Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bản sắc văn hóa dân tộc TRONG PHÁT TRIỂN bền VỮNG ở NGHỆ AN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.22 KB, 97 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

Bản sắc văn hóa

BSVH

Bản sắc văn hóa dân tộc

BSVHDT

Phát triển bền vững

PTBV

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

Trang
3

VAI TRÒ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG
10

1.1.



PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở NGHỆ AN HIỆN NAY
Phát triển bền vững và vai trò bản sắc văn hóa dân tộc trong

10

1.2.

phát triển bền vững ở Nghệ An
Thực trạng vai trò bản sắc văn hóa các dân tộc trong phát triển

bền vững ở Nghệ An hiện nay và nguyên nhân
Chương 2 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ

34

BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG PHÁT
59

3.1.

TRIỂN BỀN VỮNG Ở NGHỆ AN HIỆN NAY
Những định hướng cơ bản phát huy vai trò bản sắc văn hóa

59

3.2.

dân tộc trong phát triển bền vững ở Nghệ An hiện nay.
Một số giải pháp cơ bản phát huy vai trò bản sắc văn hóa


dân tộc trong phát triển bền vững ở Nghệ An hiện nay.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

66
81
82
87

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển bền vững (PTBV) là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát
triển của mọi quốc gia dân tộc nói chung và Việt Nam nói riêng, đó là quá
trình kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển
xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật
tự an toàn xã hội, nhằm tạo dựng một xã hội ổn định, văn minh và hạnh phúc
ở cả hiện tại và trong tương lai xa của đất nước.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội nhập và phát
triển đất nước gần ba thập kỷ qua của nước ta, ngoài việc đem lại những
thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực theo hướng phát triển bền
vững, cũng đã và đang đặt ra nhiều thách thức không nhỏ: sự phát triển
“nhanh” và “nóng” của nền kinh tế, ô nhiễm môi trường đang trở nên ngày
càng bức xúc, nhất là ở đô thị và các khu công nghiệp đang gia tăng một
cách nhanh chóng. Đặc biệt, sự tác động của biến đổi khí hậu đang trở
thành một vấn đề nóng bỏng, đe dọa quá trình PTBV của cả đất nước. Vì

vậy, vấn đề đặt ra đối với chúng ta hiện nay là làm thế nào để vừa giữ được
sự tăng trưởng kinh tế cao, vừa đảm bảo đảm ổn định chính trị và an sinh
xã hội, đồng thời bảo vệ được môi trường và ứng phó có hiệu quả với tác
động của biến đổi khí hậu để PTBV như Đảng ta khẳng định.
Bản sắc văn hóa dân tộc (BSVHDT) là tổng hoà những giá trị văn hoá ổn
định, bền vững, phản ánh cốt cách, bản lĩnh và diện mạo của cộng đồng các
dân tộc, được hình thành, hun đúc và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử.
BSVHDT là giá trị hàm chứa sức mạnh nội sinh to lớn, đồng thời là động lực
quan trọng của mọi quá trình phát triển. Vì vậy, PTBV mọi mặt đời sống xã
hội không thể không khơi dậy và phát huy giá trị BSVHDT. Điều này cho
thấy, việc nghiên cứu, xác định vai trò BSVHDT nhằm phát huy vai trò ấy
trong quá trình PTBV là yêu cầu cơ bản, lâu dài có tính chiến lược.
3


Nghệ An là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại khu vực Bắc Trung bộ và cả nước; có tiềm
năng và lợi thế phát triển về công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy điện,
khai khoáng, du lịch và phát triển kinh tế cửa khẩu; là địa bàn có nhiều dân
tộc cùng sinh sống gắn bó lâu đời với bản sắc văn hóa riêng, có truyền thống
yêu nước, đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước. Nghệ An còn là địa bàn có vai trò quan trọng đối với môi trường sinh
thái của khu vực. Xây dựng tỉnh Nghệ An vững mạnh toàn diện, PTBV vừa là
yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân các dân tộc trong Tỉnh, vừa là nhiệm vụ
cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc
phòng, an ninh lâu dài của nước ta.
Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng bộ và
chính quyền địa phương các cấp, sự nỗ lực vươn lên của nhân dân các dân tộc
trên địa bàn, tỉnh Nghệ An đã có bước phát triển vượt bậc về mọi mặt, đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân ngày càng được nâng lên, tình hình

an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tuy nhiên, những
thành tựu ấy vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế hiện có. Sự phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh còn thiếu tính bền vững, nhiều giá trị
văn hóa các dân tộc bị xói mòn, biến dạng, lai căng. Đặc biệt, nhận thức về
vai trò, tầm quan trọng của BSVH, nhất là vai trò đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội các dân tộc trên địa bàn còn hạn chế, chưa phát huy được một cách
hiệu quả nội lực của toàn tỉnh nói chung, của từng cộng đồng tộc người sinh
sống trên địa bàn nói riêng, ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình phát triển
nhanh và bền vững của Tỉnh. Thực tiễn này đặt ra yêu cầu cấp bách cần phải
phát huy vai trò BSVHDT trong PTBV ở Nghệ An hiện nay.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Vai trò BSVHDT
trong phát triển bền vững ở Nghệ An hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
của luận văn.
4


2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề văn hóa, bản sắc văn hóa và vai trò của chúng trong quá trình
phát triển từ lâu được nhiều tổ chức, cá nhân các nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu ở những cấp độ và góc độ khác nhau. Trên cơ sở phương pháp
luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng ta về văn hoá và phát triển văn hoá trong các giai đoạn cách mạng, gần
đây có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước đã luận giải và
đưa ra các cách tiếp cận khác nhau về văn hóa, bản sắc văn hóa và vai trò của
chúng đối với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Dưới đây là những công trình tiêu biểu, có liên quan trực tiếp đến đề
tài nghiên cứu của luận văn:
* Về BSVHDT và vai trò BSVHDT
Quan điểm mang tính định hướng, khái quát rất sâu sắc về văn hoá, bản
sắc văn hoá, mối quan hệ giữa văn hoá và đổi mới, được cố Thủ tướng Phạm

Văn Đồng đã trình bày trong cuốn sách “Văn hoá và đổi mới” (1995). Trong
cuốn sách này, cố Thủ tướng đã đề cập quan điểm khoa học về văn hoá, vai
trò to lớn của văn hoá và bản sắc văn hoá trong trường kỳ hình thành phát
triển dân tộc, luận giải một cách khoa học và sâu sắc mối quan hệ biện chứng
giữa văn hoá và đổi mới, giữa lịch sử và văn hoá, qua đó gợi ra những quan
điểm có tính chất mở đường về sự cần thiết, mục tiêu, thực chất của việc giữ
gìn BSVHDT trong quá trình đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.
Bàn về BSVHDT, vai trò văn hoá với sự phát triển đất nước, mối quan
hệ giữa giao lưu hội nhập với giữ gìn bản sắc văn hoá trong xu thế mới để
phát triển văn hoá, có các công trình khoa học: “Bản sắc dân tộc của văn
hoá” (1990) của Đỗ Huy và Trường Lưu; “Văn hoá với sự phát triển của xã
hội Việt Nam theo định hướng XHCN” (1998) của Lê Quang Thiêm; Bản sắc
văn hóa hành trang của mỗi dân tộc (2005) của Vy Trọng Toán; công trình:
“Phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Những vấn đề phương
5


pháp luận” (2009) của PGS, TS Phạm Duy Đức. Trong các công trình này, đi
từ việc giải quyết mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển, các tác giả không
chỉ đưa ra quan niệm về bản sắc văn hoá, cấu trúc, đặc trưng của nó mà còn
thống nhất khẳng định, vai trò của bản sắc văn hoá với sự phát triển đất nước,
các nền văn hoá không tồn tại biệt lập, tách rời với các nền văn hoá khác mà
luôn có sự giao lưu, thâm nhập lẫn nhau. Đặc biệt, tác giả Hà Nguyễn, trong
cuốn Tiểu vùng văn hóa xứ Nghệ, (2013), Nxb Thông tin và truyền thông, Hà
Nội, đã phân tích và luận giải khá sâu sắc về BSVH xứ Nghệ cũng như những
giá trị văn hóa vật chất, tinh thần nói chung của văn hóa Nghệ An.
Liên quan đến vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, hội thảo
khoa học “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hoá” ngày 20 tháng 10 năm 2007 của Học viện Hành chính - Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã đề cập nhiều vấn đề về toàn cầu hoá, nhất là sự

tác động ảnh hưởng tới các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội; trong đó văn
hoá là lĩnh vực bị ảnh hưởng lớn nhất, trực tiếp nhất. Trên cơ sở đó, hội thảo
đã trao đổi, đưa ra nhiều khía cạnh, nhiều góc tiếp cận về đề giữ gìn bản sắc
văn hoá dân tộc, đưa ra một số kiến nghị về chủ trương, chính sách văn hoá
nhằm giữ gìn và phát huy BSVHDT trong xu thế toàn cầu hoá.
Đặc biệt, các công trình nghiên cứu: “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam”
(2006) của Trần Ngọc Thêm; “Bản sắc dân tộc trong lối sống hiện đại”
(2003) của Lê Như Hoa; “Bản sắc dân tộc và hiện đại hoá trong văn hoá”
(2000) của Hoàng Trinh; “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (2001) của Nguyễn Khoa Điềm; “Một số vấn
đề về công tác lý luận tư tưởng và văn hoá” (2005) của Giáo sư Nguyễn Đức
Bình; Thanh niên quôn đội với việc giữ gìn BSVHDT trong thời kỳ hội nhập
quốc tế hiện nay (2013) của Lưu Ngọc Khải và Nguyễn Văn Tùng; Giữ gìn
và phát huy BSVHDT trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc
tế (2010) của Hoàng Thị Hương…Trong các công trình này, các tác giả đã đi
6


sâu phân tích và đưa ra các quan niệm khoa học khác nhau trong tiếp cận văn
hoá, vai trò, cấu trúc, chức năng của văn hoá; luận giải cội nguồn hình thành ý
thức dân tộc và bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam; khẳng định sức mạnh
của văn hoá, của bản sắc văn hoá trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam; mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và phát
triển, văn hoá với các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là kinh tế, chính trị,
xã hội; khẳng định trong tình hình hiện nay, hiện đại hoá chỉ có thể thành
công nếu bản sắc dân tộc được sử dụng như một động lực chủ yếu, đồng thời
BSVHDT cũng chỉ có thể được phát huy trong một đất nước hiện đại hoá.
* Về PTBV và vai trò của văn hóa, bản sắc văn hóa trong PTBV
Bàn về PTBV và vai trò của yếu tố văn hóa, bản sắc văn hóa trong
PTBV tiêu biểu có các công trình như: Phương pháp luận về vai trò của văn

hóa trong phát triển (1993) của Vũ Khiêu, Phạm Xuân Nam, Hoàng Trinh
(đồng chủ biên); “Phát huy nội lực văn hoá trong quá trình phát triển” (2000)
của Phạm Duy Đức; Văn hóa – mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội
(2006) của GS.TS Nguyễn Văn Huyên; Văn hoá và phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hoá (2006) của Nguyễn Văn Dân; “Văn hoá và phát triển” (2000)
của Nguyễn Hồng Phong; Sự gắn kết giữa kinh tế và văn hóa – chìa khóa cho
sự phát triển lâu bền của xã hội (2005) của Nguyễn Thị Ngọc Anh, Tạp chí
Triết học số 4; Vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế (2004) của Dương
Thị Liễu, Tạp chí Triết học số 6; Quan hệ giữa kinh tế và văn hóa trong phát
triển (2009) của GS.TS Dương Phú Hiệp; Phát triển kinh tế bền vững ở Việt
Nam (2009) của Nguyễn Hữu Sở; Giáo dục vì sự PTBV – một yêu cầu cấp
thiết trong hội nhập giáo dục (2009) của Đỗ Mai Lan;Vấn đề văn hoá sinh
thái trong sự PTBV ở Việt Nam hiện nay (2012) của Trần Thị Hồng Loan;
Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay (2012) của Hoàng
Thị Hương; PTBV ở Việt Nam (2014) của GS.TS Vũ Văn Hiền; An sinh xã
7


hội với ổn định và PTBV ở Việt Nam (2014) của GS.TS Hoàng Chí Bảo…Từ
những góc độ tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau, các công trình này
đã tập trung nghiên cứu về tính tất yếu và yêu cầu của quá trình phát triển bền
vững; chỉ ra mối quan hệ và vai trò của văn hóa, bản sắc văn hóa đối với quá
trình PTBV kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập và phát triển.
Đặc biệt, trong cuốn sách Nghệ An: Luận giải để phát triển (2013), của
TS. Hồ Đức Phớc - Bí thư tỉnh ủy Nghệ An, do Nxb Giao thông vận tải ấn
hành, dưới góc độ kinh tế học, ông đã nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh trên địa
bàn Tỉnh, từ đó xác định mục tiêu, phương hướng và những giải pháp cơ bản

phát triển tỉnh Nghệ An đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Cuốn sách được coi
như một chiến lược PTBV Nghệ An giai đoạn 2015 - 2020.
Như vậy, có thể thấy rằng, vấn đề bản sắc văn hóa và vai trò của nó đối với sự
phát triển xã hội được quan tâm nghiên cứu từ lâu, với niều công trình có giá trị lý
luận và thực tiễn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập một cách trực tiếp và
luận giải có tính hệ thống về vai trò BSVHDT trong PTBV ở Nghệ An hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò BSVHDT trong PTBV
ở Nghệ An, trên cơ sở đó xác định những định hướng cơ bản, đề xuất một số giải
pháp nhằm phát huy vai trò BSVHDT trong PTBV ở Nghệ An hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về PTBV và vai trò BSVHDT trong
PTBV ở Nghệ An.
- Đánh giá thực trạng vai trò BSVHDT trong PTBV ở Nghệ An hiện nay.
- Xác định những định hướng cơ bản và đề xuất một số giải pháp phát
huy vai trò BSVHDT trong PTBV ở Nghệ An hiện nay.
8


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Vai trò BSVHDT trong PTBV ở Nghệ An hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò BSVHDT nói chung trong PTBV
ở Nghệ An. Số liệu sử dụng trong luận văn từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về văn hóa và vai trò của
văn hóa trong PTBV ở Nghệ An hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
xã hội và nhân văn nói chung, trong đó, chú trọng kết hợp lôgíc và lịch sử,
phân tích, tổng hợp; thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn và điều tra xã hội
học để phân tích luận giải các nội dung của luận văn.
6 .Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa
học cho Đảng, Nhà nước, cấp ủy, chính quyền địa phương và cơ quan ban
ngành các cấp ở Nghệ An trong xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay. Đồng
thời, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu,
tham khảo trong học tập, nghiên cứu về BSVH và vai trò của BSVHDT trong
PTBV ở Nghệ An.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết) kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
VAI TRÒ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG Ở NGHỆ AN HIỆN NAY
1.1. Phát triển bền vững và vai trò bản sắc văn hóa dân tộc trong
phát triển bền vững ở Nghệ An
1.1.1. Phát triển bền vững ở Nghệ An
* Đặc điểm tỉnh Nghệ An
Nghệ An nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung bộ nước ta, có tọa độ địa lý

từ 18o33' đến 20o00' vĩ độ Bắc và từ 103o52' đến 105o48' kinh độ Đông. Phía
Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá, Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, Tây giáp nước bạn Lào,
phía Đông giáp với biển Đông. Với diện tích 16.487 km 2, dân số hơn 3 triệu
người, là nơi sinh sống lâu đời của cộng đồng các dân tộc: Việt (Kinh), Khơ
Mú, Sán Dìu, Thái, H'Mông, Ơ Đu và tộc người Đan Lai. Nghệ An hội tụ đầy
đủ các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường biển,
đường thuỷ nội địa; điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng như một Việt Nam
thu nhỏ, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội Bắc - Nam, xây
dựng và phát triển kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và mở rộng hợp tác quốc tế.
Nghệ An nằm ở Đông Bắc dãy Trường Sơn, trong vùng khí hậu nhiệt đới
gió mùa, chịu sự tác động trực tiếp của gió mùa Tây - Nam khô và nóng (từ
tháng 4 đến tháng 8) và gió mùa Đông Bắc lạnh, ẩm ướt (từ tháng 11 đến tháng
3 năm sau), có địa hình đa dạng, phức tạp và bị chia cắt bởi các hệ thống đồi núi,
sông suối hướng nghiêng từ Tây - Bắc xuống Đông - Nam. Đỉnh núi cao nhất là
đỉnh Pulaileng (2.711m) ở huyện Kỳ Sơn, thấp nhất là vùng đồng bằng huyện
Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành có nơi chỉ cao đến 0,2 m so với mặt nước
biển (đó là xã Quỳnh Thanh huyện Quỳnh Lưu). Đồi núi chiếm 83% diện tích
đất tự nhiên của toàn tỉnh; hệ thống sông ngòi dày đặc, tổng chiều dài sông suối
trên địa bàn tỉnh là 9.828 km, mật độ trung bình là 0,7 km/km2. Sông lớn nhất là
10


sông Cả (sông Lam) bắt nguồn từ huyện Mường Pẹc tỉnh Xiêng Khoảng (Lào),
có chiều dài là 532 km. Bờ biển Nghệ An dài 82 km, có 6 cửa lạch thuận lợi cho
việc vận tải biển, phát triển cảng biển.
Nghệ An nằm trên các tuyến đường quốc lộ Bắc - Nam (Quốc lộ 1A và
đường Hồ Chí Minh), đồng thời nằm trong hành lang kinh tế Đông - Tây nối
liền Myanma - Thái Lan - Lào - Việt Nam - Biển Đông (Cảng Cửa Lò), cũng
như các tuyến du lịch quốc gia và quốc tế. Với vị trí như vậy, Nghệ An đóng
vai trò quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hóa, thương mại, du lịch ở trong

nước và với các nước trong khu vực, là điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư
phát triển kinh tế, xã hội.
Nghệ An là một vùng đất cổ. Từ thời đồ đá cũ cách đây hàng chục vạn
năm đã phát hiện con người sinh sống ở hang Thẩm ồm (Quỳ Châu). Qua hệ
thống các di chỉ khảo cổ học đã nghiên cứu cho thấy sự nối tiếp liên tục từ
thời đại đồ đá đến thời đại đồ đồng, đồ sắt với đỉnh cao là di chỉ Làng Vạc
thuộc văn hoá Đông Sơn, chứng tỏ Nghệ An là một trong những cái nôi của
người Việt cổ và là cương vực lâu đời của đất nước.
Địa danh Nghệ An xuất hiện từ năm Thiện Thành thứ 3 đời Lý Thái
Tông năm (1030) thay cho tên Hoan Châu đã có từ mấy trăm năm về trước
(năm 627). Trong lịch sử, Nghệ An đã từng là đất tiến của người Việt trong
quá trình mở nước, là tiền đồn, lại có lúc là hậu phương, là căn cứ cho nhiều
cuộc đấu tranh giữ nước. Từ thế kỷ thứ VIII, trong đêm trường Bắc thuộc,
nhân dân xứ Nghệ đã khởi nghĩa chống lại nhà Đường, xây thành Vạn An, lập
nên triều đình, tôn Mai Thúc Loan làm Hoàng đế. Thời nhà Lý (thế kỷ XI XII), Nghệ An là phên dậu của nhà nước Đại Việt, nhờ có công chăm lo vỗ
về của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang mà đất đai được khai phá, dân tình no
ấm, không chỉ ngăn chặn được giặc ngoài mà còn là điểm tựa quan trọng cho
sự hưng thịnh và phát triển của đất nước. Thời nhà Trần (thế kỷ XIII - XIV),
xứ Nghệ là hậu cứ quan trọng, đóng góp nhiều sức người, sức của cho ba lần
11


chiến thắng giặc Nguyên Mông ở phương Bắc và là tiền đồn ngăn chặn giặc
phương Nam, mở mang bờ cõi. Nghệ An là chiến địa của nhà Hồ và nhà Hậu
Trần chống giặc Minh những năm đầu thế kỷ XV.
Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh của Lê Lợi (1418 –
1428), đất này đã trở thành chiến trường quyết định bước ngoặt dẫn đến thắng
lợi của quân dân Đại Việt. Dưới thời Nguyễn Huệ - Quang Trung, Nghệ An là
chỗ dựa vững chắc nhất, cung cấp nhân tài vật lực cho ông tổ chức đánh thắng
29 vạn quân Thanh, đặt nền tảng cho công cuộc thống nhất đất nước. Trong

suốt hơn một trăm năm chống các thế lực xâm lược phương Tây, từ giữa thế
kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, người Nghệ An luôn luôn sát cánh với đồng bào
cả nước và tiên phong chiến đấu vì nền độc lập dân tộc. Rất nhiều người con
ưu tú của Nghệ An đã trở thành những ngôi sao sáng trong công cuộc cứu
nước vĩ đại đó như Phan Bội Châu, Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân
Ôn, Lê Doãn Nhã, Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Thúc Hứa, Lê Hồng Sơn, Lê
Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai…và tiêu biểu nhất là Hồ Chí Minh Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.
Thiên nhiên khắc nghiệt, lịch sử lắm gian nan, thử thách đã tạo nên nhân
cách con người xứ Nghệ cần cù và sáng tạo, kiên trung và nghĩa hiệp, cầu thị
và hiếu học. Trên mảnh đất này “thời nào cũng có danh nhân, vùng nào cũng
có nhiều bậc anh hùng tài cao chí lớn” đã làm rạng danh quê hương đất nước.
Trải qua bao đời từ thời tiền sơ sử đến nay, người xứ Nghệ không chỉ có
nhiều đóng góp quan trọng vào tiến trình lịch sử dân tộc mà đã kiến tạo nên
một vùng văn hoá đặc sắc. Với 6 dân tộc cùng chung sống, văn hoá Nghệ An
đa dạng, độc đáo, với nhiều bản sắc riêng trong sự hài hoà thống nhất của nền
văn hoá Việt Nam. Nghệ An ngày nay không chỉ có sự hiện diện một nền văn
hoá đương đại sống động mà còn có một kho tàng di sản văn hoá vô cùng
phong phú, đặc sắc. Đó là khoảng 1000 di tích lịch sử văn hoá và rất nhiều giá
trị văn hoá phi vật thể như văn học thành văn và văn học dân gian, âm nhạc
12


dân gian, múa dân gian, triết lý dân gian, phong tục tập quán…tạo nên nền
tảng tinh thần phong phú, đa dạng và là động lực to lớn trong phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại trên địa bàn Tỉnh.
* Phát triển bền vững ở Nghệ An
Khái niệm "phát triển bền vững" xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi
trường từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Năm 1987, trong
Báo cáo "Tương lai chung của chúng ta" của Hội đồng Thế giới về Môi
trường và Phát triển (WCED) của Liên hợp quốc, "phát triển bền vững" được

định nghĩa "là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng
không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau".
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio
de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về PTBV tổ
chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định "phát triển
bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà
giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh
tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói
giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc
phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống
cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự PTBV là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực
hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống.
PTBV là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển
của xã hội loài người, vì vậy đã được các quốc gia trên thế giới đồng thuận
xây dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển được tổ chức
năm 1992 ở Rio de Janeiro (Braxin), 179 nước tham gia Hội nghị đã thông
qua Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trường và phát triển bao gồm 27 nguyên
13


tắc cơ bản và Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) về các giải pháp PTBV
chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21. Hội nghị khuyến nghị từng nước căn
cứ vào điều kiện và đặc điểm cụ thể để xây dựng Chương trình nghị sự 21 ở
cấp quốc gia, cấp ngành và địa phương. Mười năm sau, tại Hội nghị Thượng
đỉnh Thế giới về PTBV tổ chức năm 2002 ở Johannesburg (Cộng hoà Nam
Phi), 166 nước tham gia Hội nghị đã thông qua Bản Tuyên bố Johannesburg
và Bản Kế hoạch thực hiện về phát triển bền vững. Hội nghị đã khẳng định lại

các nguyên tắc đã đề ra trước đây và tiếp tục cam kết thực hiện đầy đủ
Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển được tổ
chức tại Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 đến nay đã có 113 nước trên thế giới
xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về PTBV cấp quốc gia và 6.416
Chương trình nghị sự 21 cấp địa phương, đồng thời tại các nước này đều đã
thành lập các cơ quan độc lập để triển khai thực hiện chương trình này. Việt
Nam và các địa phương trong cả nước là một trong số những quốc gia tích cực
xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Chính phủ Việt Nam đã cử các đoàn cấp cao tham gia các Hội nghị nói
trên và cam kết thực hiện phát triển bền vững; đã ban hành và tích cực thực
hiện "Kế hoạch quốc gia về Môi trường và PTBV giai đoạn 1991 - 2000"
(Quyết định số 187 - CT ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề cho quá trình
PTBV ở Việt Nam. Quan điểm PTBV đã được khẳng định trong Chỉ thị số 36
- CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác
bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
trong đó nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể
tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền
vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Quan điểm PTBV đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại
14


biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và
bảo vệ môi trường" và "Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải
thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi
trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học". PTBV đã trở thành đường lối,

quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước. Để thực hiện mục tiêu phát
triển bền vững, nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy
phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện; nhiều
chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và thu được
những kết quả bước đầu; nhiều nội dung cơ bản về PTBV đã đi vào cuộc sống
và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.
Là một tỉnh có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, quốc
phòng - an ninh và môi trường đối với khu vực Bắc trung bộ và cả nước,
PTBV ở Nghệ An là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của mình.
Trên cơ sở chương trình PTBV của quốc gia, Nghệ An đã tích cực triển khai
nội dung, chương trình PTBV toàn diện trên tất cả các phương diện của đời sống
xã hội như: Chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; Chương trình
xây dựng nông thôn mới; Chương trình ứng dụng và phát triển công nghệ cao
giai đoạn 2011 - 2015, có tính đến 2020; Đề án phát triển KT - XH miền Tây
Nghệ An thời kỳ 2011 - 2015, có tính đến 2020; Chương trình phát triển kết cấu
hạ tầng; Đề án phát triển công nghiệp, thủ công nghiệp và xây dựng làng nghề;
Chương trình phát triển văn hóa, thể thao và du lịch…(Phụ lục 3). PTBV ở Nghệ
An hiện nay thể hiện trên những nội dung cụ thể sau đây:
Về quan điểm phát triển
Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế từ chủ yếu phát triển theo
chiều rộng sang phát triển hài hoà giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy
mô, vừa chú trọng chất lượng, hiệu quả, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững.
15


Phát huy nội lực gắn với khai thác tối đa nguồn lực từ bên ngoài. Đẩy
mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động và
chất lượng sản phẩm, từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức, tăng cường
bảo vệ và làm giàu thêm môi trường.
Phát triển kinh tế phải gắn với chăm lo tốt các vấn đề xã hội, thực hiện

công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền.
Về phương hướng, mục tiêu phát triển:
Huy động tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, nhất là nguồn nhân
lực, ưu tiên đầu tư khai thác tiềm năng miền Tây, vùng Biển và đô thị. Đẩy
nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Từng
bước xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trong đó ưu tiên cho các vùng
kinh tế trọng điểm và vùng kinh tế khó khăn; chủ động hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế; giữ gìn và phát huy các truyền thống, bản sắc văn hoá xứ
Nghệ; kiểm soát, kìm giữ, đẩy lùi các tệ nạn xã hội và tội phạm; giữ vững ổn
định chính trị, đảm bảo vững chắc quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã
hội. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng. Xây dựng
Đảng bộ, Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ngày càng vững
mạnh, đưa Nghệ An trở thành tỉnh khá trong khu vực phía Bắc vào năm
2015; tạo cơ sở để đến năm 2020 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp; phấn
đấu xây dựng thành phố Vinh thành trung tâm kinh tế, văn hoá của vùng Bắc
Trung bộ. Phương hướng, mục tiêu cụ thể trên các phương diện như sau:
Thứ nhất, về PTBV kinh tế:
Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế của tỉnh, phấn đấu tốc độ tăng GDP bình quân
đạt 11 - 12% giai đoạn 2011 - 2015, 11,5 - 12% giai đoạn 2016 - 2020 và
khoảng 7% giai đoạn 2020 - 2030. Trưởng giá trị sản xuất công nghiệp hàng
năm từ 17 - 18%. Ưu tiên các nhóm sản phẩm có lợi thế của tỉnh, như: công
nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, đồ uống; công nghiệp khai thác và chế
16


biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, điện, điện tử, công nghệ thông
tin, dệt may, hàng thủ công mỹ nghệ; ưu tiên phát triển các dự án công nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, phục vụ cho các dự án công nghiệp quy
mô lớn của tỉnh và các Khu kinh tế Nghi Sơn, Vũng Áng.

Phấn đấu để Nghệ An trở thành trung tâm dịch vụ thương mại, du lịch, tài
chính ngân hàng, bảo hiểm, giáo dục đào tạo và y tế của khu vực Bắc Trung bộ
vào năm 2015, cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp năm 2020. Tổng mức luân
chuyển hàng hoá tăng bình quân 16 - 18%/năm. Kim ngạch xuất khẩu đạt 500 550 triệu USD (xuất khẩu hàng hoá đạt khoảng 250 - 300 triệu USD).
Phát triển mạnh các loại hình du lịch văn hoá lịch sử, sinh thái, nghỉ
dưỡng, đưa du lịch Vinh - Cửa Lò - Nam Đàn trở thành cụm du lịch, dịch vụ
gắn các tua du lịch quốc gia, quốc tế. Xây dựng Thành phố Vinh, Thị xã Cửa
Lò thành trung tâm lưu trú và trung chuyển khách du lịch. Phấn đấu năm 2015
đạt 3,5 - 4 triệu lượt khách du lịch, doanh thu du lịch đạt 3.000 - 3.500 tỷ
đồng, tăng bình quân 20 - 22%/năm.
Tập trung xây dựng nông thôn mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn. Phấn đấu đến năm 2015 giá trị thu nhập trên đơn vị
diện tích canh tác đạt 47 - 50 triệu đồng/ha; giá trị sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp tăng bình quân 4,5 - 5%/năm. Phát triển nông nghiệp toàn diện theo
hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững. Quy hoạch và phát triển các khu nông
nghiệp công nghệ cao; mở rộng diện tích áp dụng công nghệ cao để tăng năng
suất, chất lượng các loại rau, màu, cây ăn quả, cây công nghiệp có lợi thế của
tỉnh. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết TW4 (khóa X) về Chiến lược
biển Việt nam đến năm 2020. Phát triển mạnh ngành công nghiệp gắn với kinh
tế biển, như công nghiệp chế biến hải sản, công nghiệp cơ khí đóng mới và sửa
chữa tàu biển, công nghiệp cảng, dịch vụ cảng và kho bãi phục vụ kinh tế biển.
Thứ hai, về PTBV văn hóa - xã hội:
Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động phong trào
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá". Chú trọng xây dựng các đơn
17


vị văn hoá, gia đình văn hoá một cách thực chất. Tăng cường công tác quản lý
nhà nước đối với các hoạt động văn hoá, đảm bảo an ninh văn hoá. Duy trì và
khôi phục các lễ hội truyền thống, phát triển rộng khắp các phong trào văn

hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao quần chúng. Củng cố các mối quan hệ truyền
thống, bản sắc văn hoá Xứ Nghệ. Bảo tồn và phát huy có hiệu quả các di tích
lịch sử, văn hoá gắn với phát triển du lịch. Phấn đấu năm 2015 có 82 - 85%
gia đình văn hoá; 45 - 50% làng, bản, khối phố văn hoá; đảm bảo 100% xã
phường có thiết chế văn hoá, trong đó có 60 - 65% đạt chuẩn quốc gia; 30 35% số dân thường xuyên tham gia luyện tập thể dục thể thao, 20 - 25% số hộ
đạt tiêu chuẩn gia đình thể thao. Phấn đấu đến năm 2015 Nghệ An trở thành
một trong 10 trung tâm thể thao mạnh của cả nước.
Xây dựng và phát triển nền văn học nghệ thuật tiến tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống,
lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới của quê hương, đất nước. Quan tâm đào
tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện để đội ngũ những người hoạt động văn hoá, văn
học nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ
thuật. Thực hiện tốt việc phát sóng phát thanh - truyền hình Nghệ An qua
kênh Vinasat, từng bước chuyển đổi phát sóng truyền hình theo hướng số hoá,
nhằm tăng chất lượng hưởng thụ của người dân và diện phủ sóng phát thanh
truyền hình quốc gia và đài tỉnh ở vùng sâu, vùng xa, vùng lõm.
Nâng cao chất lượng giáo dục ở miền núi, chú trọng chất lượng giáo dục
toàn diện, xây dựng và đưa các nội dung giáo dục truyền thống lịch sử, truyền
thống cách mạng, văn hoá Xứ Nghệ… vào các trường học. Phấn đấu đến năm
2015 nâng tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đến nhà trẻ lên 25%, trẻ từ 3 đến 5 tuổi đến lớp
mẫu giáo đạt 85%; 99,5% trẻ em trong độ tuổi tiểu học được đến trường, 60%
số học sinh lớp 3 được học ngoại ngữ theo chương trình mới; 75% thanh niên
trong độ tuổi đạt trình độ học vấn trung học phổ thông và tương đương; tỷ lệ
hoàn thành cấp học được duy trì ở mức 90% trở lên đối với cả ba cấp học.
18


Xây dựng, mở rộng quy mô Đại học Vinh, Đại học Y khoa Vinh, Đại học sư
phạm kỹ thuật, Đại học công nghệ Vạn Xuân; sớm hoàn thành nâng cấp các
trường cao đẳng thành Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật, Đại học Văn hoá.

Xây dựng Thành phố Vinh và Thị xã Cửa Lò thành Trung tâm đào tạo đại
học, dạy nghề của vùng Bắc Trung bộ.
Làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân; nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh gắn với đề cao y đức của người thầy thuốc. Tăng cường
công tác y tế dự phòng, cung cấp những kiến thức cơ bản về phòng ngừa bệnh tật,
chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng. Chủ động phòng chống, không để phát sinh
dịch lớn. Đẩy mạnh công tác dân số kế hoạch hoá gia đình để giảm tỷ lệ sinh hàng
năm 0,4 - 0,5‰, dân số trung bình đạt khoảng 3,09 triệu người vào năm 2015.
Đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá đến năm 2015 có 20 - 25% dân số đô thị.
Phấn đấu hằng năm tạo việc làm cho khoảng 35 - 40 nghìn lao
động. Đến năm 2015, giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống còn 3%;
tỷ lệ lao động trong khu vực công nghiệp, xây dựng tăng lên 24,20%, thương
mại, dịch vụ 25,8%, khu vực nông - lâm - ngư nghiệp giảm xuống dưới
50%. Triển khai có hiệu quả các chương trình giảm nghèo, ưu tiên đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa
đặc biệt khó khăn và các xã nghèo chương trình 30a/CP của Chính phủ. Phấn
đấu tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm 2%. Thực hiện tốt chính sách đối
với người có công và công tác bảo trợ xã hội. Đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn
dân tham gia công tác đền ơn đáp nghĩa”. Nâng cao mức sống cho các đối tượng
chính sách bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình ở địa phương. Phát triển
mạnh các loại hình dịch vụ bảo hiểm: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
nhân thọ… bảo đảm môi trường an sinh cho nhân dân.
Thứ ba, về PTBV lĩnh vực môi trường:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách
nhiệm về bảo vệ môi trường đối với mọi người dân. Tăng cường công tác
19


quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Bảo đảm yêu cầu về môi trường ngay
từ khâu thẩm định, phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án

đầu tư. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; nghiêm cấm việc nhập ngoại
các dây chuyền, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng và đã lạc
hậu. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên trên cơ sở thực hiện tốt quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt. Tăng
cường công tác kiểm tra, tổ chức tốt việc khai thác, chế biến khoáng sản.
Như vậy, từ phương hướng, nội dung, mục tiêu PTBV ở Nghệ An, trên
cơ sở quan niệm chung của thế giới, có thể quan niệm: PTBV ở Nghệ An là
quá trình vận động, biến đổi mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội theo
hướng hiệu quả lâu dài, vững chắc, đảm bảo an sinh xã hội, quốc phòng an
ninh và môi trường sinh thái trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Để PTBV kinh tế - xã hội cần khơi dậy và phát huy tất cả các nguồn lực:
tài nguyên, vốn, khoa học - công nghệ, trong đó phát huy vai trò BSVHDT
với tư cách là giá trị cốt lõi, căn bản trong nền tảng tinh thần xã hội được coi
là một trong những động lực quyết định, góp phần PTBV trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường ở Nghệ An hiện nay.
1.1.2. Vai trò bản sắc văn hóa dân tộc trong phát triển bền vững ở Nghệ An
* Biểu hiện bản sắc văn hóa dân tộc ở Nghệ An
- Quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc ở Nghệ An
BSVHDT là hệ thống các giá trị văn hóa được cộng đồng các dân tộc
sáng tạo nên trong quá trình tồn tại và phát triển, là những nét độc đáo, riêng
biệt, thể hiện cốt cách, bản lĩnh của dân tộc, chứa đựng sức mạnh tinh thần to
lớn, trở thành động lực để mỗi dân tộc vươn lên và khẳng định mình trong
quan hệ với các dân tộc khác.
Bản sắc văn hoá dân tộc ở Nghệ An là tổng hoà những giá trị văn hoá
ổn định, bền vững, phản ánh cốt cách, bản lĩnh và diện mạo của cộng đồng
20


các dân tộc, được hình thành, hun đúc và phát triển trong suốt chiều dài lịch

sử, là tài sản tinh thần đặc sắc, có giá trị to lớn, đồng thời là nền tảng, động
lực mạnh mẽ trong phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh.
Như vậy, BSVHDT ở Nghệ An là một bộ phận hữu cơ, không thể tách
rời, góp phần làm phong phú, đa dạng thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng”, với 54 dân tộc
anh em, mỗi dân tộc có những giá trị văn hóa độc đáo, đặc sắc riêng, tạo nên sự
phong phú, đa dạng của văn hóa dân tộc, trong sự đang dạng, phong phú ấy của
văn hóa Việt Nam, có sự đóng góp của cộng đồng các dân tộc ở Nghệ An.
Đồng thời, chính điều kiện tự nhiên, không gian sinh tồn cũng như điều kiện
lịch sử xã hội của mấy nghìn năm cùng nhau đấu tranh dựng nước và giữ
nước, các dân tộc anh em đã xây dựng, vun đắp nên tình đoàn kết, cố kết cộng
đồng vững chắc, tạo cơ sở cho sự thống nhất của văn hóa dân tộc.
BSVHDT ở Nghệ An không phải là yếu tố “nhất thành bất biến”, nó là
khái niệm “động” và “mở”, luôn vận động và phát triển, thích nghi và đổi mới
không ngừng, đảm bảo sự phù hợp thời đại lịch sử. Văn hóa vốn là sản phẩm
sáng tạo của con người, văn hóa xứ Nghệ, với những giá trị cốt lõi của mình,
được cộng đồng các dân tộc sinh sống lâu đời trên địa bàn Tỉnh sáng tạo nên
trong quá trình lao động sản xuất, đấu tranh chống thiên tai, địch họa. Vì vậy, nó
phụ thuộc vào sự vận động, phát triển của thực tiễn cải tạo tự nhiê, xã hội của
con người trong quá trình lịch sử. Dĩ nhiên, với tính cách là những giá trị cốt lõi,
bền vững của văn hóa dân tộc, BSVHDT ở Nghệ An tương đối ổn định, song
điều đó không có nghĩa là đứng im, nó vẫn thường xuyên được bổ sung, phát
triển và hoàn thiện trong quá trình phát triển của xã hội.
BSVHDT ở Nghệ An là hệ thống các giá trị văn hoá đặc trưng tiêu biểu
phản ánh diện mạo, sắc thái, cốt cách, tâm hồn và bản lĩnh riêng của cộng
đồng các dân tộc sinh sống lâu đời trên địa bàn Tỉnh, được hun đúc trong quá
trình lịch sử thành những giá trị tinh tuý nhất, đặc sắc nhất tạo nên dấu ấn và
sắc thái riêng biệt của mình.
21



BSVHDT là nền tảng, động lực mạnh mẽ của quá trình PTBV ở Nghệ
An. Đây là đặc trưng căn bản, phản ánh giá trị và vai trò của BSVHDT ở
Nghệ An. Đảng ta nhiều lần khẳng định: văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Bởi nói đến văn hóa là nói
đến con người, đến nguồn nhân lực - yếu tố căn bản, quyết định sự phát triển
của một đất nước cũng như một địa phương. Bầu sữa văn hóa xứ Nghệ với
bản sắc riêng của mình, qua hàng nghìn năm lịch sử, đã nuôi dương, bồi đắp,
xây dựng nhân cách văn hóa con người Nghệ An cần cù, chịu khó, kiên trung,
sẵn sàng cống hiến cho sự phát triển chung của xã hội trên tất cả các lĩnh vực.
- Nội dung biểu hiện BSVHDT ở Nghệ An
Văn hóa xứ Nghệ là một bộ phận hữu cơ của văn hóa dân tộc, song điều
kiện địa lý, tự nhiên, môi trường và hoàn cảnh lịch sử xã hội nơi đây đã tạo
nên những dấu ấn riêng biệt, làm phong phú và đa dạng thêm nền văn hóa dân
tộc Việt Nam.
Xứ Nghệ có một kho tàng văn hoá dân gian phong phú, độc đáo về hình
thức, thể loại như truyện cổ tích, huyền thoại, truyền thuyết, ca dao, dân ca,
vè, thành ngữ, tục ngữ; kiến trúc, điêu khắc, trang trí, các hình thức dân ca,
dân nhạc, dân vũ, trò diễn, sân khấu. Hiện nay, các di tích kiến trúc tín
ngưỡng, tôn giáo phần do môi trường địa lý, phần do ý thức của con người,
phần khác do sự tàn phá của chiến tranh nên hầu như không còn gì đáng kể.
Tuy nhiên, văn học truyền miệng, các hình thức diễn xướng và tri thức dân
gian được lưu giữ lại khá phong phú. Ví, Dặm là hai hình thức dân ca rất phổ
biến, độc đáo của xứ Nghệ. Hát dặm độc đáo không chi gắn với tiếng nói xứ
Nghệ, mà còn cả về phương diện âm nhạc. Nội dung của hát dặm bày tỏ thái
độ, tâm tư, tình câm, tư tưởng của người xứ Nghệ, dưới hình thức các câu
thơ, thể năm câu, bắt vần lưng. Hát ví cũng là một hình thức dân ca quen
thuộc của người dân nơi đây, không nơi nào ở xứ Nghệ là không có hát ví.
Ở Quỳnh Lưu, Thanh Chương gọi hình thức hát này là hát ghẹo. Khác với
22



hát dặm thường mang âm điệu thể hiện khía cạnh khắc khổ, cứng rắn của
con người Nghệ An, thì hát ví, tức hát đối đáp nam nữ, có âm điệu êm ái,
tha thiết, dịu dàng, tình tứ.
Bên cạnh những giá trị văn hóa dân gian đặc sắc, đất Nghệ An còn có một
bề dày văn học rực rỡ với nhiều tác gia cùng các tác phẩm nổi tiếng: Bà chúa thơ
Nôm Hồ Xuân Hương, Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Xứ Nghệ còn là vùng đất có truyền thống khoa bảng nổi tiếng trong cả
nước. Ngay từ thế kỷ XIII, Lê Tắc đã nhận xét: “Người Hoan Diễn thuần
hậu, tuấn tú, hiếu học”. Nếu tính cả Hà Tĩnh, đất Hồng Lam chỉ chiếm 1/16
số tiến sĩ Nho học toàn quốc, thì suốt 89 khoa thi Đình thời Nguyễn, học trò
xứ Nghệ đã chiếm 1/5 trong tổng số thí sinh cả nước.
Ông đồ là nhân vật trí thức tiên biểu của xứ Nghệ. Họ có sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa dân gian và bác học. Các ông đồ xứ Nghệ là những người
học chữ thánh hiền, vì nhiều lý do mà trở về thôn quê làm nghề dạy học. Do
gần gũi, thấu hiểu những cay cực của người dân trong xã hội phong kiến, ông
đồ trở thành người đại diện, phát ngôn cho nguyện vọng của nhâu dân. Tiếng
nói của họ thể hiện sự phản kháng đổi với chế độ thối nát đương thời; có khi
trực tiếp kêu gọi nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến.
Đặc biệt, nói đến xứ Nghệ không thể không nói đến con người nơi đây.
Đây là điểm đặc sắc, cũng là kết tinh của BSVHDT ở Nghệ An. Chưa có địa
phương nào ở nước ta mà được nhiều người góp bàn về tâm lý, tính cách như
với con người xứ Nghệ. Bùi Dương Lịch trong “Nghệ An ký” đã viết: “Người
Nghệ An khí chất chất phác, đôn hậu, tính tình thường chậm chạp, không sắc
sảo cho nên làm việc gì củng giữ gìn cẩn thận, bền vững, ít bị xáo động bởi
những lợi hại trước mắt”. Đinh Gia Khánh đã phân tích tính cách của con
người xứ Nghệ: “Quen chịu gian khổ, cần cù, sinh hoạt tiết kiệm, gan góc,
mưu trí, chịu khổ nhưng không chịu nhục, trong gan góc có bướng bỉnh,
trong trung thực có thô bạo, trong mưu trí có liều lĩnh”. Vũ Ngọc Khánh còn

23


nêu lên một vài khía cạnh tâm lý khác của con người xứ Nghệ: Lý tưởng
trong tâm hồn, khắc khổ trong sinh hoạt, cứng cỏi trong giao tiếp. Ninh Viết
Giao - nhà “xứ Nghệ học” nổi tiếng lại khái quát cái bản ngã của xứ Nghệ:
“Không có miền nào lại có bản ngã rõ rệt như miền này... Có thể nói rằng có
một tinh thần Nghệ Tĩnh. Tinh thần đó làm lộ một cách rõ rệt lòng phụng thờ,
sự cố gắng cùng tỉnh thần nhẫn nại, kiên quyết của một dân tộc nông nghiệp
chật vật giành lấy một chỗ sống dưới mặt trời". [35, tr.15].
Người Nghệ An mang đầy đủ những phẩm chất chung, tiêu biểu của
người Việt Nam. Đó là lòng yêu nước, yêu quê hương nồng nàn, ý chí tự
cường, tự tôn dân tộc và tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng; sống nhân ái,
vị tha, trọng nghĩa tình, trọng đạo lý; lối sống giản dị, cần cù, tiết kiệm, chịu
thương, chịu khó, sáng tạo trong lao động, hiếu học, cầu tiến bộ…người
Nghệ còn mang những dấu ấn đặc trưng riêng biệt. Yếu tố thiên nhiên, lịch
sử - xã hội đã ảnh hưởng đến con người nơi đây. Có thể nói, người xứ Nghệ
đã tự tạo cho mình một tính cách riêng, dễ phân biệt với các vùng miền khác.
Bởi vậy, “tinh thần Nghệ Tĩnh” của người dân nơi đây có thể cảm nhận rất rõ
rệt, không chỉ từ những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử mà còn ở ngay cả
những người dân lao động bình thường.
Trước hết, người xứ Nghệ rất giàu lý tưởng, lý tưởng vươn tới đích
cao, vượt lên thực tại. Người dân bình thường chăm lo sản xuất, dù gặp phải
hoàn cảnh khó khăn, mùa màng thất bát, cũng không nản lòng, buông xuôi
mà luôn tìm cách khắc phục để vượt qua. Trong lịch sử văn hóa Việt Nam
ghi đậm dấu ấn của lớp nhà Nho xứ Nghệ thành đạt trên đường quan lộ hay
chỉ là ông đồ nghèo thì họ vẫn miệt mài trên con đường tri thức, tu dưỡng
đạo đức bản thân. Tuy nhiên, nét tính cách này của người Nghệ cũng dễ tạo
ra tâm lý chủ quan, nóng vội hay phiêu lưu, mạo hiểm.
Thứ hai, người Nghệ An rất trung kiên. Trung kiên ở đây là sự chất


24


phác, tính trung thực, sự kiên định của những tâm hồn thiết tha với quê

hương, đất nước. Sự chịu đựng âm thầm và lòng can đảm liều lĩnh là hai
mặt tưởng chừng như trái ngược nhau nhưng đều xuất phát từ sự
trung kiên của con người xứ Nghệ. Chính Hồ Chí Minh trong bài “Nghệ
Tĩnh đỏ” đã nhận xét rất xác đáng: “Nhân dân Nghệ - Tĩnh nổi tiếng cứng đầu.
Trong thời kỳ Pháp xâm lược cũng như trong các phong trào cách mạng quốc
gia (1905 - 1925) Nghệ - Tĩnh đã nổi tiếng. Trong cuộc đấu tranh hiện nay,
công nhân và nông dân Nghệ - Tĩnh vẫn giữ vững truyền thống cách mạng của
mình.” [50, tr.79].
Thứ ba, người Nghệ An sống khắc khổ trong sinh hoạt. Điều này thường
được lý giải bởi sự khắc nghiệt của thiên nhiên nơi đây. Trước sự đe dọa của
thiên tai, những hạn chế của trình độ khoa học, bản năng của con người đòi hỏi
phải thích ứng với cuộc sống, với tự nhiên. Vì vậy, trong cuộc sống, nhất là
trong sinh hoạt hàng ngày, con người xứ Nghệ luôn có tâm lý phòng xa, chuẩn
bị sẵn sàng ứng phó với những tình huống xấu. Thiết thực trong sinh hoạt, thận
trọng trong cuộc sống trở thành phương châm sống của người Nghệ. Tuy
nhiên, tính cách này đôi khi lại là nhược điểm, bởi khi vượt quá mức cần thiết,
sự cần kiệm sẽ trở nên kệch cỡm, là đề tài cho sự chế giễu hoặc dẫn đến sự hẹp
hòi, hạn chế trong xử thế. Giai thoại về “con cá gỗ” của người Nghệ cũng vì
thế mà trở thành vừa là niềm tự hào về tinh thần tiết kiệm, chắt chiu vì nghĩa
lớn, nhưng cũng là nỗi lòng có phần tự ti của người Nghệ.
Thứ tư, đó là sự cứng cỏi, cương quyết trong giao tiếp. Khi tiếp xúc với
con người xứ Nghệ, ta còn bắt gặp nét ngang tàng, bướng bỉnh. Cứng cỏi ở
đây có lúc là một cái gì đó gai ngạnh để thể hiện chất trung kiên, không
chịu cúi mình trước khó khăn, nhưng có lúc lại là sự cứng nhắc, thiếu linh

hoạt, thậm chí cản trở tầm nhìn xa trông rộng.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc, người
Nghệ An với tính cách đặc trưng của mình luôn có mặt trong mọi cuộc đấu

25


×