Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Đảng bộ tỉnh hà tây lãnh đạo công tác dân vận từ năm 1991 đến năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.29 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN
------------

BÙI THỊ HỒNG THÚY

ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
DÂN VẬN TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2008

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62 22 56 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2016


Công trình được hoàn thành tại: Khoa Lịch sử
Trường ĐH KHXH&NV - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGÔ ĐĂNG TRI
Giới thiệu 1:
Giới thiệu 2:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Cơ sở chấm
luận án tiến sĩ họp tại trường ĐH KHXH&NV, Đại học
Quốc gia Hà Nội vào hồi giờ ngày….tháng….năm 20...

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam


- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bài báo “Dân vận” đăng trên báo Sự thật, số ra ngày 15-10-1949, Hồ Chí Minh đã định
nghĩa: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân, không để sót một người dân nào, góp
thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn
thể giao cho” [85, tr 698]. Người còn chỉ rõ tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể, tất cả hội
viên của các tổ chức nhân dân đều phải phụ trách dân vận. Đồng thời, Người nhấn mạnh tầm quan trọng
của công tác dân vận: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì
cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Với ý nghĩa đặc biệt như vậy nên trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn coi trọng việc tăng
cường và đổi mới công tác dân vận. Công tác dân vận của Đảng là toàn bộ hoạt động của Đảng nhằm tăng
cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, được thể hiện bằng việc vận động nhân dân thực
hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa, các
tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Đảng cũng xác định công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị: Nghị quyết Trung ương
8B (khóa VI) Về đối mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân chỉ
rõ: “Công tác dân vận là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Công tác quần chúng không chỉ là
trách nhiệm của các đoàn thể, mà còn là trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, có phối hợp
với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước đều phải làm công tác dân
vận theo chức trách của mình”; Nghị quyết Trung ương Bảy (khóa XI) Về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới khẳng định: “Công tác dân vận là trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán
bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm
tham mưu, nòng cốt”.
Tỉnh Hà Tây được tái lập từ ngày 1-10-1991, đến ngày 1-8-2008 thì sáp nhập vào Hà Nội do yêu cầu
mở rộng địa giới Thủ đô. Trong gần 20 năm tồn tại, Đảng bộ Hà Tây đã có nhiều chủ trương, biện pháp để đổi
mới công tác quần chúng, nhằm khơi dậy, phát huy tiềm năng và sức mạnh to lớn của các tầng lớp nhân dân

trong tỉnh, góp phần thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế - xã hội. Những kết quả mà Hà Tây đạt được
trong thời gian qua là đáng ghi nhận, tuy nhiên tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế,
thu nhập bình quân đầu người chưa cao. Đặc biệt, một số điểm nóng xảy ra chậm được giải quyết, tình trạng
đơn thư khiếu kiện còn nhiều; việc giải phóng mặt bằng, xây dựng các khu đô thị, cụm công nghiệp chậm….
Những thành công và tồn tại nêu trên có liên quan mật thiết với chất lượng và hiệu quả của công tác dân vận.
Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công tác dân vận giai đoạn 1991-2008

3


nhằm chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân; từ đó đúc rút những bài học kinh nghiệm để thực
hiện tốt hơn nữa lĩnh vực công tác này của Đảng bộ Hà Nội khi Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội (tháng 82008). Mặt khác, với đề tài nghiên cứu này, tôi hi vọng sẽ đóng góp một phần để làm rõ thêm bức tranh
toàn cảnh của lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây trong những năm 1991-2008. Vì vậy, tôi quyết định lựa chọn
và giải quyết đề tài “Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo công tác dân vận từ năm 1991 đến năm 2008” để
làm luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công tác dân vận từ
năm 1991 đến năm 2008; chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế và đúc rút
một số kinh nghiệm phục vụ thực tiễn.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những yếu tố tác động đến sự hình thành chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công
tác dân vận từ năm 1991 đến năm 2008.
- Trình bày chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Tây từ năm
1991 đến năm 2008.
- Phân tích, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế trong sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công
tác dân vận từ năm 1991 đến năm 2008. Trên cơ sở đó, rút ra những kinh nghiệm phục vụ thực tiễn, nhất
là khi Hà Tây sáp nhập, trở thành một phần của Thủ đô Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của
Đảng bộ tỉnh Hà Tây từ năm 1991 đến năm 2008.
Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu những quan điểm, chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về
công tác dân vận và những biện pháp chỉ đạo thực hiện chủ trương đó.
- Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu công tác dân vận trên địa bàn tỉnh Hà Tây cũ, nay
là một phần của Thủ đô Hà Nội.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo công tác dân vận từ năm 1991
khi tái lập tỉnh đến năm 2008 khi Hà Tây sáp nhập vào Thủ đô Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận án được tiếp cận dưới góc độ lịch sử với các phương pháp nghiên cứu chính là
phương pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp của hai phương pháp. Các phương pháp này giúp

4


tái hiện, phục dụng lại bức tranh về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây đối với công tác dân vận từ năm
1991 đến năm 2008; phân tích, đánh giá, đưa ra các nhận xét về ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của hạn
chế và đúc rút kinh nghiệm lịch sử.
Ngoài ra, các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê… cũng được sử dụng
phù hợp để giải quyết những nội dung nghiên cứu cụ thể của luận án.
Nguồn tư liệu
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin và những bài nói chuyện, bài viết của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước về quần chúng và công tác vận động quần
chúng là nguồn tài liệu cần thiết khi nghiên cứu đề tài.
- Các văn kiện của Đảng, Nhà nước và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về công
tác dân vận giai đoạn 1991-2008; các tài liệu lưu trữ tại các trung tâm lưu trữ, tại địa phương và báo cáo
của các sở, ban, ngành… có liên quan là nguồn tư liệu gốc, tin cậy của luận án.
- Các công trình nghiên cứu, sách báo, luận án liên quan đến đề tài là nguồn tài liệu tham khảo

quan trọng giúp làm sáng tỏ các khía cạnh khác nhau của luận án.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng những nguồn sử liệu hình ảnh, tư liệu, những tài liệu thống kê để
phục vụ một số nội dung của luận án.
5. Đóng góp của luận án
- Sưu tầm, hệ thống hóa tư liệu về chủ trương, sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác dân vận
của Đảng bộ tỉnh Hà Tây từ năm 1991 đến năm 2008 để bổ sung cho kho tư liệu và đóng góp vào việc
nghiên cứu công tác dân vận nói chung, cũng như về Hà Nội nói riêng.
- Góp phần làm sáng tỏ quan điểm, chủ trương, quá trình chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của
Đảng bộ tỉnh Hà Tây; phục dựng một cách khách quan bức tranh về công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh
Hà Tây trong những năm 1991-2008. Từ kết quả nghiên cứu, luận án góp phần khẳng định vai trò to lớn
của Đảng bộ tỉnh Hà Tây trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết nhân dân trong tỉnh, thực hiện thắng
lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội Đảng bộ các nhiệm kỳ đã đề ra.
- Đưa ra những đánh giá, nhận xét về những ưu điểm, hạn chế trong lãnh đạo công tác dân vận
của Đảng bộ tỉnh Hà Tây ở giai đoạn luận án nghiên cứu, đúc rút những kinh nghiệm phục vụ việc lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển Thủ đô nói chung và công tác dân vận của thành phố Hà Nội nói
riêng.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy Đảng trong quá
trình lãnh đạo công tác dân vận của Thủ đô Hà Nội. Luận án có thể làm tư liệu tham khảo để nghiên cứu
lịch sử Đảng bộ tỉnh và lịch sử tỉnh Hà Tây giai đoạn 1991-2008.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án được chia làm 4 chương

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu về công tác dân vận
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về công tác dân vận của Đảng

Ban Dân vận Trung ương là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương, trực tiếp và
thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về chủ trương, chính sách và giải pháp lớn về công tác dân
vận. Vì vậy, có rất nhiều cuốn sách hay, mang tính tổng kết về công tác dân vận của Đảng đã được
Ban Dân vận chủ trì: Sơ thảo lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-1996),
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1999); Lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam (19302010), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2015). Công tác dân vận của Đảng thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2003); 75 năm công tác dân vận
của Đảng một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2006).
Trong sự nghiệp hoạt động chính trị, các vị lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước luôn dành sự
quan tâm đặc biệt cho công tác dân vận. Đồng chí Nguyễn Văn Linh – nguyên Tổng Bí thư của Đảng với
các cuốn sách: Về công tác vận động quần chúng hiện nay, Nxb. Sự thật, Hà Nội (1986), Về công tác vận
động quần chúng, Nxb. Sự thật, Hà Nội (1987), Đổi mới công tác quần chúng, Nxb. Sự thật, Hà Nội
(1991). Đồng chí Vũ Oanh – nguyên Ủy viên BCH TW Đảng, Trưởng BDV TW đóng góp hai cuốn sách về
công tác dân vận. Cuốn Tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân, Nxb. Sự thật, Hà Nội (1990) và Đổi
mới công tác dân vận của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1996). Đồng chí Hà Thị Khiết chủ
biên cuốn Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội (2015).
Cuốn sách Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình
hình mới của tác giả Vũ Ngọc Am và Nguyễn Thùy Linh, Nxb. Chính trị Hành chính, Hà Nội (2013);
Nguyễn Thế Trung với cuốn Một số vấn đề về công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc
gia, Hà Nội (2015); Công tác dân vận của các cơ quan nhà nước trong thời kỳ mới của Nguyễn Tiến Thịnh
(chủ biên), Nxb. Tư Pháp, Hà Nội (2005). Trần Đình Huỳnh và một số tác giả đã công bố công trình
nghiên cứu mang tên Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện
nay, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội (2013); Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận trong cuộc kháng chiến chống Pháp – Mỹ và thời kỳ đổi mới do Nguyễn Quang Thứ và Lê Trung
Kiên biên soạn, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội (2010); Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân
vận trong thời kỳ mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2005) của nhiều tác giả, do Nguyễn Văn Hùng
biên soạn.

6



Trong hệ thống dân vận thì Quân đội là một lực lượng quan trọng không thể không nhắc tới; Tổng
cục Chính trị đã cho ra đời cuốn Đẩy mạnh công tác dân vận tham gia xây dựng nền tảng chính trị của
quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội (2000);
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác dân vận của quân đội của Vũ Đình Tấn, Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội (2008). Công tác dân vận của thủ đô Hà Nội cũng được các tác giả Trần Thị Bích Thủy, Nguyễn
Văn Hùng và Hoàng Tiến Cát quan tâm và đề cập trong tác phẩm Tăng cường công tác dân vận của chính
quyền cơ sở ở Hà Nội trong tình hình hiện nay, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội (2009). Ngoài Thủ đô Hà
Nội thì Tây Nguyên có cuốn sách Xây dựng lực lượng nòng cốt làm công tác dân vận trong cộng đồng
các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay do Nguyễn Thế Tư chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
(2014).
Đi sâu vào công tác vận động một số giai cấp, tầng lớp cụ thể cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm, khai thác. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có cuốn Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội (2010); tác giả Nguyễn Viết
Vượng đóng góp cuốn Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI,
Nxb. Chính trị Quốc gia (2010); BDV TW xuất bản cuốn Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở
nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, (2000); cuốn Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ
Chí Minh về phụ nữ và công tác phụ nữ của Hội phụ nữ Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội (2012); nguyên
Tổng Bí thư Đỗ Mười có cuốn Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1995); công trình “Nguồn lực trí tuệ Việt Nam - Lịch sử, hiện trạng và triển
vọng” của tác giả Nguyễn Văn Khánh , Nxb Chính trị Quốc gia (2012); BDV TW có cuốn Đảng Cộng sản
Việt Nam với công tác vận động thanh niên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội (2001); Lịch sử Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và
phong trào thanh niên Việt Nam (1925-2010) của Đặng Quang Vinh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
(2012)
Công tác dân vận của Đảng là một vấn có tầm quan trọng đặc biệt, vì vậy rất nhiều luận án đã chọn
chủ đề này làm đề tài nghiên cứu. Đổi mới công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, LATS Lịch sử của Vũ Đình Tấn (2001); LATS Lịch sử Công tác vận
động nông dân của Đảng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước , Lê Kim Việt (2002);
LATS Lịch sử Công tác vận động đồng bào công giáo của đảng bộ một số tỉnh miền Đông Nam Bộ từ

năm 1996 đến năm 2006 của Đặng Mạnh Trung (2011); LATS Chính trị học Công tác dân vận của các
đơn vị quân đội ở vùng đồng bào theo đạo trên địa bàn miền Đông Nam Bộ giai đoạn hiện nay của Đồng
Ngọc Châu (2011); Công tác vận động đồng bào Khmer của các đảng bộ xã, phường, thị trấn ở Tây Nam
Bộ trong giai đoạn hiện nay, LATS Khoa học chính trị của Đặng Trí Thủ (2012); LATS Triết học của

7


Phạm Duy Hoàng (2015) nghiên cứu vấn đề Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và ý nghĩa của nó đối
với sự nghiệp bảo về an ninh tổ quốc.
Công tác dân vận là một mảng hoạt động hết sức quan trọng của Đảng, vậy nên rất nhiều lãnh đạo
Đảng, nhà nghiên cứu đã dành không ít tâm huyết để viết về đề tài này. Tiêu biểu: Nhận thức về dân vận trong
di sản tư tưởng Hồ Chí Minh của Hoàng Trang, Tạp chí Lịch sử Đảng số 12-2004; Tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ và vận động nhân dân trong tác phẩm dân vận của Nguyễn Thị Kim Hoa, Tạp chí Lý luận chính trị số
5-2005; Công tác vận động quần chúng có tín ngưỡng tôn giáo thời kỳ đổi mới hiện nay của Hoàng Mạnh
Đoàn, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam số 3-2006; Dân vận – vấn đề luôn mới: Qua nghiên cứu tác phẩm
“Dân vận” của Hồ Chí Minh của Mạch Quang Thắng, Tạp chí Lý luận chính trị số 8 – 2006. Tăng cường
công tác dân vận của quân đội trong giai đoạn hiện nay của Bùi Văn Huấn, Tạp chí Cộng sản số 13-2006;
Không ngừng đổi mới tư duy, làm tốt hơn nữa công tác vận động quần chúng của Đảng của Tòng Thị Phóng,
Tạp chí Cộng sản số 17-2006; Một số bài học kinh nghiệm trong công tác dân vận của Đảng của Trương Thị
Thông, Tạp chí Lý luận chính trị số 3-2009; Quan niệm về công tác dân vận dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh của Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Lịch sử Đảng số 4-2013; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với công tác
vận động quần chúng trong tình hình mới, Tạp chí Cộng sản số 845-2013; Bộ đội Biên phòng đẩy mạnh công
tác vận động quần chúng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, Phạm Huy Tập, Tạp chí Cộng sản số
848-2013….
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Tây
Cuốn Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tây đã xuất bản được 4 tập,
phản ảnh các mặt hoạt động của Đảng bộ tỉnh từ năm 1926 cho tới hết tháng 7-2008. Ở đó công tác dân vận,
hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể đều được đề cập mặc dù không được đặt thành mục riêng.
Về công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Tây, một số đoàn thể cũng đã xuất bản tài liệu về lịch

sử của tổ chức như: Hội Nông dân tỉnh Hà Tây (2001) có cuốn Lịch sử phong trào nông dân và hội nông
dân tỉnh Hà Tây (1929-2000), Liên đoàn Lao động tỉnh Hà Tây (2002) có cuốn Lịch sử phong trào công
nhân và công đoàn Hà Tây…. Các tài liệu này đã phản ảnh một mảnh hoạt động công tác dân vận với
từng đối tượng cụ thể. Những tài liệu như thế này đã góp phần làm rõ hơn bức tranh toàn cảnh về công tác
dân vận nói riêng và lịch sử Đảng bộ tỉnh nói chung.
1.2 Những vấn đề luận án kế thừa và tập trung giải quyết
1.2.1 Những vấn đề luận án kế thừa
Về nội dung, công tác dân vận của Đảng đã được tập trung nghiên cứu và khai thác ở nhiều khía
cạnh: vai trò của quần chúng; mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; chủ trương, chính sách đối với từng
giai cấp, tầng lớp, vùng miền và đồng bào có đạo; biện pháp tăng cường và đổi mới công tác quần
chúng…. Qua các nghiên cứu trên, có thể nhìn thấy một bức tranh tổng quan sinh động, phong phú về
công tác dân vận của Đảng qua các thời kỳ. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của công tác dân vận trong

8


hoạt động của Đảng, cũng như sự quan tâm đặc biệt của các nhà lãnh đạo, giới nghiên cứu giành cho công
tác dân vận. Đây là những tư liệu cần thiết, quan trọng để tác giả luận án có được nền tảng kiến thức
chung nhất khi nghiên cứu đề tài Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo công tác dân vận từ năm 1991 đến năm
2008.
Các nghiên cứu về quá trình Đảng lãnh đạo công tác dân vận nhìn chung tương đối phong phú
và toàn diện đã góp phần làm sáng tỏ quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng và quá trình chỉ
đạo, tổ chức thực hiện công tác quần chúng. Cách tiếp cận cũng như các kết quả nghiên cứu có thể kế
thừa, vận dụng để giải quyết vấn đề cụ thể của công tác dân vận ở Hà Tây.
Công tác dân vận của Đảng còn được các nhà nghiên cứu tập trung đi sâu, làm rõ ở những khía
cạnh nhỏ như: công tác dân vận của lực lượng vũ trang, của quân đội, công tác vận động đồng bào thiểu
số, đồng bào có đạo…. Các nghiên cứu này đã đóng góp không nhỏ làm rõ nét thêm bức tranh toàn cảnh
về công tác dân vận của Đảng. Những công trình đó, ở mức độ khác nhau phần nào đã cung cấp những
gợi mở cần thiết, có giá trị cho tác giả luận án khi đi sâu nghiên cứu vấn đề một cách sâu sắc và toàn diện
hơn. Đây là nguồn tư liệu quý để tác giả luận án tham khảo, kế thừa trong quá trình thực hiện mục đích

nghiên cứu của đề tài.
Một số công trình nghiên cứu đề cập tới vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác dân
vận, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Các học giả thực sự tâm huyết khi đưa ra những đề xuất, kiến
nghị và biện pháp nhằm đổi mới công tác quần chúng, tăng cường mối mối liên hệ giữa Đảng với nhân
dân. Những bài học kinh nghiệm được rút ra trên cơ sở tổng kết lý luận và nghiên cứu thực tiễn, có ý
nghĩa vô cùng to lớn phục vụ công tác dân vận của Đảng trong các giai đoạn tiếp theo.
Tuy nhiên, công tác dân vận ở các địa phương cụ thể thì chưa có nhiều công trình nghiên cứu
chuyên sâu. Đối với Hà Tây, công tác dân vận đã bước đầu được đề cập, tìm hiểu nhưng chỉ là ở một khía
cạnh nhỏ như: công tác vận động nông dân, lịch sử công đoàn và phong trào công nhân…. Đây là những
tư liệu thiết thực đối với đề tài luận án, có thể kế thừa trong giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan.
Về tư liệu, các nhà nghiên cứu đã khai thác một khối lượng tư liệu khá lớn để hoàn thành những
công trình khoa học của mình về vai trò của quần chúng và tầm quan trọng của công tác dân vận và sự
cần thiết nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới. Đây là cơ sở vững chắc để
làm rõ những nội dung về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công tác dân vận của Đảng
trong thời kỳ Đổi mới. Luận án có thể kế thừa để nguồn tư liệu này để phục vụ quá trình nghiên cứu.
Về phương pháp nghiên cứu, các nhà khoa học, người nghiên cứu chủ yếu sử dụng phương pháp
lịch và phương pháp logic để làm rõ đối tượng nghiên cứu. Ngoài ra ,trong thời gian gần đây, các học giả
đã tiếp cận những xu hướng, phương pháp nghiên cứu mới như phương pháp nghiên cứu liên ngành,
phương pháp chuyên gia, phương pháp phỏng vấn…. Đây là một gợi mở cho tác giả luận án là người
nghiên cứu đi sau có thể kế thừa.

9


Một cách tổng quát, nghiên cứu về công tác dân vận của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng trên các phương diện. Thành quả của những công trình nghiên cứu nêu trên, ở những mức độ khác
nhau, vừa soi rọi, vừa là cơ sở để các nhà nghiên cứu đi sau bước tiếp, hoàn thành những mục tiêu, những
công trình nghiên cứu chuyên sâu và nâng cao về công tác dân vận của Đảng nói chung, hay một khía
cạnh của công tác dân vận hoặc nghiên cứu ở quy mô một địa phương nói riêng.
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết

Như vậy, có khá nhiều công trình nghiên cứu về Đảng lãnh đạo công tác dân vận hay một mảng
của công tác dân vận, tuy nhiên vấn đề Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo công tác dân vận từ năm 1991 đến
năm 2008 thì chưa có công trình nghiên cứu nào, vẫn còn bỏ ngỏ. Vì vậy, luận án tập trung nghiên cứu,
giải quyết những vấn đề sau:
Sưu tầm và khai thác tư liệu, đặc biệt là các tư liệu gốc được lưu trữ tại các trung tâm lưu trữ của
Hà Nội và các địa phương thuộc tỉnh Hà Tây cũ về chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây đối
với công tác dân vận từ năm 1991 đến năm 2008.
Bám sát vào các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, trình bày một cách có hệ thống những chủ trương, quá
trình chỉ đạo thực hiện công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Tây từ năm 1991 đến năm 2008.
Đánh giá một cách khách quan những ưu điểm, hạn chế trong lãnh đạo công tác dân vận của
Đảng bộ tỉnh Hà Tây.
Đúc rút một số kinh nghiệm trong lãnh đạo công tác dân vận nhằm phục vụ thực tiễn khi tỉnh Hà
Tây sáp nhập vào Thủ đô Hà Nội.
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN CÔNG TÁC DÂN VẬN
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2000
2.1 Những yếu tố tác động đến công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Tây và chủ trương của Đảng bộ
(1991-2000)
2.1.1 Những yếu tố tác động
Tình hình dân cư - xã hội tỉnh Hà Tây
Luận án khái quát điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội và lịch sử địa phương Hà Tây từ khi tái lập
tỉnh năm 1991. Qua đó nhận thấy nét nổi bật của Hà Tây là mảnh đất giàu truyền thống, là cửa ngõ phía
tây nam của Thủ đô, với bốn lần thay đổi địa giới hành chính. Điều này đã tác động sâu sắc đến công tác
dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Tây.
Chủ trương của Trung ương
Chủ trương của Trung ương được thể hiện tại Nghị quyết số 8B-NQ/TW (khóa VI) về Đổi
mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và tại Đại hội

10



đại biểu toàn quốc lần thứ VII và VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, các nghị quyết chuyên đề về công tác dân vận được
ban hành như: Hội nghị lần thứ ba BCH TW (khóa VII) ra Nghị quyết Về một số nhiệm vụ đổi mới và
chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết đã dành riêng mục 6 bàn về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động
nhân dân, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”; Quyết định số 32-QĐ/TW Về chức năng,
nhiệm vụ và tổ chức của Ban Dân vận Trung ương; Hội nghị lần thứ Tư BCH TW Đảng (khóa VII) đã ra
Nghị quyết số 04-NQ/HNTW Về công tác thanh niên trong thời kỳ mới; Nghị quyết số 04-NQ/TW Về đổi mới
và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết số 07-NQ/TW Về đại đoàn kết dân
tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất; Nghị quyết số 08-NQ/TW Về chính sách và công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đúc kết sáu bài học kinh nghiệm, trong đó bài học
thứ tư là: Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Sau Đại hội,
Đảng đã ra các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề để tăng cường công tác dân vận: Chỉ thị số 30-CT/TW Về xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Chỉ thị số 37-CT/TW Về tăng cường công tác tôn giáo trong
tình mới; Chỉ thị số 42-CT/TW Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của
các hội quần chúng; Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg Về tăng cường công tác dân vận; Chỉ thị số 59-CT/TW Về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam.
2.2.2 Chủ trương của Đảng bộ
Giai đoạn 1991-1996, chủ trương của Đảng bộ được thể hiện tại Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ
VII Đảng bộ tỉnh Hà Tây (3-1992); Chỉ thị số 05-CT/TU Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình
hình hiện nay; Nghị quyết số 03-NQ/TU Về một số nhiệm vụ đổi mới và tăng cường công tác vận động
quần chúng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân; Nghị quyết số 07-NQ/TU về công tác thanh
niên; Chỉ thị số 12-CT/TU về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới.
Giai đoạn 1996-2001, chủ trương của Đảng bộ được thể hiện tại Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ
VIII Đảng bộ tỉnh Hà Tây; Chỉ thị số 09-CT/TU về tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh công tác dân vận và
công tác thanh niên trong tình hình mới; Chỉ thị số 10-CT/TU ngày 27-12-1997 về tăng cường sự lãnh
đạo của các cấp ủy Đảng đối với việc thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”;Chỉ thị số 39-CT/TU về tăng cường lãnh đạo công tác tôn giáo trong tình hình mới; Chỉ thị 49CT/TU, ngày 14-01-1999 về tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với tổ chức và hoạt động của
các Hội quần chúng.

Những chủ trương mà Đảng bộ tỉnh Hà Tây đưa ra trong giai đoạn 1991-2001 đã bám sát vào
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương. Nhờ đó công
tác dân vận những năm qua được củng cố và tăng cường, góp phần ổn định tình hình địa phương, thắt
chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

11


2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện công tác dân vận (1991-2000)
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, lực lượng làm công tác dân vận bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt rận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Mỗi tổ chức tùy theo chức năng, nhiệm vụ của mình mà có nội dung,
phương thức làm dân vận riêng.
2.2.1. Thực hiện công tác dân vận của các cấp ủy Đảng
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác dân vận và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân có
ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và quyết định việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị
của địa phương, Đảng bộ tỉnh Hà Tây đã ban hành các nghị quyết chuyên đề về công tác quần chúng và
có chương trình, cụ thể để thực hiện các nghị quyết Trung ương về công tác dân vận: ngày 31-08-1992,
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Chỉ thị số 05-CT/TU Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình hiện
nay, Nghị quyết số 03-NQ/TU ngày 14-10-1992 Về một số nhiệm vụ đổi mới và tăng cường công tác vận
động quần chúng, củng cố mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 08-041993 về công tác thanh niên; Chỉ thị số 03-CT/TU ngày 20-05-1996 về lãnh đạo Đại hội của Mặt trận và
các đoàn thể; Chỉ thị số 09-CT/TU ngày 10-10-1996 về tiếp tục đẩy mạnh lãnh đạo công tác dân vận và
công tác thanh niên trong tình hình mới; Chỉ thị số 10-CT/TU ngày 27-12-1997 với nội dung tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; Chỉ thị số 12CT/TU ngày 03-09-1993 Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị
số 49-CT/TU ngày 14-1-1999 tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với tổ chức và hoạt động
của các hội quần chúng và nhiều Chỉ thị, Thông tri khác về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác vận động quần chúng theo các đối tượng.
Trong quá trình thực hiện công tác dân vận, các cấp uỷ Đảng chú trọng việc sơ kết, tổng kết
những chủ trương, nghị quyết lớn của Đảng về công tác dân vận, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm
cũng như đề ra giải pháp cho các nhiệm vụ kế tiếp:
Đồng thời, sự chỉ đạo sâu sát của các cấp uỷ Đảng cũng tạo điều kiện cho hệ thống dân vận đi vào

hoạt động một cách nề nếp, có hiệu quả hơn. Ban Dân vận các cấp với tư cách là ban tham mưu cho cấp
ủy Đảng mà trực tiếp và thường xuyên là Ban Thường vụ về công tác dân vận bao gồm công tác cả công
tác dân tộc, tôn giáo từng bước được kiện toàn.
Có thể nói, nội dung công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Tây giai đoạn này đã hướng tới việc
ổn định tình hình địa phương, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Các chủ trương của
Đảng bộ về đẩy mạnh phát triển kinh tế, đi đôi với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện công tác an ninh
quốc phòng, phát huy dân chủ, nâng cao dân trí, cải thiện dân sinh đã thực sự đi vào cuộc sống và phát
huy được giá trị. Nhờ đó, khích lệ được phong trào hành động cách mạng của quần chúng lên cao.

12


2.2.2. Triển khai công tác dân vận của các cấp chính quyền
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp quán triệt và thể chế hoá một bước các Chỉ thị,
Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh uỷ về công tác vận động quần chúng thành chương trình kế hoạch
cụ thể, lồng ghép vào chương trình hoạt động của mình để thực hiện. Tổ chức, động viên nhân dân hăng
hái thi đua lao động sản xuất, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng ở địa
phương, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Chính quyền và các cơ quan nhà nước đã chú trọng tuyên truyền, phố biến, giáo dục chính sách
pháp luật cho nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực, tổ chức lấy ý kiến nhân dân
tham gia đóng góp xây dựng các dự thảo luật của nhà nước và các chương trình kinh tế - xã hội của địa
phương. Chỉ đạo chặt chẽ việc học tập quy chế dân chủ cơ sở, chuẩn bị tài liệu, tổ chức tập huấn cho đội ngũ
cán bộ và đội ngũ báo cáo viên để phục vụ việc triển khai học tập ở các cấp, các ngành có hiệu quả.
Cùng với việc mở rộng và phát huy dân chủ trong nhân dân, chính quyền từ tỉnh tới cơ sở thực hiện
cải cách một bước nên hành chính Nhà nước, giảm bớt các thủ tục phiền hà, nâng cao chất lượng các kỳ họp
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, đồng thời giáo dục cán bộ công chức nâng cao ý thức trách nhiệm phục
vụ nhân dân, nâng cao hiệu quả công tác.
Chính quyền các cấp cũng tạo điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất để Mặt trận và các đoàn thể
triển khai thực hiện tốt các dự án, chương trình hành động. Nhờ đó, nhiều chương trình kinh tế - xã hội,
an ninh quốc phòng đã được triển khai và đạt kết quả, đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, góp phần ổn

định đời sống xã hội.
Về công tác tôn giáo: Các cấp uỷ Đảng chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện và sơ, tổng kết Nghị quyết
24-NQ/TW, Chỉ thị số 37-CT/TW của BCT; Chỉ thị số 05-CT/TU của BTV Tỉnh ủy (khóa VII) về tăng cường
công tác tôn giáo trong tình hình mới, Chỉ thị số 39-CT/TU của BTV Tỉnh uỷ (khóa VIII) về công tác tôn
giáo; Nghị định số 26-NĐ/CP-1999 của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo, Thông báo 184-TB/TW của Bộ
Chính trị về đạo Tin lành, qua đó nâng cao nhận thức trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc thực hiện.
Lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp đã giành thời gian tiếp xúc với các chức sắc tôn giáo nhân
các ngày lễ lớn, vừa thăm hỏi, vừa thông báo tình hình địa phương, tạo không khí cởi mở, động viên các
chức sắc và tín đồ tham gia thực hiện các nhệm vụ chính trị của địa phương. Công tác quản lý Nhà nước
đối với các hoạt động tôn giáo được coi trọng, giải quyết các nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của quần
chúng, xử lý kịp thời các vấn đề tôn giáo nảy sinh ở địa phương, nhất là vùng có đông tín đồ tôn giáo sinh
sống.
Về công tác dân tộc: Thực hiện Nghị quyết 22 của BCT (khoá VI) và Quyết định 72-QĐ/TW của
Hội đồng Bộ trưởng về một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế – xã hội miền núi, Kết luận số
07-KL/TU của BTV Tỉnh uỷ (khoá VII) về phát triển kinh tế – xã hội các xã miền núi; Uỷ ban nhân dân
và các ngành của tỉnh đã xây dựng chương trình và dự án phát triển kinh tế cho 9 xã miền núi và động

13


viên các đồng bào dân tộc thiểu số phát huy khả năng sẵn có của mình để xây dựng quê hương.
Trong quá trình thực hiện, chính quyền ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như: giao thông,
thuỷ lợi, trạm xá, trường học… cho các xã miền núi. Nhờ đó kinh tế – xã hội các xã miền núi phát triển
khá, đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số được ổn định và từng bước được nâng lên nên nhân dân phấn
khởi tin tưởng và sự lãnh đạo của Đảng, hăng say lao động sản xuất xây dựng quê hương, thực hiện tốt
các chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
2.2.3. Hoạt động dân vận của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hội quần
chúng
Về tổ chức: Mặt rận Tổ quốc, các đoàn thể và hội quần chúng không ngừng củng cố và mở rộng
tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động; có nhiều hình thức đa dạng và phong phú để tập hợp, tổ chức

quần chúng tham gia vào các hoạt động của đoàn thể mình; phát huy được vai trò trong việc chăm lo, bảo
vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong phong trào quần
chúng và là cầu nối quan trọng giữa Đảng với nhân dân.
Chấn chỉnh công tác phát triển đoàn viên, hội viên theo hướng tự nguyện, đảm bảo về số lượng
và chất lượng, với nhiều hình thức tập hợp quần chúng đa dạng, phong phú (lập ra các câu lạc bộ, hội, tổ,
nhóm…); khắc phục tình trạng “hội cả làng”. Liên đoàn lao động và Đoàn thanh niên còn chú trọng phát
triển tổ chức của mình trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nhiều cơ sở làm tốt công tác quản lý
đoàn viên, hội viên, chú trọng cải tiến nội dung sinh hoạt đoàn hội theo hướng thiết thực, dân chủ phù hợp
với nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, hội viên.
Cùng với việc củng cố tổ chức cơ sở, Mặt trận, các đoàn thể còn thực hiện đa dạng các hình thức
tập hợp quần chúng như: lập hội nghề nghiệp, sở thích, hội học dinh, sinh viên, các câu lạc bộ, tổ nhóm
đoàn kết giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống… đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia, nên tỷ lệ
tập hợp quần chúng vào các tổ chức đoàn thể từ 1991 đến 2000 ngày càng tăng: Đoàn thanh niên từ 20%
lên 34%, Hội Phụ nữ từ 35% lên 64%, Hội Nông dân từ 25% lên 58%; Hội Cựu chiến binh thành lập năm
1990 đến 2000 đạt 82%. Liên đoàn lao động từ 91% lên 95%. Công tác tham gia xây dựng đảng được chú
trọng, Mặt trận, đoàn thể đã tích cực bồi dưỡng và giới thiệu nhiều đoàn viên, hội viên ưu tú cho tổ chức
Đảng để bồi dưỡng kết nạp vào Đảng. Từ năm 1991 đến năm 2001, toàn tỉnh đã kết nạp 18.387 đảng
viên.
Bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách Mặt trận, đoàn thể ở tỉnh và các huyện, thị xã thường xuyên
được kiện toàn và ngày càng nâng cao về chất lượng, 70-80% có trình độ đại học, cao đẳng. Nhìn chung đội
ngũ cán bộ mặt trận, đoàn thể các cấp có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng. Nhiều đồng chí
được rèn luyện và trưởng thành từ phong trào quần chúng đã được bố trí sang làm công tác Đảng, chính quyền
ở vị trí tương đương hoặc cao hơn.

14


Về hoạt động: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các hội quần chúng chú trọng triển khai công tác
tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, Nghị quyết của TW, của Tỉnh ủy và các Nghị quyết của đoàn thể
mình trong cán bộ, đoàn viên, hội viên và nhân dân.

Mặt trận, các đoàn thể bám sát vào các nhiệm vụ chính trị của địa phương, phát huy vai trò của tổ
chức mình trong việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng thiết thực. Tham gia các hoạt động
xã hội, đem lại lợi ích cho bản thân và gia đình, góp phần xây dựng quê hương đất nước. Các phong trào hành
động cách mạng do Mặt trận, các đoàn thể phát động như: Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống
mới ở khu dân cư” (của Mặt trận), phong trào “sản xuất giỏi làm giàu” (của hội Nông dân), phong trào “lao
động giỏi, lao động sáng tạo” (của Liên đoàn Lao động), phong trào “giúp nhau làm kinh tế xoá đói giảm
nghèo” (của hội Cựu chiến binh, hội Phụ nữ), phong trào “Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước” (của Đoàn
Thanh niên)… được đẩy mạnh và thực hiện có kết quả, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu
kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh ở địa phương.
Mặt trận và các đoàn thể, các hội quần chúng cũng chú ý cải tiến phương thức hoạt động, hướng mạnh
các hoạt động về cơ sở và thực hiện tốt sự phối hợp với chính quyền, các ban ngành có liên quan; nhờ đó hoạt
động của Mặt trận, các đoàn thể, các hội quần chúng ngày càng có chiều rộng, chiều sâu và thiết thực, hiệu quả
hơn, từng bước nâng cao uy tín, vị thế của tổ chức mình.
Chương 3
ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO
ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC DÂN VẬN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2008
3.1 Yêu cầu mới đặt ra đối với công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Tây và chủ trương
của Đảng bộ
3.1.1 Yêu cầu mới đặt ra
Bước sang thế kỷ XXI, dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX đã đề ra chủ trương mới nhằm tăng cường công tác dân vận trong tình hình mới. Cụ thể hóa chủ
trương của Đại hội IX, ngày 08-01-2002, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 09-NQ/TW “Về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác cựu chiến binh Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới”; Ngày 28-032002, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 10-CT/TW “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; Nghị quyết số 23-NQ/TW Về phát huy sức mạng đại đoàn kết dân tộc vì
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh (12-03-2003); Ngày 26-03-2004, Bộ Chính trị
ra Nghị quyết số 36-NQ/TW Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (năm 2006)
đã ghi nhận thành tựu nổi bật trong công tác dân vận từ đó đề ra chủ trương đẩy mạnh công tác dân vận

15



trong tình hình mới. Những quan điểm chỉ đạo của Đại hội X mang tính định hướng cho công tác dân vận
cả nước trong những năm tiếp theo. Tại các hội nghị Trung ương, tư tưởng đó tiếp tục được cụ thể hóa và
các địa phương tiếp thu, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn: Ngày 27-04-2007, Bộ Chính trị ra Nghị quyết
số 11-NQ/TW Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết
số 20-NQ/TW ngày 28-01-2008 về xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; Ngày 25-07-2008, Nghị quyết số 25-NQ/TW Về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tóm lại, có thể thấy những Nghị quyết chuyên đề này đã đi sâu vào một số đối tượng cụ thể, phân
tích đặc điểm từ đó đề ra các chủ trương và biện pháp nhằm khơi dậy và phát huy sức mạnh của họ trong
công cuộc xây dựng vào bảo về Tổ quốc. Đó cũng là cách Đảng tăng cường lãnh đạo và đẩy mạnh công tác
dân vận, thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
3.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ IX diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử
trọng đại - trước thềm thế kỷ XXI. Chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX về công tác vận
động quần chúng sẽ là tiền đề quan trọng để duy trì, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng; phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân trong tỉnh, tạo ra sức mạnh cần thiết vượt qua những khó khăn
thử thách, thực hiện thắng lợi những mục tiêu nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX đề ra. Các
nghị quyết chuyên đề cụ thể hóa chủ trương Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX: Chỉ thị số 10-CT/TU Về
tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; Chỉ thị số 24-CT/TU, ngày 02-05- 2002 Về tiếp tục đẩy
mạnh xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Nghị quyết số 03-NQ/TU về tăng cường sự lãnh đạo
của cấp uỷ Đảng đối với công tác Cựu cựu chiến binh tỉnh trong giai đoạn cách mạng mới. Nghị quyết số 05NQ/TU, ngày 14-04-2003 Về phát huy mạnh đại đoàn kết toàn dân trong tỉnh vì “Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”;Nghị quyết số 07-NQ/TU thực hiện Nghị quyết Trung ương Bảy
(khoá IX) về công tác tôn giáo, dân tộc; Nghị quyết số 09-NQ/TU của Tỉnh ủy Hà Tây, ngày 21-04-2004
về tăng cường lãnh đạo công tác đoàn và phong trào thanh niên đến 2005 và những năm tiếp theo; Chỉ
thị số 56- CT/TU, ngày 27-7-2004 Về lãnh đạo và phát huy vai trò của tổ chức đoàn tham gia phát triển
kinh tế - xã hội; Chỉ thị số 58- CT/TU ngày 14-4-2004 Về tổ chức các hoạt động kỉ niệm 75 năm ngày
thành lập Công đoàn Việt Nam; Chỉ thị số 69-CT/TU ngày 9-9-2004 Về tổ chức kỷ niệm 15 năm ngày

thành lập hội Cựu chiến binh Việt Nam; Chỉ thị số 77-CT/TU ngày 14-01-2005 Về xây dựng và phát triển
tổ chức Công đoàn xã, phường, thị trấn; Hướng dẫn số 898-HD/TU ngày 12-02-2005 Về tổ chức thực
hiện Thông báo kết luận số 159 ngày 15-11-2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng
và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Quyết định số 12-QĐ/TU ngày 02-03-2005 Về thành lập Ban chỉ
đạo phối hợp giữa Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh với các tổ chức chính trị xã hội….

16


Chủ trương của Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV về công tác dân vận và Nghị quyết số 22-NQ/TU,
ngày 29-05-2007 Về tăng cường lãnh đạo công tác vận động phụ nữ đến năm 2010 và những năm tiếp
theo.
3.2 Quá trình chỉ đạo đẩy mạnh công tác dân vận (2000-2008)
3.2.1 Thực hiện công tác dân vận của các cấp ủy Đảng
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh Hà Tây lần thứ IX và lần thứ XIV, cùng với việc
lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, các cấp uỷ Đảng đã lãnh đạo, từng bước nâng
cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên về công tác dân vận. Hàng năm, các cấp uỷ đảng chỉ
đạo việc tổng kết công tác dân vận và duyệt chương trình, nhiệm vụ công tác năm sau của hệ thống dân
vận, Mặt trận, đoàn thể và duy trì tốt việc giao ban định kỳ về công tác dân vận.
Trong quá trình thực hiện công tác dân vận, các cấp uỷ Đảng đã chỉ đạo việc thực hiện và sơ, tổng
kết các nghị quyết, chỉ thị của TW về công tác dân vận. Đồng thời cụ thể hoá các quan điểm của Đảng về
công tác dân vận, Tỉnh uỷ Hà Tây đã ra các Nghị quyết, Chỉ thị chuyên đề về công tác vận động quần
chúng theo từng đối tượng.
Thực hiện Hướng dẫn 01-LB/TC-DVTW, ngày 25-05-2000, Về “Hướng dẫn chức năng, nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy và biên chế cán bộ của Ban Dân vận tỉnh, thành ủy, Ban Dân vận quận, huyện ủy,
thành phố trực thuộc tỉnh và khối Dân vận xã, phường, thị trấn”, hệ thống dân vận của Hà Tây đã từng
bước được củng cố và kiện toàn. Hệ thống dân vận từ tỉnh tới cơ sở được củng cố và kiện toàn, đã tham
mưu cho cấp uỷ: lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác dân vận, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính
trị của địa phương; tiến hành tổng kết công tác dân vận hàng năm, đề ra phương hướng nhiệm vụ cho
công tác dân vận năm sau sát với tình hình địa phương, đơn vị; kịp thời triển khai chương trình công tác

với các nội dung thi đua, đưa việc thực hiện thành nề nếp ngay từ đầu năm.
Tham mưu cho các cấp ủy đảng tổ chức triển khai các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về công
tác dân vận, Mặt trận, đoàn thể; tổ chức chỉ đạo thành công Đại hội nhiệm kỳ MTTQ, các đoàn thể nhân
dân. Đồng thời BDV Tỉnh ủy, Huyện ủy và khối Dân vận cơ sở đã trực tiếp tham mưu cho cấp ủy duyệt
quy chế làm việc định kỳ giao ban Dân vận và trong khối (MTTQ và các đoàn thể nhân dân) nên đã tạo
sự đoàn kết, thống nhất trong hệ thống dân vận, tham mưu kịp thời cho cấp ủy tổ chức triển khai các chủ
chương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tham gia tích cực và có hiệu quả vào việc giải
quyết các kiến nghị chính đáng của nhân dân, giải quyết khiếu nại tố cáo và những mâu thuẫn trong nội
bộ nhân dân; tham gia tích cực vào công tác xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh.
Phối hợp với MTTQ, các đoàn thể nhân dân, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng
trong nhân dân về các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở, tích cực giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân và những mâu thuẫn trong
nội bộ nhân dân, tham gia xây dựng chính quyền vững mạnh.

17


Tham mưu giúp cấp uỷ lãnh đạo thực hiện tốt công tác tôn giáo, dân tộc. Phối hợp với MTTQ,
Ban Tôn giáo chỉ đạo về các hoạt động tôn giáo, lễ hội, ngăn chặn kịp thời các tà đạo du nhập vào tỉnh,
góp phần tích cực vào việc quản lý có hiệu quả các hoạt động tôn giáo và giữ gìn an ninh trật tự trên địa
bàn tỉnh. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chỉ thị số 68-CT/TU ngày 09-05-2004 của BTV Tỉnh
uỷ Về tiếp tục lãnh đạo cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, xây và sửa nhà Đại đoàn kết.
BDV Tỉnh uỷ đã thực hiện tốt quy chế hoạt động của cơ quan, tăng cường sự phối hợp công tác
giữa các phòng chức năng với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Việc thực hiện quy chế dân chủ trong
cơ quan được mở rộng; đảng viên, cán bộ công chức tích cực phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm
vụ được giao. Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc ở các phòng được tăng cường; công tác thông tin, tổng
hợp, tài chính, văn thư, bảo mật đều thực hiện tốt, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. BDV các
huyện, thị xã và khối dân vận cơ sở đẩy mạnh hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm
nguyên tắc và giải quyết tốt các mối quan hệ phối hợp trong hoạt động nhất là với MTTQ, các đoàn thể
nhân dân. Đội ngũ cán bộ đực tiếp tục kiện toàn, bồi dưỡng về nghiệp vụ, chuyên môn hoạt động theo

hướng sát dân, coi trọng phát huy dân chủ, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết ở cơ sở, góp phần
chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng, thiết thực của mọi tầng lớp nhân dân, thực hiện có hiệu quả các chủ
trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
3.2.2 Triển khai công tác dân vận của chính quyền các cấp
Chính quyền các cấp đã quán triệt và cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của cấp ủy về công
tác dân vận vào chương trình hoạt động, đề án, dự án, mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng
năm để thực hiện. Các cấp chính quyền đã quan tâm sâu sát hơn trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân
thực hiện các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước; tổ chức thực hiện công khai, dân chủ
trong các lĩnh vực về quản lý kinh tế, đất đai, các vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ công dân theo quy
định của pháp luật.
Các cấp chính quyền thực hiện phối kết hợp và cấp kinh phí đảm bảo điều kiện để Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân hoạt động, đồng thời chỉ đạo các ngành ký kết, thực hiện tốt các chương
trình phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân.
Lực lượng vũ trang, luôn coi công tác dân vận là một biện pháp nghiệp vụ nên đã có nhiều chủ
trương, giải pháp cụ thể giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chủ động phối hợp với các cấp,
các ngành triển khai, thực hiện các nghị quyết liên quan đến công tác dân vận. Nắm vững tình hình địa
bàn, kịp thời tham mưu với cấp ủy, chính quyền và phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành đẩy mạnh
phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và an
ninh nhân dân; đấu tranh ngăn chặn và giải quyết có hiệu quả các vụ việc phức tạp xảy ra trên địa bàn.
Công tác dân tộc, tôn giáo: Thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW và 25-NQ/TW, ngày 12-032003 (khóa IX), Nghị quyết 07-NQ/TU ngày 18-04-2003 về công tác dân tộc, tôn giáo, các cấp uỷ Đảng,

18


chính quyền đã quan tâm lãnh đạo, làm tốt công tác thăm hỏi động viên các chức sắc tôn giáo, già làng,
trưởng bản, tích cực giải quyết những vấn đề bức xúc mà nhân dân đặt ra, nên tình hình tôn giáo, dân tộc
trong tỉnh ổn định.
Tăng cường xây dựng khối đoàn kết giữa các tôn giáo, đồng bào các dân tộc trong khối đại đoàn
kết toàn dân, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở những nơi
có đông tín đồ tôn giáo và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Bổ sung, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ

máy, cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, dân tộc trên địa bàn tỉnh. Phát hiện ngăn chặn và
xử lý kịp thời những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc làm sai chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước. Thực hiện chính sách dân tộc và miền núi, giữ gìn và phát huy những giá trị bản sắc
văn hoá truyền thống của các dân tộc.
3.2.3. Hoạt động dân vận của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hội quần
chúng
Về tổ chức: Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân các cấp đã thực hiện nghiêm túc công tác
quy hoạch cán bộ giai đoạn 2000-2005 và 2005-2010, tổ chức thành công Đại hội nhiệm kỳ. Qua các
kỳ Đại hội có thể nhận thấy tính dân chủ, trí tuệ, đoàn kết; chất lượng Ban Chấp hành của các tổ chức
được nâng lên, tuổi đời bình quân thấp hơn, trình độ văn hóa, chính trị, chuyên môn ngày càng được
cải thiện.
Công tác xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở, phát triển đoàn viên, hội
viên, phát triển quỹ hội, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở được tiến hành thường xuyên và có
hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các hội quần chúng cũng hết sức coi trọng vấn đề đổi
mới về tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động. Với phương châm hướng về cơ sở, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể tập trung chỉ đạo củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các chi
đoàn, chi hội gắn với địa bàn cư dân; xây dựng nhiều mô hình hoạt động phù hợp với từng đối tượng
nên đã thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, như các câu lạc bộ, các tổ nhóm tự quản… nên
tỷ lệ tập hợp quần chúng vào các tổ chức đều tăng.
Về hoạt động: những năm qua, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã bám sát
nhiệm vụ chính trị của địa phương, tích cực đổi mới trong chỉ đạo, hướng mạnh các hoạt động về cơ sở,
thực hiện việc phối hợp với chính quyền và các ngành nên đã tổ chức được nhiều hoạt động có hiệu quả.
Một là, chú trọng làm tốt với công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục đoàn viên, hội viên
và nhân dân: phối hợp với các ngành liên quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục, vận
động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước… qua đó
nhận thức và ý thức tự giác chấp hành của nhân dân đã được tăng lên.
Hai là, đẩy mạnh các hoạt động và các phong trào hành động cách mạng, góp phần quan trọng
thực hiện có kết quả các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị.

19



Ba là, tiếp tục đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đoàn thanh niên cùng
các đoàn thể nhân dân đã phối hợp với Ban Chỉ huy quân sự làm tốt công tác vận động nhân dân thực
hiện nghĩa vụ quân sự. Phối hợp với các đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn duy trì tốt các hoạt động đoàn
kết quân dân.
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. Nhận xét chung
4.1.1. Về ưu điểm
Thứ nhất, các cấp uỷ Đảng đã chú trọng quán triệt các quan điểm của Đảng về công tác dân vận
và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn địa phương.
Thứ hai, các cấp chính quyền đã nâng cao chất lượng hoạt động, cụ thể hóa các Chỉ thị, Nghị
quyết của TW của Tỉnh ủy về công tác dân vận vào chương trình hoạt động của mình để thực hiện.
Thứ ba, MTTQ, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng được củng cố, kiện toàn về tổ chức,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, từng bước đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; phát huy được
vai trò trong việc chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên, xứng đáng là lực lượng nòng
cốt trong phong trào quần chúng và là cầu nối quan trọng giữa Đảng với nhân dân.
Thứ tư, hệ thống dân vận được củng cố, kiện toàn đã tham mưu cho cấp uỷ trong việc lãnh đạo,
chỉ đạo công tác dân vận, bao gồm cả công tác dân tộc và công tác tôn giáo.
Thứ năm, công tác dân vận ở Hà Tây đã góp phần ổn định tình hình ở cơ sở, tạo sự đồng thuận
trong nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn toàn dân trong tỉnh, thực hiện thắng lợi các
mục tiêu kinh tế - xã hội.
4.1.2 Hạn chế
Một là, cấp uỷ, chính quyền một số địa phương chưa thật sự quan tâm và đánh giá đúng mức tầm
quan trọng chiến lược của công tác dân vận.
Hai là, vai trò của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng chưa thực sự được phát huy
cao độ, hoạt động còn hình thức, chậm đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, chưa gắn với lợi ích thiết
thân của đoàn viên, hội viên.
Thứ ba, chưa coi trọng và làm tốt việc xây dựng, thực hiện quy chế phối hợp hoạt động giữa hệ

thống dân vận, Mặt trận, các đoàn thể với Hội đồng nhân, Uỷ ban nhân dân, các ban ngành có liên quan
trong công tác dân vận.
Thứ tư, đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận được củng cố, kiện toàn nhưng vẫn còn hạn chế, bất
cập về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phong cách làm việc.

20


4.2. Một số kinh nghiệm
4.2.1 Trong xác định chủ trương
Thứ nhất, công tác dân vận phải dựa vào dân, “lấy dân làm gốc”, hướng tới mục tiêu nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Thứ hai, phải nâng cao nhận thức của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và cán bộ đảng viên, công
chức, viên chức nhà nước về trách nhiệm, cũng như tầm quan trọng của công tác dân vận trong tình hình
mới.
Thứ ba, công tác dân vận phải bám sát chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước,
đồng thời vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn địa phương.
4.2.2 Trong tổ chức thực hiện
Thứ nhất, phải hết sức coi trọng việc tập hợp nhân dân vào các tổ chức, hội quần chúng; đồng
thời tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể, nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác dân vận.
Thứ hai, công tác dân vận phải gắn chặt với công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền
trong sạch, vững mạnh.
Thứ ba, phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, Mặt trận,
đoàn thể.
KẾT LUẬN
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quần chúng và công tác vận
động quần chúng, trong đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng
ta luôn coi công tác dân vận là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Trong mỗi bước ngoặt lịch sử, Đảng
luôn tỏ rõ trí tuệ, bản lĩnh chính trị vững vàng, biết dựa vào dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc, vượt

lên mọi chông gai thử thách, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng IX và Hội
nghị Trung ương bảy khoá IX đã khẳng định: củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là
đường lối chiến lược, nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định thắng lợi trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân Hà Tây đã nỗ lực phấn đấu làm
cho dân giàu, tỉnh mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những kết quả mà Hà Tây đạt được trong
những năm vừa qua có quan hệ mật thiết với chất lượng và hiệu quả công tác vận động quần chúng.
Nghiên cứu công tác vận dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Tây từ năm 1991 đến năm 2008, bước đầu có thể
rút ra kết luận là:
1. Trong giai đoạn 1991-2008, Đảng bộ tỉnh Hà Tây trên cơ sở vận dụng những quan điểm, chủ
trương về công tác dân vận của TW và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn ở địa phương, đã đề ra được những chủ

21


trương tích cực để khơi dậy mạnh mẽ phong trào hành động cách mạng trong quần chúng, thắt chặt hơn nữa
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Có thể nói, những chủ trương về đại đoàn kết; về công tác Mặt
trận, đoàn thể; về chính sách vận động, tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân; về dân tộc, tôn giáo; về thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã được hình thành rõ nét và đồng bộ và đi vào cuộc sống. Những chủ trương
này đã được cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, coi
trọng việc sơ, tổng kết rút kinh nghiệm.
2. Qua gần 20 năm lãnh đạo thực hiện công tác dân vận, Đảng bộ tỉnh Hà Tây đã đạt được
những thành tựu quan trọng: các cấp ủy Đảng đã chú trọng quán triệt các quan điểm của Đảng về
công tác vận động quần chúng và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn địa phương; chính quyền các cấp
đã cụ thể hoá một bước các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy về công tác dân vận vào
chương trình hoạt động của mình để chỉ đạo thực hiện; MTTQ, các đoàn thể nhân dân và các hội
quần chúng được củng cố kiện toàn về tổ chức, có nhiều cố gắng trong đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động, phát huy dược vai trò trong việc chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của đoàn viên,
hội viên, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong phong trào quần chúng và là cầu nối quan trọng giữa
Đảng với nhân dân; công tác quần chúng ở Đảng bộ tỉnh Hà Tây đã góp phần ổn định tình hình ở cơ

sở, tạo sự đồng thuận trong nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong
tỉnh, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội.
3. Mặc dù có nhiều cố gắng song công tác dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Tây thời kỳ này vẫn
không tránh khỏi những hạn chế thiếu sót. Cụ thể: cấp uỷ Đảng, chính quyền một số địa phương chưa
thực sự quan tâm, đánh giá đúng mức tầm quan trọng chiến lược của công tác dân vận, do đó, một số
nơi còn tồn tại tư tưởng “khoán trắng” công tác quần chúng cho Mặt trận, các đoàn thể. Vai trò của
Mặt trận, đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng có nơi chưa được phát huy; nội dung sinh hoạt
còn đơn giản, hình thức, không đáp ứng được lợi ích vật chất cũng như nhu cầu tinh thần của đoàn
viên, hội viên. Chưa coi trọng và làm tốt việc xây dựng, thực hiện quy chế phối hợp hoạt động giữa
hệ thống dân vận, Mặt trận, đoàn thể với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các ban ngành có liên
quan trong công tác vận động quần chúng. Đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận nhìn chung trình độ
năng lực còn hạn chế, chưa được đào tạo cơ bản về chuyên môn, lý luận, nhất là nghiệp vụ công tác
quần chúng; việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân còn chậm, thiếu chính xác, thậm trí
phản ánh không kịp thời, sai lệch.
4. Thực tiễn công tác vận động quần chúng của Đảng bộ tỉnh Hà Tây thời kỳ 1996-2005 đã để
lại một số kinh nghiệm quý báu. Đó là: công tác dân vận phải dựa vào dân, “lấy dân làm gốc”, hướng
tới mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; phải nâng cao nhận thức của các
cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể về trách nhiệm, cũng như tầm quan trọng chiến
lược của công tác dân vận trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; công tác dân vận

22


phải bám chặt chủ trương đường lối, chính sách của Trung ương, gắn chăm lo lợi ích của nhân dân
với động viên nhân dân xây dựng và thực hiện các nhiệm vụ ở địa phương; phải hết sức coi trọng
việc tập hợp nhân dân vào các tổ chức, hội quần chúng, đồng thời tiếp tục đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác vận động
quần chúng; phải thường xuyên chăm lo xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận cũng
như phải có chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với bộ phận cán bộ này.
5. Để đưa công tác dân vận đạt hiệu quả cao hơn, nhất là khi Hà Tây sát nhập vào Thủ đô Hà

Nội thì cần phải giải quyết tốt một số vấn đề đặt ra như: cần chú trọng đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục
trong cán bộ, đảng viên các Chỉ thị, Nghị quyết về dân vận của Đảng; tăng cường công tác lãnh đạo,
kiểm tra các cấp chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể nhân dân trong việc tiến hành công tác dân vận,
nhất là việc cụ thể hoá các Nghị quyết dân vận của Đảng; quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, kiện
toàn đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, Mặt trận, đoàn thể, nhất là cán bộ chủ chốt; công tác dân vận
phải bám sát địa bàn, nhạy bén để giải quyết kịp thời những vấn đề nảy sinh trong nhân dân.
Như vậy, phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những tồn tại hạn chế, vận dụng tốt
những kinh nghiệm và giải quyết triệt để những vấn đề đặt ra chắc chắn Đảng bộ Hà Nội sẽ lãnh đạo thực
hiện công tác vận động quần chúng ngày càng đi vào chiều sâu, nhằm phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.

23


DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Bùi Thị Hồng Thúy (2016), “Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo thực hiện công tác dân vận (20102015), Tạp chí Lịch sử Đảng (308), tr. 96-99.
2. Bùi Thị Hồng Thúy (2016), “Bài học kinh nghiệm về công tác dân vận của Đảng”, Tạp chí Giáo dục
lý luận (250), tr. 25-27.

24



×