thấy được công tác phục vụ bạn đọc của
cán bộ thư viện tận tình, hướng dẫn bạn đọc lựa chọn và tra cứu thông tin nhanh
chóng, chính xác. Bên cạnh đó vẫn còn những thiếu xót. Vì vậy qua bài nghiên
cứu này chúng em muốn đưa ra thực trạng công tác phục vụ bạn đọc nhằm đưa
ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động và thúc đẩy sự phát triển của

4


thư viện nói chung và thư viện trường nói riêng.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Công tác biên mục tại Thư viện Trường Đại
học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : Công tác biên mục trường Đại học Sư phạm Nghệ
thuật Trung ương.
Phạm vi nghiên cứu: Trường Đại học Sư phạm Ngệ thuật Trung ương.
3. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài này cũng không có ít người thực hiện nghiên cứu về
công tác biên mục như:
Bài nghiên cứu Thực trạng công tác biên mục và kiểm soát biên mục.
Bài nghiên cứu về Nguyên tắc biên mục quốc tế mới.
Công tác biên mục tài liệu số của Thư viện Tạ Quang Bửu- trường Đại
hoc Bách khoa Hà Nội.
Tìm hiểu ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác biên mục tại Thư
viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Các bài nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu về một mặt, một vấn đề trong
công tác biên mục. Hiên nay chưa có bài nghiên cứu cụ thể nào về công tác biên
mục tại thư viện trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn về công tác biên mục.
Tìm hiểu thực trạng công tác biên mục tại Trung tâm thư viện trường Đại
học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.
Đề xuất một số giải pháp nhắm nâng cao hiệu quả của công tác biên mục
tại trung tâm thư viện trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và giải quyết các vấn đề của luận văn, tôi đã

vận dụng phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế
5


- Phương pháp so sánh
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp trao đổi chuyên gia
6. Đóng góp cuả đề tài
Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của công trình góp phần hoàn thiện lý luận về biên
mục.
Về mặt thực tế
Góp phần nhận dạng công tác biên mục, đặc biệt là các công cụ biên mục,
xây dựng quy trình biên mục tài liệu đang được áp dụng xử lý tài liệu tại Trung
tâm Thông tin – Thư viện trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đâu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo đề tài
được chia làm 3 chương.:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác biên mục và khái quát về thư viện
trường Đại học Sư phạm Ngệ thuật Trung ương..
Chương 2 ; Thực trạng về công tác biên mục tại thư viện trường Đại học
Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác biên mục tại trường Đại
học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.

Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC BIÊN MỤC VÀ KHÁI QUÁT VỀ THƯ

VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
1.1.

Cơ sở lý luận về công tác biên mục

6


Công tác biên mục tài liệu đã được cộng đồng thư viện thực hiện từ hàng
trăm năm nay. Một số chuyên gia đã nhận định rằng kiểm soát thư mục truyền
thống gần như đã đạt mức hoàn thiện với tài liệu truyền thống thể hiện thông
qua việc ban hành Nguyên tắc biên mục quốc tế năm 1961 (thường gọi là
Nguyên tắc Pari), tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu thư mục được thống nhất toàn cầu
(tiêu chuẩn ISO 2709), khổ mẫu lưu giữ dữ liệu thư mục được sử dụng rộng rãi
(như MARC21, UNIMARC) và quy tắc biên mục được chấp nhận ( như
AACR2, ISBD) (Gorman M., 2001). Tuy nhiên, sự phát triển của khoa học và
công nghệ nói chung và của công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT)
nói riêng đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong hoạt động quản lý thư mục.
Một số nghiên cứu đã phát hiện những yêu cầu mới đối với biểu ghi thư mục, là
cơ sở cho việc hình thành nguyên tắc biên mục quốc tế mới và quy tắc biên mục
mới.
Năm 2009, IFLA đã công bố "Tuyên bố về nguyên tắc biên mục quốc tế"
thay thế Nguyên tắc Pari. Bên cạnh nhiều vấn đề khác như mục tiêu và chức
năng của mục lục, bản mô tả thư mục, các điểm truy cập, cơ sở cho khả năng tìm
kiếm, Nguyên tắc biên mục quốc tế đã nêu: "Một quy tắc biên mục cần xem xét
các thực thể, thuộc tính và quan hệ như định nghĩa trong các mô hình khái niệm
của thế giới thư mục". Những khái niệm thực thể, quan hệ và thuộc tính này đã
được đề cập đến trong một báo cáo của IFLA về Yêu cầu chức năng của biểu
ghi thư mục, viết tắt là FRBR (từ thuật ngữ tiếng Anh Functional Requirements
of Bibliographic Records).

Trong dự thảo quy tắc biên mục mới “Mô tả và truy cập tài nguyên”
(RDA) cũng sử dụng những khái niệm này của FRBR. Đây là những khái niệm
rất mới đối với biên mục truyền thống.

1.2.

Khái niệm về công tác biên mục
Biên mục được coi là hoạt động chính yếu nhất để thực hiện kiểm soát
7


thư mục, tạo ra công cụ thư mục. Là toàn bộ quá trình có liên quan đến tổ chức
các công cụ thư mục nói chung và mục lục nói riêng, bao gồm mô tả thư mục,
phân loại và định chủ đề tài liệu. Có thể khẳng định, lịch sử thư viện gắn liền
với lịch sử biên mục. Theo Đại từ điển tiếng Việt: “biên” là viết, ghi chép, tổ
chức, sắp xếp theo một trật tự nhất định [8, tr. 157]; “mục” là phần nhỏ tên sách
báo hoặc một nội dung trọn vẹn [8, tr. 1150]. Theo nghĩa đó, có thể hiểu “biên
mục” là việc tổ chức, sắp xếp nội dung mô tả tài liệu theo một trật tự nhất định.
Theo Bách khoa thư về hệ thống cơ sở dữ liệu (Encyclopedia of Database
Systems [49, p 309]: Biên mục là sử dụng những quy tắc, tiêu chuẩn để tạo ra
bản thay thế tài liệu, nó mô tả những yếu tố chủ yếu về tài liệu để nhận dạng tài
liệu này là duy nhất, phân biệt với các tài liệu tương tự khác. Khi không nhìn
vào tài liệu, người dùng có thể biết đầy đủ thông tin về tài liệu mà họ cần nếu nó
phù hợp với nhu cầu của họ. Thông thường biên mục bao gồm mô tả thư mục
(còn gọi là biên mục mô tả), phân tích chủ đề (bao gồm định tiêu đề chủ đề và
định chỉ số phân loại).
Theo tác giả Vũ Văn Sơn, biên mục được xác định là “một bộ phận của
quá trình kiểm soát thư mục, là toàn bộ quá trình liên quan đến tổ chức các công
cụ thư mục nói chung và mục lục nói riêng: mô tả thư mục, phân tích chủ đề và
kiểm soát tính thống nhất. Việc kiểm soát tính thống nhất được tiến hành trong

cả hai giai đoạn mô tả thư mục và phân tích chủ đề” [6, tr. 28 ]
Trong định nghĩa này, biên mục bao gồm: mô tả thư mục, phân tích chủ
đề và kiểm soát tính thống nhất. Thực chất công việc kiểm soát tính thống nhất
chính là kiểm soát tính nhất quán các yếu tố mô tả thư mục và trong việc lập các
tiêu đề mô tả khi mô tả thư mục; cũng như kiểm soát tính nhất quán các tiêu đề
chủ đề và các kí hiệu phân loại khi biên mục chủ đề. Công cụ để tiến hành công
việc kiểm soát tính thống nhất là các hộp phiếu công vụ, các Hồ sơ tiêu đề chuẩn
(authority files) trong máy tính. Các công cụ này thường được xây dựng dựa
trên các quy tắc mô tả, các Khung đề mục chủ đề, các bảng phân loại, các bộ từ
khóa, các từ điển và từ chuẩn, …
Theo ODLIS - Online Dictionary for Library and Information Science
8


Biên mục là quá trình tạo ra những bản mô tả cho mục lục. Trong thư viện, công
việc biên mục thường bao gồm: mô tả thư mục, phân tích chủ đề, cung cấp chỉ
số phân loại và những hoạt động liên quan đến sự chuẩn bị về mặt vật lý tài liệu
để xếp giá sách, những công việc này thường được thực hiện bởi cán bộ thư viện
chuyên nghiệp được gọi là cán bộ biên mục.
Trong đó biên mục mô tả (descriptive cataloguing) hay còn gọi là mô tả
thư mục: là việc lựa chọn những chi tiết đặc trưng của một tài liệu và trình bày
chúng theo những quy tắc nhất định giúp bạn đọc có những khái niệm về một tài
liệu trước khi tiếp xúc với tài liệu đó. Theo tác giả Vũ Văn Sơn: “Biên mục mô
tả là một bộ phận của quá trình biên mục có liên quan tới việc nhận dạng một tài
liệu và ghi lại những thông tin về tài liệu để giúp lưu giữ và tìm lại tài liệu một
cách chính xác và không nhầm lẫn với các tài liệu khác” [6, tr. 29]
Bảng thuật ngữ trong Nguyên tắc biên mục quốc tế (IFLA, 2009) đã
định nghĩa biên mục mô tả là “phần của công tác biên mục cung cấp dữ liệu mô
tả và các điểm truy cập không phải chủ đề”. Theo Giáo sư Patricia G. Oyler
(Giáo sư về Khoa học thông tin – thư viện, trường đại học Simmons, Mỹ): biên

mục mô tả là một phần của quá trình biên mục liên quan tới việc nhận dạng và
mô tả một gói thông tin, việc ghi lại thông tin này dưới hình thức biểu ghi mục
lục, lựa chọn và trình bày điểm truy cập cùng với các điểm truy cập chủ đề.
Như vậy, biên mục mô tả là một bộ phận của quá trình biên mục có liên
quan đến nhận dạng một tài liệu và ghi lại những thông tin về tài liệu ấy trên
một phiếu mô tả mục lục hay biểu ghi thư mục sao cho nó có thể nhận dạng
được tài liệu ấy một cách chính xác mà không nhầm lẫn với các tài liệu khác và
được thể hiện qua các điểm truy cập được tạo lập.
1.3.

Vai trò của công tác biên mục
Vai trò của mô tả thư mục là giúp người dùng tin có khái niệm về tài

liệu và dễ dàng tìm được tài liệu ấy trong hệ thống tìm tin truyền thống và hiện
đại. Những yếu tố cơ cản của mô tả thư mục: Nhan đề, thông tin trách nhiệm,
lần xuất bản, thông tin về xuất bản, phát hành, mô tả vật lý,…
Mô tả thư mục vừa là một công đoạn, vừa là một sản phẩm. Với tư cách
9


là một sản phẩm, người ta gọi đó là một chỉ dẫn thư mục hay một tra cứu thư
mục.
1.4.

Lịch Sử hình thành và phát triển thư viện trường Đại học Sư phạm
Nghệ thuật Trung ương
Thư viện Trường ĐHSPNTTW là bộ phận trực thuộc Trung tâm Công nghệ

Thông tin và Thư viện, hiện nay là Trung tâm Công nghệ Thông tin, được thành lập
theo quyết định số 681/QĐ-ĐHSPNTTW ngày 04/06/2014 của Hiệu trưởng trường

ĐHSPNTTW.
Thư viện hình thành và phát triển cùng với sự hình thành của trường
ĐHSPNTTW; tiền thân là một bộ phận (thư viện) nằm trong các phòng Giáo vụ
(năm 1967), Quản trị Thiết bị (năm 1989), Đào tạo (phòng Giáo vụ cũ) (năm 1998),
phòng Nghiên cứu khoa học (nay là phòng Khoa học công nghệ, năm 2002).
Do yêu cầu nhiệm vụ, ngày 27/04/2011, Hiệu trưởng trường ĐHSPNTTW ký
quyết định số 285/QĐ-ĐHSPNTTW-TCCB về việc đổi tên Trung tâm Thông tin –
Thư viện thành Trung tâm Tin học, Ngoại ngữ và Thư viện. Trên cơ sở một phần
chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm Tin học, Ngoại ngữ và Thư viện, ngày
04/06/2014, Trung tâm Công Nghệ Thông tin và Thư viện được thành lập và hiện
nay là Trung tâm Công nghệ Thông tin.
Trước những yêu cầu đổi mới toàn diện về giáo dục, xuất phát từ những
nhiệm vụ chiến lược phát triển của ngành giáo dục và chiến lược phát triển của
Trường ĐHSPNTTW, TV có vai trò rất quan trọng trong quá trình đổi mới giáo
dục, nâng cao chất lượng đào tạo, TV có vai trò cung cấp thông tin và tư liệu các
ngành tri thức đặc biệt là thông tin tư liệu về khoa học công nghệ, khoa học kinh
tế, thông tin về văn hóa nghệ thuật,… nhằm đáp ứng các nhu cầu nghiên cứu

10


Tiểu kết:
Chương 1 đã khái quát về khái niệm biên mục, cơ sở lý luận về công tác
biên mục, vai trò của công tác biên mục, cũng như khái quát về lịch sử hình
thành và phát triển của Thư viện trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung
ương. Giúp phần nào hiểu rõ hơn về công tác biên mục, cũng như quá trình hoàn
thiện của công tác biên mục. Cũng như hình dung khái quát về thư viện trường
Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương. Sau đây tôi xin trình bày rõ hơn về
thực trạng công tác biên mục tại trường thư viện trường Đại học Sư phạm Nghệ
thuật Trung ương.


11


Chương 2:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BIÊN MỤC TẠI THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
2.1. Các yếu tố đảm bảo cho công tác biên mục
2.1.1. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin
Thư viện của trường cũng nhận được nhiều sự hỗ trợ của bộ phận công
nghệ thông tin trong quá trình hoạt động của thư viện. Hiện nay thư viện có 7
máy tính hỗ trợ trong công việc. Và có máy tính tra cứu riêng cho người dùng
tin khi đến thư viện.
Bộ máy tra cứu thông tin trong thư viện là tập hợp các công cụ, phương
tiện cho phép truy cập đến tài liệu hoặc truy cập đến thông tin trong thư viện; là
cầu nối giữa người dùng tin và cán bộ thông tin với vốn tài liệu trong thư viện.
Bộ máy tra cứu giúp người dùng tin có thể nhanh chóng tìm thấy thông tin, tài
liệu mình cần một cách nhanh chóng dễ dàng.
Thư viện trường ĐHSPNTTW đã xây dựng bộ máy tra cứu truyền thống
để phục vụ công tác tìm kiếm taì liệu cho bạn đọc.
Bộ máy tra cứu được tổ chức theo hình thức mục lục phiếu, được sắp xếp
theo môn ngành tri thức, được sắp xếp theo tên tác giả. Bạn đọc chỉ cần xác định
nội dung tài liệu mình cần tìm sau đó tìm theo tác giả mình muốn đọc tìm, ghi kí
hiệu xếp giá vào phiếu yêu cầu tin, đưa cho cán bộ thư viện. Cán bộ thư viện sẽ
vào kho tìm tài liệu bạn đọc cần tìm.
Hiện nay, thư viện chưa sử dụng bộ máy tra cứu hiện đại. Cán bộ thư viện
kiểm tra tài liệu theo sổ theo dõi riêng. Thư viện đang tìm hiểu và hướng tời sử
dụng hệ thống tra cứu hiện đại trong những năm tới.
2.1.2. Nguồn nhân lực
Vai trò quan trọng hơn bất cứ vấn đề nào khác trong một TV chính là con

người, một TV có một cơ cấu nhân sự thích ứng với những thách thức, thay đổi
đang diễn ra là một việc hết sức quan trọng, nó quyết định sự phát triển, tương
lai của mỗi TV. Như Krupxkaia đã từng nói: “Cán bộ thư viện là linh hồn của
thư viện” nên TTCNTT trường ĐHSPNTTW cũng không nằm ngoài vấn đề
12


trên, vì con người trong hoạt động TV là yếu tố quan trọng quyết định tới chất
lượng toàn bộ hoạt động TV đó.
Cùng với sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo của Nhà trường, đội
ngũ cán bộ trong TTCNTT cũng đã có những đóng góp đáng kể vào việc chuyển
tải, cung cấp những thông tin - tư liệu, đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học tập,
nghiên cứu, giải trí của tất cả các CB, GV & SV trong trường ĐHSPNTTW,
cũng như bạn đọc ngành Sư phạm, Nghệ thuật.
-

Số lượng cán bộ: Số lượng cán bộ của TTCNTT đã tăng lên rõ rệt từ 09 người
năm 2011-2012 lên 11 người năm 2015-2016. Trong đó, cán bộ nam tuy có tăng
(từ 03 lên 05 người) nhưng số lượng cán bộ nam vẫn ít hơn cán bộ nữ (05 nam
và 06 nữ). Với 08 biên chế, 03 hợp đồng có bảo hiểm đây cũng là một bất lợi vì
cán bộ hợp đồng không yên tâm công tác.
6
5
4
3

Nam
Nữ

2

1
0

20112012

20122013

20132014

20142015

20152016

Biểu đồ 2.1 Cơ cấu cán bộ theo giới tính
- Về độ tuổi của cán bộ: Trong 11 cán bộ, có 09 cán bộ độ tuổi từ 26 – 35
(chiếm 82%) điều này cho thấy về kinh nghiệm công tác của số cán bộ này chưa
nhiều nên vấn đề về tâm lý, sự tự tin trong công việc chưa cao. Tuy nhiên, đây là
lực lượng cán bộ trẻ nên họ luôn có những cách nhìn mới, hướng đi mới, năng
động, nhạy bén trong công việc, họ nắm bắt vấn đề tương đối nhanh, có lòng
nhiệt tình, yêu nghề, có trách nhiệm cao trong công việc... hiện tại họ là những
chủ lực chính và cũng đã thu được những thành công nhất định trong mọi việc.
Ngoài ra, TTCNTT có 02 cán bộ trên 40 tuổi (chiếm 18 %), họ là lãnh đạo chủ
13


chốt của Trung tâm.
- Trình độ chuyên môn:
TT
1
2

3
4
5
6
7

Trình độ
Thạc sĩ thư viện
Cử nhân thư viện
Cử nhân ngoại ngữ
Thạc sĩ Quản lý kinh tế
Cử nhân công nghệ thông tin
Thạc sĩ Quản trị nhân lực
Cử nhân Mỹ thuật

Số lượng
3
1
1
1
3
1
1

Tỷ lệ (%)
27,2
9,0
9,0
9,0
27,2

9,0
9,0

Bảng 2.2 Trình độ chuyên môn của cán bộ
- Về trình độ học vấn:
Tính đến năm 2011, Trung tâm hầu như chỉ tuyển dụng cán bộ có bằng
đại học, chưa có cán bộ nào có trình độ sau đại học.
Đến năm 2014-2015, Trung tâm đã có 05 cán bộ có học vị thạc sĩ. Đó là
bước tiến rất quan trọng.
Hiện nay, 02 cán bộ đang theo học cao học, 01 chuyên ngành Công nghệ
thông tin, 01 chuyên ngành Mỹ thuật.
Điều đó chứng tỏ, TTCNTT trường ĐHSPNTTW cũng đã chú trọng nâng
cao trình độ cho cán bộ.
- Trình độ ngoại ngữ:
Theo thống kê, 100% cán bộ của Trung tâm có trình độ ngoại ngữ là tiếng
Anh từ trình độ B trở lên.
- Trình độ tin học:
Ngoài 03 cán bộ học chuyên về công nghệ thông tin, các cán bộ còn lại
đều có trình độ B tin học văn phòng thành thạo và có khả năng sử dụng các thiết
bị công nghệ khác.

14


-

Về phân công lao động tại các bộ phận:
TT
1
2

3
4
5
6

Bộ phận
Số lượng cán bộ (người)
Lãnh đạo
02
Phòng Giáo trình
01
Phòng báo - tạp chí và tài liệu nội sinh
01
Phòng tài liệu tham khảo
02
Tổ tin học
03
Văn phòng
02
Bảng 2.3 Phân công lao động tại các bộ phận
Do phân công lao động tại các bộ phận chưa chia thành các khâu rõ ràng,

cán bộ kiêm nhiệm nhiều việc một lúc như vừa phục vụ, vừa xử lý nghiệp vụ,
vừa bổ sung sách,…
- Về điều kiện sống: Lãnh đạo Trung tâm đã nỗ lực không ngừng trong
việc chăm lo đời sống tinh thần và vật chất cho cán bộ.
Qua khảo sát, chúng tôi đã ghi nhận được tổng thu nhập của cán bộ thư
viện ĐHSPNTTW trung bình được 3.500.000 đồng/tháng. Có mức lương như
vậy là sự hỗ trợ của Nhà trường cùng với các quy định nâng lương của Nhà
nước. Tuy nhiên, mức lương này chỉ đủ sống chứ chưa đủ cho cán bộ chi trả các

chi phí khác trong thời đại giá cả thị trường bão giá như hiện nay.
Lãnh đạo Trung tâm luôn tạo điều kiện cho cán bộ tham gia các hoạt động
đoàn thể, các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao giúp cho đời sống tinh thần
của cán bộ thư viện ngày càng nâng cao. Như trong tháng 5 năm 2011 toàn thể
cán bộ Trung tâm đã tham gia chương trình văn nghệ do trường tổ chức nhân kỷ
niệm ngày Bộ trưởng ký quyết định trường lên đại học và đoạt giải ba toàn đoàn,
giải ba một tiết mục hát tập thể; Đoạt giải nhất đơn nữ, giải nhất đôi nam nữ,
giải nhì đôi nam,… trong đợt thi đấu cầu lông chào mừng kỷ niệm ngày Nhà
giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 2011 giữa các Công đoàn trong trường.
Nhìn chung, nhân lực tại TTCNTT còn thiếu về số lượng và năng lực
nghiệp vụ chưa cao, chưa được tổ chức một cách hợp lý, cán bộ kiêm nhiệm
nhiều việc trong thư viện, không chia từng khâu cụ thể.
2.1.3. Công cụ tiêu chuẩn trong công tác biên mục
Hiện nay Trung tâm Thư viện của trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật
15


Trung ương sử dụng hệ thống phân loại thập phân DDC để phân loại và sắp xếp
hầu hết các loại tài liệu đồng thời góp phần hoàn thiện hơn trong công tác biên
mục. DDC (Dewey Decimal Classification) là một hệ thống phân loại được sử
dụng rộng rãi trong lĩnh vực thông tin thư viện trên toàn thế giới. Hiện nay có
hơn 200.000 thư viện của 135 nước đang sử dụng hệ thống phân loại này.
Cấu trúc của DDC
Nguyên tắc thập tiến:
DDC thể hiện nghệ thuật sử dụng 10 chữ số từ 0 đến 9 để phân chia mỗi
khái niệm ra tối đa 10 khái niệm con phụ thuộc (cấp dưới), và đến lượt mình
mỗi khái niệm con lại được tiếp tục chia ra 10 khái niệm ở bậc nhỏ hơn...Hiện
nay DDC có 1000 lớp phụ.
Sắp xếp của DDC:
Các lĩnh vực khoa học đều được sắp xếp từ chung đến riêng, từ toàn thể

đến bộ phận. Cơ sở sắp xếp là bộ môn khoa học, lĩnh vực khoa học, do vậy một
chủ đề có thể xuất hiện tản mạn ở nhiều ngành khoa học khác nhau.
Bảng chính của DDC:
DDC có 10 lớp cơ bản thể hiện như sau:
000 Những vấn đề chung (Tổng loại)
100 Triết học và Tâm lý học
200 Tôn giáo
300 Khoa học Xã hội
400 Ngôn ngữ
500 Khoa học Tự nhiên
600 Khoa học Ứng dụng (Công nghệ )
700 Nghệ thuật
800 Văn học và Tu từ học
900 Địa lý và Lịch sử
Ngoài ra thư viện còn sử dụng quy tác mô tả theo tiêu chuẩn quốc tế
ISBD trong công tác biên mục mô tả là một trong nhưng công việc chính của
công tác biên mục.
16


ISBN là chữ viết tắt của International Standard Book Number (Mã số tiêu
chuẩn quốc tế cho sách), là mã số tiêu chuẩn quốc tế để xác định một quyển
sách.
Năm 1966 ở Anh, các nhà phân phối sách và văn phòng phẩm W.H.
Smith cùng bạn bè tạo một hệ thống mã cho sách, ban đầu được gọi là Standard
Book Numbering (mã số tiêu chuẩn cho sách) hay SBN.
Năm 1967, Công ty TNHH J. Whitaker & Son tại Anh và Công ty
R.R.Bowker tại Mỹ năm 1968 giới thiệu các hệ thống mẫu về mã số sách. Năm
1968, phát triển từ những sáng kiến này, Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hoá
(ISO) thành lập một tổ chức hoạt động đánh giá tính khả thi của việc thiết lập và

ứng dụng hệ thống quốc tế về mã số sách ISBN.
Năm 1970, ISO phê chuẩn Mã Số Sách chuẩn Quốc tế ISBN đạt Tiêu
chuẩn ISO 2108, và được sửa đổi vào những năm 1978, 1992 và 2005.
Mã số ISBN lúc đó có 10 chữ số, có dạng như sau:
ISBN 0-306-40615-2
Các thành phần của mã số ISBN khi đó gồm :
· 4chữ ISBN
· Mã quốc gia/nhóm ngôn ngữ (0)
· Mã nhà xuất bản (306)
· Mã xuất bản phẩm (40615)
· Mã kiểm tra (2).
Các mã cách nhau bởi dấu gạch ngang.

17


Trong nhiều năm, mã này được các nhà xuất bản, nhà phát hành và hệ
thống thư viện trên thế giới thừa nhận và tham gia. Hầu hết các sách trên thế
giới khi in ra đều có mã ISBN. Khi internet phát triển, việc mua bán sách trên
mạng cũng dựa trên mã số ISBN này.
Tuy nhiên, mã ISBN lúc đó có một nhược điểm lớn, đó là không thể
chuyển thành mã vạch, do đó không thể đọc được bằng các máy đọc mã vạch
như các mã vạch EAN-13 của GS1 trên các loại hàng hoá khác, không thích ứng
với xu hướng bán kiểu siêu thị, mối thu ngân sử dụng máy đọc mã vạch để tính
tiền. ISBN nghĩ ra cách khắc phục nhược điểm này bằng cách thêm vào 3 chữ số
cho đủ 13 chữ số để có thể hoà đồng vào hệ thống mã số mã vạch theo chuẩn
EAN-13 với 13 chữ số đang rất thông dụng cho các loại hàng hoá nói chung.
Một hợp đồng giữa ISBN với GS1 được ký với giá trị hợp đồng rất tượng trưng
là 1USD, GS1 cho phép ISBN thêm 3 chữ số 978 hoặc 979 vào trước dãy 10
chữ số của ISBN cho đủ 13 chữ số. Khi đó, ISBN cũng có thể dễ dàng chuyển

thành mã vạch để có thể đọc bằng các máy đọc mã vạch. Vậy là ISBN „đời mới”
ra đời, gọi là ISBN 13, có người gọi là ISBN tích hợp mã số mã vạch, còn đời cũ
gọi là ISBN 10. Tiêu chuẩn ISO 2108 cũng được sửa đổi cho phù hợp (ISO
2108: 2005).
Trên cơ sở đó, năm 2007, Việt Nam cho ra đời TCVN 6380: 2007 Thông
tin và tư liệu – Mã số tiêu chuẩn quốc tế cho sách (ISBN).
Việt Nam cũng đã chính thức gia nhập ISBN quốc tế, và được cấp mã
quốc gia là 604. Như vậy, các sách xuất bản tại Việt Nam có mã ISBN đều sẽ có
các con số đầu là 978 rồi đến 604, tiếp theo là mã Nhà xuất bản, mã Xuất bản
phẩm, và cuối cùng là số kiểm tra. Phương pháp tính số kiểm tra và phương
pháp tạo mã vạch hoàn toàn giống như đối với mã số mã vạch EAN-13, chỉ có
khác là cách thể hiện: phía trên phần mã vạch có thêm một dòng mã ISBN dạng
số, trong đó có dấu gạch ngang giữa các thành phần của mã.
Ở Việt Nam mã Nhà xuất bản sẽ có 1, 2 hoặc 3 con số, và tương ứng sẽ có
18


mã Xuất bản phẩm cho mỗi nhà xuất bản là 5, 4 hoặc 3 con số (tức 100.000,
10.000 hoặc 1000 sản phẩm, kể cả mã bắt đầu bằng số 0).
Hiện nay các nhà xuất bản Việt Nam đã được cấp mã Nhà xuất bản, song
số sản phẩm đăng ký cấp mã ISBN chưa nhiều.
2.2. Các công đoạn biên mục
2.2.1. Mô tả thư mục.
Mô tả thư mục là một quá trình nhận dạng và mô tả tài liệu ghi lại thông
tin và hình thức của một tư liệu. Công đoạn này còn gọi là biên mục mô tả được
bộ phận biên mục thực hiện. Thư viện đang áp dụng theo quy tắc mô tả tài liệu
quốc tế ISBD. Nhằm giúp cho bạn đọc và người dùng tin có một khái niệm về tư
liệu và nhanh chóng, dễ dàng tìm được tài liệu đấy trong hệ thống tìm tin truyền
thống và hiện đại. Thực hiện công đoạn này giúp cho thư viện xây dựng mục lục
phieeustrong thư viên. Bổ sung thông tin trong việc xây dụng hệ thống dữ liệu,

bộ máy tra cứu hiện đại. Công việc này được nhân viên thư viện thực hiện khá tỉ
mỉ, thận trọng.
2.2.2. Phân loại và phân tích chủ đề.
Phân loại tư liệu là việc các cán bộ thư viện phân tích các khái niệm phán
ánh nội dung của tư liệu liên quan đến nội dung của tư liệu. Tài liệu của thư viện
chủ yếu phục vụ cho nhu cầu học của học sinh, sinh viên trong trường. Đây cũng
là đối tượng phục vụ chính của thư viện. Hiện nay Thư viện trường Đại học Sư
phạm Nghệ thuật trung ương đang sử dụng khung phân loại DDC. Công đoạn nỳ
do bộ phận phân loại thực hiện. Trong quá trình này các cán bộ thư viện chọn 1
hay nhiều kí hiệu tuy theo nội dung của tư liệu để phán anh nội dung của tài liệu
đó.
Phân tích chủ đề có liên quan đến việc xác định những khái niệm chủ đề
trong nội dung tư liệu. Sau khi xác định được chủ đề có thể tìm và lập được một
tiêu đề hay để mục chủ đề dựa vào một danh mục chuẩn, một khung đề mục chủ
đề, một bộ từ khóa hay từ điền từ chuẩn.
2.2.3 Kiểm soat tính thống nhất.
19


Đây là một quá trình đảm bảo sự nhất quán trong khi diễn đạt một điểm
truy nhập cho thấy mối quan hệ tên người, tên tác phẩm hay các chủ đề dựa theo
các quy tác mô tả hay khung đề mục chủ đề. Công đoạn này giúp cho biên mục
vượt ra ngoài khuôn khổ của quá trình tạo ra một biểu ghi phản ánh các tư liệu
rời rạc, không liên quan đến nhau.

20


Tiểu kết:
Chương 2 đã giới thiệu kĩ hơn về các công cụ đảm bảo cho công tác biên

muc, các tiêu chuẩn công tác biên mục và công đoạn của quá trình biên mục.
Giúp cho người đọc hình dung rõ nét hơn, hiểu rõ hơn về công tác biên mục
trong hoạt động thư viện. Cụ thể là công tác biên mục trường Đại học Sư phạm
Nghệ thuật Trung ương. Sau đây tôi xin đưa ra các giải pháp hoàn thiện hơn về
công tác biên mục trong hoạt động thư viện trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật
Trung ương.

21


Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC BIÊN MỤC CỦA
CÔNG TÁC BIÊN MỤC CỦA THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ
PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
Cán bộ thư viện có vai trò quan trọng trong hoạt động thông tin – thư
viện. Năng lực, trình độ của cán bộ thư viện có ảnh hưởng quyết định đến chất
lượng của hoạt động thông tin - thư viện. Cán bộ thư viện là một trong 4 yếu tố
không thể thiếu cấu thành nên các cơ quan thông tin – thư viện.
Thư viện trường ĐHSPNTTW cần phải có chính sách và chiến lược bồi
dưỡng, đào tạo lâu dài cho đội ngũ cán bộ để giúp họ nâng cao trình độ về mọi mặt,
tăng cường chất lượng hoạt động của thư viện. Cán bộ có trình độ, năng lực sẽ
mang lại hiệu quả, chất lượng cao trong công việc. Tuy nhiên, vấn đề trở ngại lớn
nhất đối với các cán bộ thư viện đó là trình độ ngoại ngữ và công nghệ thông tin
(đây là hai yếu tố không thể thiếu của cán bộ thư viện trong thời đại thông tin số ).
Cán bộ thư viện cần được đào tạo đầy đủ về:
- Chuyên môn, nghiệp vụ thư viện;
- Tổ chức và quản lý các hoạt động thông tin thư viện hiện đại;
- Trình độ sử dụng ngoại ngữ và tin học;
- Bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành nghệ thuật;
- Thiết kế sản xuất, marketing các sản phẩm và dịch vụ thông tin – thư viện;

Trong thời gian qua, Thư viện đã chủ động gửi cán bộ tham gia các lớp
đào tạo ngắn hạn và dài hạn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
Tuy nhiên, một hạn chế lớn của cán bộ thư viện trường ĐHSPNTTW là
không biết tiếng Trung, Nga… mà hiện nay số lượng bạn đọc sử dụng tài liệu
ngoại văn này càng nhiều. Bởi vậy trong thời gian tới, thư viện cần đề nghị với
lãnh đạo trường có kế hoạch bổ sung thêm biên chế có khả năng sử dụng thành
thạo tiếng Nga, Trung và kỹ năng tin học, tham gia vào việc nâng cao chất lượng
hoạt động tại thư viện.
3.2 Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về xử lý tài liệu
Nhằm rút ngắn thời gian trong việc xây dựng các tiêu chuẩn về xử lý tài
22


liệu. Giúp cho thư viện trường có thể mạnh dạn áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế.
Để làm được điều đó có thể áp dụng một số biện pháp cụ thể sau: Thực hiện
nghiên cứu và lựa chọn các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến hoạt động thư viện
- thông tin phù hợp với Việt Nam; Xây dựng các TCVN trên cơ sở dịch nguyên
văn hoặc dịch và hiệu chỉnh các tiêu chuẩn này cho thích hợp với điều kiện,
hoàn cảnh của Việt Nam và đặc điểm vốn tài liệu của thư viện.
3.3. Tăng cường công tác phổ biến, giới thiệu và hướng dẫn sử dụng
các tiêu chuẩn đã được ban hành
Để các tiêu chuẩn thực sự được triển khai trong thực tế, các cơ quan chức
năng cần đẩy mạnh hoạt động phổ biến tuyên truyền tiêu chuẩn này. Cần chú
trọng việc nâng cao nhận thức cho các thư viện và cá nhân người cán bộ thư
viện về vai trò của việc chuẩn hoá nói chung và việc áp dụng các tiêu chuẩn cụ
thể nói riêng. Các cơ quan quản lý ngành cần thiết lập các quy định và văn bản
hướng dẫn để việc triển khai áp dụng các TCVN trong công tác thư viện nói
chung và công tác xử lý tài liệu nói riêng được tiến hành đồng bộ và thống nhất.
Tổ chức các buổi tập huấn đối với từng tiêu chuẩn cụ thể, nên đưa nội dung
công tác hoạt động tiêu chuẩn vào một số cuộc hội nghị hội thảo hoặc qua các

bài viết trên các báo, tạp chí của ngành.
3.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác biên mục.
Thực tế ở các thư viện cho thấy việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động thông tin thư viện còn rất hạn chế và chưa triệt để . Hầu như cán bộ
thư viện phục vụ bạn đọc bằng cách nhớ tài liệu hoặc vào kho tìm tài liệu. Điều
này khiến cho hoạt động thư viện gặp rất nhiều khó khăn khó kiểm soát việc mất
mát và hỏng tài liệu, mất thời gian tìm tài liệu, làm hạn chế nhu cầu tin .... Trong
thực tế thì việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của thư viện đã và
đang rất phát triển cả trong và ngoài nước. Công nghệ thông tin mà nòng cốt là
tin học, viễn thông và kỹ thuật vi xử lý, có thể giúp các cơ quan Thông tin - Thư
viện nhiều khả năng trong việc quản lý và chia sẻ vốn tài liệu. Vì vậy, tin học
hóa hoạt động Thư viện là xu thế tất yếu của các cơ quan Thông tin - Thư viện,
làm cho Thư viện thực sự trở thành một trung tâm thông tin khoa học đủ mạnh,
23


phục vụ phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Xây dựng thư viện số, thư viện điện tử, liên kết hoạt động và chuẩn hóa
hoạt động thông tin - thư viện bệnh viện là xu hướng không chỉ mang đến cơ hội
phát triển mà còn mang đến những thách thức lớn đối với hoạt động của thư
viện trên thế giới và ở Việt Nam.
Tiểu kết:
Ở chương 3 tôi đã đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện hơn về
công tác biện mục của thư viện trường cũng như thư viện chung.

24


KẾT LUẬN
Thư viện là một thiết chế quan trọng không thể thiếu trong cấu trúc thống

nhất của các thiết chế phục vụ văn hóa, thông tin cho người dân. Thư viện được
phân bố đều khắp ở tất cả các vùng của lãnh thổ, địa phương, đơn vị, trường
học, phục vụ rộng rải tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác, dân tộc, tôn
giáo, trình độ, giới tính, ngôn ngữ, quốc tịch và địa vị xã hội…góp phần nâng
cao trình độ dân trí, học tập suốt đời và giải trí cho nhân dân. Trong đó, thư viện
được xem như một trung tâm sinh hoạt văn hóa thông tin của cộng đồng dân cư.
Đặc biệt, trong quá trình đổi mới ngày càng đi lên của đất nước, quy mô
và diện mạo của nhà trường ngày càng thay đổi, khởi sắc hơn. Thì bên cạnh đó,
thư viện trường cũng cần được quan tâm và chú trọng hơn để phù hợp với sự
phát triển nhà trường. Điều đó đòi hỏi công tác hoạt động của thư viện trường
càng phải có sự nỗ lực không ngừng của các cấp Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các
đơn vị bệnh viện quan tâm.
Để công tác biên mục đạt kết quả cao thì chúng ta cần phải có những giải
pháp hữu hiệu mang tính đột phá như phát triển nguồn tin, đào tạo đội ngũ cán
bộ thông tin chuyên nghiệp, đầu tư trang thiết bị và phát triển cơ sở hạ tầng, mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Trong suốt những năm qua, bằng hoạt động thiết thực, thư viện trường
học đã có những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp giáo dục. Hy vọng trong thời
gian tới, hoạt động nghiệp vụ của thư viện sẽ dần chuẩn hoá và thống nhất, đây
là một trong những yếu tố quyết định góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
cũng như vị thế của thư viên trường học và ngành thư viện nói chung.
Thư viện trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương là thư viện
trường học cũng mang nhiều yếu tố chuyên ngành. Thư viện là ngôi trường học
tập thứ 2 trong trường. Chính vì vậy các hoạt động của thư viện rất được chú
trọng và quan tâm từ phía ban giám hiệu nhà trường. Hiện nay thư viện trường
đã dần chuẩn hóa các hoạt động trong công tác thư viện và ứng dụng công nghệ
thông tin trong hầu hết các hoạt động của thư viện.

25



×