Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ - ĐẢNG bộ TỈNH KHÁNH hòa LÃNH đạo xóa đói GIẢM NGHÈO từ năm 2005 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (968.96 KB, 114 trang )

“Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo từ năm
2005 đến năm 2015”,
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, thế giới đã và đang có những thay đổi quan
trọng: sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức; xu
thế toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế nhưng cũng xuất hiện không ít những vấn đề
gay gắt, mang tính toàn cầu. Một trong những vấn đề đó là đói, nghèo. Nó tồn
tại như một thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của các chế độ xã
hội, của mỗi quốc gia, dân tộc. Cuộc chiến chống đói, nghèo luôn là vấn đề được
quan tâm hàng đầu của các nước trên thế giới, đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay, khi toàn cầu hóa nền kinh tế đang là xu hướng chủ đạo, chi phối sự phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nghèo, đói không chỉ là vấn đề xã hội mà còn là
vấn đề kinh tế, chính trị của đất nước. Chính sách XĐ, GN đã trở thành một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước và là một trong ba mục tiêu thiên nhiên kỷ đã
hoàn thành trước thời hạn năm 2015. Đây là kết quả Việt Nam thu được nhờ
những chính sách đúng đắn về phát triển kinh tế - xã hội và XĐ, GN trong thời
gian qua. Tuy nhiên, cuộc chiến chống đói, nghèo một cách bền vững đã và đang
đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm giải quyết
trong thời gian tiếp theo.
Trong xu thế đó, với quyết tâm xây dựng tỉnh Khánh Hòa ngày càng
phát triển giàu mạnh từ những lợi thế sẵn có của mình, bằng những chủ trương
và giải pháp thiết thực, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Khánh Hòa đã tập trung
mọi nỗ lực phát triển kinh tế đi đôi với XĐ, GN và đã thu được nhiều kết quả
đáng khích lệ. Đời sống của đại bộ phận người nghèo được cải thiện rõ nét,
không chỉ đảm bảo nhu cầu về lương thực, thực phẩm mà còn đáp ứng được
các nhu cầu cơ bản khác về đời sống và văn hóa. Tỉnh Khánh Hòa đã nhận thức
rõ việc thực hiện tốt XĐ, GN là một trong những điểm mấu chốt, góp phần bảo


đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và giữ vững ổn định chính trị - xã hội.


Tuy nhiên, thực tiễn công tác XĐ, GN của tỉnh Khánh Hòa vẫn còn gặp
nhiều khó khăn do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, những nguồn
lực sẵn có chưa phát huy hết hiệu quả; Tỉnh có các huyện miền núi, hải đảo
với các xã đặc biệt khó khăn nên thành tựu đạt được còn khá khiêm tốn so với
tiềm năng hiện có. Để lãnh đạo XĐ, GN trong những năm tới đạt kết quả cao
hơn, mang tính chất bền vững, một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu
cần thực hiện tốt là tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm để
công tác XĐ, GN của Tỉnh đạt kết quả cao và bền vững hơn.
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH KHÁNH HÒA
VỀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO (2005 - 2010)

1.1. Những nhân tố tác động và chủ trương của
Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa về xóa đói, giảm nghèo (2005
- 2010)
1.1.1. Những nhân tố tác động đến quá trình Đảng
bộ tỉnh Khánh Hòa lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo (2005
- 2010)
* Quan niệm về đói, nghèo và xóa đói, giảm nghèo
Ở Việt Nam đói và nghèo thường được chia ra làm hai quan niệm riêng biệt:
Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa mãn một
phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp
hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Trong
hoàn cảnh nghèo thì người nghèo và hộ nghèo cũng chỉ vẫn vật lộn với
những mưu sinh hàng ngày và kinh tế vật chất, biểu hiện trực tiếp nhất ở
bữa ăn. Họ không thể vươn tới các nhu cầu về văn hóa - tinh thần hoặc
những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức tối thiểu, gần như không có.

2



Nghèo là khái niệm chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của người dân chỉ
dành hầu như toàn bộ cho nhu cầu ăn, thậm chí không đủ chi cho ăn, phần
tích lũy hầu như không có.
Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu, thu nhập không đủ đáp ứng nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
Sự nghèo khổ, bần cùng được biểu hiện là đói, là tình trạng con người không
có cái ăn, ăn không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống
hàng ngày và không đủ sức để lao động, để tái sản xuất sức lao động.
Đói và nghèo là hai khái niệm khác nhau, phản ánh cấp độ và mức độ
khác nhau về tình trạng nghèo khổ của một bộ phận dân cư. Tuy nhiên, giữa
đói và nghèo lại có mối quan hệ mật thiết với nhau, vì đã đói thì đương nhiên
là nghèo, ngược lại nghèo là một dạng tiềm tàng của đói. Nếu nghèo không
được giải quyết, cứ để kéo dài chỉ cần gặp phải rủi ro trong cuộc sống như:
ốm đau, bệnh tật, thiên tai, hoả hoạn... sẽ lập tức rơi xuống đói; điều này cũng
cho thấy việc phân biệt giữa đói và nghèo cũng chỉ là tương đối.
Xóa đói là làm cho một bộ phận dân cư đói nâng cao mức thu nhập, nâng
cao mức sống, từ đó mà vượt qua tiêu chí đói. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số
lượng người đói giảm xuống bằng không trong một khoảng thời gian xác định.
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao thu nhập, nâng
cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần
trăm và số lượng người nghèo giảm xuống theo thời gian.
Đói và nghèo có quan hệ mật thiết với nhau, do đó XĐ, GN có quan hệ
với nhau. Góc độ chung nhất, XĐ, GN chính là quá trình Nhà nước, địa
phương, cộng đồng hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng đói, nghèo
vươn lên trong sản xuất, cuộc sống từ đó mà thoát khỏi đói, nghèo. Nói một
cách khác, XĐ, GN chính là quá trình chuyển một bộ phận dân cư đói, nghèo
lên một mức sống cao hơn.

3



* Chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về XĐ, GN từ
năm 2005 đến năm 2010
Nhiệm vụ XĐ, GN đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý và điều hành của Nhà nước, sự vào cuộc của các đoàn thể chính trị, xã hội,
sự nỗ lực của toàn dân nhằm tăng giàu, bớt nghèo, hạn chế phân hóa giàu
nghèo, góp phần thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Vì vậy, chủ trương XĐ, GN của Đảng từ năm 2005 đến năm
2010 có thể khái quát trên những nội dung cơ bản là:
Về phương hướng, mục tiêu XĐ, GN:
Trong giai đoạn 2005 - 2010, công tác XĐ, GN được xác định hướng
mạnh tới thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Đây là vấn đề có liên quan tới
công bằng, bình đẳng xã hội, ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị. Vấn đề này
được nhấn mạnh trong nhiều văn kiện của Đảng, trở thành hệ thống quan
điểm lãnh đạo, chỉ đạo trong quá trình phát triển KT - XH. Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) đã thông qua phương hướng, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, trong đó xác định phương
hướng XĐ, GN: “Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức thực hiện xóa
đói, giảm nghèo theo hướng phát huy cao độ nội lực và kết hợp sử dụng có
hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế... nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ
nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách
bền vững” [26, tr.217]. Về mục tiêu cụ thể, Đại hội cũng đã xác định “ Phấn
đấu tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10 - 11% vào năm 2010”
[26, tr.189]. Phương hướng, mục tiêu XĐ, GN là đảm bảo cho người nghèo,
hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên và cải thiện mức, hỗ trợ để phát huy nội
lực của chính người nghèo giúp họ thoát nghèo một cách bền vững
Phương hướng, mục tiêu, XĐ, GN của Đảng và Nhà nước là hướng vào
phát triển con người, tạo ra động lực để tăng trưởng kinh tế, thực hiện công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, phát huy bản sắc, truyền thống văn

hóa tốt đẹp của dân tộc. Thực hiện XĐ, GN chính là nhằm khắc phục mặt trái

4


của nền kinh tế thị trường nhằm bảo đảm cho nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy vai trò to lớn của XĐ, GN đối với
toàn xã hội, chiếm vị trí quan trọng trong chính sách của Đảng và Nhà nước.
XĐ, GN trở thành một trong những chương trình mục tiêu quốc gia được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt đã đi vào thực tiễn cuộc sống, từng bước tháo gỡ
những khó khăn cho người nghèo, tạo cho người nghèo có một động lực mới,
niềm tin và ý chí quyết tâm vươn lên trong cuộc sống, hòa nhập cùng xã hội.
Về nhiệm vụ, giải pháp:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) đã xác định
những nhiệm vụ trọng tâm để XĐ, GN là: “Đẩy mạnh việc thực hiện chính
sách đặc biệt về trợ giúp đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đất sản xuất; trợ
giúp đất ở, nhà ở, nước sạch, đào tạo nghề và tạo việc làm... phát huy hơn nữa
vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân tham gia
công cuộc xóa đói, giảm nghèo” [26, tr.217]. Nhiệm vụ XĐ, GN mà Đại hội
X xác định đã bảo đảm tính xã hội hóa cao làm cho người nghèo tiếp cận
được đa dạng các nguồn lực để vươn lên thoát nghèo. Tuy nhiên, công cuộc
XĐ, GN không chỉ đáp ứng ngay mục tiêu trước mắt, mà quan trọng là người
nghèo phải thoát nghèo một cách bền vững.
Giải pháp XĐ, GN:
Thứ nhất, thực hiện tốt chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
nông thôn và thực hiện lồng ghép các chương trình dự án KT - XH để XĐ, GN.
Chủ trương của Đảng là đẩy mạnh việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
ở nông thôn như trường học, trạm y tế, điện, nước sạch, chợ và đường giao
thông cùng với các chương trình KT- XH khác như Chương trình việc làm,
nước sạch và vệ sinh môi trường, chương trình giáo dục, y tế... nhằm tập trung

nguồn lực để CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, đẩy mạnh phát triển sản xuất
hàng hóa, nâng cao mức thu nhập và chất lượng cuộc sống người dân.

5


Thứ hai, Thực hiện có hiệu quả chính sách cho người nghèo vay vốn
sản xuất; Chính sách xã hội cho hộ nghèo, người nghèo (giáo dục, y tế, nhà ở,
trợ cấp thường xuyên); Chính sách đất đai đối với hộ nghèo. Vận động “Quỹ
vì người nghèo”. Người nghèo thuộc nhóm yếu thế nhất trong xã hội, họ đang
cần sự giúp đỡ của Nhà nước, của cộng động để có điều kiện hòa nhập cùng
xã hội. Vì vậy việc trước tiên là phải hỗ trợ vật chất trực tiếp cho người nghèo
như cho vay vốn sản xuất, cấp thẻ BHYT, hỗ trợ xóa nhà dột nát... Sự hỗ trợ
này tạo cơ sở tiền đề để người nghèo phát huy nội lực vươn lên thoát nghèo.
Thứ ba, coi trọng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho người nghèo;
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng
hóa; chương trình khuyến nông - lâm - ngư; các hoạt động truyền thông về
giảm nghèo. Mọi vấn đề đều bắt nguồn từ nhận thức, nhưng nhận thức của
cộng đồng và người nghèo về XĐ, GN không phải đã thống nhất. Trên cơ sở
hiểu rõ về mục đích, ý nghĩa, chủ trương, chính sách XĐ, GN của Đảng và
Nhà nước thì mới phát huy được sức mạnh của cộng đồng, của mọi cá nhân
và tổ chức từ đó mới huy động được nguồn lực to lớn cho XĐ, GN. Vì vậy,
cùng với nhóm giải pháp gián tiếp và trực tiếp thì nhóm giải pháp về nhận
thức được Đảng ta rất coi trọng. Để nâng cao nhận thức cho người nghèo
Đảng chủ trương phải đẩy mạnh đào tạo nghề, tổ chức tập huấn kiến thức,
thăm quan trình diễn các mô hình giảm nghèo và tuyên truyền cho nhân dân
nắm được mục đích, ý nghĩa, các chủ trương, chính sách XĐ, GN của Đảng
và Nhà nước. Khi người nghèo có kiến thức, kinh nghiệm trong sản xuất, đây
là cơ sở cho họ tìm ra con đường thoát nghèo bền vững.
Phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp XĐ, GN của Đảng và

Nhà nước là hướng vào phát triển con người, tạo ra động lực để tăng trưởng
kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, phát huy
bản sắc, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Thực hiện XĐ, GN chính
là nhằm khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường nhằm bảo đảm cho nền

6


kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó cho thấy vai trò
to lớn của XĐ, GN đối với toàn xã hội, chiếm vị trí quan trọng trong chính
sách của Đảng và Nhà nước.
* Khái quát về điều kiện tự nhiên và KT - XH của tỉnh Khánh Hòa tác
động đến công tác XĐ, GN
Về điều kiện tự nhiên
Khánh Hòa có diện tích tự nhiên là 5.217,6 km 2, phần đất liền của Tỉnh
nằm ở tọa độ địa lý từ vĩ độ11055’00’N đến vĩ độ 12054’00’B, có vùng biển
đảo rộng lớn với khoảng 200 đảo lớn nhỏ ven bờ và các đảo san hô của huyện
đảo Trường Sa. Điểm cực Đông trên đất liền của Khánh Hòa nằm tại Mũi Đôi
trên bán đảo Hòn Gốm, huyện Vạn Ninh. Đây cũng là điểm cực Đông trên đất
liền của Việt Nam. Bờ biển tỉnh Khánh Hòa kéo dài từ xã Đại Lãnh tới cuối
vịnh Cam Ranh, có độ dài 385 km (tính theo mép nước) với nhiều cửa lạch,
đầm vịnh. Khánh Hòa có 2 thành phố trực thuộc tỉnh: Nha Trang, Cam Ranh;
thị xã Ninh Hòa và 6 huyện: Cam Lâm, Diên Khánh, Khánh Sơn, Khánh Vĩnh,
Vạn Ninh, Trường Sa. Các huyện, thị xã, thành phố lại được chia thành 35
phường 6 thị trấn và 99 xã. Trong đó có hai huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh
Vĩnh có các xã đặc biệt khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo đói cao. Huyện đảo Trường Sa
nơi chịu nhiều điều kiện khắc nghiệt của thời tiết đồng thời vị trí địa lý cách xa
đất liền nên cũng có nhiều khó khăn trong công tác XĐ, GN của Tỉnh.
Khánh Hòa có quốc lộ 1A, tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy dọc theo
địa phận tỉnh, nối Khánh Hòa với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Quốc lộ

26 nối Khánh Hòa với các tỉnh Tây Nguyên. Nhiều cảng biển nước sâu như:
cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, cảng Nha Trang, cảng Cam Ranh… có
vai trò vừa là cảng trung chuyển thương mại quốc tế, vừa là cảng du lịch đưa
đón khách quốc tế đến Nha Trang. Đây cũng là một trong những điều kiện
thuận lợi giúp Khánh Hòa đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác

7


XĐ, GN trong những năm qua. Bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều khó khăn trong
việc hoạch định chính sách XĐ, GN đặc thù cho từng khu vực.
Về điều kiện kinh tế - xã hội
Khánh Hòa là một trong những tỉnh có nền kinh tế phát triển nhanh của
Việt Nam. Tổng sản phẩm nội địa tăng bình quân hàng năm gần 11%. GDP
bình quân đầu người năm 2015 đạt 2.650 USD/năm và là 1 trong 5 tỉnh, thành
phố có thu nhập bình quân đầu người cao nhất nước. Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế đến năm 2015 tỷ trọng ngành cụng nghiệp - xây dựng chiếm 43,5%, dịch vụ
- du lịch chiếm 43,5%, nông - lâm - thuỷ sản chiếm 13%; thu ngân sách năm
2015 dự kiến đạt trên 15.700 tỷ đồng, huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội đạt trên 47.000 tỷ đồng. Các khu công nghiệp lớn trong tỉnh như Khu công
nghiệp Suối Dầu, khu công nghiệp Ninh Hòa, khu công nghiệp Bắc và Nam
Nha Trang, cùng với những cảng biển lớn đang được đầu tư xây dựng, giúp
cho Khánh Hòa trở thành một trong 10 tỉnh thành có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao nhất nước. Đây trở thành điều kiện thuận lợi để công tác XĐ, GN có những
bước phát triển mới, đồng thời cũng đặt ra cho tỉnh yêu cầu trong phát triển
kinh tế gắn liền với an sinh xã hội, XĐ, GN trên địa bàn tỉnh.
Toàn tỉnh có 1,229,747 người (2015). Hiện nay có 32 dân tộc đang sinh
sống trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, trong đó dân tộc Kinh chiếm 95,3% sống
phân bố đều khắp huyện, thị, thành phố, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là các
vùng đồng bằng, thành phố, thị xã, thị trấn. Dân tộc Raglay chiếm 3,4% sống

tập trung chủ yếu ở hai huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh trong các bản làng
(palây). Dân tộc Hoa chiếm 0,86% sống chủ yếu ở Nha Trang, Diên Khánh và
Ninh Hòa Các nhóm chính khác gồm Cơ-ho chiếm 0,34%, Ê-đê chiếm
0,25%... Ngoài ra, còn có các dân tộc Tày, Nùng, Mường, Chăm... Người
Chăm là cư dân bản địa ở Khánh Hòa. Tuy nhiên do những điều kiện lịch sử, từ
giữa thế kỷ XVII về sau này, người Chăm ở Khánh Hòa lần lượt di chuyển vào
các tỉnh phía Nam. Vì vậy mà ngày nay, người Chăm ở Khánh Hòa còn lại số

8


lượng không đáng kể. Dân số Khánh Hòa phân bố không đều. Dân cư tập trung
đông nhất ở thành phố Nha Trang (chiếm 1/3 dân số toàn tỉnh), trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hóa của Tỉnh. Huyện Diên Khánh và thành phố Cam Ranh cũng
có mật độ dân số khá cao (Xấp xỉ 400 người/km²). Thị xã Ninh Hòa và các
huyện còn lại ở đồng bằng có mật độ dân cư không chênh lệch lớn và gần bằng
mức trung bình toàn tỉnh (khoảng 200 người/km²). Các huyện miền núi có mật
độ dân số tương đối thấp là Khánh Sơn (62 người/km²) và Khánh Vĩnh (29
người/km²). Nơi có mật độ dân số thấp nhất tỉnh là huyện đảo Trường Sa (0.39
người/km²). Đây cũng là một trong những huyện của Tỉnh có nhiều điều kiện
đặc biệt khó khăn ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách phát triển KT - XH của
Tỉnh.
Với điều kiện tự nhiên, xã hội của một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ
có tiềm năng phong phú về hải sản, khoáng sản cùng với vị trí chiến lược về
hàng hải và quốc phòng - an ninh đang là lợi thế to lớn để phát triển KT - XH
của tỉnh Khánh Hòa. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, Tỉnh cũng còn gặp
nhiều khó khăn trong công tác XĐ, GN. Đời sống của một bộ phận nhân dân,
nhất là vùng miền núi, dân đi biển, dân tộc thiểu số, lao động thuần nông có
nhiều khó khăn. Số lao động không có việc làm và thiếu việc làm còn nhiều.
Mức sống giữa thành thị và nông thôn còn chênh lệch lớn, tệ nạn xã hội phát

triển. Khó khăn trên ảnh hưởng không nhỏ đến việc XĐ, GN của Tỉnh, đặt ra
yêu cầu Tỉnh phải đẩy nhanh việc XĐ, GN để phát triển KT - XH, nâng cao
đời sống nhân dân… Chính vì vậy công tác XĐ, GN của Tỉnh đòi hỏi phải có
chiến lược lâu dài và có những bước thực hiện phù hợp nhất để đảm bảo công
tác XĐ, GN đạt được kết quả cao và bền vững, góp phần thực hiện thắng lợi
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
* Thực trạng về thực hiện công tác XĐ, GN tỉnh Khánh Hòa
trước năm 2005
XĐ, GN là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta
nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp

9


khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc,
nhóm dân cư. Với Khánh Hòa, nhận thức rõ thực trạng của một Tỉnh đời sống
xã hội còn nhiều khó khăn, kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chương trình XĐ, GN đã được Tỉnh xây
dựng, triển khai từ năm 1995 cũng bộc lộ nhiều vấn đề cần giải quyết.
Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XIV (2000) nhiệm kỳ 2000 - 2005 đã xác
định nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới là: “Cải thiện đời
sống nhân dân, hạ thấp tỷ lệ nghèo, nâng cao một bước trình độ dân trí, chăm
sóc sức khỏe của nhân dân, làm lành mạnh đời sống xã hội, trong đó XĐ, GN
là một nhiệm vụ cấp bách của Tỉnh” [3, tr.39]. Trong quá trình tổ chức thực
hiện, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã triển khai việc lồng ghép các chương
trình phát triển kinh tế - xã hội trên các địa bàn huyện, xã và xây dựng các dự
án, thu hút nguồn vốn tập trung cho công tác XĐ, GN kể cả các nguồn vốn của
nước ngoài. Chính vì vậy, công tác XĐ, GN của Tỉnh đã đạt được những kết
quả cụ thể trên một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, đời sống của người nghèo được cải

thiện. Từ năm 2001 đến năm 2005, toàn Tỉnh đã giảm được 15.501 hộ nghèo, tỷ
lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 11,14% đầu năm 2001 xuống còn 3,31% đầu năm
2005. Đời sống của những vùng nghèo, hộ nghèo được cải thiện bớt khó khăn
hơn, hạ tầng cơ sở các vùng đặc biệt khó khăn được đầu tư, đổi mới đáng kể.
Thứ hai, tập trung huy động được nguồn vốn lớn cho các chương trình,
dự án liên quan đến mục tiêu Quốc gia XĐ, GN của Tỉnh. Trong 5 năm (2000
- 2005) tổng nguồn vốn huy động cho các chương trình, dự án liên quan đến
mục tiêu Quốc gia XĐ, GN và giải quyết việc làm khoảng “trên 720 tỷ đồng,
riêng trong 2 năm 2004 - 2005 là 392 tỷ đồng” [7, tr.4]; Các dự án thuộc
Chương trình mục tiêu Quốc gia XĐ, GN theo quyết định số 143/2001/QĐTTg ngày 27 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ: Dự án Đầu tư cơ sở
hạ tầng; Dự án tín dụng; Dự án Hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn; Dự
án Định canh, định cư, ổn định dân cư, kinh tế mới; Dự án Hướng dẫn cách

10


làm ăn và khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cho người nghèo... đều đạt
được những kết quả quan trọng. Đồng thời, qua thực hiện chương trình XĐ,
GN, sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, điều hành của chính quyền và vai trò
của các tổ chức đoàn thể có sự đổi mới, gắn bó hơn với cơ sở, với nhân dân.
Thứ ba, giải quyết tốt vấn đề việc làm góp phần tích cực trong công tác
XĐ, GN ở địa phương. Về giải quyết việc làm, trong 5 năm (2000 - 2005) gần
“55.000 người được giải quyết việc làm mới và có thêm việc làm, đã đào tạo
nghề và dạy nghề gắn với việc làm cho gần 11.000 người, trong số đó có gần
70% số người được đào tạo đã có việc làm, Trung tâm dịch vụ việc làm đã tư
vấn giới thiệu việc làm cho 3.542 người” [7, tr.5], gửi học sinh đi học tại các
trường công nhân kỹ thuật trung ương. Những kết quả đó đã góp phần vào
tăng trưởng kinh tế cao và thực hiện công bằng xã hội trên địa bàn của Tỉnh.
Thứ tư, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, đoàn thể
trong công tác XĐ, GN. Được sự chỉ đạo và triển khai thực hiện tích cực của cấp

ủy, chính quyền các cấp và sự hỗ trợ của các đoàn thể, lực lượng vũ trang, phong
trào XĐ, GN của Khánh Hòa trong 5 năm (2000 - 2005) đã phát triển sâu rộng,
động viên được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo nhân dân và giúp cho nhiều
hộ vượt qua đói nghèo, một số hộ vươn lên khá giả, có tác dụng thiết thực làm
giảm đáng kể số hộ đói và giúp cho các hộ còn nghèo, đói giảm bớt khó khăn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, trong những năm trước 2005,
XĐ, GN tỉnh Khánh Hòa vẫn còn tồn tại một số những hạn chế:
Thứ nhất, huy động nguồn lực cho XĐ, GN còn phân tán do đó khó khăn
trong việc theo dõi và đánh giá hiệu quả. Lồng ghép nguồn lực từ các chương
trình kinh tế xã hội khác với mục tiêu XĐ, GN chưa đồng bộ.
Thứ hai, tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng. Một số xã ở
khu vực miền núi có tỷ lệ hộ nghèo cao. Khoảng cách chênh lệch giữa người
giàu và người nghèo, giữa khu vực thành thị và khu vực miền núi còn cao.
Thứ ba, tình trạng tái nghèo, phát sinh nghèo ở một số huyện, thị xã còn
lớn, kết quả thực hiện mục tiêu XĐ, GN chưa thực sự bền vững. Trong 3 năm

11


(2001 - 2003), thị xã Cam Ranh có 2.590 hộ thoát nghèo nhưng có đến 1.481 hộ
tái và phát sinh nghèo mới (57,185), huyện Vạn Ninh có 3.905 hộ thoát nghèo
nhưng có đến 1.688 hộ tái nghèo và phát sinh nghèo mới (43,2%) [7, tr.8].
Thứ tư, vấn đề giải quyết nhà ở cho các hộ nghèo ở khu vực đồng bằng còn
chậm. Hiện nay, chủ yếu được thực hiện từ nguồn vận động đóng góp của cộng
đồng (thông qua quỹ “Vì người nghèo”), ngân sách tỉnh chưa đầu tư đúng mức
nên kết quả đạt được còn hạn chế. Theo số liệu báo cáo, đầu năm 2005 toàn tỉnh
còn 3.583 hộ nghèo ở khu vực đồng bằng ở nhà dột nát hoặc không có nhà ở.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này như:
Một là, công tác XĐ, GN chưa có sự bền vững, tình trạng tái nghèo và
phát sinh nghèo vẫn còn cao, đa số các hộ chỉ “thoát chuẩn nghèo” nhưng

chưa thực sự thoát nghèo.
Hai là, ý chí quyết tâm vượt đói nghèo của nhiều hộ chưa cao, còn tồn
tại tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự trợ giúp của nhà nước và cộng đồng xã hội;
chưa phát huy và khai thác được thế mạnh của địa phương, lực lượng lao
động nông nghiệp và phi nông nghiệp còn lớn nhưng lại thiếu kỹ thuật, thiếu
trình độ tay nghề.
Ba là, chương trình XĐ, GN là chương trình KT - XH tổng hợp, diễn ra
trên phạm vi rộng, đòi hỏi phải có một nguồn lực lớn cũng như một chính sách
đồng bộ linh hoạt thì quá trình triển khai mới được thuận lợi. Tuy nhiên, trong
thực tế nguồn lực đầu tư cho XĐ, GN và giải quyết việc làm còn hạn hẹp, tiến
độ giải ngân các nguồn vốn còn chậm bởi nhiều thủ tục rườm rà.
Thực tế trên đã đặt ra yêu cầu ngày càng lớn đối với Đảng bộ tỉnh và
các ban, ngành liên quan phải luôn chú ý quan tâm, rà soát để có chủ trương,
chính sách XĐ, GN phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn. Đặc biệt, cần có
nhiều nỗ lực và giải pháp thiết thực, đúng đắn hơn nữa để đạt được những
thành quả lớn hơn trong công tác XĐ, GN những năm tiếp theo.
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa về xóa đói, giảm
nghèo (2005 - 2010)

12


Xuất phát từ đặc điểm, điều kiện tự nhiên, KT - XH của Tỉnh và yêu
cầu của tình hình phát triển của đất nước. Quán triệt sâu sắc chủ trương của
Đảng và chính sách của Nhà nước, Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa luôn coi việc lãnh
đạo thực hiện XĐ, GN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng
bộ. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa về XĐ, GN giai đoạn 2005 - 2010
được thể hiện trong các văn bản: Nghị quyết số 06/NQ-TU, ngày 23 tháng 3
năm 2005, Về chương trình mục tiêu giảm nghèo tỉnh Khánh Hòa giai đoạn
2005 - 2010. Thông báo số 462/TB-TU ngày 27 tháng 4 năm 2005, Thông báo

Kết luận của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy về công tác xóa đói giảm nghèo và dạy
nghề năm 2005. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ
XV(12/2005)... Trong các văn bản trên đã thể hiện rõ quan điểm, chủ trương
XĐ, GN của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa.
* Quan điểm chỉ đạo
Quá trình lãnh đạo công tác XĐ, GN tỉnh Khánh Hòa được thực hiện
theo quan điểm chỉ đạo thống nhất sau:
- Xóa đói, giảm nghèo là một trong những nhiệm vụ chính trị hàng đầu
nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp
khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn.
- Chương trình mục tiêu XĐ, GN trên địa bàn tỉnh cần phải phát huy
sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp cùng với sự hỗ trợ của các tổ chức
xã hội và sự đồng thuận hưởng ứng tích cực của nhân dân để hướng tới công
bằng xã hội, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống của
người dân. Cùng với sự đầu tư của Nhà nước và cộng đồng xã hội, cần đòi hỏi
sự nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người dân.
- Công cuộc XĐ, GN là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ Đảng, chính quyền và sự tham gia từ tất
cả các nguồn lực của toàn xã hội.

13


- Việc thực hiện các chương trình Nghị quyết Chính phủ về XĐ, GN
phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH của từng địa phương
theo nhằm đảm bảo cơ sở hạ tầng, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực,
tăng thu nhập cho người dân để ổn định và nâng cao mức sống, được tiếp cận
và hưởng thụ các dịch vụ xã hội. [60, tr.9]
* Mục tiêu XĐ, GN
Mục tiêu chung của chương trình giảm nghèo giai đoạn 2005 - 2010 xác

định: “Tạo môi trường và cơ chế thuận lợi cho người nghèo tiếp cận với các
dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội một cách toàn diện; nâng cao mức sống, tăng
thu nhập, thu hẹp gia tăng khoảng cách giàu nghèo” [60, tr.10].
Mục tiêu cụ thể được xác định:
“Mục tiêu đến năm 2010 phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 15,32% xuống
còn 2,4% theo chuẩn nghèo quốc gia và từ 17,83% xuống còn 4% theo chuẩn
nghèo riêng của tỉnh” [4, tr.40]. Trên cơ sở mục tiêu của Tỉnh đề ra, các văn
kiện, nghị quyết của Tỉnh ủy, UBND, HĐND xác định các mục tiêu cụ thể:
Về thu nhập, phát triển cơ sở hạ tầng: Đến cuối năm 2010, thu nhập của
nhóm hộ nghèo tăng gấp 1,5 lần so với năm 2005; Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng
cho 31 xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo trọng điểm, đảm bảo đến năm 2010, các xã
này có hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ phục vụ phát triển sản xuất và dân sinh.
Về vay vốn tín dụng và y tế: đảm bảo cho khoảng 104.000 lượt hộ
nghèo, cận nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi từ ngân hàng Chính sách xã
hội; 876.000 lượt người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế để được khám chữa
bệnh miễn phí; 155.000 lượt học sinh nghèo, học sinh đồng bào dân tộc thiểu
số được miễn, giảm học phí và hỗ trợ đi học.
Về chính sách nhà ở và dạy nghề: “Hỗ trợ ít nhất 8.000 nhà ở cho hộ
nghèo không có nhà hoặc ở nhà tạm (nhà tranh, tre, nứa, xiêu vẹo, dột nát, nhà ổ
chuột không đảm bảo an toàn trong khi mưa bão, lũ); Ít nhất 49.000 lượt người
nghèo được tập huấn về khuyến nông - lâm - ngư, chuyển giao kỹ thuật, hướng

14


dẫn cách làm ăn; Ít nhất 8.000 lượt người nghèo được hỗ trợ dạy nghề tạo việc
làm” [60, tr.10]. Dạy nghề phục vụ chuyển dịch cơ cấu lao động ở các khu vực
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, dạy nghề phục vụ cho xuất khẩu lao động.
Quan điểm, mục tiêu trên có tính chiến lược, vừa cơ bản, vừa lâu dài, có ý
nghĩa chỉ đạo mọi hoạt động nhằm tháo gỡ khó khăn cho người nghèo, hộ

nghèo, hộ thuộc diện gia đình chính sách nhằm thực hiện mục tiêu chương trình
quốc gia về XĐ, GN, đồng thời cũng để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội bền vững của Tỉnh.
* Một số giải pháp XĐ, GN
Để thực hiện các mục tiêu trên, Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa đã xác định
một số giải pháp chủ yếu:
Thứ nhất, nhóm chính sách, đề án nhằm tạo điều kiện cho người nghèo
phát triển sản xuất, tăng thu nhập, trong đó tập trung vào các chính sách: tín
dụng hộ nghèo; hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số và nước
sinh hoạt cho người nghèo; Đề án Khuyến nông - lâm - ngư và hướng dẫn
người nghèo cách làm ăn; Đề án Dạy nghề cho người nghèo; Đề án Xây dựng
và nhân rộng mô hình giảm nghèo hiệu quả; Đề án Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ
tầng các xã đặc biệt khó khăn và các xã nghèo trọng điểm; Đề án Hỗ trợ phát
triển KT - XH hai huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh. Xây dựng được ít
nhất 03 mô hình XĐ, GN bền vững gắn với đặc thù của các vùng sinh thái:
miền núi, đồng bằng và đô thị.
Thứ hai, các chính sách tạo cơ hội để người nghèo tiếp cận các dịch vụ
xã hội: Chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo; chính sách hỗ trợ về giáo dục
cho người nghèo; chính sách hỗ trợ về nhà ở, đất ở; chính sách an sinh xã hội.
Thứ ba, các đề án, hoạt động nhằm nâng cao năng lực cán bộ làm
công tác XĐ, GN và nhận thức của cộng đồng về XĐ, GN: Đề án Bố trí và
đào tạo nâng cao năng lực cán bộ làm công tác XĐ, GN. Bố trí và phụ cấp
cho cán bộ phụ trách công tác XĐ, GN ở cả 3 cấp tỉnh, huyện và xã. Tập huấn

15


nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác XĐ, GN cấp xã, trưởng thôn,
khóm, các ngành, các tổ chức đoàn thể có liên quan. Hoạt động xây dựng hệ
thống thông tin theo dõi, giám sát và đánh giá. Hoạt động truyền thông nâng

cao nhận thức về XĐ, GN.
Như vậy, chủ trương XĐ, GN của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa chính là sự
cụ thể hóa quan điểm của Đảng và Chính phủ về vấn đề XĐ, GN thể hiện sự
vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng vào điều kiện thực tiễn ở địa phương.
Chủ trương trên không chỉ có ý nghĩa định hướng, là cơ sở cho việc chỉ đạo tổ
chức thực hiện mà còn là nền tảng tạo nên sự thống nhất về ý chí và hành
động của toàn Đảng, toàn dân trên địa bàn Tỉnh nhằm thực hiện thắng lợi
những mục tiêu, nhiệm vụ XĐ, GN mà Đảng bộ Tỉnh đã đề ra.
1.2. Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa chỉ đạo thực hiện xóa
đói, giảm nghèo
1.2.1. Chỉ đạo thực hiện các chính sách hỗ trợ cho người nghèo
Khi đánh giá nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, các cơ quan chuyên trách
đã khẳng định ngoài những nguyên nhân cơ bản như điều kiện tự nhiên, thiếu
vốn làm ăn, thiếu kinh nghiệm sản xuất, còn những nguyên nhân bất thường
như gặp thiên tai, rủi ro, tai nạn… nên những hộ gia đình này thường gặp
những khó khăn chồng chất trong việc khám, chữa bệnh, cho con đến trường
hay những nhu cầu cần thiết như: nhà ở, nước sạch sinh hoạt… họ bị đẩy vào
cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Việc thực hiện các chính sách hỗ trợ
người nghèo những vấn đề trên, không chỉ thể hiện tấm lòng nhân ái, truyền
thống “lá lành đùm lá rách” mà còn là một trong những việc làm giúp người
nghèo có được những nền tảng thuận lợi để vươn lên thoát nghèo. Do vậy,
Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, HĐND, UBND và các cơ quan hữu quan đã rất chú
trọng tập trung thực hiện những chính sách hỗ trợ người nghèo và đạt những
kết quả đáng kể, tập trung trên các nội dung:

16


Về thực hiện chính sách hỗ trợ y tế: Chủ trương hỗ trợ về y tế đã được
xác định trong Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XV

(2005) với mục tiêu: “Trợ giúp người nghèo trong việc chăm sóc sức khỏe
ban đầu, đa dạng hóa các hình thức khám chữa bệnh cho người nghèo” [4,
tr.51]. Đảng bộ Tỉnh đã đề ra các giải pháp như: cấp thẻ BHYT, tăng cường
mạng lưới y tế cơ sở, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên y
tế thôn bản, xây dựng cơ sở vật chất và đưa bác sĩ về các trạm y tế cơ sở để
nâng cao chất lượng dịch vụ y tế tại tuyến xã, phường, nhất là ở các xã
nghèo. Tiếp tục cụ thể hóa nội dung đó, Nghị quyết số 26/2009/ NQHĐND tỉnh, Về hỗ trợ mức đóng thẻ BHYT đối với người thuộc hộ gia
đình nghèo, cận nghèo theo chuẩn của Tỉnh xác định: “Tạo điều kiện thuận
lợi để mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, dịch vụ y
tế; Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe đối với người
thuộc hộ gia đình nghèo, cận nghèo” [36, tr.1].
Thực hiện chỉ đạo của Đảng bộ Tỉnh, với vai trò nòng cốt, ngành Y tế
của Tỉnh đã hướng dẫn tổ chức triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ người
nghèo về y tế, phối hợp với Bảo hiểm xã hội tổ chức mua và cấp thẻ BHYT.
Trong 05 năm đã cấp thẻ BHYT miễn phí cho 856.571 người nghèo, hỗ trợ
33.059 người cận nghèo mua thẻ BHYT. Tổng kinh phí hỗ trợ thẻ BHYT cho
người nghèo, cận nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số miền núi trong 5 năm là
156,4 tỷ đồng. Sức khỏe của đồng bào, nhất là bà mẹ, trẻ em được chăm sóc
ngày càng tốt hơn [52, tr.7].
Về chính sách hỗ trợ trong giáo dục, đào tạo đối với các con em hộ
nghèo. Song song với chính sách hỗ trợ về y tế, quan điểm về giáo dục, đào
tạo cho con em hộ nghèo được Tỉnh xác định: “Bảo đảm con em các hộ nghèo
có các điều kiện cần thiết trong học tập, miễn giảm các khoản đóng góp xây
dựng trường lớp, hỗ trợ vở viết, sách giáo khoa cho học sinh thuộc diện nghèo,
khuyến khích học sinh nghèo học khá, giỏi bằng các giải thưởng học bổng và
các chế độ ưu đãi khác” [62, tr.5]. Để thực hiện được mục tiêu đó, Nghị quyết

17



số 11/2007/NQ-HĐND ngày 02/02/2007 của HĐND tỉnh thông qua chế độ học
bổng cho học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số tại huyện Khánh Sơn,
Khánh Vĩnh, các xã miền núi, các thôn miền núi và con em đồng bào dân tộc
thiểu số thuộc diện hộ nghèo theo chuẩn nghèo của Tỉnh sống rải rác ở địa bàn
các xã, phường, thị trấn không thuộc các xã miền núi trên địa bàn tỉnh Khánh
Hoà; Quyết định số 20/2007/QĐ-UBND ngày 03/6/2007 của UBND tỉnh về
việc bổ sung, sửa đổi Quyết định số 83/2005/QĐ-UBND ngày 29/9/2005 của
UBND tỉnh, Quy định chế độ học bổng và khen thưởng học sinh. Trong quá
trình chỉ đạo thực hiện, Tỉnh đã thực hiện miễn giảm học phí; hỗ trợ vở, viết,
sách giáo khoa, trợ cấp xã hội và học bổng. Thực hiện hỗ trợ học bổng cho
3.352 lượt học sinh đồng bào dân tộc thiểu số nghèo theo chính sách của Tỉnh.
Về chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở
Thực hiện Quyết định 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
20/7/2004 về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt
cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (nhà 134); Chỉ thị số
29-CT/TU ngày 5 tháng 4 năm 2005, Về việc tập trung chỉ đạo xóa nhà tranh tre,
nhà dột nát cho người nghèo trong tỉnh, HĐND đã thông qua Nghị quyết số
12/2007/NQ-HĐND ngày 02/02/2007 chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, đời
sống khó khăn cư trú lâu năm trên địa bàn miền núi giai đoạn 2007 - 2010;
Quyết định số 15/2007/QĐ-UBND về chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo,
đời sống khó khăn cư trú lâu năm trên địa bàn miền núi giai đoạn 2007 - 2010.
Quan đó, tỉnh Khánh Hòa đã hỗ trợ nhà ở với tổng kinh phí là 66.765,4 triệu
đồng (2005 - 2010).
Như vậy, trên cơ sở nắm bắt rõ nhu cầu, nguyện vọng của người nghèo,
Đảng bộ Tỉnh đã triển khai chỉ đạo thực hiện các chính sách hỗ trợ trên nhiều
phương diện, thông qua đó, giải quyết được những vấn đề thiết yếu, cấp bách
để người nghèo ổn định cuộc sống, có điều kiện nhất định vươn lên thoát
nghèo. Đồng thời, với việc thực hiện những chính sách trên, Tỉnh ủy đã làm

18



cho phong trào XĐ, GN thực sự mang tính xã hội hóa, làm chuyển biến sâu sắc
nhận thức của cán bộ, nhân dân về công tác XĐ, GN.
1.2.2. Chỉ đạo đào tạo cán bộ làm công tác XĐ, GN, dạy nghề cho
người lao động, giải quyết công ăn việc làm
Về giải quyết việc làm: Từ thực tiễn của công tác XĐ, GN, Tỉnh ủy,
HĐND, UBND tỉnh đã nhận rõ để công tác XĐ, GN được triển khai toàn diện
và đạt hiệu quả cao nhất, một trong những nhiệm vụ quan trọng là cần tạo ra
được công ăn việc làm cho người lao động, đặc biệt là đối với người nghèo.
Tăng việc làm có ý nghĩa nhằm phát huy nhân tố con người, ổn định và phát
triển kinh tế, lành mạnh xã hội, đáp ứng yêu cầu bức xúc về tăng thu nhập,
“cải thiện đời sống nhân dân nhanh chóng đi tới mục tiêu xóa đói, giảm nghèo
thiết thực và hiệu quả” [62, tr.6]. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại Hội nghị toàn quốc về dạy nghề, việc làm và
xuất khẩu lao động năm 2007 và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa,
Tỉnh đã đặt ra mục tiêu, yêu cầu: Phấn đấu đến năm 2010 đạt tổng chỉ tiêu
tuyển mới đào tạo nghề là 97.730 người; trong đó chỉ tiêu đào tạo hệ dài hạn
(cao đẳng nghề, trung cấp nghề) là 25%; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt
35%. Mỗi huyện đồng bằng có 01 trường Trung cấp nghề và các Trung tâm
dạy nghề cụm xã; 30% học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở được phân luồng
học nghề; góp phần phổ cập bậc Trung học phổ thông [76; tr.10].
Để đạt mục tiêu trên, trong các chương trình về dạy nghề cũng đã chỉ ra
các nội dung cần thực hiện: thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước nhằm thúc đẩy phát triển KT - XH để tạo mở việc làm; tập trung
giải quyết việc làm và thu hút lao động tại chỗ; phát triển một nền sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện thực hiện đổi mới cơ cấu kinh tế nông
nghiệp nông thôn; cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi để phát triển ngành nghề
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển và thu hút lao động; củng cố
mạng lưới các cơ sở dạy nghề của Tỉnh. Trong 5 năm từ 2005 - 2010, đã dạy

nghề miễn phí cho 969 người nghèo với kinh phí 2.448,2 triệu đồng. Ngoài ra,

19


các trường nghề, trung tâm dạy nghề thực hiện miễn 100% các khoản đóng
góp và giảm 50% học phí cho học sinh nghèo. Công tác hỗ trợ dạy nghề cho
người nghèo đã trợ giúp cho người nghèo có tay nghề cần thiết để tự tạo việc
làm hoặc tìm việc làm tại các doanh nghiệp giúp giảm nghèo nhanh, hiệu quả.
Về công tác cán bộ: Bên cạnh việc nhận thức được tầm quan trọng của
vấn đề nâng cao chất lượng lao động, giải quyết việc làm. Tỉnh cũng đã rất chú
trọng công tác đào tạo cán bộ làm công tác XĐ, GN: “Đào tạo cán bộ làm công
tác XĐ, GN; Bổ sung và hoàn thiện hệ thống tài liệu đào tạo cán bộ XĐ, GN,
tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ… hoạt động ngày càng chất lượng và hiệu
quả hơn, tăng cường đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cơ sở xã,
phường” [72, tr.1]. Từ năm 2006 Sở Lao động - Thương binh và Xã hội của
Tỉnh đã tiến hành tổ chức các đợt tập huấn, phát hành tài liệu nhằm đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ làm công tác XĐ, GN ở tất cả các cấp tỉnh, huyện, xã với mục
đích là nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho đội ngũ này biết cách tổ
chức, quản lý triển khai thực hiện chương trình.
Nhận thức rõ yêu cầu tăng cường cán bộ cho các cơ sở, ngày
07/05/2007 Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa đã ra Quyết định số 1047/QĐ TC - UB giao nhiệm vụ cho các sở, ban, ngành, các công ty, xí nghiệp và lực
lượng vũ trang đóng trên địa bàn tỉnh có trách nhiệm huy động mọi nguồn lực
của các ngành, đơn vị và tăng cường cán bộ xuống cơ sở để giúp xã nghèo,
khó khăn thực hiện chương trình XĐ, GN. Trách nhiệm của ngành, đơn vị
được phân công giúp đỡ xã nào, phối hợp với việc cùng địa phương hoàn
thành mục tiêu XĐ, GN ở xã đó trong từng năm.
Để cụ thể hóa nhiệm vụ này, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số
2630/QĐ-TC-UB, Về việc giao nhiệm vụ cho các cơ quan, đơn vị tăng cường
cán bộ tham gia chương trình XĐ, GN và chương trình phát triển KT - XH

các xã đặc biệt khó khăn, đồng thời ban hành quy chế hoạt động cụ thể đối
với lực lượng cán bộ tăng cường về các cơ sở kèm theo quyết định này. Có

20


chính sách ưu tiên, khuyến khích những cán bộ hoàn thành trở về như: nâng
bậc lương trước thời hạn, tạo cơ sở vật chất khi đi cơ sở... Trong giai đoạn
2005 - 2010, Sở Nội vụ đã tham mưu cho UBND tỉnh luân chuyển, tăng cường
02 đợt cán bộ, công chức của các ngành, huyện, thị cho các xã đặc biệt khó
khăn của tỉnh, cụ thể: Từ năm 2005 đến năm 2007, tăng cường 198 cán bộ,
công chức; Từ năm 2008 đến năm 2010, tăng cường 180 cán bộ, công chức.
Nhìn chung, cán bộ, công chức được luân chuyển, tăng cường cho các xã đặc
biệt khó khăn đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện, tiếp cận nhanh với môi trường
mới, phát huy tốt khả năng và vai trò, trách nhiệm để hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Đội ngũ tăng cường đã biết tranh thủ và tổ chức và tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền cùng với ban chỉ đạo XĐ, GN xã điều tra, khảo sát nắm tình hình
thực tế về kinh tế - xã hội, phân loại hộ đói nghèo và nguyên nhân…từ đó xây
dựng đề án XĐ, GN một cách phù hợp với tình hình địa phương.
1.2.3. Chỉ đạo huy động mọi nguồn lực cho xóa đói giảm nghèo, tập
trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã khó khăn
Thực trạng hộ nghèo phân theo khu vực của Khánh Hòa có sự chênh
lệch giữa nông thôn và thành thị. Khu vực nông thôn, miền núi, số lượng hộ
nghèo chiếm tỉ lệ cao (11,59% - năm 2005) [Phụ lục 03] tập trung chủ yếu là
ở các xã thuộc huyện miền núi vùng cao, vùng sâu, vùng bãi ngang ven biển,
hải đảo. Nét đặc trưng của các khu vực này là điều kiện tự nhiên phức tạp, địa
bàn phân tán, xa các trung tâm kinh tế, đặc biệt huyện đảo Trường Sa và các
xã hải đảo, phương tiện giao thông đi lại rất khó khăn, một số xã chưa có
đường ô tô tới trung tâm xã, trình độ văn hóa của nhân dân còn thấp, điều
kiện sản xuất, canh tác còn nhiều khó khăn, thời tiết diễn biến bất thường,

trồng trọt và chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, còn phụ thuộc nhiều vào điều
kiện thiên nhiên, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và
còn mang nặng tính tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hóa và dịch vụ chưa
phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc còn nhiều

21


khó khăn, nhất là đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo,
vùng đồng bào dân tộc ít người. Ở những xã này cơ sở hạ tầng còn thiếu và
yếu cả về điện, đường, trường, trạm, nhiều hộ gia đình còn ở nhà tranh
vách đất, nhà dột nát, xiêu vẹo, không đảm bảo an toàn cũng như những
nhu cầu tối thiểu về nhà ở. Những xã khó khăn, chính quyền địa phương
không có đủ nguồn lực và điều kiện để xây dựng cơ sở hạ tầng cho địa
phương mình, sự tham gia đóng góp của người dân cũng rất hạn chế.
Nhận thức rõ vấn đề này, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa
lần thứ XV (2005) đã chỉ rõ: “Thu hút mọi nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
Chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa
- hiện đại hóa, nhất là giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt, bưu điện,
trường học” [4, tr.46]. Đặc biệt, đối với các địa phương khó khăn, Đảng bộ
Tỉnh đã có chỉ đạo cụ thể: Huy động, bố trí nguồn lực tập trung cho địa bàn
trọng điểm là các xã đặc biệt khó khăn khu vực, cần tập trung giải quyết các
công trình phù hợp với nhu cầu thiết yếu của nhân dân để đảm bảo điều kiện
thuận lợi phát triển kinh tế và ổn định đời sống.
Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Tỉnh đã huy động tập trung mọi
nguồn lực cho việc thực hiện chương trình XĐ, GN bao gồm từ ngân sách
nhà nước cấp, nguồn do nhân dân gây quỹ XĐ, GN, nguồn tài trợ của các
cơ quan, tổ chức đoàn thể trong và ngoài tỉnh, tài trợ quốc tế để thực hiện
chủ trương đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho vùng nghèo, xã nghèo, bảo
đảm sử dụng có hiệu quả. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đoàn Chủ tịch Ủy

ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về cuộc vận động “Ngày vì
người nghèo”, ngày 07/10/2009 UBND tỉnh ban hành Quyết định số
2555/QĐ-UBND, Về việc thành lập Ban Vận động ủng hộ Quỹ “Vì người
nghèo”, kêu gọi toàn dân ủng hộ quỹ vì người nghèo, mở ra một hướng đi,
một nguồn lực mới trong công tác XĐ, GN ở Khánh Hòa. Từ nguồn vốn
này, Ban vận động ủng hộ quỹ của Tỉnh đã trực tiếp hỗ trợ kịp thời cho các

22


hộ đói nghèo, các hộ gặp rủi ro vay để phát triển sản xuất, thực hiện XĐ,
GN. Đây là việc làm thiết thực giúp đỡ người nghèo có cơ hội vượt qua
khó khăn, vươn lên xây dựng cuộc sống ấm no.
Trong 5 năm (2005 - 2010), Tỉnh đã huy động được trên 1.543 tỷ đồng
để đầu tư hỗ trợ giúp đỡ các hộ nghèo, xã nghèo có vốn để phát triển sản xuất,
tạo việc làm, từng bước giải quyết khó khăn về đời sống vật chất, tinh thần
trên tất cả các lĩnh vực, góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu XĐ, GN
và giải quyết việc làm đã đề ra. Có 15 xã đặc biệt khó khăn được đầu tư
nguồn vốn từ chương trình 135, hỗ trợ đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng như
đường giao thông, trường học, nước sinh hoạt, điện thắp sáng, trạm xá, trung
tâm cụm xã, đặc biệt là các công trình thủy lợi phục vụ cho ổn định và phát
triển sản xuất. Ngoài ra, Tỉnh còn huy động ngân sách tại chỗ và vốn nhân
dân đóng góp để xây dựng các công trình giao thông, chợ, thủy lợi, nước sinh
hoạt, các công trình nước ăn theo vùng cao, công tác khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nuôi trồng thủy sản,
mua thẻ BHYT cho người nghèo, xây dựng trạm y tế, mua sắm trang thiết bị
y tế cho các xã nghèo, hỗ trợ học bổng, miễn giảm tiền học phí và tiền mua
sách giáo khoa cho học sinh nghèo. Bộ mặt các xã đặc biệt khó khăn, vùng
miền núi, hải đảo đã có nhiều thay đổi, đời sống của nhân dân được cải thiện
rõ rệt, góp phần thực hiện XĐ, GN và phát triển theo hướng bền vững.

1.2.4. Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới và phát huy vai trò của các tổ
chức xã hội cho công cuộc xóa đói, giảm nghèo
Xây dựng nông thôn mới: Nhận thức được tầm quan trọng của phong
trào xây dựng nông thôn mới với công cuộc XĐ, GN; trên cơ sở Tỉnh Ủy quán
triệt sâu sắc các Nghị quyết, chỉ thị của Trung ương; thực trạng công tác xây
dựng nông thôn trong những năm trước đó, Tỉnh ủy Khánh Hòa đã ban hành
Chương trình hành động số 26-Tr/TU ngày 31/10/2008 thực hiện Nghị quyết

23


Hội nghị Trung ương 7 (Khoá X), Về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn. Để thực hiện chỉ đạo của Tỉnh, ngày 17 tháng 11 năm 2008, UBND tỉnh
Khánh Hòa đã ra công văn số 6994/UBND, Về triển khai thực hiện Nghị quyết
số 24/2008/NQ-CP của Chính phủ về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong
đó giao cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu, tham mưu
văn bản chỉ đạo của UBND giao nhiệm vụ cho các ngành, đơn vị liên quan xây
dựng chương trình, đề án, dự án chuyên ngành cụ thể, hướng dẫn giúp đỡ nhân
dân phát triển sản xuất, tổ chức các loại hình sản xuất ở nông thôn có năng
suất và hiệu quả cao để tăng thu nhập - giảm nghèo, thông qua các hình thức
như: chuyển dịch cơ cấu ngành nghề ở nông thôn từ nông lâm ngư nghiệp
thủy sản sang công nghiệp xây dựng dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, đẩy mạnh công tác khuyến nông, thông tin khoa học kỹ thuật, đào
tạo nghề và tín chấp cho nông dân vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh,
đồng thời giúp đỡ các hộ nghèo.
Sau gần 2 năm (từ năm 2008) triển khai xây dựng nông thôn mới, bộ
mặt nông thôn của Tỉnh đã có sự thay đổi rõ rệt: cơ sở hạ tầng nông thôn ngày
càng khang trang, hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất
phát triển phù hợp; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng
được nâng cao; môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị được

tăng cường; an ninh trật tự được giữ vững; công tác XĐ, GN đạt nhiều kết
quả quan trọng. Xây dựng nông thôn mới ngày càng có vị trí quan trọng trong
phát triển KT - XH của Tỉnh, trực tiếp khắc phục tình trạng mất cân đối trong
phát triển KT - XH vùng, lãnh thổ trên địa bàn, rút ngắn khoảng cách chênh
lệch giàu nghèo giữa đô thị và nông thôn, tạo cơ sở vững chắc nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, góp phần quan trọng trong công tác
XĐ, GN của Tỉnh.
Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị xã hội và sự sỗ trợ của cộng
đồng để XĐ, GN. Bên cạnh những nội dung tập trung chỉ đạo trong công tác

24


XĐ, GN nêu trên, Tỉnh ủy và các cơ quan hữu quan tỉnh Khánh Hòa cũng chú
trọng việc phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể quần chúng nhân dân
trong công tác XĐ, GN. Quan điểm của Tỉnh về vai trò của các tổ chức chính
trị xã hội trong XĐ, GN khẳng định: “Chương trình mục tiêu giảm nghèo tỉnh
Khánh hòa giai đoạn 2005 - 2010 là một chương trình kinh tế - xã hội toàn
diện, được triển khai thực hiện thông qua hệ thống chính sách và các dự án cụ
thể. Vì thế không một cấp, một ngành nào có thể đảm đương được mà đòi hỏi
phải có sự phối kết hợp thực hiện chặt chẽ của các cấp, các ngành, các tổ chức
đoàn thể xã hội và sự tham gia của cộng đồng” [30; tr.1]. Vì vậy, trong
chương trình này, Tỉnh ủy Khánh Hòa phối hợp với UBND Tỉnh phân công
các sở, ban, ngành, đoàn thể, doanh nghiệp của Tỉnh trực tiếp tham gia. Căn
cứ vào chức năng nhiệm vụ của mình, các sở, ban, ngành, đoàn thể đã xây
dựng nhiệm vụ của mình để triển khai thực hiện chương trình XĐ, GN một
cách phù hợp và phát huy được kết quả lớn. Nhờ đó, các tổ chức quần chúng
đã chứng tỏ được vai trò to lớn của mình trong việc phát huy nguồn lực góp
phần thực hiện mục tiêu XĐ, GN bền vững.
Mặt trận Tổ quốc các cấp đã chủ trì và phối hợp với các đoàn thể thành

viên tổ chức, vận động nhân dân đẩy mạnh sản xuất, mạnh dạn ứng dụng các
thành tựu khoa học - kỹ thuật trong lao động sản xuất. Hội Nông dân triển
khai phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp
nhau XĐ, GN và làm giàu chính đáng”. Các cấp hội còn tập trung tuyên
truyền, vận động hội viên, phối hợp với trạm Khuyến nông - khuyến lâm khuyến ngư, trạm Bảo vệ thực vật, các ngân hàng hỗ trợ về giống, vốn, phân
bón, chuyển giao khoa học kỹ thuật về chăn nuôi, trồng trọt cho hội viên, tổ
chức các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật thu hút nhiều hội viên
tham gia. Hội Phụ nữ các cấp thực hiện tổ chức các lớp tập huấn khoa học
kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, hạch toán sử dụng
vốn vay, tư vấn sản xuất kinh doanh sản phẩm phù hợp, tham gia các lớp

25


×