Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG bộ TỈNH NGHỆ AN LÃNH đạo CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.62 KB, 107 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Ban Chấp hành Trung ương
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hoá
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cơ cấu kinh tế
Giá trị gia tăng
Giá trị sản xuất
Hiện đại hóa
Khoa học và công nghệ
Khoa học kỹ thuật
Kinh tế tri thức
Kinh tế - xã hội
Tiểu thủ công nghiệp
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
BCHTƯ
CNXH
CNH
CNH, HĐH
CCKT
GTGT
GTSX
HĐH
KH&CN
KHKT
KTTT
KT-XH


TTCN
XHCN


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH NGHỆ AN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI
HOÁ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN TỪ NĂM 2001

10

ĐẾN NĂM 2005

1.1.

Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh
Nghệ An lãnh đạo về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

1.2.

nghiệp nông thôn (2001 - 2005)
10
Đảng bộ tỉnh Nghệ An chỉ đạo về công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn (2001 - 2005)


27

Chương 2 ĐẢNG BỘ TỈNH NGHỆ AN LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010

2.1.

38

Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nghệ An
về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,

2.2.

nông thôn (2006 - 2010)
38
Đảng bộ tỉnh Nghệ An chỉ đạo đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nhiệp, nông thôn (2006 - 2010)

Chương 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
3.1.
Nhận xét quá trình Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo công
3.2.

47
62

nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn (2001- 2010)
62

Một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng bộ tỉnh
Nghệ An lãnh đạo công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn (2001- 2010)

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

74
86
88
97

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu để biến một nước có nền nông nghiệp lạc hậu
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với

2


trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần cao.

Đối với nước ta, CNH, HĐH là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước. Trong các văn kiện của Đảng và chính sách của Nhà nước đều khẳng định
CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong
những năm đổi mới, nước ta đã và đang đẩy mạnh CNH, HĐH, đặc biệt là đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Nghệ An là một trong 63 tỉnh thành của cả nước đang trong quá trình đẩy
mạnh CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Quá trình đó đã đạt được những kết quả khá quan trọng: tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) đạt 5,5 - 6 %, trong 5 năm (2006 - 2010) đạt
5 - 6 %; giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích tăng cao; cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động nông nghiệp nông thôn có bước chuyển dịch theo hướng tích cực; cơ giới
hóa nông nghiệp đang từng bước mang lại hiệu quả to lớn; máy móc hiện đại đang
từng bước thay thế lao động thủ công trong quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở Nghệ An
cũng còn bộc lộ nhiều yếu kém như: cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn
chuyển dịch chậm; sản xuất nông nghiệp ở nhiều nơi còn phân tán, manh
mún, mang nhiều yếu tố tự phát; ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào
sản xuất chậm; trình độ khoa học, công nghệ của sản xuất còn lạc hậu; lao
động thủ công còn phổ biến, lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp...
Tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển KT-XH của tỉnh Nghệ An theo hướng nhanh, bền vững, phát triển
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là một trong những vấn đề có tầm quan
trọng đối với Nghệ An. Vì vậy, việc nghiên cứu CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở tỉnh Nghệ An là vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận và thực
tiễn. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo công

3


nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn từ năm 2001 đến năm
2010” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và phát triển CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đã có một số
công trình nghiên cứu vấn đề này và được công bố dưới dạng sách, kỷ yếu, đề tài

nghiên cứu cấp nhà nước, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài viết đăng
trên các tạp chí. Có thể khái quát thành các nhóm công trình nghiên cứu như sau:
* Nhóm các công trình khoa học đã xuất bản thành sách:
Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997, của Đỗ Mười (Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp Hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam); Phát triển nông thôn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1997, của Phạm Xuân Nam; Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1998, của Hồng Vinh (chủ biên); Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998
(tập 1, 2), của Hội Khoa học kinh tế Việt Nam; Con đường công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông thôn Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, của
Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông
thôn; Chính sách nông nghiệp, nông thôn Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX và
một số định hướng đến năm 2010, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007 của
Lê Quang Phi. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn của Lê Mạnh Hùng và Nguyễn Sinh Cúc, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1998;
Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn của PGS.TS
Chu Hữu Quý, PGS.TS Nguyễn Kế Toàn (Đồng Chủ biên), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001; Công nghiệp hoá từ nông nghiệp - Lý luận, thực tiễn và triển
vọng áp dụng ở Việt Nam của Đặng Kim Sơn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2001;
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam lý luận và thực tiễn của Nguyễn

4


Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (Đồng chủ biên), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2002; Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn ở Bắc Trung Bộ - qua khảo sát thực tiễn các tỉnh Thanh - Nghệ Tĩnh
của PGS. TS Mai Thị Thanh Xuân, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

Các công trình khoa học trên đã đi sâu nghiên cứu làm rõ sự lãnh đạo
của Đảng trước yêu cầu khách quan của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp
nông thôn ở nước ta. Đồng thời khẳng định vai trò của nông nghiệp, nông
thôn trong phát triển đất nước; nêu lên một số xu hướng biến đổi, vận động
của kinh tế nông nghiệp, nông thôn của nước ta trong những năm đầu thế kỷ
XXI; làm rõ nội dung, chủ trương, giải pháp chủ yếu về CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn; nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn dưới khía cạnh lao
động và tạo việc làm ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, sử
dụng và quản lý tài nguyên đất và nước, sự phân tầng xã hội và việc xoá đói,
giảm nghèo trong điều kiện mới; tổng kết sự lãnh đạo của Đảng về đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn từ năm (2001- 2010);
rút ra những kinh nghiệm chủ yếu trong qua trình Đảng lãnh đạo sự công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; cung cấp một số tư liệu
tham khảo về lĩnh vực công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn
trong tình hình hiện nay.
* Nhóm các bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí:
“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn” của Hải
Đăng, Tạp chí Quốc phòng toàn dân (Số 03/1998); “Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn” của Lê Bá Thăng, Thông tin chuyên đề khoa
học Công nghệ & Môi trường - Tổng cục chính trị (số 59/1998); “Phát triển
công nghiệp nông thôn - mấu chốt trong chiến lược phát triển nhanh và bền
vững nông nghiệp, nông thôn” của Nguyễn Đình Bích, Tạp chí Cộng sản (số
17/ 2003); Ngô Văn Giang “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và
nông thôn theo yêu cầu rút ngắn ở nước ta”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (số

5


303/2003); Dương Tùng “Phương pháp tiếp cận vấn đề nông thôn nước ta”,
Tạp chí Cộng sản (số 02/2005); Ngô Đức Thịnh “tiếp cận nông thôn Việt

Nam từ mạng lưới xã hội và vốn xã hội cho phát triển”, Tạp chí Cộng sản (số
791/2008)...Các tác giả trên đã đưa ra các nhận định, đánh giá về công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta; nêu lên yêu cầu tất yếu
phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong
tình hình hiện nay để tạo ra nền tảng vật chất, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế; khái quát các vấn đề lý luận và
thực tiễn đặt ra, từ đó đưa ra các phương pháp tiếp cận công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện và xác định chủ trương,
giải pháp cơ bản đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn ở nước ta trong tình hình mới.
* Nhóm các đề tài, luận văn, luận án tiêu biểu là:
Các công trình: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn đồng bằng Bắc Bộ và tác động của nó đối với tăng cường sức mạnh
phòng thủ tỉnh, thành phố thuộc khu vực này”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học
viện chính trị quân sự, Hà Nội, 2002 của Nguyễn Văn Bảy; công trình khoa
học này đề cập về quan niệm, vai trò của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn ở Việt Nam; hệ thống hoá quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; những
vấn đề đặt ra, đề xuất phương hướng, giải pháp trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; mối quan hệ giữa công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở đồng bằng Bắc Bộ với củng cố, xây
dựng, tăng cường sức mạnh phòng thủ ở khu vực này, góp phần xây dựng nền
quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Nguyễn Đức Hưởng“Sự chuyển hướng của giai cấp nông dân trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ Triết học,
Hà Nội, 1991; Bùi Thị Thanh Hương “Đặc điểm và xu hướng biến đổi của
giai cấp nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sỹ Triết

6



học, Hà Nội, 2000; Nguyễn Thị Tuyết Nhung “Một vài suy nghĩ về vấn đề
nông dân trong xây dựng chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”, Luận văn thạc sỹ Triết học, Hà Nội,
1995. Trong luận văn, tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về vai trò nông nghiệp
nông thôn trong xây dựng nền kinh tế - xã hội hiện nay; bước đầu đi nghiên
cứu sự phân hoá giàu nghèo, đặc điểm của giai cấp nông dân Việt Nam trong
giai đoạn tiếp theo, trình bày một số phương hướng đưa giai cấp nông dân
Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các đề tài này tuy bàn
đến đối tượng là nông dân nhưng chưa đi sâu vào vai trò của nông dân cũng
như việc phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong nông nghiệp nông thôn.
Những công trình khoa học nêu trên đã đề cập cơ sở lý luận và thực tiễn
của quá trình đổi mới toàn diện đất nước về lý luận và thực tiễn trong tiến hành
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
Nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách đầy đủ, có hệ thống về
chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn ở tỉnh dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010; qua đó rút ra một số kinh
nghiệm có thể tham khảo, vận dụng vào thời kỳ mới.
Nhiệm vụ
Làm rõ yêu cầu khách quan về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở
Nghệ An trong những năm 2001 - 2010.
Phân tích, luận giải chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ
An về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010.
Đánh giá nhận xét và rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ tỉnh
Nghệ An lãnh đạo CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010.


7


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An về CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Làm rõ chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An
về phát triển CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.
Về thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2010; tuy nhiên, để thực hiện mục
đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài còn đề cập đến khoảng thời gian trước
năm 2001 và sau năm 2010.
Về không gian: CNH, HĐH nông nghiệp trên địa bàn nông thôn tỉnh Nghệ An.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; phương pháp luận sử học.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử; chủ
yếu kết hợp sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc. Ngoài ra, đề
tài còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh, chuyên gia...để làm rõ những vấn đề cụ thể.
6. Ý nghĩa của đề tài
Thành công của đề tài góp phần khẳng định vai trò quyết định của Đảng bộ
tỉnh Nghệ An trong việc phát triển CNH, HĐH nói chung CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn nói riêng ở tỉnh Nghệ An.
Đề tài góp phần hệ thống hóa chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh Nghệ An về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn từ năm 2001 đến năm

2010. Làm sáng tỏ sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An trong

8


lãnh đạo CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Những kinh nghiệm rút ra có ý
nghĩa tham khảo, vận dụng vào giai đoạn hiện nay.
Đề tài là nguồn tư liệu để các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tổ chức
chính trị - xã hội ở tỉnh Nghệ An tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong lãnh đạo
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ mới. Luận văn có thể làm
tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy và nghiên cứu bộ môn Lịch sử Đảng ở
các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm có 3 chương (6 tiết).

9


Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH NGHỆ AN
VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP
NÔNG THÔN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005

1.1. Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh
đạo công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn (2001 - 2005)
1.1.1. Yêu cầu khách quan về lãnh đạo phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Nghệ An
* Vị trí, vai trò công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
Kinh tế nông nghiệp nông thôn có vị trí vai trò quan trọng đối với sự

phát triển của mỗi quốc gia. Những sản phẩm của kinh tế nông nghiệp nông
thôn không những đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của đời sống xã hội, mà còn cung
cấp nguyên liệu cho công nghiệp, tạo cơ sở cho công nghiệp và các ngành kinh
tế quốc dân khác phát triển, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển đất nước. Do đó, đối với mỗi quốc gia,
trong bất cứ thời kỳ nào, tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là một
trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là đối với các quốc gia đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu.
Theo đó, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình xây dựng
cơ sở vật chất, kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông
thôn theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, hiện đại, gắn nông nghiệp với công
nghiệp và dịch vụ, cho phép phát huy có hiệu quả cao mọi nguồn lực và lợi
thế của nền nông nghiệp nhiệt đới, mở rộng giao lưu trong nước và quốc tế
nhằm nâng cao năng suất lao động xã hội trong nông nghiệp và nông thôn,
xây dựng nông thôn mới giàu có, dân chủ, công bằng, văn minh và XHCN.
Thực chất CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình phát triển nông
thôn theo hướng tiến bộ KT-XH của một nước công nghiệp. Điều đó có
nghĩa là không chỉ phát triển công nghiệp nông thôn mà bao gồm cả việc
phát triển toàn bộ các hoạt động, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, và đời

10


sống văn hóa, tinh thần ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghiệp
ở nông thôn và cả nước nói chung.
C.Mác và Ph.Ăng ghen chỉ rõ: “Trước hết con người phải có ăn, uống,
ở và mặc nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền
thống trị..” [39, tr. 166 ]. Xã hội càng phát triển, đời sống càng được cải thiện
thì nhu cầu của con người về các sản phẩm nông nghiệp nông thôn ngày càng
tăng về số lượng. Để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội cần phải tiến

hành hoạt động sản xuất nông nghiệp. Phát triển kinh tế nông nghiệp còn
đóng vai trò quan trọng trong tích lũy vốn ban đầu cho CNH, HĐH cung cấp
nguyên liệu cho công nghiệp.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng ghen,
V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của nước Nga
sau khi cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, đất nước bước vào thời kỳ
quá độ đi lên CNXH. V.I.Lênin luôn đánh giá cao vai trò của nông nghiệp
nông dân và nông thôn trong sự nghiệp xây dựng CNXH. V.I.Lênin khẳng
định: “cần phải lấy lương thực làm khởi điểm, vì gốc rễ của tất cả những
khó khăn chính là ở chỗ đó” [38, tr. 231]. Đây là điều kiện quan trọng để
tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, điều đó không chỉ đúng với
điều kiện nước Nga mà còn đúng với các nước khác trong đó Việt Nam
cũng nằm trong điều kiện đó.
Nước ta là một nước nông nghiệp, phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn có vị trí vai trò hết sức quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, đứng
trước muôn vàn khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời phát động
tăng gia sản xuất, ổn định đời sống. Khẩu hiệu được đưa ra lúc này là
“tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa” [40, tr.
215]. Vì thế, Hồ Chí Minh rất quan tâm và đánh giá cao vai trò của phát
triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, đây là công việc cực kỳ quan trọng
của quốc kế dân sinh.

11


Nhận thức đúng đắn vai trò, tầm quan trọng về phát triển CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn và những thành tựu công cuộc đổi mới của Đảng đã
đạt được là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu có ý
nghĩa quyết định đến thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

Trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng hiện nay, nước ta đang đứng trước
nhiều cơ hội mới. Đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách
thức, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta cần đẩy mạnh hơn nữa những chủ trương,
chính sách để thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ, bảo đảm cho
đất nước đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Thực tiễn đó
cho thấy tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là một nội dung quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đang được Đảng, Nhà nước
triển khai sâu rộng trên phạm vi cả nước.
* Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An về
phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
Đặc điểm về điều kiện tự nhiên
Là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ, Nghệ An nằm ở phía Đông Bắc của
dãy Trường Sơn, có độ dốc thoải dần từ Tây Bắc đến Đông Nam. Diện tích tự
nhiên của tỉnh là 16.490,9 km2. Trong đó miền núi chiếm 3/4 diện tích, phần
lớn đồi núi tập trung ở phía Tây của tỉnh. Dải đồng bằng nhỏ hẹp chỉ có 17%
chạy từ Nam đến Bắc giáp biển Đông và các dãy núi bao bọc. Nghệ An còn là
một đầu mối giao thông quan trọng của cả nước, có đường bộ, đường sắt,
đường sông, sân bay và cảng biển, được hình thành và phân bố khá hợp lý
theo các vùng dân cư và các trung tâm hành chính, kinh tế.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa mang tính chuyển tiếp của
khí hậu miền Bắc và miền Nam, hàng năm Nghệ An có số giờ nắng trong
năm từ 1.500 - 1.700 giờ, bức xạ mặt trời 74,6 Kalo/cm 2, nhiệt độ trung bình
hàng năm khoảng 230C, cao nhất là 430C và thấp nhất là 20C, lượng mưa
trung bình năm là 1.800 - 2.000mm. Mặt khác, hàng năm Nghệ An còn phải

12


chịu ảnh hưởng của những đợt gió Tây Nam khô nóng và bão lụt lớn. Vì thế,
mùa mưa thường gây ngập úng và mùa khô hanh thường hay hạn hán làm cho

đời sống người nông dân và sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Theo số liệu Niên giám thông kê tỉnh Nghệ An: “Trong số 1.649.085,1 ha
đất tự nhiên của Nghệ An thì đất sản xuất nông nghiệp khoảng 26.935,2 ha,
chiếm gần 16,13% diện tích; đất lâm nghiệp có trên 970.570,4 ha (58,86%); đất
chuyên dùng 68.169,9 ha (4,13%); đất ở 20.440,9 ha (1,24%)”. Hiện nay, “diện
tích rừng của tỉnh là trên 685.000 ha, trong đó rừng phòng hộ là 320.000 ha,
rừng đặc dụng chiếm gần 188.000 ha, rừng kinh tế trên 176.000 ha”. Nhìn chung
rừng ở đây rất đa dạng, có tiềm năng khai thác và giá trị kinh tế cao.
Nghệ An có bờ biển dài 82 km, 6 cửa lạch, trong đó Cửa Lò và Cửa
Hội có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho xây dựng cảng biển. Đặc biệt, biển
Cửa Lò được xác định là cảng biển quốc tế quan trọng của vùng Bắc Trung
Bộ, đồng thời cũng là cửa ngõ giao thông vận tải biển giữa Việt Nam, Lào và
vùng Đông Bắc Thái Lan. Hải phận Nghệ An có 4.230 hải lý vuông, tổng trữ
lượng cá biển trên 80.000 tấn, khả năng khai thác trên 35 - 37 nghìn tấn/năm.
Tỉnh có nguồn tài nguyên khoáng sản quý hiếm như vàng, đá quý, ru
bi, thiếc, đá trắng, đá granít, đá bazan... Đặc biệt là đá vôi (nguyên liệu sản xuất
xi măng) có trữ lượng trên 1 tỷ m3, trong đó vùng Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu
có trên 340 triệu m3; vùng Tràng Sơn, Giang Sơn, Bài Sơn thuộc huyện Đô
Lương có trữ lượng trên 400 triệu m3 vẫn chưa được khai thác; vùng Lèn Kim
Nhan xã Long Sơn, Phúc Sơn, Hồi Sơn (Anh Sơn) qua khảo sát có trên 250 triệu
m3; vùng Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp ước tính 1 tỷ m 3. Đá trắng ở Quỳ Hợp
có trên 100 triệu m3; tổng trữ lượng đá xây dựng toàn tỉnh ước tính trên 1 tỷ m3.
Đá bazan trữ lượng 360 triệu m3; thiếc Quỳ Hợp trữ lượng trên 70.000 tấn, nước
khoáng Bản Khạng có trữ lượng và chất lượng khá cao. Ngoài ra tỉnh còn có một
số loại khoáng sản khác như than bùn, sản xuất phân vi sinh, quặng mănggan,
muối sản xuất sôđa... là nguồn nguyên liệu để phát triển các ngành công nghiệp,
vật liệu xây dựng, hoá chất, công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu.

13



Tuy nhiên, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nông thôn
ở Nghệ An hiện nay nổi lên đặc điểm mang tính đặc thù đó là: tỷ trọng các ngành
trồng trọt, chăn nuôi truyền thống ngày càng giảm, trong khi tỷ trọng các ngành
chăn nuôi quy mô lớn, nuôi trồng thủy hải sản ngày càng tăng; cùng với đó là sự
xuất hiện nhiều ngành phụ trợ cho nông nghiệp như công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ nông nghiệp; các khu công nghiệp ở nông thôn xuất hiện ngày càng
nhiều... Chính đặc điểm mang tính đặc thù này có ảnh hưởng rất lớn đến phát
triển nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Nghệ An trong những năm tiếp theo của quá
trình đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn của tỉnh.
Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Nghệ An là tỉnh có 19 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Vinh, thị xã
Cửa Lò, thị xã Thái Hòa, 10 huyện miền núi: Thanh Chương, Tân kỳ, Anh
Sơn, Tương Dương, Con Cuông, Kỳ Sơn, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu, Quế Phong
và 7 huyện đồng bằng: Đô Lương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Yên
Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu với tổng số 473 xã, phường và thị trấn.
Nghệ An hội đủ các tuyến giao thông quốc gia đi qua địa bàn như: Đường
bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không. Về đường bộ có 12.971 km,
trong đó có 2.828 km đường nhựa, 3.790 km đường bê tông, 976 km đường đá
dăm và 5.377 km đường cấp phối, đường đất. Quốc lộ số 1 dài 91 km, đường Hồ
Chí Minh chạy song song với quốc lộ dài 132 km, quốc lộ 15 ở phía Tây dài 149
km chạy xuyên suốt tỉnh. Từ đông sang Tây có quốc lộ 7 dài 225 km, quốc lộ 46
dài 90km, quốc lộ 48 dài 122 km, là những tuyến đường nối liền phía Đông và
phía Tây của tỉnh, với các cửa khẩu của nước bạn Lào. Bên cạnh đó, tỉnh có 421
km đường cấp tỉnh và 3.670 km đường cấp huyện đã tạo nên mạng lưới giao
thông đường bộ thuận tiện, đóng vai trò quan trọng trong giao lưu hàng hóa Bắc
- Nam, vận tải quá cảnh và luân chuyển hàng hóa nội tỉnh.
Về đường sắt, tuyến đường sắt Bắc - Nam qua Nghệ An dài 94 km, với 8
ga, trong đó ga Vinh là ga chính có khối lượng hành khách và hàng hóa thông qua


14


lớn. Ngoài ra, còn có tuyến đường sắt Cầu Giát - Nghĩa Đàn, Quán Hành - Cửa Lò
phục vụ cho việc vận chuyển hành khách, hàng hóa phát triển kinh tế nội tỉnh.
Nghệ An có hệ thống đường sông phong phú, với chiều dài gần 1.200 km,
có đường biển nội tỉnh dài 107 km. Tỉnh có 3 bến cảng quan trọng: Cảng hàng
không với sân bay Vinh đang được nâng cấp để trở thành cảng hàng không quốc
tế hiện đại; Cảng biển Cửa Lò với quy mô hiện tại 1,3 triệu tấn, tàu ra vào 1 vạn
tấn và đạt công suất 3,5 triệu tấn vào 2010, 6 - 7 triệu tấn vào năm 2020, tàu ra
vào 3 - 4 vạn tấn, là tiềm năng lớn cho vận tải biển và xuất nhập khẩu hàng hóa
của Nghệ An, khu vực Bắc Trung Bộ. Đồng thời là cửa ngõ của nước bạn Lào,
đông Bắc Thái Lan và cảng Bến Thủy là bến cảng lớn nhất trên Sông Lam.
Dân số của Nghệ An năm 2010 là 2.952.000 người. Trong đó khu vực
nông thôn có hơn 2.551.500 người, 1,06 triệu lao động trong lĩnh vực nônglâm-ngư nghiệp, chiếm 87,37% dân số và 66,16% lao động cả tỉnh. Cơ cấu
dân số Nghệ An cũng rất trẻ, độ tuổi dưới 14 chiếm hơn 40%. Điều này nói
lên tiềm năng lao động của Nghệ An đang và sẽ rất lớn.
Tuy nhiên, với hơn 89% dân số sống trên địa bàn nông thôn thì quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn đối với Nghệ An là công
việc trước hết mà Đảng bộ và nhân dân Nghệ An hết sức quan tâm, chú trọng
trong công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Nông thôn Nghệ An tập
trung phần lớn dân cư sống tập trung, trong khi đó cơ cấu hạ tầng, điều kiện
kinh tế - xã hội, văn hóa còn nhiều khó khăn. Sản xuất nông nghiệp là hoạt
động kinh tế chính trên địa bàn chính nông thôn, đóng vai trò lớn trong cơ cấu
kinh tế của tỉnh, đảm bảo an ninh lương thực đồng thời góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế - xã hội của tỉnh. Chính vì vậy, cần sự quan tâm hơn nữa
của chính quyền địa phương.
Ngoài ra Nghệ An còn có điều kiện thuận lợi trong công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội, đặc biệt là có điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh công cuộc CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn phát triển một nền kinh tế toàn diện, đa dạng. Tuy


15


nhiên, để Nghệ An có thể phát triển nhanh, mạnh theo hướng CNH, HĐH thì
Đảng bộ và nhân dân cần phải hết sức nổ lực và đoàn kết, tận dụng tối đa những
tiềm năng thế mạnh hiện có, khắc phục những hạn chế, khó khăn để đưa sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn sớm đạt kết quả đề ra.
* Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
của tỉnh Nghệ An trước năm 2000
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An, tiến
hành CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn của tỉnh trước năm 2000 đã đạt
được nhiều thành tựu quan trong trên tất cả các lĩnh vực. Vì vậy tiến hành
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn đã đạt được chỉ tiêu mà nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh khóa XIII, XIV đề ra.
Sản xuất nông nghiệp có bước phát triển nhanh và khá ổn định:
Về trồng trọt, sản xuất nông nghiệp liên tục phát triển với tốc độ từ 5
- 5,5% năm trong 10 năm qua, bước đầu đã hình thành một số sản phẩm
hàng hóa tập trung, gắn với công nghiệp chế biến tạo nên một khối lượng
nông sản hàng hóa tương đối khá, đáp ứng nhu cầu trong tỉnh và xuất khẩu.
Sản xuất lương thực đạt kết quả khá, sản lượng lương thực liên tục tăng
nhanh qua các năm. Năm 1991, toàn tỉnh mới đạt 45,3 vạn tấn, năm 2000
đã đạt trên 83 vạn tấn. Đảm bảo cơ bản lương thực cho nhân dân trong tỉnh,
có dự trữ, bắt đầu có lương thực hàng hóa. Đã hình thành một số vùng sản
xuất cây công nghiệp tập trung với công nghiệp chế biến, tạo khối lượng
hàng hóa xuất khẩu khá như: Vùng chè trên 5.000 ha ở Thanh Chương,
Anh Sơn. Vùng cà phê trên 3.000 ở Phủ Quỳ. Gần 2.000 ha cam Nghĩa
Đàn, Tân kỳ, Quỳ Hợp. Gần 30 ngàn ha lạc ở Diễn Châu, Nghi Lộc, Nam
Đàn, Thanh Chương...Trên 20 ngàn ha mía ở Phủ Quỳ, Tân Kỳ, Anh Sơn.
10 ngàn ha vừng ở Diễn Châu, Nghi Lộc...Đã góp phần không nhỏ làm

tăng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh nhà. Năm 1991 kim ngạch xuất khẩu từ
nông lâm thủy sản đạt 4 triệu USD, đến năm 2000 đạt trên 10 triệu USD.

16


Về chăn nuôi, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp đạt 27%. Năm
2000 tổng đàn trâu đạt 26,5 vạn con, tăng 57 ngàn con, đàn bò hơn 26,8 vạn
con, tăng 69 ngàn con, đàn lợn trên 83 vạn con, tăng 320 ngàn con so với năm
1991. Thực hiện chương trình cải tạo đàn bò đạt kết quả khá, đến nay tỷ lệ bò lai
sind đạt 33% tổng đàn, lợn giống mới đạt tỷ lệ 40% tổng đàn. Bắt đầu hình thành
nghề nuôi lợn sữa, lợn nạc, bò sữa...Góp phần đưa ngành chăn nuôi của tỉnh có
bước tăng trưởng nhanh, trở thành một ngành sản xuất chính trong nông nghiệp.
Về lâm nghiệp, công tác lâm nghiệp được chú ý phát triển toàn diện,
chuyển từ nền lâm nghiệp truyền thống lấy khai thác làm chính sang nền lâm
nghiệp xã hội, lấy bảo vệ, khoang nuôi làm giàu vốn rừng, trồng rừng mới
làm chính. Hàng năm trồng mới 10-15 ngàn ha. Khoanh nuôi bảo vệ 563 ngàn
ha, từ những năm 1990 về trước mỗi năm khai thác 30-40 ngàn m 3 gỗ rừng tự
nhiên. Nay chỉ khai thác mỗi năm 13-15 ngàn m 3(kể cả rừng trồng). Do vậy
thảm thực vật được phát triển tốt, tăng tỷ lệ che phủ từ 36% năm 1991 - 1995
lên 42% năm 2000, môi trường sinh thái được phục hồi.
Về thủy sản, đã có sự chuyển đổi nhanh về cơ cấu tàu theo hướng giảm
thuyền nhỏ, tăng thuyền lớn có công suất cao. So với năm 1995, tổng số tàu
thuyền giảm từ 3.114 CV chiếc xuống còn 277 chiếc, nhưng tổng công suất
tăng từ 46.571 CV lên 98.000 CV. Thuyền thủ công giảm từ 499 chiếc xuống
còn 80 chiếc. Loại 33 - 90 CV tăng từ 62 chiếc lên 833 chiếc, loại trên 90 CV
đến nay toàn tỉnh đã có 103 chiếc với công suất 17.600 CV. Bên cạnh đó, sản
lượng đánh bắt năm 2000 đạt 29.000 tấn tăng 14.000 tấn so với năm 1991.
Diện tích nuôi trồng tăng từ 9.000 ha năm 1995 lên 13.000 ha năm 2000,
trong đó có 40 ha diện tích nuôi tôm công nghiệp. Sản lượng tăng từ 5.700 tấn

lên 8.000 tấn năm 2000. Phong trào nuôi trồng thủy sản không chỉ phát triển
mạnh ở vùng đồng bằng ven biển mà được nhân rộng hầu khắp ở các huyện
miền núi như Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Quế Phong, Kỳ Sơn...Góp phần tăng thu
nhập xóa đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa.

17


Đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế
biến: Công nghiệp chế biến nông, lâm thủy sản phát triển nhanh với nhịp độ
12 - 14% năm. Góp phần tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp và kim ngạch
xuất khẩu. Trong năm 2000 công nghiệp chế biến nông lâm sản, thực phẩm
chiếm tỷ trọng 36 - 40%, giá trị công nghiệp, tốc độ tăng trưởng bình quân
13,8%. Đây là ngành công nghiệp được chú trọng ưu tiên đầu tư, năng lực sản
xuất tăng nhanh và hình thành một số cơ sở có quy mô lớn như: Chế biến chè,
với diện tích chè hiện có 5.000 ha. Trong đó diện tích kinh doanh trên 3.500
ha, sản lượng 15.000 tấn búp tươi, có 3 dây chuyền chế biến lớn 12 tấn búp
tươi/ngày và 1 số dây chuyền chế biến khác, đưa tổng công suất lên gần 60
tấn búp tươi ngày, tiêu thụ cơ bản hết nguyên liệu của nông dân. Năm 2000
chế biến được 3.000 tấn chè búp khô. Xuất khẩu 2.800 tấn, nội tiêu 200 tấn.
Chế biến mía đường với diện tích 22.000 ha, sản lượng gần 1 triệu tấn mía
cây, với 3 nhà máy có công suất gần 8.000 tấn mía cây/ngày. Đảm bảo tiêu
thụ hết nguyên liệu của các vùng. Chế biến dầu thực vật 10.000 tấn/năm, sản
xuất bia 13 triệu lít/năm, lạc bọc đường, sơ chế cà phê, cao su...Chế biến xuất
khẩu súc sản với nhà máy có công suất 2,5 ngàn tấn/năm. Hàng năm chế biến
và xuất khẩu 1.500 - 1.600 tấn thịt mảnh, 45 - 50 ngàn con lợn sữa, 200 tấn
tôm cá...xuất khẩu. Năm 2000 chế biến được 10 triệu lít nước mắm, tăng 8,16
triệu lít so với năm 1991, tăng 3 triệu lít so với năm 1995. Nâng cấp các nhà
máy chế biến hải sản 38A và 38B đủ điều kiện xuất khẩu sang thị trường EU.
Đưa kim ngạch xuất khẩu từ 1,2 triệu USD năm 1991 lên 4,1 triệu USD năm

1995 và 10 triệu USD năm 2000. Bên cạnh các nhà máy hiện có, tiếp tục xây
dựng các nhà máy mới để tổ chức sản xuất nguyên liệu để chế biến bột giấy,
bột sắn, bột chuối, nước dứa cô đặc, chế biến sữa...
Bên cạnh những kết quả đạt được còn có những tồn tại chủ yếu.
Một là, cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, đặc biệt trong nội ngành
nông nghiệp chuyển dịch chậm, kinh tế lâm nghiệp chưa phát triển, chủ yếu là

18


sản xuất trồng trọt, chăn nuôi chưa phát triển so với tiềm năng. Nuôi trồng
thủy sản còn kém, đánh bắt xa bờ hiệu quả thấp. Sản lượng xuất khẩu nhỏ bé,
chưa tương xứng với tiềm năng và phương thức đầu tư. Cơ cấu kinh tế nông
thôn chủ yếu là nông nghiệp, dịch vụ và công nghiệp chế biến tỷ lệ còn thấp,
nhiều vùng trong tỉnh vẫn trong tình trạng sản xuất thuần nông, chưa tạo ra
tiền đề để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Hai là, nhiều tiềm năng to lớn chưa được khai thác đúng mức, trong
nhiều năm qua có nhiều tiềm năng để phát triển sản xuất và xây dựng nông
thôn to lớn chưa được khai thác đúng mức như: Lao động, vốn, vật tư, kinh
nghiệm...của nhân dân nông thôn, đặc biệt là việc sử dụng đất đai kém hiệu
quả, chỉ mới tập trung khai thác đất trồng lúa vùng đồng bằng, thế mạnh đất
đai vùng trung du, miền núi chưa được quan tâm đúng mức. Sản xuất còn manh
mún, quy mô sản xuất hộ gia đình nhỏ bé, còn mang nặng tính tự cung, tự cấp
thiếu bền vững. Khối lượng hàng hóa nông sản nhỏ bé phân tán, chưa ổn định.
Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng chủ yếu theo sản lượng, chưa coi trọng việc
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, chưa gắn với công nghiệp chế biến
và thị trường tiêu thụ. Sản phẩm nông nghiệp tiêu thụ khó khăn do chất lượng,
mẫu mã kém, giá thành lại cao. Bình quân diện tích canh tác thấp 0,3 - 0,4 ha/hộ,
lại phân chia manh mún 12 - 14 thửa/hộ, có thửa chỉ có 30 - 40 m 2. Nếu không
được xử lý thì không thể tiến hành CNH, HĐH nông thôn.

Ba là, cơ sở hạ tầng đã được tăng cường, nhưng vẫn còn yếu kém, chưa
đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hệ
thống thủy lợi mới chỉ đáp ứng được cho cây lúa, thủy lợi cho cây công
nghiệp, cây ăn quả, cây hoa màu gần như chưa có. Nhiều công trình được xây
dựng đã khá lâu, nay bị xuống cấp nghiêm trọng, chưa được nâng cấp và khôi
phục. Hệ thống giao thông nông thôn đã được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều
yếu kém, đặc biệt là chất lượng đường giao thông: 50% đường cấp xã, 30%
đường cấp huyện, ô tô không đi lại được vào mùa mưa. Hệ thống điện nông

19


thôn đang bị xuống cấp nghiêm trọng, tổn thất điện năng lớn, chất lượng điện
không ổn định, giá điện nông dân phải trả còn cao hơn 1,5 - 2,5 lần so với giá
quy định. Thông tin thị trường ở khu vực nông thôn hầu như chưa có.
Bốn là, chưa phát huy được vai trò lãnh đạo, sự chỉ đạo kịp thời của
các cấp, các thành phần kinh tế trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp, Trong lãnh đạo, chỉ đạo có lúc chưa kịp thời đội ngũ cán bộ các cấp
nhất là cán bộ cơ sở còn thiếu kinh nghiệm, có lúc không sâu sát, thiếu cương
quyết trong tổ chức chỉ đạo thực hiện. Bên cạnh đó, kinh tế tập thể, quốc
doanh còn lúng túng về nội dung và phương thức hoạt động, hiệu quả thấp.
Quan hệ sản xuất chậm đổi mới, nên chưa khai thác hết thế mạnh của các
thành phần kinh tế. Trong khi thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, ruộng đất được giao ổn định và lâu dài cho hộ nông dân, vai trò của
HTX kiểu cũ không còn phát huy tác dụng, việc thành lập và chuyển đổi theo luật
còn chậm và hiệu quả chưa rõ, nhiều địa phương đang để tự người nông dân lo
đối phó với tất cả những rủi ro của thời tiết, của cơ chế thị trường, tự lo cả đầu vào
và đầu ra của sản xuất, kìm hãm sản xuất nhất là sản xuất nông sản hàng hóa. Các
thành phần kinh tế quốc doanh chưa làm tròn chức năng trung tâm văn hóa, khoa
học kỹ thuật, giải quyết đầu vào, đầu ra cho kinh tế hộ. Kinh tế hộ nhất là kinh tế

trang trại, kinh tế tư nhân phát triển chậm, quy mô nhỏ, phân tán.
Năm là, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn
hạn chế. Trang thiết bị và công nghệ sản xuất còn yếu kém. Tỷ lệ cơ giới hóa
vào các khâu sản xuất nông nghiệp còn rất thấp, nhiều khâu trong sản xuất
chưa được cơ khí hóa như gieo cấy, thu hoạch, một số khâu nặng nhọc như
làm đất, vận chuyển, gặt đập tỷ lệ cơ giới vẫn còn quá thấp, lao động thủ công
là chính. Máy móc nhiều chủng loại gây khó khăn cho công tác sữa chữa,
cung ứng phụ tùng, chất lượng máy kém, giá còn quá cao so với sức mua của
nông dân, chưa có định hướng và chính sách đồng bộ để phát triển ngành cơ
điện phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn.

20


* Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp nông thôn (2001 - 2005)
Đảng ta xác định, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, vừa có tính cấp bách trước mắt và có tính
chiến lược lâu dài. Từ đòi hỏi khách quan của nền kinh tế - xã hội ở nông
thôn nước ta khi nền nông nghiệp còn lạc hậu, khoa học kỹ thuật kém phát
triển, năng suất lao động nông nghiệp thấp, trong khi nông nghiệp lại chiếm
tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Do đó, CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn là chủ trương đúng đắn của Đảng ta nhằm cơ khí hóa, điện khí hóa, áp
dụng KHCN tiên tiến vào sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập,
tạo mức sống ổn định và phát triển, nâng cao đời sống nhân dân và nông thôn.
Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta về CNH, HĐH nền kinh tế nước ta
nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn nói riêng. Là vấn đề có tính
chiến lược lâu dài để ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) tiếp tục phát triển và hoàn thiện quan
niệm và nội dung CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và khẳng định:

Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, đưa nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng cách đẩy nhanh thủy lợi
hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa đồng thời ứng dụng khoa học, công nghệ
nhất là công nghệ sinh học, theo hướng hình thành nền nông nghiệp
hàng hóa phù hợp với nhu cầu của thị trường và điều kiện sinh thái của
từng vùng. Chú trọng tạo và sử dụng giống cây, con giống có năng
suất, chất lượng cao, đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu
hoạch, bảo quản, chế biến nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của
nông sản [29, tr. 169].
Đảng xác định: CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là một bộ phận
quan trọng của công nghiệp hóa, một nội dung phát triển của nông thôn. Chủ
trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta khẳng định con đường tất yếu để

21


thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và đưa nông nghiệp nông thôn nước ta lên sản
xuất lớn. Đảng ta không những xác định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm
của thời kỳ quá độ lên CNXH, mà còn nhấn mạnh: “Đẩy nhanh CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn,
phù hợp với nhu cầu thị trường định hướng XHCN” [29, tr. 168].
Tại Hội nghị TW 5 khóa IX (2002) về “Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001 - 2010”, Đảng ta đã
tiếp tục làm rõ hơn về quan niệm, cũng như xác định nội dung tổng
quát, quan điểm và mục tiêu, những chủ trương và giải pháp lớn về
CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Trong đó mục tiêu chỉ rõ: “Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc
lực và phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp nông thôn. Xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa
lớn, hiệu quả bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao
trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng
nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày
giàu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày càng
hiện đại [30, tr. 91, 95].
Như vậy, thực chất của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là
tạo ra những tiền đề cần thiết về vật chất, kỹ thuật, đào tạo phát triển nguồn
lực con người, công nghệ, phương tiện, phương pháp, những yếu tố cơ bản
của LLSX CNXH. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn không chỉ
đơn giản là phát triển công nghiệp nông thôn và hiện đại hóa một số công
đoạn sản xuất nông nghiệp như: Cơ giới hóa, điện khí hóa, mà đó còn bao
gồm toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống vật chất và

22


văn hóa tinh thần nói chung ở nông thôn phù hợp với nền sản xuất công nghệ
hiện đại và phương thức tổ chức tiên tiến.
1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nghệ An về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn (2001 - 2005)
Đánh giá kết quả nền kinh tế nông nghiệp nông thôn của tỉnh giai đoạn
(1991- 2000), Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XV (2/2001),
Đại hội đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ lần
thứ XIV, đề ra phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn trong những năm (2001 - 2005).
Phương hướng:
Phát huy thế và lực hiện có, khai thác có hiệu quả các công trình kinh tế
- xã hội đã được xây dựng; tận dụng mọi nguồn lực cho đầu tư sản xuất, phát

triển kết cấu hạ tầng, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH, trọng tâm là CNH nông nghiệp và nông thôn, tạo ra
nhiều sản phẩm có giá trị, có chất luợng và sức cạnh tranh cao.
Phát triển mạnh nguồn nhân lực, mở rộng và nâng cao chất lượng giáo
dục và dạy nghề; chăm lo giải quyết tốt các vấn đề xã hội; nâng cao đời sống văn
hoá và tinh thần của nhân dân, đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội; giữ
vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng an ninh và tật tự an toàn xã hội.
Bảo vệ môi trường sinh thái; phấn đấu đến năm 2005 thu nhập nội tỉnh
(GDP) tăng 1,6 - 1,65 lần và thu nhập bình quân quân đầu người tăng ít nhất
1,5 lần so với năm 2000, tạo tiền đề vững chắc đưa Nghệ An ra khỏi tỉnh
nghèo vào thời kỳ 2006 - 2010 [25, tr. 34, 35].
Quan điểm chỉ đạo:
Thứ nhất, có chính sách khuyến khích và tạo thuận lợi cho các hộ nông
dân dồn đất, chuyển thửa, trên cơ sở chuyển lao động nông nghiệp sang các
ngành nghề khác, bảo đảm việc làm ổn định, thúc đẩy quá trình tích tụ ruộng
đất thông qua các hình thức hợp tác xã cổ phần...tạo điều kiện hình thành

23


vùng chuyên canh, thâm canh. Tổ chức việc tưới tiêu có hiệu quả, đưa cơ giới
vào sản xuất nông nghiệp nông thôn, đồng thời phát triển các loại hình dịch vụ
hợp tác xã ở nông thôn, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho nông dân, giảm
bớt nông nghiệp thuần túy, tăng hộ nông dân kiêm ngành nghề và dịch vụ, gắn
phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới [25, tr.37, 38].
Thứ hai, tập trung chuyển dịch cơ cấu về mùa vụ, cây trồng, con nuôi,
thâm canh, tăng năng suất, bảo đảm an toàn về lương thực, phát triển chăn
nuôi, có dự trữ một phần cho xuất khẩu. Trên cơ sở đó phát triển mạnh cây
thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, trồng rừng và nuôi trồng
thủy sản. Trong đó, chú trọng xây dựng các khu rừng kinh tế, đưa nghề rừng

thành một ngành kinh tế quan trọng, để người dân vùng núi sống và làm giàu
chủ yếu bằng nghề rừng [25 ,tr. 38].
Thứ ba, phát triển nông nghiệp nông thôn gắn liền với công nghiệp chế
biến, thị trường tiêu thụ sản phẩm, thực hiện đường lối thâm canh hợp lý kết
hợp với mở rộng diện tích, sử dụng có hiệu quả đất đai, áp dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất cũng như chế biến, tiêu thụ sản
phẩm, gắn quá trình sản xuất với thị trường xuất khấu.
Thứ tư, nâng cấp phát triển mạng lưới giao thông và điện nông thôn.
Từng bước đưa công nghiệp chế biến với quy mô thích hợp về vùng nguyên
liệu, hình thành các thị trấn, thị tứ mới; khuyến khích phát triển tiểu thủ công
nghiệp, các trung tâm thương mại dịch vụ ở thị trấn, thị tứ, nhằm thúc đẩy
giao lưu hàng hóa giữa thành thị và nông thôn [ 25, tr. 4].
Thứ năm, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với giải quyết các
vấn đề xã hội, xóa đói giảm nghèo và khuyến khích làm giàu trong phát triển
nông nghiệp nông thôn. Thúc đẩy giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo,
khuyến khích làm giàu, không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của
cư dân và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; phát triển nông nghiệp nông thôn
gắn liền với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trên địa bàn tỉnh.
Mục tiêu cụ thể:

24


Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, ngư nghiệp năm 2000: 5,5%; năm
2005: 5,5 - 6%.
Cơ cấu nông nghiệp toàn tỉnh (nông, lâm, ngư nghiệp): Năm 2000 nông
nghiệp thuần nông 80%, lâm nghiệp 13,8%, ngư nghiệp 6,2%. Năm 2005,
nông nghiệp thuần 78,6%, lâm nghiệp 14%, ngư nghiệp 7,4%.
Cơ cấu kinh tế nông thôn: Năm 2000, nông nghiệp 50,79%, công
nghiệp xây dựng 21,25%, dịch vụ 27,96%. Năm 2005, nông nghiệp 44 - 41%,

công nghiệp xây dựng 28 - 29%, dịch vụ 28 - 30%.
Thu nhập bình quân/1ha: Năm 2000, 12 triệu đồng/năm; năm 2005, 20
triệu đồng.
Tỷ lệ lao động nông nghiệp: năm 2000 chiếm 70,5%; năm 2005
chiếm 58,7%.
Thu nhập bình quân/người/năm ở nông thôn: năm 2000 đạt 3 triệu
đồng; năm 2005 đạt 5 triệu đồng.
Tỷ lệ hộ đói nghèo: Năm 2000: 19%; năm 2005: 10%.
Tỷ lệ số dân nông thôn được dùng nước sạch: Năm 2000: 55%; năm
2005: 70 - 80%.
Nhiệm vụ, giải pháp:
Một là, quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các loại đất đai, khai
thác phát huy thế mạnh của các vùng trong tỉnh. Trên cơ sở quy hoạch tổng
thể phát triển nông nghiệp nông thôn thời kỳ 2001 - 2010, phải tiến hành
quy hoạch, có kế hoạch cụ thể từng vùng, tùy từng loại đất, để bố trí cây
trồng có hiệu quả nhất. Tăng vụ, nâng cao hệ số sử dụng đất, tăng diện tích
đất trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi
núi trọc; sử dụng cao nhất diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy, hải sản; bố
trí diện tích cần thiết cho nhu cầu phát triển dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ
tầng nông nghiệp.

25


×