3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghệ An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có vị trí chiến
lược hết sức quan trọng, trở thành một trong những tỉnh hậu phương lớn của
tiền tuyến lớn, là nơi tập kết lực lượng của trên trước khi đi các chiến trường
chiến đấu. Nhận thức sâu sắc vai trò, vị trí chiến lược và trách nhiệm của mình,
Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo xây dựng LLVT địa phương vững mạnh toàn
diện, cùng cả nước đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại bằng không
quân và hải quân của đế quốc Mỹ, giữ vững và bảo đảm thông suốt mạch máu
giao thông chiến lược quốc gia qua địa phương. Đồng thời vừa chiến đấu vừa
sản xuất và huy động nhân tài, vật lực đáp ứng đến mức cao nhất yêu cầu của
miền Nam và nước bạn Lào (nhất là tỉnh Xiêng Khoảng); dốc sức cùng cả nước
giành toàn thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Thắng lợi của quân và dân tỉnh Nghệ An trong cuộc chiến đấu chống đế
quốc Mỹ xâm lược giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975 có ý nghĩa to lớn,
trong đó vai trò của LLVT nhân dân địa phương là rất quan trọng. Vì vậy,
việc nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng LLVT nhân dân địa
phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và của từng
địa phương nói riêng là cần thiết để vận dụng vào xây dựng LLVT nhân dân
địa phương hiện nay. Qua đó góp phần đấu tranh chống lại các quan điểm sai
trái, phản động của các thế lực thù địch đang cố tình xuyên tạc lịch sử, phủ
nhận những thành quả của cuộc kháng chiến dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự
hy sinh, gian khổ của các LLVT nhân dân ta.
Lực lượng vũ trang tỉnh Nghệ An hơn 75 năm chiến đấu và xây dựng,
luôn giữ vững truyền thống tốt đẹp và bản chất cách mạng kiên cường, tận
trung với nước, tận hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm
4
vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, LLVT địa phương cần phải được tăng cường xây dựng vững mạnh toàn
diện, làm lực lượng nòng cốt cho phong trào toàn dân bảo vệ an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương trong giai đoạn mới.
Với lý do đó, Tôi lựa chọn đề tài : “Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo
xây dựng lực lượng vũ trang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
từ năm 1965 đến năm 1975” làm luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng LLVT nhân dân trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước từ năm 1965 đến năm 1975 đã có nhiều công trình khoa học nghiên
cứu, đề cập như: Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1981), Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội; Ban nghiên cứu lịch sử quân sự
thuộc Tổng cục chính trị, Viện lịch sử quân sự Việt Nam (2005), Lịch sử Quân sự
Việt Nam, tập 11, Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb
QĐND, Hà Nội; Viện lịch sử quân sự Việt Nam- Bộ quốc phòng (1999), Lịch sử
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tập 4, Cuộc đụng đầu lịch sử, Nxb CTQG, Hà
Nội. Ngoài ra còn có nhiều công trình chuyên khảo có liên quan đến đề tài như:
Bàn về nâng cao sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang (1967), Nxb QĐND,
Hà Nội; Đảng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân đội về chính trị trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, (1999), Nxb QĐND, Hà Nội; Nhiệm vụ đào
tạo, bồi dưỡng thanh niên lực lượng vũ trang trong chống Mỹ, cứu nước và xây
dựng CNXH (1970) Nxb QĐND, Hà Nội; Tổng kết CTĐ,CTCT trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, (1990) Nxb QĐND, Hà Nội; Chiến tranh nhân
dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1983), Tập 2, Nxb QĐND,
Hà Nội. Nhiều công trình nghiên cứu có giá trị của các đồng chí cán bộ lãnh đạo
Đảng, Nhà Nước, Quân đội ta như: Đại tướng Văn Tiến Dũng (2005) về cuộc
5
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb QĐND, Hà Nội; Đại tướng Võ Nguyên
Giáp (2005) với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nxb QĐND, Hà Nội;
Song Hào (1967), chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang địa
phương, Nxb Sự thật, Hà Nội; Củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân trong tình hình mới (1992) của Đoàn Khuê, Lê Khả Phiêu, Nguyễn
Trọng Xuyên, Phan Thu, Trương Khánh Châu, Nxb QĐND, Hà Nội; Nguyễn Chí
Thanh (1970), luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực
lượng vũ trang, Nxb QĐND, Hà Nội…
Xung quanh vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh Nghệ An đã có một số
công trình nghiên cứu, đề cập với nhiều góc độ khác nhau: Bộ chỉ quân sự tỉnh
Nghệ An (2000), Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương đánh thắng chiến
tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ tại địa bàn Nghệ An (19641973); Bộ Tổng tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương,
chuyên đề vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể và cơ
quan quân sự địa phương trên địa bàn quân khu IV trong kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ 1946-1975, Nxb QĐND, Hà Nội; Nguyễn Văn Ca
(1965), kinh nghiệm Nghệ An chiến thắng máy bay Mỹ, Nxb QĐND, Hà Nội; Tỉnh
uỷ Nghệ An (1999), Lịch sử Đảng bộ Nghệ An, tập 2, 1954-1975, Nxb Nghệ An;
Thường vụ Tỉnh uỷ, Đảng uỷ- Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nghệ An (1995), Nghệ An,
lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975); Tỉnh uỷ Nghệ An (1995),
Sự kiện lịch sử Đảng bộ Nghệ An 1954-1975; Nxb Nghệ An; Thường vụ Đảng uỷ,
Bộ tư lệnh Quân khu 4 (1994), Quân khu 4, lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Nxb QĐND, Hà Nội. Các công trình kể trên có nhiều tư liệu lịch sử có giá trị,
nhưng đến nay chưa có một công trình khoa học nào trình bày một cách có hệ
thống về quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng LLVT nhân dân, đặc biệt là Đảng bộ
tỉnh Nghệ An lãnh đạo xây dựng LLVT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước từ năm 1965 đến năm 1975 dưới góc độ Lịch sử Đảng. Vì vậy, đề tài luận văn
6
mà tác giả lựa chọn không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố trước
đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân địa phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước từ năm 1965 đến năm 1975; rút ra những kinh nghiệm để vận dụng vào
xây dựng lực lượng vũ trang trong giai đoạn hiện nay; đồng thời chống lại
mọi luận điệu phản động của các thế lực thù địch hòng xuyên tạc lịch sử, phủ
nhận thành quả xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
* Nhiệm vụ
- Luận giải những yêu cầu khách quan về xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân địa phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng
bộ tỉnh Nghệ An.
- Phân tích, trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân địa phương.
- Đánh giá đúng cơ sở khoa học những thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân, rút ra kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước giai đoạn từ 1965 đến 1975.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Nghiên cứu quá trình lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ
tỉnh Nghệ An xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước.
* Phạm vi nghiên cứu: Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Nghệ An được
thể hiện toàn diện trên các lĩnh vực, nhưng phạm vi đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu trên lĩnh vực lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân địa
phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1975 và các
7
thời kỳ trước, sau có liên quan. (Lực lượng Công An, lực lượng Bộ đội Biên
phòng vì lí do riêng nên tác giả không đề cập trong luận văn này).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên học thuyết Mác-Lênin về chiến
tranh quân đội, xây dựng lực lượng vũ trang; tư tưởng quân sự của Hồ Chí
Minh; các văn kiện, Nghị quyết của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN thời kỳ đổi mới đất nước.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử Mác-Lênin, phương pháp luận sử học Mácxít; luận
văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp lô gíc và kết hợp
phương pháp lịch sử với phương lô gíc là chủ yếu. Đồng thời luận văn còn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu: Thống kê, so sánh, đồng đại, lịch đại,
phân tích tổng hợp để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu trong đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần khẳng định tính đúng
đắn, sáng tạo của Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Qua đó rút ra những kinh nghiệm xây
dựng lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo vào công tác nghiên cứu,
giảng dạy lịch sử Đảng trong các nhà trường quân đội và làm tài liệu giáo dục
truyền thống cho địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục.
8
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH NGHỆ AN XÂY
DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1975
1.1. Yêu cầu khách quan xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh Nghệ An
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
1.1.1. Đặc điểm tình hình và thực trạng lực lượng vũ trang tỉnh Nghệ An
* Đặc điểm tình hình
Nghệ An là một trong những tỉnh có diện tích lớn và dân số đông, có miền
núi, trung du đồng bằng, biển, đảo và thềm lục địa liên hoàn chặt chẽ với nhau.
Là một trong 6 tỉnh của Quân khu 4, có vị trí chiến lược rất quan trọng của miền
Bắc và của cả nước. Nằm trong toạ độ từ 18035’00” đến 20000’10” vĩ độ Bắc và
từ 1030 50’25” đến 105040’3” kinh độ Đông; phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá,
phía Nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Đông giáp biển Đông, phía tây giáp các tỉnh
Xiêng Khoảng, Bôlikhămxay, Hủa Phăn thuộc nước Cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào.
Theo thống kê năm 1970, diện tích 16.487 km2, dân số hơn 1,5 triệu
người, có 6 dân tộc anh em sinh sống (gồm Kinh, Thái, Thổ, Khơ Mú, H ’Mông,
Ơ Đu). Các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 29 vạn người, chủ yếu sống ở 7
huyện miền núi với mật độ dân cư trung bình là 12 người/km 2. Các dân tộc trong
tỉnh có truyền thống đùm bọc, tương thân lâu đời, họ là lực lượng hết sức quan
trọng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở phía Tây của tỉnh. Thành phần
tôn giáo chiếm tỉ lệ không nhiều, chủ yếu là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Đến
năm 1970, giáo dân toàn tỉnh có gần 15 vạn người, chiếm khoảng 10% dân số và
khoảng 4000 phật tử.
Miền núi, trung du chiếm khoảng 3/4 diện tích toàn tỉnh, có vị trí rất quan
trọng cả về kinh tế và quốc phòng, với đường biên giới dài 419 km lượn dọc dải
9
Trường Sơn núi cao trùng điệp, nhiều cửa khẩu thông với tỉnh Xiêng Khoảng
thuộc nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Vùng đồng bằng hẹp chiếm
khoảng 15 - 20% diện tích toàn tỉnh, bị chia cắt bởi nhiều sông lạch và đồi núi
lẻ ăn thông ra biển tạo thành những vùng tập trung các đầu mối giao thông
quan trọng, là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của tỉnh. Bờ biển Nghệ An
dài 93 km, nhiều cửa lạch bãi triều, có 2 cửa biển lớn là Cửa Lò, Cửa Hội
thuận lợi cho giao thông đường biển, đường sông và 2 đảo Hòn Ngư, Hòn
Mắt là bộ phận xung yếu cửa ngõ vịnh Bắc bộ, có vị trí chiến lược quan trọng
của khu vực phòng thủ quốc gia.
Hệ thống giao thông ở Nghệ An rất đa dạng, có đường bộ, đường sắt,
đường sông, đường biển và đường không rất quan trọng cho việc phát triển kinh
tế- xã hội, quốc phòng- an ninh địa phương và có ý nghĩa to lớn trong việc vận
tải phục vụ cho tiền tuyến miền Nam và nước bạn Lào. Đường bộ gồm quốc lộ
1A (xuyên Bắc - Nam), quốc lộ 7 (xuyên Đông - Tây sang Lào), đường 15A,
15B (thuộc hệ thống đường Trường Sơn). Đường sắt dài 123km, nhiều ga, bảo
đảm cho việc vận chuyển lực lượng, hàng hoá phục vụ cho chiến tranh. Hệ thống
sông ngòi nhiều, có giá trị phát triển kinh tế, xã hội và có tác dụng vận chuyển
vũ khí, lương thực, cơ động lực lượng cho các hoạt động quân sự.
Về chính trị xã hội, Người dân Nghệ an trong suốt hàng ngàn năm lịch sử,
phải lao động sản xuất trong những điều kiện thiên nhiên rất khắc nghiệt (rừng
núi nhiều, đồng bằng ít, thiên tai liên tục…) lại chìm đắm dưới ách thống trị hà
khắc của các thế lực phong kiến phương Bắc xâm lược và những năm dài đô hộ
của thực dân Pháp đã hun đúc nên phẩm chất cần cù, chịu khó, chí khí quật
cường, bền gan, vững chí, trọng đạo lý, ghét cường quyền, bất công. Trải qua
nhiều thời đại, Nghệ An đã cống hiến cho đất nước nhiều bậc anh tài lỗi lạc, nơi
đây cũng là cái nôi của nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều cuộc chiến tranh quyết liệt
của nông dân và sĩ phu yêu nước chống thù trong, giặc ngoài.
10
Đảng bộ Nghệ An ra đời nơi có truyền thống cách mạng, được rèn luyện
thử thách ngay từ cao trào 1930 - 1931 đến cách mạng tháng Tám 1945, 9 năm
kháng chiến chống Pháp và 10 năm xây dựng CNXH nên đã trưởng thành nhanh
chóng. Đảng bộ thực sự lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng, năng lực lãnh đạo
và tổ chức thực hiện. Đến năm 1964 số đảng viên chiếm 4,6% dân số.
Về hành chính, toàn tỉnh có 17 huyện và 1 thành phố (9 huyện thị đồng
bằng, 8 huyện miền núi gồm 473 xã, phường). Uỷ ban hành chính các cấp từ tỉnh
đến xã đã phát huy đầy đủ vai trò điều hành, quản lý trên các lĩnh vực đời sống
kinh tế, chính trị xã hội, quốc phòng, an ninh.
Về kinh tế- văn hoá, trải qua 10 năm xây dựng CNXH (1954-1964), Nghệ
An đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Đến năm 1964 toàn tỉnh có 90%
số hộ nông dân vào hợp tác xã, hệ thống thuỷ lợi được củng cố và mở rộng,
phong trào cải tiến kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất diễn ra ở nhiều nơi, phát
triển thêm nhiều ngành nghề: giá trị tổng sản lượng nông nghiệp chiếm 78,2%,
bình quân lương thực đầu người đạt 220kg/ năm. Có 3 nông trường quốc doanh,
khoảng 45% số lao động thủ công vào hợp tác xã. Nền thương nghiệp XHCN
chiếm ưu thế trên thị trường với hơn 40% giá trị hàng hoá bán ra. Văn hoá, giáo
dục, y tế phát triển mạnh và rộng khắp, hầu hết các xã đều có trường cấp 1, cấp
2; mỗi huyện có 1 đến 2 trường cấp 3; 90% số xã có trạm y tế, huyện có bệnh
viện; công tác văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao phát triển.
* Thực trạng lực lượng vũ trang địa phương
Ngay sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, dưới sự lãnh
đạo trực tiếp, toàn diện của Tỉnh ủy, với sự chỉ đạo và hỗ trợ của Bộ quốc phòng,
Bộ Tư lệnh Quân khu 4, LLVT Nghệ An lớn mạnh về mọi mặt, bộ đội địa
phương và dân quân tự vệ được tăng cường cả số lượng, chất lượng và vũ khí,
trang - thiết bị. Hầu hết các đơn vị LLVT đã hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện sát
với đặc điểm mới và phù hợp với từng đơn vị của địa phương. Hàng trăm tổ trực
11
chiến của dân quân tự vệ ở các khu phố, xã, phường, cơ quan, xí nghiệp, công,
nông, lâm trường trong tỉnh được hình thành. Các điểm xung yếu của những
vùng trọng điểm, các công trình kinh tế then chốt được tỉnh bố trí lực lượng
mạnh, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ một cách khẩn trương, tích cực. LLVT địa phương thực sự làm
nòng cốt cho công tác bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, chủ động đối phó
thắng lợi với cuộc chiến tranh mới.
Bộ đội địa phương tỉnh được tăng cường cả số lượng, chất lượng và được
biên chế vũ khí trang bị theo yêu cầu của cuộc chiến tranh. Quân số 3.000 người.
Ở các huyện được tổ chức từ trung đội đến đại đội. (Huyện Kỳ Sơn thành lập 3
đại đội; huyện Quế Phong, Tương Dương, Quỳnh Lưu, mỗi huyện 1 đại đội; các
huyện Kỳ Sơn, Con Cuông, Tương Dương có thêm 1 đến 2 trung đội phòng
không). Được biên chế mỗi trung đội có 3 đến 4 khẩu 14,5mm và 12,7mm, 2
trung đội 37mm. Huyện Đô Lương có 1 đại đội hỗn hợp (2 trung đội 37mm, 1
trung đội 14,5mm). Cơ quan quân sự tỉnh, huyện tăng cường đủ mạnh, theo biên
chế thời chiến, bảo đảm được nhiệm vụ mới. Tỉnh đội được biên chế 158 người,
Huyện đội có từ 12 đến 15 người. Các cấp chỉ huy từ đại đội trở lên đủ 4 người
(2 quân sự, 2 chính trị).
Dân quân tự vệ là lực lượng chủ yếu của địa phương, được củng cố, phát
triển. Gồm 16.428 người, tỷ lệ dân quân tự vệ chiếm 11% dân số toàn tỉnh, đảng
viên trong độ tuổi vào DQTV 64%. Cuối năm 1964, toàn tỉnh có 729 đại đội,
7083 trung đội dân quân hỗn hợp; 15 tiểu đoàn, 110 đại đội, 360 trung đội tự vệ.
Được thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, huấn luyện kỹ chiến thuật, vừa
tích cực lao động sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu.
Lực lượng DBĐV được đăng ký, quản lý chặt chẽ từ tỉnh xuống cơ sở đạt
99,4%, thực hiện đúng nguyên tắc, chính quy bảo đảm số lượng và chất lượng.
Cuối năm 1964, tỉnh bổ sung lực lượng dự bị lên tới 17. 249 người, sẵn sàng bàn
12
giao cho các đơn của Bộ và quân khu 4. Ngoài số quân trên, tỉnh còn chuẩn bị
xong quân dự bị cho việc khôi phục tiểu đoàn 42, 43 của tỉnh và mở rộng thêm
lực lượng bộ đội địa phương, bao gồm 17 đại đội huyện. Đăng ký, quản lý và tập
thực hành động viên cho 28 đơn vị từ sư đoàn đến tiểu đoàn và cơ quan các cấp,
tổng số 34062 người, chiếm tỷ lệ 12,73%, bảo đảm chất lượng chính trị, trình độ
quân sự, sức khoẻ, đồng thời bảo đảm đủ số chuyên nghiệp quân sự chủ yếu.
Quân số gọi nhập ngũ 2 đợt năm 1964 đạt 104,4%.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tinh thần cảnh giác cách
mạng, sẵn sàng chiến đấu thực hiện thường xuyên trong LLVT, các ban
ngành đoàn thể và trong nhân dân. Công tác tuyển quân được xây dựng thành
nề nếp, hàng nghìn người nhập ngũ hàng năm, là tỉnh có số quân tuyển hàng
năm cao nhất miền Bắc. Kế hoạch phòng thủ, công tác chiến đấu, sẵn sàng
chiến đấu của tỉnh hàng năm được điều chỉnh bổ sung, các công trình quốc
phòng được củng cố và xây dựng mới, căn cứ hậu phương nhanh chóng đáp
ứng yêu cầu chiến tranh, công tác phòng tránh, đánh trả địch được chuẩn bị
tốt. Đặc biệt, từ sau hội nghị phòng không nhân dân lần thứ nhất do Bộ Tổng
tham mưu triệu tập (9-1-1964) công tác phòng không nhân dân trong tỉnh đi
vào nề nếp thống nhất, sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự chỉ đạo, chỉ
huy từ tỉnh đến cơ sở ngày càng được tăng cường. Tỉnh thành lập ban chỉ huy
phòng không các cấp, chuyển dần các hoạt động kinh tế phù hợp với thời
chiến, thực hiện vừa sản xuất vừa huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu. Kết hợp
với công an, tỉnh đội đã triển khai kế hoạch khoanh vùng cụm hiệp đồng về trị
an, chống địch biệt kích, tập kích. Các vùng tiếp giáp với các tỉnh Thanh Hoá,
Hà Tĩnh đã tổ chức hội nghị hiệp đồng chặt chẽ. Đến cuối năm 1964, tỉnh có
19 cụm hiệp đồng tiếp giáp theo hình thức tỉnh hợp đồng với tỉnh, huyện hợp
đồng với huyện và xã hợp đồng với xã ở các vùng tiếp giáp.
13
Vừa chiến đấu vừa xây dựng, LLVT nhân dân Nghệ An tuy đã phát triển
theo yêu cầu mới. Tuy nhiên, việc xây dựng LLVT trong những năm đầu còn
nhiều khó khăn về xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và chuyên môn kỹ
thuật. Nhiều công việc mới mẻ phải triển khai cùng một lúc: chấn chỉnh lực
lượng, mở rộng lực lượng hậu bị, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương và chi
viện cho tiền tuyến.
10 năm xây dựng hậu phương toàn diện (1954 - 1964), Đảng bộ Nghệ An
tập trung xây dựng về mặt chính trị là nhiệm vụ hàng đầu, xây dựng kinh tế là
quan trọng, đồng thời quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, tạo ra
những nhân tố mới của thế và lực, vững vàng bước vào cuộc đọ sức quyết liệt
chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ
vững chắc hậu phương xã hội chủ nghĩa, sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến lớn
miền Nam và nước bạn Lào, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước đến thắng lợi hoàn toàn.
1.1.2. Yêu cầu mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tác động
đến việc xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh Nghệ An
Cuối năm 1964, cách mạng miền Nam có bước phát triển mới. Những
chiến công diệt ngụy, phá ấp chiến lược, mở rộng vùng giải phóng của bộ đội
chủ lực kết hợp với lực lượng quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ trong
đông - xuân 1964 - 1965, đẩy ngụy quân, ngụy quyền vào thế bị động. Chiến
lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ có nguy cơ bị phá sản hoàn toàn. Để
cứu vãn tình thế, chúng ồ ạt đưa quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam tiến
hành chiến lược “chiến tranh cục bộ”, đồng thời trắng trợn tuyên bố dùng không
quân, hải quân đánh phá miền Bắc.
“Chiến tranh cục bộ” là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới, một
trong ba hình thức chiến tranh (đặc biệt, cục bộ, tổng lực) được đề ra phù hợp
với chiến lược quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt”. “Chiến tranh cục bộ” bắt
14
đầu từ giữa năm 1965, được tiến hành bằng lực lượng của quân viễn chinh Mỹ,
quân của một số nước thân Mỹ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và quân
của chính quyền Sài Gòn, trong đó quân Mỹ giữ vai trò quan trọng và không
ngừng tăng lên về số lượng và trang bị.
Tiến hành “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, Mỹ nhằm thực hiện âm
mưu: Nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hoả lực có thể áp đảo được chủ
lực ta bằng chiến lược mới “tìm diệt”, cố giành lại thế chủ động trên chiến
trường, đẩy lực lượng vũ trang của ta trở về phòng ngự, buộc ta phải phân tán
đánh nhỏ hoặc rút về biên giới, làm cho chiến tranh cách mạng tàn lụi dần; mở
rộng và củng cố hậu phương của chúng, lập đội quân “bình định” kết hợp hoạt
động càn quét với các hoạt động chính trị và xã hội lừa bịp, tung tiền, đổ của
nhiều hơn nữa cố thực hiện kỳ được việc giành lại dân (trước hết là nông dân ở
vùng được giải phóng), bắt họ trở lại ách kìm kẹp tàn bạo của Mỹ, Ngụy.
Ỷ vào ưu thế quân sự với đội quân đông, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh,
cơ động nhanh, Mỹ vừa mới vào miền Nam đã cho quân viễn chinh mở ngay
cuộc hành quân “tìm diệt” tiến công đơn vị quân giải phóng ở Vạn Tường Quảng Ngãi (8 - 1965). Tiếp đó, Mỹ mở liền 2 cuộc phản công chiến lược trong
2 mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân vào vùng
đất do cách mạng nắm giữ.
Sau thất bại của chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam Việt Nam,
đầu năm 1969, bước vào nhà trắng Nichxơn đề ra chiến lược toàn cầu mang tên
“học thuyết Nichxơn”, với ba nguyên tắc “tập thể tham gia”, “sức mạnh của
Mỹ”, “sẵn sàng thương lượng”. Nichxơn vận dụng học thuyết này vào chiến
tranh Việt Nam, đề ra chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, một sự điều chỉnh
“phi Mỹ hoá” của Giônxơn, thực chất là “dùng người Việt giết người Việt” để
duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.
15
Thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, Mỹ áp dụng một loạt
biện pháp: ra sức củng cố Ngụy quyền, xây dựng đội quân ngụy đông và hiện
đại, tự gánh vác được nhiệm vụ chiến tranh để cho quân Mỹ rút; ráo riết thực
hiện chương trình bình định, tăng cường phá hoại miền Bắc Việt Nam nhằm cắt
nguồn viện trợ của miền Nam; mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia;
thoả hiệp với Trung Quốc, hoà hoãn với Liên Xô hòng cắt giảm nguồn viện trợ
chủ yếu của Việt Nam.
Ở miền Bắc, đế quốc Mỹ đã thấy rõ miền Bắc là căn cứ địa cách mạng của
cả nước, hậu phương lớn của cuộc kháng chiến cứu nước ở miền Nam. Vì vậy,
ngay từ đầu và trong tất cả các thời kỳ của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam,
chúng luôn tìm cách phá hoại miền Bắc. Đêm 4 - 8 - 1964, Mỹ dựng lên “Sự
kiện vịnh Bắc Bộ” nhằm trước hết kích động Quốc hội Mỹ thông qua một nghị
quyết cho phép Chính phủ áp dụng biện pháp chiến tranh không quân và hải
quân đối với miền Bắc Việt Nam. Sáng 5 - 8 - 1964, Bộ quốc phòng Mỹ ra lệnh
cho 64 máy bay phản lực, siêu âm mang bom đạn ném bom một số trọng điểm
quan trọng, mà chủ yếu là các tỉnh thuộc Quân khu IV. Tại Nghệ An, đế quốc
Mỹ cho nhiều tốp máy bay phản lực ồ ạt đánh phá Thành phố Vinh, kho xăng
dầu Vinh- Bến Thuỷ và cảng Cửa Hội… Địch dùng không quân, kết hợp đại bác
của hải quân đánh phá hầu hết các tuyến đường bộ, đường sắt, cầu cống nhằm
cắt đứt mạch máu giao thông Bắc - Nam. Tiến hành chiến tranh không quân và
hải quân phá hoại miền Bắc, cuộc chiến tranh mà MacNamara vẫn coi như “một
biện pháp bổ sung chứ không phải biện pháp thay thế cho cuộc chiến tranh trên
bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam”. Các ngày 7, 8 và 11 - 2 - 1965, hàng trăm lần
chiếc máy bay Mỹ đã tập kích vào Đồng Hới và Vĩnh Linh, dưới tên gọi “mũi
lao lửa I” (Flamming Dart I) và “mũi lao lửa II” (Flamming Dart II) đế quốc Mỹ
nhằm gây sức ép đối với Việt Nam, làm giảm sức tiến công của lực lượng cách
mạng ở miền Nam, hạn chế sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam.
16
Sau thất bại liên tiếp của đế quốc Mỹ ở cả hai miền Nam - Bắc Việt Nam,
tháng 4 - 1972, chính quyền Nichxơn tiến hành “Mỹ hoá” trở lại cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam, bằng cách huy động trở lại lực lượng lớn không quân,
hải quân ồ ạt tham chiến ở miền Nam và gây lại cuộc chiến tranh phá hoại miền
Bắc. Thực hiện cuộc phiêu lưu quân sự mới, Mỹ huy động một lượng lớn không
quân, hải quân thuộc loại hiện đại nhất gồm 1.400 máy bay chiến thuật, chiếm
40% lực lượng không quân chiến thuật Mỹ, 193 máy bay B52, chiếm 45% máy
bay B52 toàn nước Mỹ, chúng huy động 14 chiếc tàu chiến của hạm đội 7. Mỹ
cho không quân và hải quân đánh phá một số nơi thuộc khu IV cũ và Nghệ An là
một trong những trọng điểm phá hoại tàn bạo của địch, nằm trong âm mưu
chung đánh vào hậu phương miền Bắc Việt Nam. Đến ngày 9 - 5 - 1972,
Nichxơn ra lệnh thả mìn phong toả bến cảng, cửa sông, luồng lạch vùng biển
miền Bắc. Chúng tập trung bắn phá liên tục, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, không
kể ngày đêm với cường độ ngày càng tăng đánh phá vào các mục tiêu quân sự,
các đầu mối giao thông, các nhà máy, hầm mỏ, xí nghiệp, trường học, bệnh viện,
nhà thờ…. Trung bình mỗi ngày có 300 lần chiếc máy bay đi gây tội ác, với
1600 tấn bom đạn trút xuống các làng mạc, phố xá, cướp đi bao sinh mạng và
gây thương tích cho nhiều người vô tội. Bom đạn của chúng đã tàn phá biết bao
của cải, cơ sở kinh tế, công trình văn hoá, giáo dục, y tế mà nhân dân ta đã tạo
dựng trong hơn 10 năm trước đó. Mục đích là phá tiềm lực kinh tế và quốc
phòng, phá công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc; ngăn chặn nguồn chi viện
từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam; uy hiếp tinh thần, làm
lung lay ý chí chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước. Mỹ
coi việc thực hiện những mục tiêu đó như những biện pháp nhằm củng cố tinh
thần quân ngụy đang sa sút nghiêm trọng, ngăn đe phong trào cách mạng đang
dâng cao.
17
Chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc gây cho ta tổn thất rất
nặng nề: “Gần như toàn bộ các thành phố thị xã đều bị đánh phá, trong đó có
12 thị xã, 51 thị trấn bị phá huỷ hoàn toàn. Tất cả các khu công nghiệp bị
đánh phá, 5 triệu m2 nhà ở bị phá hủy, toàn bộ tuyến đường sắt, cầu cống, bến
cảng, kho tàng bị đánh phá. Gây tổn thất cho 1.600 công trình thuỷ lợi, giết
hại 40.000 trâu bò, đánh phá 3.000 trường học, 350 bệnh viện, trong đó có 10
bệnh viện bị san phẳng”[38,38].
Tình hình đó đã làm xáo trộn lớn về kinh tế- xã hội của cả nước và của địa
phương, Tỉnh uỷ Nghệ An xác định đề án “nhiệm vụ kinh tế vẫn là trung tâm”
và còn hiệu lực chỉ đạo với các địa phương, nhưng nhiệm vụ quốc phòng và trị
an được xác định là cấp bách. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang để đối phó
với địch đang đặt ra yêu cầu mới và được đẩy lên một bước mới, đòi hỏi phải
phát triển cả về số lượng, chất lượng và tổ chức trang bị, chuẩn bị sẵn sàng chiến
đấu.
Nhiệm vụ xuyên suốt là: “Xây dựng tỉnh thành hậu phương vững mạnh
về mọi mặt, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực quốc
phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh; đánh thắng
chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ tại địa bàn
Nghệ An; đồng thời chi viện cao nhất sức người, sức của, bảo đảm giao thông
vận tải cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược”[58,134].
1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nghệ An xây dựng lực lượng vũ trang
đáp ứng yêu cầu mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến
1975
1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến 1975
* Xây dựng lực lượng vũ trang chống“chiến tranh cục bộ” và chiến tranh
phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968)
18
Đầu năm 1965, cuộc “chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ tiến hành chống lại
nhân dân ta ở miền Nam đã phát triển đến đỉnh cao và đứng trước nguy cơ thất
bại hoàn toàn. Để cứu vãn tình thế, Mỹ đã ồ ạt đưa quân viễn chinh cùng với vũ
khí, phương tiện chiến tranh vào miền Nam, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược,
chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng chiến
tranh phá hoại miền Bắc hòng ngăn cản chi viện của miền Bắc vào miền Nam,
cô lập và đè bẹp cách mạng miền Nam. Đây là cố gắng quân sự lớn nhất, bước
leo thang chiến tranh cao nhất của đế quốc Mỹ ở miền Nam, cũng là lần đầu tiên
Hoa Kỳ đưa nhiều quân nhất đi xâm lược, kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Ngoài lực lượng trực tiếp tham chiến nếu tính cả lực lượng Mỹ ở ngoài khơi và
căn cứ hậu cần quân sự Mỹ ở Đông Nam Á thì riêng quân Mỹ chiến đấu và chi
viện bảo đảm chiến đấu lên tới 80 vạn tên, chiếm 22% tổng số quân của Mỹ lúc
cao nhất trong những năm chiến tranh Việt Nam (3,5 triệu quân). Mỹ huy động
gồm 70% lực lượng bộ binh, 60% lính thuỷ đánh bộ, 60% lực lượng trên không,
40% lực lượng trên biển và gần như toàn bộ lực lượng vận tải quân sự vào chiến
tranh Việt Nam.
Đế quốc Mỹ đã thấy rõ miền Bắc là căn cứ địa cách mạng của cả nước, do
đó chúng dùng một lực lượng lớn không quân, hải quân đánh phá miền Bắc,
nhắm đánh vào hậu phương của cả nước, cô lập cách mạng miền Nam, bẻ gãy “ý
chí của chính phủ Bắc Việt Nam”, làm cho “Hà Nội phải quỳ gối trong vòng 2
đến 6 tháng, đưa miền Bắc về thời kỳ đồ đá”. Bốn năm dưới thời Giônxơn, máy
bay địch đã xuất kích 303 vạn lần chiếc, bình quân 300 lần chiếc thực hiện ném
bom trong một ngày đêm. Tính riêng năm 1968, Mỹ tiến hành 30,4 vạn phi vụ
thả 60 tấn bom xuống miền Bắc nước ta.
Chống lại những hành động phá hoại của Mỹ là nghĩa vụ của tất cả mọi
lực lượng, của toàn dân. Đảng ta trước sau vẫn giữ vững quyết tâm đã đề ra từ
tháng 8-1955 là “Bất cứ tình hình như thế nào, miền Bắc cũng phải được củng
19
cố, phải tiến lên CNXH”. Hội nghị lần thứ 11 BCHTƯ Đảng, khoá III (25-31965) ra nghị quyết “Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách trước mắt”. Trung ương
Đảng đánh giá những thắng lợi của cách mạng Việt Nam và những thất bại của
Mỹ, ngụy. Nghị quyết chỉ rõ: “Ba chỗ dựa chủ yếu của đế quốc Mỹ trong cuộc
chiến tranh xâm lược ở miền Nam là quân đội đánh thuê và chính quyền bù nhìn
tay sai, hệ thống ấp chiến lược và các đô thị bị sụp đổ hoặc lung lay
mạnh”[27,102]. Điều đó đang trở thành mối lo ngại lớn nhất của đế quốc Mỹ lúc
này. Vì nếu không thay đổi chính sách xâm lược ở miền Nam có thể sẽ bị thất
bại hoàn toàn trong cuộc chiến tranh này. Từ sự phân tích âm mưu, hành động
của Mỹ. Trung ương Đảng dự kiến Mỹ sẽ đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược
lên một bước cao hơn trên cả hai miền Nam, Bắc, với quy mô rộng lớn và tính
chất các liệt chưa từng có. Tuy nhiên, Trung ương Đảng cũng nhận thấy: việc đế
quốc Mỹ phải thay đổi chính sách xâm lược đó là một bằng chứng chứng minh
Mỹ đang ở thế thua, thế bị động “rõ ràng là chúng đang thất bại và bị động
nghiêm trọng cả về mặt chính trị và chiến lược và đang bị cô lập đến cao độ cả ở
trong nước và trên thế giới”[27,106], trong khi đó Việt Nam đang ở thế thắng,
thế thuận lợi. Vì vậy mặc dù cố gắng nhưng đế quốc Mỹ sẽ không làm đảo
ngược tình hình ở miền Nam. Hội nghị xác định nhiệm vụ của quân, dân miền
Bắc: a, Xây dựng miền Bắc trở thành một hậu phương lớn vững chắc của cách
mạng miền Nam, đồng thời bảo đảm đời sống cho nhân dân và đáp ứng hậu cần
tại chỗ; b, Đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; c, Tăng viện cho
tiền tuyến lớn miền Nam và cho cách mạng Lào.
Cùng với nhiệm vụ xây dựng CNXH, đánh bại chiến tranh phá hoại của
đế quốc Mỹ, Trung ương Đảng quyết định tăng cường tiềm lực quốc phòng, an
ninh, tăng cường công tác tư tưởng, công tác tổ chức trong tình hình mới.
“Chống tư tưởng sợ Mỹ, đánh giá quá cao hoặc chủ quan khinh địch, tư tưởng
hoang mang dao động, cầu an, tư tưởng muốn đàm phán khi chưa có điều kiện
20
có lợi, muốn kết thúc chiến tranh với bất cứ giá nào, tư tưởng ỷ lại vào sự giúp
đỡ của nước ngoài và không tin tưởng vào sức mình”[27,114]. Nghị quyết chỉ rõ
chuyển hướng xây dựng kinh tế sang thời chiến, chuyển hướng về tư tưởng và tổ
chức, tăng cường lực lượng quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới.
Trước những diễn biến ngày càng phức tạp, Hội nghị Trung ương lần thứ 12
BCHTƯ Đảng (khoá III) tháng 12 năm 1965, sau khi đánh giá tình hình, phân tích
toàn diện, sâu sắc chiến lược mới của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam,
Đảng ta chỉ rõ: “Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn
chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn”, do đó, cách mạng
miền Nam “phải giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công”, và cuộc chiến
tranh này tuy ngày càng trở nên gay go, ác liệt nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc
chắn để giữ vững và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và
điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch. Hội nghị đề ra nhiệm
vụ chung cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là: “Động viên lực lượng của cả
nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất cứ
tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất
nước nhà”[28,634]. Đối với việc xây dựng và tổ chức LLVT, Đảng nhấn mạnh phải
chú trọng xây dựng và phát triển cả ba thứ quân. Bộ đội chủ lực phải chú trọng
nâng cao cả chất lượng và số lượng, tăng cường huấn luyện, giải quyết vấn đề bổ
sung người và vũ khí đạn dược. Việc nhanh chóng phát triển chủ lực của ta trong
lúc này là một công tác rất quan trọng cần được thực hiện hết sức kiên quyết. Bộ
đội địa phương và dân quân du kích nhất là các vùng quan trọng cần được chú trọng
và tăng cường hơn nữa vì các lực lượng đó có một tác dụng rất lớn trong nhiệm vụ
chiến lược phân tán và tiêu hao, tiêu diệt địch, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và bảo
vệ nhân dân, làm lực lượng dự bị cho chủ lực.
21
Nhiệm vụ của miền Bắc rất nặng nề, vừa tiếp tục xây dựng CNXH trong
điều kiện có chiến tranh, chống lại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ
miền Bắc, vừa động viên sức người sức của chi viện cho miền Nam và giúp đỡ
cách mạng Lào. Mặt khác, miền Bắc phải chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng đánh bại quân
địch, nếu chúng liều lĩnh mở rộng xâm lược bằng bộ binh ra cả nước. Những hành
động leo thang chiến tranh của Mỹ đã đẩy mâu thuẩn giữa dân tộc Việt Nam với đế
quốc Mỹ xâm lược lên mức độ cao. Vì vậy, Trung ương Đảng xác định rõ: “Nhiệm
vụ chống Mỹ, cứu nước hiện nay rõ ràng là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân tộc
ta, của nhân dân ta từ Nam chí Bắc” [28,635]. Đây là chủ trương táo bạo, cách
mạng và khoa học, là sự kết tinh giữa thực tiễn sáng tạo vĩ đại của quần chúng với
trí tuệ sáng suốt của toàn Đảng mà trực tiếp là BCHTƯ Đảng ta, củng cố lòng tin và
chỉ đạo cho quân và dân của cả hai miền Nam, Bắc vững bước vượt qua gian nan
thử thách để tiến đến thắng lợi cuối cùng trong cuộc đọ sức cam go này.
Thể hiện ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, ngày 17 - 7 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn dân chống Mỹ, cứu nước:
“Giônxơn và bè lũ phải biết rằng chúng có thể đưa tới 50 vạn quân, 1 triệu quân
hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở Việt Nam, chúng có
thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc, nhưng chúng
quyết không lay chuyển được ý chí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ của nhân dân
Việt Nam anh hùng. Chúng càng hung hăng, tội ác của chúng càng thêm nặng.
Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội,
Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá song nhân dân Việt
Nam quyết không sợ ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi
nhân dân ta sẽ xây lại đất nước đàng hoàn hơn, to đẹp hơn”[45,108].
Nhờ những chủ trương đúng đắn và ý chí quyết tâm sắt đá đó, mà cách
mạng cả nước vượt qua được những khó khăn thử thách to lớn, đã dấy lên ở
miền Bắc một phong trào cách mạng rộng lớn chưa từng có của quần chúng
22
nhân dân trong sản xuất và chiến đấu. Các LLVT nhân dân đã đẩy mạnh phong
trào thi đua “quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, nêu cao khẩu hiệu:
“Nhằm thẳng quân thù, bắn!” trong chiến đấu chống máy bay Mỹ. Giai cấp công
nhân, nông dân nêu cao khẩu hiệu “chắc tay súng, vững tay búa”, “chắc tay
súng, vững tay cày”…Tất cả những phong trào của quần chúng đều vươn tới
khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, “mỗi người làm việc
bằng hai, vì đồng bào miền Nam ruột thịt”, “thóc không thiếu một cân, quân
không thiếu một người”. Những phong trào đó tỏ rõ sức mạnh của một dân tộc
có truyền thống yêu nước, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm, giành thắng lợi
trong xây dựng, trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nghĩa vụ của hậu
phương lớn. Khẩu hiệu Xây dựng, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam do
Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và Nghị quyết Trung ương lần thứ 12 đề ra trở
thành hành động tự giác và tình cảm thiêng liêng của mọi người dân yêu nước.
Trước đòi hỏi ngày càng to lớn của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ. Để
tăng cường lực lượng vũ trang, tháng 1 - 1965 Hội đồng Quốc phòng họp định ra
phương hướng công tác quốc phòng miền Bắc trong tình hình mới là: Ra sức
xây dựng các LLVT nhân dân hùng mạnh bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân, tự vệ và lực lượng hậu bị đúng với đường lối quân sự của
Đảng, với truyền thống kinh nghiệm và điều kiện thực tế của ta, đủ sức đánh
thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược. Nhà nước quyết định thành lập một số binh
đoàn chủ lực trang bị hiện đại và quân binh chủng mới, Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội quyết định lệnh động viên cục bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Cụ thể hoá nghị quyết Trung ương Đảng và tổng kết kinh nghiệm chiến
trường, lúc này Quân uỷ Trung ương đã xác định nhiều tư tưởng chỉ đạo đúng
đắn, kịp thời: Nắm vững trọng tâm là chỉ đạo chiến tranh, chiến trường chính là
miền Nam; chú trọng cả chỉ đạo tác chiến và xây dựng lực lượng; tăng cường lực
lượng lớn vào miền Nam; đề ra 6 phương thức tác chiến chiến lược đưa chiến
23
tranh nhân dân chống Mỹ cứu nước ở miền Nam phát triển lên trình độ mới;
phát triển nhanh lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam, nhất là bộ đội
chủ lực. Do đó, LLVT ba thứ quân của ta phát triển cân đối và lớn mạnh vượt
bậc so với những năm đầu chiến tranh. Năm 1965 gần 290.000 người gia nhập
quân đội, đến cuối năm 1965 bộ đội chủ lực ở miền Bắc tăng từ 195.000 lên
400.000 quân. Các quân, binh chủng cũng tăng gấp ba lần so với năm 1964. Bên
cạnh bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ phát triển nhanh chóng.
Năm 1965-1966, bộ đội từ miền Bắc đưa vào miền Nam chiến đấu 11 nghìn
quân, 27 nghìn tấn hàng, và 15 triệu đôla; năm 1968 từ miền Bắc đưa vào miền
Nam 14 vạn quân, gấp 3 lần năm 1965 và 7 vạn tấn hàng, gấp 8 lần năm 1965.
LLVT cách mạng miền Nam, năm 1964 (chỉ tính riêng chủ lực) có 11 trung
đoàn và 15 tiểu đoàn, đến cuối năm 1965 ta đã phát triển lên 5 sư đoàn và 11
trung đoàn bộ binh, nhiều tiểu đoàn, trung đoàn binh chủng kỹ thuật trang bị
tương đối hiện đại.
Chiến thắng ở Núi Thành (3-1965), Vạn Tường (8-1965), Plâyme (111965)…, mà đặc biệt là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân (1968) đã
đánh dấu bước phát triển LLVT nhân dân ta.
* Xây dựng lực lượng vũ trang chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam
hoá chiến tranh” và chiến tranh phá hoại lần hai của đế quốc Mỹ (1969-1972)
Trước thất bại nặng nề ở Việt Nam, qua hai chiến lược chiến tranh xâm
lược thực dân mới là “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ”, R.Níchxơn
lên cầm quyền đã thay đổi chiến lược chiến tranh, tiếp tục áp đặt chính sách chủ
nghĩa thực dân mới ở miền Nam, thực hiện chính sách “Việt Nam hoá chiến
tranh”, tức “dùng người Việt giết người Việt” bằng tiền của và vũ khí của Mỹ,
do Mỹ chỉ huy để tiếp tục mục tiêu xâm lược nước ta. Nếu hai chiến lược chiến
tranh trước đó trong chiến lược toàn cầu “phản ứng linh hoạt” đều đã hoàn chỉnh
từ trước cả về lý luận và tổ chức thực tiễn, thì chiến lược “Việt Nam hoá chiến
24
tranh” lại ra đời trong thế thất bại, thế cực kỳ bị động, phải mò mẫm tìm tòi
trong nhiều sự lựa chọn ngay từ bước hình thành, thiếu sự chuẩn bị về nhiều
mặt. Đây cũng chính là điều thất sách của chiến lược mới của Mỹ trong thời
điểm lịch sử này. Tháng 6 - 1970, Hội nghị Bộ Chính trị Đảng ta đã đánh giá:
“Việt Nam hoá chiến tranh” và “học thuyết Nichxơn” là sản phẩm của thế suy
yếu, thất bại và bị động của đế quốc Mỹ, đã bóc trần bản chất phản động hiếu
chiến và ngoan cố của đế quốc Mỹ, đây không phải là lối thoát mà là con đường
bế tắc về chính trị và chiến lược của đế quốc Mỹ cả ở Việt Nam và trên thế giới.
Để đạt được mục tiêu chiến lược, Nichxơn đưa ra thực hiện cùng lúc ba
loại hình chiến tranh là “chiến tranh giành dân”, “chiến tranh huỷ diệt”, “chiến
tranh bóp nghẹt”, trên cơ sở huy động sức mạnh tối đa về quân sự của nước Mỹ,
kết hợp với những thủ đoạn chính trị, ngoại giao xảo quyệt. Chiến lược “Việt
Nam hoá chiến tranh” của Nichxơn có những toan tính mới hòng mở rộng chiến
tranh trên bán đảo Đông Dương, hòng cô lập cách mạng Việt Nam, tích cực
“bình định nông thôn”, “tiêu diệt” bộ đội chủ lực ta, nuôi dưỡng quân Ngụy để
dần thay thế quân Mỹ về nước, hòng kéo dài chiến tranh Việt Nam. Mỹ vừa đàm
phán với ta, vừa trở lại đánh phá miền Bắc bằng không quân, hải quân với những
bước leo thang đánh phá rất ác liệt. Mục tiêu đặt ra là nhằm thực hiện âm mưu
nhất quán của Mỹ là “bóp nghẹt”, phá hoại công cuộc xây dựng CNXH, phá
hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng miền Bắc; ngăn chặn nguồn tiếp tế của miền
Bắc cho miền Nam, làm giảm ý chí chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, trước
mắt là để cứu nguy cho chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” ở miền Nam và
tạo thế mạnh trên bàn đàm phán ở Pari. Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai
của Nichxơn đã vượt xa cuộc chiến tranh lần thứ nhất của Giônxơn cả về quy
mô, tốc độ, cường độ đánh phá. Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh này một
lực lượng không quân và hải quân rất lớn, gồm hàng ngàn máy bay tối tân thuộc
50 loại khác nhau, kể cả những loại lớn nhất như B52, F.111 và các loại vũ khí
25
hiện đại nhất (trừ vũ khí nguyên tử). Nhiều thành phố, thị xã, thị trấn của miền
Bắc đều bị địch đánh đi, phá lại nhiều lần, có nơi bị phá trụi, nhiều công trình
thuỷ lợi, đê điều, trường học, cơ sở y tế, nhà thờ, đền chùa bị tàn phá.
Đứng trước cục diện mới và yêu cầu mới của sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước, để củng cố tinh thần quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta,
ngày 1 tháng 1 năm 1969, trong Thư chức mừng năm mới, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã kêu gọi: “vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”.
Để khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, Bộ Chính trị chỉ rõ: Một là, đẩy
mạnh sản xuất, bảo đảm đời sống nhân dân. Hai là, tập trung sức, bảo đảm đầy
đủ và kịp thời yêu cầu tăng cường sức chiến đấu cho tiền tuyến, thực hiện triệt
để khẩu hiệu “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!”. Ba là, tích cực chuẩn bị
cho những năm sau và cho việc khôi phục kinh tế sau chiến tranh.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta ở cả hai
miền Nam - Bắc đang trên đà thắng lợi, ngày 2 - 9 - 1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh
qua đời. Đó là một tổn thất lớn, không gì có thể bù đắp đối với dân tộc ta, Đảng
ta, đối với cách mạng nước ta. Trong dịp này Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng
tư lệnh quân đội ta đã ra lời kêu gọi LLVT hãy cùng toàn dân biến đau thương
thành hành động cách mạng, giương cao ngọn cờ quyết chiến, quyết thắng Bác
trao cho, đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, thực
hiện cho kỳ được lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Hễ còn
một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu, quét sạch nó đi”.
Tháng 1 - 1970, BCHTƯ Đảng ta họp Hội nghị lần thứ 18 để bàn phương hướng
lãnh đạo cuộc kháng chiến trong giai đoạn mới. Trên cơ sở phân tích, đánh giá
chiến lược, Hội nghị Trung ương đề ra là phải đẩy mạnh tiến công toàn diện, tiến
công cả về quân sự, chính trị và ngoại giao, vận dụng sáng tạo phương châm tiến
công trên cả ba vùng chiến lược, lấy nông thôn là hướng tiến công chính. Về mặt
tác chiến và xây dựng LLVT, Trung ương chỉ rõ: “Cần tiếp tục đẩy mạnh tác
26
chiến chính quy của bộ đội chủ lực”, khắc phục khuynh hướng muốn phân tán
bộ đội để đánh nhỏ lẻ hoặc chống phá bình định ở cơ sở; đồng thời phải “kiên
quyết thực hiện cho kỳ được một chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào chiến
tranh du kích ở địa phương”, phát triển cả ba thứ quân, chú trọng lực lượng tinh
nhuệ trong cả ba thứ quân, tăng cường các LLVT tại chỗ. Đối với miền Bắc,
nghị quyết Trung ương nêu rõ: “Cần tiếp tục sự nghiệp xây dựng CNXH khẩn
trương, có kế hoạch làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến
lớn, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt, đánh bại mọi cuộc khiêu
khích vũ trang hoặc mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc của đế quốc Mỹ;
ra sức làm nhiệm vụ quốc tế, chi viện cho cách mạng Lào, chuẩn bị cùng phối
hợp chặt chẽ với quân và dân Lào để đối phó với khả năng xấu nhất khi địch mở
rộng chiến tranh ra Lào và Campuchia”[33,88].
Với những thắng lợi lớn mà quân và dân ta vừa giành được, ngày 1 tháng
6 năm 1972, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã nhận định cục diện cuộc kháng
chiến đã có điều kiện để tiến lên đánh bại về cơ bản chiến lược “Việt Nam hoá
chiến tranh”. Nghị quyết nêu rõ: Mọi hoạt động của miền Bắc phải thật sự khẩn
trương chuyển hướng nhằm đẩy mạnh sản xuất và chiến đấu cho phù hợp với
thời chiến, bảo đảm hậu phương làm tốt nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, từ cuối năm 1969 đến năm 1971,
quân dân miền Bắc đã củng cố hậu phương vững mạnh và phát huy vai trò to lớn
đối với tiền tuyến, góp phần quyết định vào những chiến thắng trong các năm
1971 - 1972. Mặc dù địch tăng cường đánh phá, nhưng khối lượng chi viện vật
chất cho miền Nam ngày càng tăng, năm 1969 được 2 vạn tấn, năm 1970 lên 4
vạn tấn, năm 1971 là 6 vạn tấn. Miền Bắc tăng viện một lực lượng bộ binh và
đặc công đông tới 19,5 vạn người, giúp chiến trường duy trì và tăng cường sức
chiến đấu. Cuối tháng 5 - 1972, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp quyết định
chuyển mọi hoạt động của miền Bắc cho phù hợp với tình hình mới, phát động
27
cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tiếp
tục làm nhiệm vụ tăng viện cho các chiến trường. Quân và dân miền Bắc đã kiên
cường đánh trả địch, bắn rơi hàng trăm máy bay, bắn cháy nhiều tàu chiến Mỹ.
Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai mà đỉnh cao là cuộc tập kích chiến lược
đường không bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc diễn ra gần 9
tháng (từ ngày 6 - 4 đến ngày 29 - 12 - 1972) đã bị quân và dân ta đánh thắng
hoàn toàn. Miền Bắc thực hiện nhiều biện pháp vượt qua sự phong toả của địch,
tổ chức tiếp nhận hàng viện trợ của các nước bạn và tăng cường chi viện cho tiền
tuyến. Khối lượng hàng vận chuyển cho các chiến trường tăng 1,7 lần so với
năm 1971; đối với các chiến trường xa cũng tăng 1,4 lần.
Các LLVT được tăng cường về số lượng và chất lượng theo yêu cầu,
nhiệm vụ và quy mô mới của cuộc chiến đấu chống không quân, hải quân của
Mỹ. Lực lượng phòng không phát triển thêm 1 sư đoàn, 3 trung đoàn, 20 tiểu
đoàn, được trang bị thêm pháo cao xạ, tên lửa, ra đa và nhiều khí tài kỹ thuật
mới. Thêm nhiều binh chủng chiến đấu và phục vụ được thành lập. Chỉ trong
một thời gian ngắn, LLVT tập trung trên miền Bắc phát triển thêm 10%. Bộ đội
chủ lực các quân khu miền Bắc tăng gấp hai lần, riêng ở Quân khu 4 tăng gấp
năm lần. Lực lượng bắn máy bay, tàu chiến của dân quân, tự vệ tăng nhanh,
được trang bị khá mạnh, tổ chức thích hợp. Đến giữa năm 1972, ngoài tổ, đội
trực chiến, dân quân tự vệ miền Bắc đã tổ chức hàng chục đại đội trang bị pháo
cao xạ 37mm, 57mm đến 100mm. Các lực lượng phòng không ba thứ quân miền
Bắc đã bước vào cuộc chiến đấu mới, bắn rơi nhiều máy bay, bắn cháy nhiều tàu
chiến Mỹ, bảo đảm được các tuyến giao thông chiến lược không tắc nghẽn để
chi viện cho tiền tuyến. Lực lượng rà phá bom mìn, thủy lôi được tổ chức rộng
khắp mà nòng cốt là các đơn vị chuyên môn của hải quân, bộ đội công binh chủ
lực và địa phương. Kết hợp lòng dũng cảm và trí thông minh, quân đội đã cùng
nhân dân các địa phương tháo gỡ và phá hủy hàng nghìn quả bom và thủy lôi,