Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN kết cấu hạ TẦNG TRONG xây DỰNG NÔNG THÔN mới ở TỈNH bắc NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.25 KB, 128 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Kinh tế thị trường
Kinh tế - xã hội
Mục tiêu quốc gia
Nông thôn mới
Trạm biến áp
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
CNH, HĐH
KTTT
KT - XH
MTQG
NTM
TBA
XHCN


MỤC LỤC
Trang
3

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ
TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH BẮC NINH
1.1. Những vấn đề chung về nông thôn, nông thôn mới và kết cấu


11

hạ tầng kinh tế - xã hội trong xây dựng nông thôn mới
1.2. Quan niệm, nội dung và nhân tố tác động đến phát triển kết

11

cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong xây dựng nông thôn mới ở
tỉnh Bắc Ninh
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG

24

KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI Ở TỈNH BẮC NINH
2.1. Thành tựu, hạn chế phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

37

trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh
2.2. Nguyên nhân thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra cần

37

giải quyết từ thực trạng phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KẾT CẤU

59


HẠ TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH BẮC NINH THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong

66

xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh thời gian tới
3.2. Giải pháp đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

66

trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh thời gian tới

71
87
89
97

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kết cấu hạ tầng là nền tảng vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng
trong quá trình phát triển KT - XH của một quốc gia cũng như mỗi vùng lãnh
thổ. Một quốc gia có kết cấu hạ tầng hiện đại và đồng bộ thì nền kinh tế quốc
gia đó có điều kiện để phát triển nhanh, ổn định và bền vững. Đối với khu vực
nông thôn, kết cấu hạ tầng chính là điều kiện, tiền đề, nền tảng vật chất cho

các hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống sinh hoạt của cư dân trên địa
bàn nông thôn. Đến nay, sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và hơn
20 năm đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, diện mạo nông thôn
Việt Nam đã có những sự thay đổi căn bản. Hạ tầng KT - XH được xây dựng
cơ bản, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện
và nâng cao rõ rệt, bộ mặt nông thôn thay đổi sạch đẹp và khang trang hơn.
Đó chính là kết quả của việc thực hiện một loạt các chủ trương, chính sách,
chương trình đúng đắn về nông nghiệp, nông thôn và nông dân thời gian qua,
đặc biệt là chương trình MTQG về xây dựng NTM.
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm trong tam
giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, đồng thời là cửa
ngõ phía Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội. Trong quy hoạch xây dựng, Bắc Ninh
thuộc vùng Thủ đô, là địa bàn chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Bắc Ninh
luôn dành sự quan tâm lớn cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT XH nói chung, kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM nói riêng. Theo
đó, việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM đã
và đang đóng góp tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, tổ chức đời sống xã
hội, nâng cao mức sống dân cư, củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất, tăng
cường tiềm lực quốc phòng an ninh trên địa bàn, tạo tiền đề cho nông thôn
phát triển nhanh và bền vững.

3


Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và
yêu cầu đặt ra. Chất lượng công tác quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng KT XH trong xây dựng NTM ở Bắc Ninh chưa cao; nguồn lực đầu tư còn hạn hẹp,
nhiều xã chưa động viên được các doanh nghiệp, nhân dân chung sức xây dựng
hạ tầng NTM; chất lượng một số công trình còn yếu kém, xuống cấp; việc quản
lý trong đầu tư xây dựng, khai thác, sử dụng, duy tu, bảo dưỡng còn hạn chế;
hiệu quả KT - XH trên thực tế của nhiều công trình chưa phát huy tốt; tình

trạng nợ đọng trong xây dựng cơ bản lớn;… Những hạn chế, yếu kém đó ảnh
hưởng không nhỏ đến tiến độ thực hiện chương trình xây dựng NTM, đẩy
mạnh sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn toàn Tỉnh.
Phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM ở tỉnh Bắc
Ninh trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN và hội nhập kinh tế
quốc tế ngày càng sâu, rộng như hiện nay không chỉ là vấn đề kinh tế - kỹ
thuật đơn thuần mà còn là vấn đề xã hội, có liên quan đến nhiều cấp, ngành,
lĩnh vực, tổ chức, lực lượng khác nhau. Vì thế, rất cần những công trình
nghiên cứu luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho
đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Bắc Ninh trong xác định các chủ
trương, biện pháp phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn, góp phần
thực hiện thành công MTQG về xây dựng NTM, đẩy mạnh CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh” làm luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM là một nội
dung quan trọng trong đề án nhằm thay đổi tích cực và toàn diện bộ mặt nông
thôn Việt Nam. Vì vậy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu ở những phạm
vi, góc độ tiếp cận khác nhau, trong đó tiêu biểu như:
* Bàn về phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH nói chung có các công trình:

4


Nguyễn Đức Độ (2002), Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và vai trò của
nó đối với củng cố quốc phòng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học
viện Chính trị - Quân sự, Hà Nội. Trong công trình này, tác giả trình bày các đặc
trưng và tính tất yếu khách quan phải phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, phân tích
thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò

của kết cấu hạ tầng kinh tế đối với việc củng cố quốc phòng ở Việt Nam.
Nguyễn Lương Thành (2006), Tăng cường huy động vốn đầu tư xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội Bắc Ninh trong thời kỳ
đổi mới, thực trạng - kinh nghiệm và giải pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại
học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. Tác giả đã phân tích hiện trạng huy động vốn
cho đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH ở tỉnh Bắc Ninh, trên cơ sở
đó đề xuất giải pháp đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường
chính trị, pháp lý, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn.
Ngân hàng thế giới tại Việt Nam (2006), Chiến lược cơ sở hạ tầng Những vấn đề liên ngành, Hà Nội. Công trình đã khẳng định: Thành tựu của
nền kinh tế Việt Nam trong khoảng một thập niên trước đó có được là nhờ
một phần quan trọng ở mức đầu tư cao dành cho cơ sở hạ tầng. Khoảng 910% GDP hàng năm được đầu tư vào ngành giao thông, năng lượng, viễn
thông, nước và vệ sinh, một tỷ lệ đầu tư cơ sở hạ tầng cao so với chuẩn quốc
tế. Đồng thời, cũng xác định, Việt Nam cần tiếp tục phát triển và điều chỉnh
Chiến lược này theo những thách thức mới nảy sinh.
Nguyễn Quang Vinh (2015), “Phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam”,
Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 217. Bài viết đã phân tích và đánh giá những
thành tựu, hạn chế trong phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam trong thời gian
qua. Đồng thời, đưa ra các giải pháp để đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng
đảm bảo phát triển bền vững trong những năm tiếp theo.
* Bàn về phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn có các công trình:

5


Đỗ Hoài Nam, Lê Cao Đoàn (2001), Xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, sách tham khảo,
nhà xuất bản Khoa học xã hội. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích
những vấn đề lý luận cơ bản về hạ tầng, phát triển hạ tầng ở nông thôn và đi
sâu nghiên cứu thực trạng phát triển hạ tầng cơ sở ở nông thôn. Đề xuất các
giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng, trong đó nhấn mạnh xây dựng và hoàn thiện

hệ thống cơ chế, chính sách là giải pháp mang tính đột phá.
Nguyễn Sỹ (2007), Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1986 đến nay - thực trạng, kinh
nghiệm và giải pháp, Luận án tiến sĩ, trường Đại Học Kinh tế quốc dân. Công
trình này đi sâu nghiên cứu lí luận về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và
kinh nghiệm trong và ngoài nước. Đánh giá thực trạng CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1986 - 2006. Đồng thời, đề xuất
phương hướng và giải pháp đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015.
Nguyễn Đức Tuyên (2008), Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông
thôn tỉnh Bắc Ninh, kinh nghiệm và giải pháp, Luận án tiến sĩ, Đại học Kinh
tế quốc dân, Hà Nội. Ở công trình này, tác giả đi sâu luận giải cơ sở lý luận và
kinh nghiệm thực tiễn về phát triển hạ tầng KT - XH nông thôn; làm rõ thực
trạng xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn từ 1997 đến 2007. Đồng
thời, đề xuất các chính sách và giải pháp tiếp tục thúc đẩy phát triển hạ tầng
KT - XH ở nông thôn tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.
Nguyễn Quang Minh (2011), Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế nông thôn
trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Thanh Hóa hiện
nay, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị. Công trình này đi sâu làm rõ sự
khác biệt, nội dung, sự cần thiết và những điểm mới trong phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế nông thôn trong điều kiện nền KTTT định hướng XHCN.
* Bàn về phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM có:

6


Lê Xuân Tâm (2014), Phát triển làng nghề tỉnh Bắc Ninh trong bối
cảnh xây dựng nông thôn mới, Luận án tiến sĩ Kinh tế nông nghiệp, Học viện
Nông nghiệp Việt Nam. Trong công trình này, tác giả đã phân tích cơ sở lí
luận và thực tiễn phát triển làng nghề gắn với chương trình xây dựng NTM;

đánh giá thực trạng, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển làng nghề
gắn với chương trình xây dựng NTM, đề xuất một số giải pháp phát triển làng
nghề Bắc Ninh gắn với chương trình xây dựng NTM đến năm 2020.
Mai Diệu Thúy (2014), Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới tại huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc
Giang, Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị, trường Đại học Kinh tế. Công trình
này, tác giả đã trình bày các bộ phận hợp thành, yêu cầu, vai trò của phát triển
hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH đối với khu vực nông thôn. Trên cơ sở đánh
giá thực trạng, tác giả đã đề xuất các giải pháp phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng KT - XH ở huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
Nguyễn Quang Dũng (2014) “Cơ sở hạ tầng nông thôn năm năm nhìn
lại”, Tạp chí Kiến Trúc Việt Nam, trong bài viết này, tác giả đã đánh giá cụ thể
những thành tựu về phát triển cơ sở hạ tầng sau 5 năm triển khai chương trình
xây dựng NTM. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển cơ sở hạ
tầng, đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM hiện nay.
Ngô Tuấn Hải (2014), Quản lý nhà nước về xây dựng kết cấu hạ tầng
theo chương trình xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ
Quản lý kinh tế, Trường Đại học Kinh tế. Tác giả phân tích, đánh giá thực
trạng công tác quản lý xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn theo chương trình
MTQG về xây dựng NTM. Đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác này ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn tiếp theo.

7


Nguyễn Xuân Đương (2015), Thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào
nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh. Công trình này đã giới thiệu những vấn đề lý luận và kinh
nghiệm chính quyền Tỉnh trong thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào nông
nghiệp. Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm thu hút đầu tư của

doanh nghiệp vào nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.
Nguyễn Văn Hùng (2015), Xây dựng nông thôn mới trong phát triển kinh
tế - xã hội ở tỉnh Bắc Ninh, Luận án tiến sĩ, Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác
giả trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng NTM cấp tỉnh; đánh giá
thực trạng xây dựng NTM ở Bắc Ninh từ 2010 - 2015; trên cơ sở đó, chỉ ra
phương hướng và các giải pháp nhằm xây dựng NTM đến năm 2020, trong đó
lồng ghép các nội dung về phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH khi phân tích.
Trịnh Thị Thu Bình (2015), Huy động vốn cho xây dựng nông thôn mới ở
thành phố Hải Phòng hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính
trị, Hà Nội. Ở công trình này, trên cơ sở phân tích cơ sở lý luận và đánh giá thực
trạng huy động vốn cho xây dựng NTM ở thành phố Hải Phòng thời gian qua, tác
giả đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm huy động các nguồn vốn phục vụ xây dựng
NTM ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới, trong đó đầu tư cho phát triển kết
cấu hạ tầng KT - XH được xác định là một nội dung quan trọng.
Lê Văn Dũng (2016), Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế trong xây dựng
nông thôn mới ở tỉnh Đồng Tháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện
Chính trị. Ở công trình này, tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế trong xây dựng NTM ở tỉnh Đồng Tháp. Đánh giá thực
trạng và đề xuất giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế
trong xây dựng NTM ở tỉnh Đồng Tháp thời gian tới. Trong đó xác định huy
động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là giải pháp có tính đột phá.

8


Như vậy, xung quanh vấn đề phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH nói
chung và phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn, NTM nói riêng, đã có
rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu, luận giải, tiếp cận ở phạm vi, mức
độ và góc cạnh khác nhau. Trong đó, các tác giả đã khẳng định được vai trò,
đánh giá thực trạng, làm rõ nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm và đề

xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH cũng
như phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn, thực hiện thắng lợi MTQG
về xây dựng NTM. Tuy nhiên, cho đến nay, nhất là kể từ sau khi triển khai
thực hiện đề án xây dựng NTM, chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện, có hệ thống về phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây
dựng NTM ở tỉnh Bắc Ninh. Do vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh”
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần đề xuất các giải pháp tiếp tục
đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM tỉnh Bắc
Ninh thời gian tới, đề tài hoàn toàn không trùng lắp với bất kỳ công trình nào
đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong
xây dựng NTM, từ đó đề xuất các quan điểm và giải pháp đẩy mạnh phát triển
kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM ở tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải cơ sở lý luận về phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong
xây dựng NTM.
- Đánh giá thực trạng phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây
dựng NTM ở tỉnh Bắc Ninh thời gian qua, xác định nguyên nhân và những
vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kết cấu
hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM ở tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

9


* Đối tượng nghiên cứu

Phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM dưới góc độ
khoa học kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu hạ tầng giao thông nông
thôn, thủy lợi, điện, trạm y tế, chợ, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, bưu
điện và nhà ở dân cư.
- Về không gian: Phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng
NTM trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích và khảo sát số
liệu ở các sở, ban, ngành, thành phố, huyện, thị xã của tỉnh Bắc Ninh từ năm
2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng, các chỉ thị, nghị
quyết, hướng dẫn của cấp ủy đảng và chính quyền các cấp tỉnh Bắc Ninh về
phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM.
* Cơ sở thực tiễn
Dựa trên kết quả điều tra, khảo sát về thực trạng phát triển kết cấu hạ
tầng KT - XH trong xây dựng NTM ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 2010 đến 2016.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính
trị Mác - Lênin là trừu tượng hóa khoa học, đồng thời kết hợp phương pháp
lôgíc - lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
6. Ý Nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc xác định chủ
trương, biện pháp phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM ở
tỉnh Bắc Ninh từ nay đến năm 2020.


10


- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo, học tập, nghiên cứu, giảng dạy môn kinh tế chính trị Mác - Lênin.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

11


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH BẮC NINH

1.1. Những vấn đề chung về nông thôn, nông thôn mới và kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội trong xây dựng nông thôn mới
1.1.1. Quan niệm về nông thôn, nông thôn mới
* Nông thôn
Cho đến nay, do có sự khác nhau về điều kiện tự nhiên và điều kiện
KT - XH nên ở các nước khác nhau, quan niệm về nông thôn cũng khác
nhau. Ở Việt Nam, để hiểu về nông thôn, người ta thường đem so sánh nó
với khái niệm đô thị. Tuy nhiên, khi đem so sánh với đô thị, nông thôn
cũng được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau. PGS. TS Nguyễn Ngọc Nông
khi căn cứ vào điều kiện thực tế và xem xét ở góc độ quản lý cho rằng “Nông
thôn là vùng khác với thành thị, ở đó một cộng đồng chủ yếu là nông dân
sống và làm việc, có mật độ dân cư thấp, có kết cấu hạ tầng kém phát triển, có
trình độ dân trí, trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hóa thấp hơn”
[33, tr.62]. Tiếp cận ở góc độ ngành sản xuất vật chất chủ yếu thì PGS. TS Đỗ

Hoài Nam lại cho rằng “Nông thôn là khái niệm dùng để chỉ những khu vực dân
cư sinh hoạt có hoạt động nông nghiệp, dựa trên hoạt động nông nghiệp” [31,
tr.16]. Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp & Phát triển
nông thôn nhấn mạnh ở góc độ quản lý lại cho rằng: “Nông thôn là phần lãnh
thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý
bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã” [10, tr.1].

12


Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về nông thôn, nhưng tựu chung
các quan điểm này đều thống nhất khi cho rằng: Nông thôn được hiểu là một
vùng lãnh thổ hàm chứa những đặc trưng riêng biệt so với vùng đô thị, thể hiện
ở chỗ: (1) nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của một cộng đồng chủ yếu
là nông dân, sản xuất nông nghiệp là cơ bản, ngoài ra còn có các hoạt động sản
xuất và phi sản xuất khác phục vụ chủ yếu cho nông nghiệp và nông dân; (2) so
với đô thị, nông thôn là vùng có kết cấu hạ tầng kém phát triển hơn, trình độ
sản xuất hàng hóa và tiếp cận thị trường thấp hơn. Chính vì thế, nông thôn chịu
sức hút của đô thị về nhiều mặt, cư dân nông thôn thường hay đổ xô về thành
thị để tìm kiếm việc làm và các cơ hội sống tốt hơn; (3) so với đô thị, thu nhập
và đời sống cũng như trình độ văn hóa, khoa học công nghệ ở nông thôn thấp
hơn; (4) nông thôn thường giàu tài nguyên thiên nhiên nhưng rất đa dạng về
KT - XH, các hình thức tổ chức quản lý và quy mô, trình độ phát triển. Như
vậy, khái niệm nông thôn cũng chỉ mang tính tương đối, một vùng nông thôn
có thể thay đổi theo thời gian và theo tiến trình phát triển KT - XH của mỗi
quốc gia cũng như từng địa phương.
Từ sự phân tích này, tác giả cho rằng: Nông thôn là khái niệm dùng để
chỉ một vùng lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị
trấn, là địa bàn cư trú chủ yếu của cư dân hoạt động trong lĩnh vực nông,
lâm, ngư, diêm nghiệp và một số ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, ở đó trình

độ phát triển mọi mặt cơ bản thấp hơn đô thị, là địa bàn mang đậm những nét
văn hóa truyền thống của quê hương và con người Việt Nam.
* Nông thôn mới

13


Tại Nghị quyết 26, Trung ương 7 (khóa X), ngày 5/8/2008 về “Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn”, Đảng ta xác định: “Xây dựng NTM có kết cấu hạ
tầng KT - XH hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý,
gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy
hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng
cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự
lãnh đạo của Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên
minh công nhân - nông dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng KT - XH và chính
trị vững chắc cho sự CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN” [17, tr.3]. Theo đó, NTM trước hết được hiểu là một vùng nông thôn
hàm chứa trong đó cả yếu tố truyền thống trên mọi phương diện cả về lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội lẫn quốc
phòng - an ninh. Đồng thời, có những bước phát triển, đổi thay mới theo hướng
văn minh, hiện đại và bền vững. Ở đó, cơ cấu kinh tế không chỉ đơn thuần là các
ngành nông, lâm, ngư và diêm nghiệp mà còn phát triển các ngành công nghiệp,
thương mại, dịch vụ, du lịch... Bên cạnh sự thay đổi về mặt kinh tế, đời sống văn
hóa tinh thần của người dân cũng được cải thiện và nâng cao rõ rệt.
Như vậy, mô hình NTM không phải là phép cộng đơn thuần mà là tổng
thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo
những tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu đặt ra cho nông thôn trong điều kiện
hiện nay. Nó chính là kiểu nông thôn được xây dựng dựa trên mô hình nông
thôn cũ (truyền thống, đã có) nhưng ở cấp độ cao hơn, tiên tiến hơn về mọi
mặt. Vì lẽ đó, để xây dựng NTM thành công phải huy động sức mạnh tổng

hợp và dựa trên những nội dung, tiêu chí rõ ràng, cụ thể.

14


Nhận thức sâu sắc vấn đề này, ngày 16/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã
ký Quyết định số 491/QĐ-TTg “Về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về
NTM”. Tiếp đó, ngày 20/02/2013, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số
342/QĐ-TTg “Về việc sửa đổi một số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về
NTM”. Theo quyết định này, một xã được công nhận là xã NTM phải đạt chuẩn
19 tiêu chí khác nhau, trong đó có: 1 tiêu chí về quy hoạch, 8 tiêu chí về hạ tầng
KT - XH, 4 tiêu chí về phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất, 4 tiêu chí về văn
hoá - xã hội - môi trường và 2 tiêu chí về hệ thống chính trị; huyện NTM khi có
75% số xã đạt chuẩn NTM; tỉnh NTM khi có 80% số huyện trong tỉnh đạt NTM.
1.1.2. Quan niệm, đặc điểm và vai trò của kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong xây dựng nông thôn mới
* Quan niệm về kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM
- Kết cấu hạ tầng KT - XH
Kết cấu hạ tầng là thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng la-tinh là
“Infrastructura”, là thuật ngữ ghép của hai từ “Infra” (có nghĩa là cơ sở, nền
móng, nền tảng, phần ở dưới, hay còn gọi là “hạ tầng”) và “Structura” (kết
cấu, cơ cấu, cấu trúc hay kiến trúc). Trong tiếng Anh được viết là
“Infrastructure”, tiếng Đức là “Infrastruktur).

15


Ở Việt Nam, thuật ngữ này cũng chưa có sự thống nhất trong cách sử
dụng. Có quan niệm đã đồng nhất kết cấu hạ tầng với “Cơ sở hạ tầng” hoặc
“Hạ tầng cơ sở” thuộc phạm trù “Cơ sở hạ tầng” và “Kiến trúc thượng tầng”
trong triết học. Tuy nhiên, cần phân biệt rằng: Với tư cách là một phạm trù

triết học, thuật ngữ “Cơ sở hạ tầng” hoặc “Hạ tầng cơ sở” có sự khác biệt với
phạm trù “Cơ sở hạ tầng” hay kết cấu hạ tầng thường sử dụng trong lĩnh vực
kinh tế. Theo đó, “Cơ sở hạ tầng trong chủ nghĩa duy vật lịch sử là tổng hợp
những quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định”
[82]. Thông thường, cơ sở hạ tầng của một xã hội ở một giai đoạn lịch sử bao
gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư, quan hệ sản xuất
mầm mống (tương lai), trong đó, quan hệ sản xuất thống trị quy định, chi phối
các quan hệ sản xuất còn lại. Còn phạm trù kết cấu hạ tầng thường sử dụng
trong lĩnh vực kinh tế, chính là cơ sở vật chất làm nền tảng cho các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt như điện, đường, trường, trạm,...
Trước đây, thuật ngữ “Cơ sở hạ tầng sản xuất” đã từng được sử dụng để
chỉ các công trình không trực tiếp liên quan nhưng cần thiết cho quá trình sản
xuất của cải vật chất như nhà xưởng, hệ thống giao thông, liên lạc, cấp thoát
nước [84, tr.619]. Tuy nhiên, khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ những nội
dung của nó, thậm chí quá nhấn mạnh đến yếu tố kinh tế - kỹ thuật mà thiếu
quan tâm về mặt xã hội. Do vậy, kể từ sau khi đổi mới, trong các văn kiện
Đảng, người ta đã sử dụng thuật ngữ “Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội” thay
cho thuật ngữ “Cơ sở hạ tầng sản xuất”. Theo đó, kết cấu hạ tầng được hiểu là
nền tảng vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển KT XH của quốc gia, cũng như mỗi vùng lãnh thổ.

16


Đến nay, vẫn còn rất nhiều quan niệm khác nhau về kết cấu hạ tầng.
Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Nông thì “Cơ sở hạ tầng là tổng thể các ngành
kinh tế, các ngành công nghệ dịch vụ” [33, tr.153]. Theo quan niệm này, cơ sở
hạ tầng hay kết cấu hạ tầng bao gồm: Việc xây dựng đường xá, sân bay, kho
tàng, cầu cống, bãi cảng, cơ sở cung cấp năng lượng, cơ sở kinh doanh, giao
thông vận tải, bưu điện, cơ sở cấp thoát nước, các cơ sở khoa học, giáo dục, y
tế, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ,... Còn TS Mai Thanh Cúc lại cho rằng, cơ sở hạ

tầng là “Hệ thống các công trình làm nền tảng cung cấp những yếu tố cần thiết
cho phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc sống” [16, tr.65]. Quan
niệm này chỉ rõ, cơ sở hạ tầng bao gồm: Hệ thống cung cấp năng lượng, giao
thông, thông tin liên lạc, cung cấp nước tưới tiêu và phòng chống lụt bão, cung
cấp các dịch vụ thiết yếu cho người lao động như y tế, giáo dục,... Còn theo
PGS.TS Đỗ Hoài Nam và TS Lê Cao Đoàn thì cơ sở hạ tầng “Là khái niệm
dùng để chỉ những phương tiện làm cơ sở nhờ đó các quá trình công nghệ, quá
trình sản xuất và các dịch vụ được thực hiện” [31, tr.14]. Ở góc độ khái quát
hơn, tác giả Lê Du Phong lại cho rằng kết cấu hạ tầng là “Tổng hợp các yếu tố
và điều kiện vật chất - kỹ thuật được tạo lập và tồn tại trong mỗi quốc gia, là
nền tảng và điều kiện chung cho các hoạt động KT - XH...” [34, tr.5].
Như vậy, tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng tựu chung lại các
quan niệm này đều thống nhất rằng: Kết cấu hạ tầng là những yếu tố vật chất
làm nền tảng cho các quá trình sản xuất và đời sống xã hội tồn tại, phát triển.

17


Dưới góc độ kinh tế chính trị, có thể quan niệm: Kết cấu hạ tầng là
tổng thể các công trình, thiết bị giữ vai trò là tiền đề vật chất - kỹ thuật, là cơ
sở, nền tảng chung cho hoạt động sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nó chính là
bộ phận đặc thù của cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền kinh tế quốc dân, có
chức năng cơ bản là đảm bảo những điều kiện chung cần thiết cho quá trình
sản xuất và tái sản xuất mở rộng được diễn ra bình thường, liên tục. Vì để quá
trình sản xuất và tái sản xuất diễn ra bình thường, liên tục, cần phải có 3 yếu
tố căn bản là người lao động, tư liệu sản xuất và công nghệ. Trong tư liệu sản
xuất, bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là những cơ sở
phương tiện chung nhờ đó mà quá trình công nghệ, sản xuất và dịch vụ được
thực hiện chính là kết cấu hạ tầng.
Ngày nay, vai trò nền tảng của kết cấu hạ tầng càng tăng lên cùng với

sự phát triển của khoa học và công nghệ, nó không còn chỉ được đánh giá
dưới góc độ kinh tế - kỹ thuật mà còn được xem xét kỹ lưỡng ở cả góc độ xã
hội. Do vậy, gắn với mỗi lĩnh vực, mỗi ngành, mỗi vùng lãnh thổ luôn là một
kết cấu hạ tầng tương ứng, mang tính đặc thù. Nói cách khác, kết cấu hạ tầng
có thể được phân chia thành nhiều loại dựa trên các tiêu chí khác nhau. Trong
nhiều công trình nghiên cứu gần đây, các tác giả thường phân chia kết cấu hạ
tầng thành hai loại cơ bản.
Một là, kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật: Gồm các công trình hạ tầng kỹ
thuật như: giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông,
đường hàng không, đường ống), năng lượng (điện, than, dầu khí) phục vụ sản
xuất và đời sống, bưu chính - viễn thông, các công trình thuỷ lợi phục vụ sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp,… Nó là bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh
tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, ổn định, bền vững, tạo động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế. Do vậy, có thể nói kết cấu hạ tầng kỹ thuật có vai
trò đặc biệt quan trọng khi đánh giá mức độ phát triển về KT - XH của một
quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương cụ thể.

18


Hai là, kết cấu hạ tầng xã hội: Gồm hệ thống các công trình và thiết bị
vật chất kỹ thuật bảo đảm trực tiếp cho phát triển xã hội như nhà ở, y tế, văn
hoá, các cơ sở trường học,... Kết cấu hạ tầng xã hội là tập hợp các ngành có
tính chất dịch vụ xã hội, sản phẩm do chúng tạo ra thường thể hiện dưới hình
thức dịch vụ và mang tính công cộng, liên quan đến sự phát triển cả về thể
chất và tinh thần của con người, là điều kiện thiết yếu để phục vụ cho đào tạo
nguồn nhân lực, nâng cao mức sống của cộng đồng dân cư.
Việc phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối, vì trên thực tế, không
có một công trình nào thuộc kết cấu hạ tầng lại chỉ phục vụ đơn thuần cho mục
đích kinh tế mà không phục vụ cho mục đích xã hội và ngược lại. Do vậy, khi

đề cập đến khái niệm kết cấu hạ tầng KT - XH, theo tác giả cần phải hiểu nó
một cách toàn diện nhất. Theo đó, kết cấu hạ tầng KT - XH là khái niệm được
sử dụng để chỉ những hạ tầng có tính đa năng vừa phục vụ cho lĩnh vực kinh
tế, vừa phục vụ cho lĩnh vực xã hội. Nó chính là tổng thể các công trình, thiết
bị đóng vai trò tạo nền tảng vật chất kỹ thuật cho các hoạt động KT - XH của
một vùng lãnh thổ hoặc một quốc gia nhất định.
- Kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn
Bàn về kết cấu hạ tầng KT - XH ở nông thôn, có quan niệm đã cho
rằng: “Kết cấu hạ tầng KT - XH thuộc quyền sở hữu chung của làng, xã do
làng, xã sử dụng chung vì mục đích phát triển KT - XH của làng” [31, tr.19].
Tuy nhiên, thực tế có rất nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng đa năng, có
tác động lan tỏa lớn, phục vụ không chỉ của riêng cho hoạt động KT - XH của
một làng, xã, huyện mà cho nhiều làng, xã, huyện khác nhau như: Hệ thống
đường giao thông liên huyện, liên xã, hệ thống thủy nông,... Những công trình
này vẫn thuộc phạm vi của kết cấu hạ tầng nông thôn. Chỉ khác ở chỗ, nó
thường thuộc quyền quản lý của các ban, ngành thuộc bộ máy chính quyền
cấp huyện, hoặc theo ngạch dọc. Với cách hiểu đó, rõ ràng quan niện trên đây
không bao quát được nội dung của kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn.

19


Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, theo tác giả: Kết cấu hạ tầng KT
- XH nông thôn là tổng thể các công trình, thiết bị giữ vai trò nền tảng vật
chất cho sự phát triển KT - XH của khu vực nông thôn. Nó chính là một trong
những tiêu chí tổng hợp để đánh giá mức độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
trên địa bàn này. Bất kỳ khu vực nông thôn nào muốn phát triển nhanh, bền
vững đều cần phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh và đồng bộ.
Như vậy, kết cấu hạ tầng KT - XH ở nông thôn cũng bao gồm có 2 bộ phận:
Một là, kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật gồm: Hệ thống giao thông nông

thôn (các tuyến đường liên huyện, liên xã, liên thôn, liên bản,...); hệ thống thủy
lợi (các đập giữ nước, các trạm bơm tưới, tiêu, hệ thống đê sông, biển, hệ thống
kênh mương nội đồng,...); hệ thống cung cấp điện (mạng lưới đường dây tải
điện từ nguồn cung cấp, hệ thống các trạm hạ thế, phân phối điện,...); hệ thống
thông tin liên lạc (mạng lưới bưu điện, điện thoại, internet, mạng lưới truyền
thanh,...); hệ thống hạ tầng các cụm công nghiệp, làng nghề, đô thị nông thôn.
Hai là, kết cấu hạ tầng xã hội gồm: Các cơ sở y tế (bệnh viện huyện,
phòng khám đa khoa, trung tâm y tế dự phòng, trạm y tế xã, cơ sở khám chữa
bệnh y học cổ truyền, cơ sở cung cấp, kinh doanh dược phẩm, thuốc chữa
bệnh,...); cở sở giáo dục đào tạo (các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ
sở, trung học phổ thông, các trường dạy nghề, cơ sở đào tạo nghề); hệ thống
công trình văn hóa và các phúc lợi xã hội (trung tâm văn hóa huyện, nhà văn
hóa xã, thôn, đình, chùa, trạm bưu điện văn hóa xã,...) và nhà ở dân cư.
- Kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM

20


Kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM chính là một bộ phận
nằm trong chương trình xây dựng NTM ở nước ta hiện nay. Nó cũng bao gồm
tổng thể các công trình, thiết bị giữ vai trò là nền tảng vật chất cho sự phát
triển KT - XH của khu vực nông thôn như: Hệ thống giao thông, thủy lợi,
điện, thông tin liên lạc, trạm y tế xã, cở sở hạ tầng trường học, các công trình
nhà văn hóa, bưu điện văn hóa xã, chợ nông thôn, nhà ở dân cư... Nhưng phải
đảm bảo yêu cầu ở một mức độ nhất định theo chuẩn NTM. (Vấn đề này, tác
giả sẽ làm rõ ở phần nội dung phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây
dựng NTM tại tiểu tiết 1.2.2).
Trên thực tế, hiện vẫn còn tồn tại 2 khái niệm khác nhau nhưng về thực
chất nội dung của chúng vẫn là một đó là “Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội”
trong xây dựng NTM và “Hạ tầng kinh tế - xã hội” trong xây dựng NTM. Tại

Quyết định số 800/QĐ-TTg “Phê duyệt chương trình MTQG về xây dựng
NTM giai đoạn 2010 - 2020” và Quyết định số 491/QĐ-TTg “Về việc ban hành
Bộ tiêu chí quốc gia về NTM” đều ghi là “Hạ tầng kinh tế - xã hội”. Còn trong
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đều dùng “Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội”. Vấn
đề này cần được hiểu là: Hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM chính là cơ
sở, nền móng, hay là phần dưới để tạo nền tảng vật chất kỹ thuật cho xây
dựng NTM. Còn đề cập đến kết cấu hạ tầng KT - XH, ngoài ý nghĩa đó còn
muốn nhấn mạnh đến yếu tố về mặt kiến trúc, cấu trúc hay cơ cấu của hệ
thống hạ tầng KT - XH. Do vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả
thống nhất cao với Văn kiện Đại hội XII của Đảng và Văn kiện Đại hội Đảng
bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XIX, dùng “Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội” để
đánh giá đúng sự phát triển của hệ thống này trong quá trình xây dựng NTM ở
tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Như vậy, có thể hiểu: Kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM là
tổng thể các công trình, thiết bị giữ vai trò là nền tảng vật chất cho sự phát
triển KT - XH trên địa bàn NTM. Nó vừa là kết quả, vừa là động lực thúc đẩy
quá trình xây dựng NTM trên pham vi cả nước.

21


* Đặc điểm, vai trò của kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM
- Đặc điểm kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM
Một là, kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM mang tính xã hội hóa cao.
Tính xã hội hóa cao thể hiện ở chỗ: Hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH
trong xây dựng NTM có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều lĩnh vực, cấp, ngành, địa
phương, phục vụ cho nhiều đối tượng khác nhau. Đây đồng thời cũng là những
công trình thường có quy mô, đòi hỏi nguồn lực đầu tư lớn. Cho nên, khi triển
khai xây dựng hệ thống này, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương xã hội hóa
ngay từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch đến triển khai huy động, phân bổ nguồn

lực, tiến hành đầu tư xây dựng và đưa vào khai thác, sử dụng. Do vậy, khi triển
khai đầu tư xây dựng bất kỳ một hạng mục công trình nào thuộc kết cấu hạ tầng
KT - XH trong xây dựng NTM đều có sự tham gia của nhiều tổ chức, lực
lượng, cả Nhà nước và cộng đồng dân cư, cả nhà đầu tư trong và ngoài nước;
hướng tới phục vụ cho nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội mà trực tiếp là
cư dân trên địa bàn nông thôn.
Hai là, kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM có tính hiện đại.
Kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM là nền tảng vật chất để
xây dựng NTM thành công, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn trong điều kiện KTTT định hướng XHCH và hội nhập kinh tế quốc
tế, do vậy, việc đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng trên địa bàn này
luôn đi trước một bước so với các nội dung khác trong chương trình NTM.
Quá trình đầu tư xây dựng phải nghiên cứu và ứng dụng thành tựu mới nhất
của khoa học, công nghệ và tuân thủ nghiêm các yêu cầu về mặt kỹ thuật đối
với các hạng mục công trình. Ví dụ như áp dụng tiêu chuẩn TCVN
10380:2014 để đánh giá chất lượng hạ tầng giao thông nông thôn,… Do vậy,
kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM luôn thể hiện tính hiện đại so
với kết cấu hạ tầng KT - XH của khu vực nông thôn cũ trước đây.
Ba là, kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM có tính hệ thống,
đồng bộ cao.

22


Tính hệ thống, đồng bộ của kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng
NTM được biểu hiện ở chỗ: Quá trình triển khai xây dựng các công trình giữa
địa phương với nhau, trong từng địa phương cụ thể và giữa các bộ phận cấu
thành kết cấu hạ tầng được xây dựng, tạo thành một hệ thống liên hoàn, đồng
bộ, quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng thúc đẩy nông thôn phát triển. Trong điều
kiện chưa thể triển khai cùng lúc các công trình, các địa phương luôn tính

toán đến các phương án dự trù cho xây dựng các công trình sau đó để bảo
đảm tính hệ thống, đồng bộ. Ví dụ, xây dựng đường giao thông phải tính toán
đến vị trí đặt các trạm điện, đường nước, hệ thống cầu, cống,…
Bốn là, kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM có tính lưỡng dụng cao.
Nghĩa là, ngoài đáp ứng cho yêu cầu phát triển KT - XH thì các công
trình này còn phục vụ cho mục đích quốc phòng an ninh địa bàn NTM. Do
vậy, khi tiến hành công tác quy hoạch, nhất là quy hoạch hệ thống đường giao
thông, thủy lởi, điện, thông tin liên lạc,… các địa phương luôn tính toán đồng
thời vừa đảm bảo phù hợp với những mục tiêu, yêu cầu phát triển KT - XH,
trực tiếp là xây dựng NTM, vừa đáp ứng những yêu cầu cơ bản của quốc
phòng - an ninh, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân,
khu vực phòng thủ Tỉnh, huyện (thành phố) trong tình hình mới. Trong điều
kiện hòa bình, các công trình này làm tiền đề vật chất thúc đẩy cho sự phát
triển của các hoạt động KT - XH ở nông thôn, khi có chiến tranh xảy ra có thể
huy động sự phục vụ của chúng cho nhiệm vụ quốc phòng an ninh, đảm bảo
tác chiến thắng lợi trong mọi tình huống.
- Vai trò của kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM
Thứ nhất, kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM tạo nền tảng
cơ sở vật chất vững chắc, bảo đảm xây dựng NTM thành công.

23


Để xây dựng NTM thành công, trước hết phải đầu tư xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng KT - XH: Giao thông nông thôn, điện, đường, trường,
trạm,… Qua đó, tác động trực tiếp đến việc thúc đẩy tăng trưởng, phát triển
kinh tế, thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh, gắn kết thị trường nông
thôn với các vùng khác, tạo việc làm, cải thiện và nâng cao thu nhập, phát
triển các hình thức tổ chức sản xuất, cải thiện môi trường, góp phần phát triển
giáo dục, y tế, củng cố hệ thống tổ chức chính trị, bảo đảm an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội trên địa bàn nông thôn, bảo đảm cho thành công của
chương trình MTQG về xây dựng NTM.
Trên thực tế, địa phương nào có hệ thống kết cấu hạ tầng tốt, thì ở đó sản
xuất phát triển nhanh, bền vững, khả năng giao lưu hàng hóa, thị trường được
mở rộng, các loại hình tổ chúc sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh
tế được kích thích phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được
nâng lên rõ rệt. Nhiều địa phương, chỉ mất một khoảng thời gian ngắn, sau khi
hoàn thành các tiêu chí về kết cấu hạ tầng KT - XH đã có thể hoàn thành các
tiêu chí khác và xây dựng NTM thành công. Ngược lại, tại những vùng nông
thôn, hệ thống giao thông, điện, đường, trường, trạm,… yếu kém, thiếu đồng bộ
thì ở đó kinh tế kém phát triển, thị trường bị bó hẹp, giao lưu trao đổi hàng hóa
bị hạn chế, đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn, trình độ phát triển mọi
mặt thua kém các vùng khác. Do đó, tại các địa phương này, việc cán đích
NTM thường chậm hơn những nơi khác trong cùng một thời gian.
Thứ hai, kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM là tiền đề vật
chất để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

24


Kinh nghiệm thực tiễn tại nhiều địa phương cho thấy, đầu tư cho hệ
thống kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng nông thôn, NTM là nhân tố
quyết định đến sự thành công hay thất bại của quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, để thực hiện
mục tiêu đưa nền nông nghiệp lên sản xuất hàng hóa lớn, hình thành và phát
triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, đẩy mạnh ứng dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, đưa giống cây trồng, vật nuôi
có giá trị kinh tế cao, phát triển các hoạt động công nghiệp, dịch vụ tại nông
thôn phải đầu tư xây dựng hệ thống các công trình giao thông, thủy lợi, hệ
thống cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc, chợ, trung tâm buôn bán.

Việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên địa bàn nông thôn một mặt
tạo điều kiện để ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản
xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, đưa các cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh
tế cao, đẩy mạnh thực hiện thâm canh, chuyên canh để sản xuất các loại
nông sản làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu, góp phần
đưa các ngành này lên sản xuất hàng hóa với quy mô lớn, thu hút được các
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Mặt khác, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn cũng như sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông
nghiệp theo hướng tiến bộ, hiệu quả thông qua việc hình thành, phát triển
các ngành, nghề mới tại khu vực nông thôn; thúc đẩy trao đổi, giao lưu hàng
hóa; kích thích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao hiệu quả sản
xuất nông nghiệp; tạo điều kiện cho mọi loại hình tổ chức sản xuất kinh
doanh trên địa bàn nông thôn phát triển.
Thứ ba, kết cấu hạ tầng KT - XH trong xây dựng NTM là nền tảng vật
chất quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết
việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống, thu hẹp khoảng cách phát triển
giữa nông thôn và thành thị.

25


×