Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Pháp luật về quản trị công ty cổ phần tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.03 KB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

PHẠM HẢI YẾN
LKT 12-03

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY
CỔ PHẦN TẠI VIỆT NAM
Ngành Luật Kinh tế
Mã số: 51010168

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội, 5/2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

PHẠM HẢI YẾN
LKT 12-03

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY
CỔ PHẦN TẠI VIỆT NAM
Ngành Luật Kinh tế
Mã số: 51010168

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG



Hà Nội, 5/2016


LỜI CẢM ƠN

Trước hết em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến toàn thể các thày cô giảng
viên Khoa Luật, Viện Đại học Mở Hà Nội đã tận tình dạy bảo, truyền đạt kiến thức
và những kinh nghiệm quý báu cho em trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu
tại trường.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn tới thày giáo, Tiến sĩ Bùi Ngọc Cường đã tận tình
hướng dẫn, tạo mọi điều kiện cho em tìm kiếm, nghiên cứu các nguồn tài liệu quý
báu để hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp này.
Với vốn kiến thức hạn hẹp và thời gian nghiên cứu có hạn nên Khóa luận tốt
nghiệp không tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được sự góp ý tận tình của
quý thày cô và bạn bè để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng em.
Những nội dung trong khóa luận là do em thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của
TS. Bùi Ngọc Cường. Mọi tham khảo được sử dụng trong khóa luận đều được trích
dẫn rõ ràng và đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Nếu có bất kỳ sai sót
nào em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Giáo viên hướng dẫn

TS. BÙI NGỌC CƯỜNG


Tác giả Khóa luận

PHẠM HẢI YẾN


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Tên đầy đủ

Tên viết tắt
BKS

Ban kiểm soát

CTCP

Công ty cổ phần

ĐHĐCĐ
GCN ĐKDN


Đại hội đồng cổ đông
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Giám đốc

HĐQT

Hội đồng quản trị


LDN

Luật doanh nghiệp

TGĐ

Tổng giám đốc

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài........................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn ............................................ 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 2
5. Bố cục của khóa luận............................................................................................ 2
CHƯƠNG I ................................................................................................................. 3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái quát về công ty cổ phần............................................................................. 3
1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần .......................................................................... 3
1.1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần ..................................................................... 4
1.2. Khái quát về quản trị công ty cổ phần ................................................................ 5
1.2.1. Khái niệm quản trị công ty cổ phần ............................................................. 5
1.2.2. Vai trò của quản trị công ty cổ phần ............................................................ 6
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản trị công ty cổ phần ................................ 7
1.3. Mô hình quản trị công ty cổ phần ở một số nước trên thế giới và bài học kinh

nghiệm đối với Việt Nam ......................................................................................... 9
1.3.1. Mô hình quản trị công ty cổ phần của Nhật Bản .......................................... 9
1.3.2. Mô hình quản trị công ty cổ phần của Hoa Kỳ........................................... 10
1.3.3. Mô hình quản trị công ty cổ phần của Châu Âu ......................................... 11
1.3.4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam ..................................................... 12
CHƯƠNG II .............................................................................................................. 13
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN TRỊ
CÔNG TY CỔ PHẦN
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về quản trị công ty cổ phần ............................. 13
2.1.1. Các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội đồng cổ đông .............. 13
2.1.2. Các quy định về Hội đồng quản trị ............................................................ 22
2.1.3. Quy định về Ban kiểm soát ....................................................................... 27


2.1.4. Quy định về Tổng giám đốc (Giám đốc).................................................... 29
2.1.5. Mối quan hệ giữa các thiết chế quản trị trong công ty cổ phần................... 30
2.2. Một số nhận xét về pháp luật quản trị công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay ... 31
2.2.1. Những kết quả đạt được ............................................................................ 31
2.2.2. Những hạn chế .......................................................................................... 32
2.2.3. Nguyên nhân ............................................................................................. 40
2.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần tại Việt
Nam ....................................................................................................................... 43
2.3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần ......................... 43
2.3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần tại Việt
Nam .................................................................................................................... 44
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 49



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công ty cổ phần (CTCP) ra đời từ cuối thế kỷ XVI ở các nước tư bản phát triển
như một nhu cầu khách quan của lịch sử. Sự ra đời đó là một phát minh quan trọng
của loài người trong nền sản xuất xã hội. Trong suốt mấy trăm năm, các CTCP đã
chiếm một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế thế giới. CTCP đầu
tiên trên thế giới xuất hiện năm 1602, đó là công ty Đông Ấn Độ của Anh. CTCP là
một loại hình doanh nghiệp có nhiều ưu việt và đóng vai trò quan trọng trong việc
xây dựng và phát triển nền kinh tế ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Tại Việt Nam, quản trị CTCP còn là một vấn đề khá
mới mẻ nếu so với hàng trăm năm phát triển của nó ở các nước Châu Âu. Quản trị
CTCP hiện nay đang là đề tài thu hút sự quan tâm không chỉ của các nhà nghiên cứu
lý thuyết, mà còn là tiêu điểm của rất nhiều công ty, nhà đầu tư và cơ quan quản lý
nhà nước. Quản trị CTCP ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Sự sụp đổ của các tập đoàn kinh doanh lớn trên thế giới như Enron,
Wordcom, Pollypeck… đã khiến người ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về ý
nghĩa của hoạt động quản trị và kểm soát trong doanh nghiệp. Trên thế giới đã xuất
hiện rất nhiều lý thuyết về nguyên tắc quản trị công ty ( Mexico, Rumania); bộ các
thực tiễn quản trị công ty tốt nhất ( Thái Lan, Hàn Quốc); hay bộ nguyên tắc của
khối Commonwealth và đặc biệt là các nguyên tắc quản trị công ty của OECD. Là
nước đi sau, Việt Nam mặc dù có lợi thế lớn trong việc học tập kinh nghiệm của các
nước đi trước nhưng việc quản trị CTCP vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập. Thực
trạng này đã ảnh hưởng rất lớn tới sự lành mạnh hóa việc quản trị CTCP. Do đó, đòi
hỏi phải có sự quan tâm, nghiên cứu thấu đáo việc quản trị CTCP về mặt lý luận
cũng như thực tiễn; đồng thời đưa ra các biện pháp về mặt pháp lý để giải quyết
những thực trạng đó.
Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về quản trị công ty cổ
phần tại Việt Nam” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đề tài được thực hiện nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về quản trị CTCP, nội

dung các quy định về quản trị CTCP theo LDN 2014. Thông qua đó, chỉ ra thực
trạng pháp luật về quản trị CTCP, phân tích và đánh giá tác động, ảnh hưởng của
chúng trong thực tiễn quản trị CTCP. Trên cơ sở phân tích thực trạng, đưa ra một số
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản trị CTCP.
1


Việc nghiên cứu đề tài này đem lại những ý nghĩa sau:
Một là, làm rõ vấn đề lý luận cũng như quy định của LDN 2014 về quản trị CTCP.
Hai là, đánh giá thực trạng áp dụng quy định của LDN 2014 vào thực tiễn quản trị
CTCP, chỉ ra những điểm hợp lý và vướng mắc của quy định pháp luật.
Ba là, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định của LDN 2014 về quản trị
CTCP.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các vấn đề pháp lý về quản trị CTCP, đặc
biệt là quản trị các CTCP đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt
Nam. Hiện nay, trong các CTCP không chỉ có việc quản trị mà có đến ba lĩnh vực
liên quan đến việc điều hành công ty. Một là, quản trị CTCP, đây là cách thức tổ
chức các cơ quan quyền lực của công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan
đó (hay còn gọi là cơ cấu quản lý CTCP). Hai là, cơ cấu tổ chức trong công ty – tức
là cách thức sắp xếp các đơn vị khác nhau của công ty thành các phòng, ban, tổ, v.v.
Ba là, quản trị công ty (corporate governance), theo Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD).
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong việc quản trị CTCP với những
vấn đề như: mô hình quản trị CTCP, cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực trong
công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan đó.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận là các nguyên tắc và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta
về hội nhập kinh tế, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của các nước phù hợp với tình

hình thực tế của Việt Nam. Khóa luận sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp so sánh, đối chiếu các quy phạm thực định về quản trị CTCP trong
LDN với pháp luật có liên quan của các nước để lý giải cho các vấn đề nêu trong
khóa luận và đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của khóa luận bao gồm 2 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về quản trị công ty cổ phần.
Chương II: Thực trạng pháp luật quản trị công ty cổ phần ở Việt Nam và một số
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật quản trị công ty cổ phần.

2


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái quát về công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần
Trên thế giới, CTCP đã ra đời và phát triển từ rất sớm góp phần quan trọng cho sự
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Theo khảo cứu, Pháp là quốc gia đầu tiên trên
thế giới công nhận CTCP về mặt pháp lý. Chế độ CTCP được quy định trong Bộ
luật Thương mại Pháp năm 1807 (Bộ luật Napoleon), theo đó CTCP tồn tại dưới
loại hình société en commandite par actions (công ty giao vốn) cho phép những
người không tham gia vào việc quản lý công ty được hưởng chế độ trách nhiệm hữu
hạn. Ở Mỹ, CTCP cũng ra đời từ sớm và phát triển rất mạnh. Trải qua hàng trăm
năm phát triển, cho đến nay cùng với quá trình toàn cầu hóa, hình thức CTCP đã có
sức bật mới với sự xuất hiện của các loại hình CTCP “đa quốc gia”, “xuyên quốc
gia” có tầm hoạt động rộng lớn và khả năng cạnh tranh cao. Ở Việt Nam, so với các
nước trên thế giới loại hình CTCP ra đời muộn và chậm phát triển hơn. CTCP ở
Việt Nam được hình thành và phát triển cùng với sự thừa nhận nền kinh tế thị

trường có điều tiết. CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện
nay cho nên để tìm hiểu khái niệm CTCP trước tiên cần tìm hiểu khái niệm và đặc
điểm của một doanh nghiệp nói chung. Theo khoản 7 Điều 4 LDN 2014, doanh
nghiệp được định nghĩa là “tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được
đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”.
CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp theo LDN 2014 nên ngoài mang
các đặc điểm nói chung của một doanh nghiệp thì trên cơ sở các dấu hiệu đặc trưng
về số lượng thành viên, cơ cấu góp vốn, trách nhiệm pháp lý của cổ đông, tư cách
pháp nhân của công ty, việc chuyển nhượng vốn và phát hành chứng khoán, CTCP
theo Điều 110 LDN 2014 được định nghĩa như sau:
“1. CTCP là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không
hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;

3


d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 tại luật này;
2. CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp GCN ĐKDN.
3. CTCP có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn”.
1.1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần
CTCP là điển hình của công ty đối vốn. Loại hình công ty này có những đặc điểm
cơ bản để phân biệt với công ty TNHH và công ty hợp danh. Cụ thể đó là:
 Về vốn điều lệ
Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá
trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu. Một cổ

phiếu phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần. Việc góp vốn vào công ty
được thực hiện bằng cách mua cổ phần, mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phần. Tư
cách cổ đông của công ty được xác định dựa trên căn cứ quyền sở hữu cổ phần.
Luật không hạn chế mỗi thành viên được mua tối đa bao nhiêu % vốn điều lệ nhưng
các thành viên có thể thỏa thuận trong điều lệ giới hạn tối đa số cổ phần mà một
thành viên có thể mua nhằm chống lại việc một thành viên nào đó kiểm soát công ty.
 Về cổ đông công ty
Đặc điểm về cổ đông công ty là hệ quả đặc điểm về cấu trúc vốn. Với căn cứ xác
lập tư cách cổ đông là quyền sở hữu cổ phần, trong khi cổ phần có thể được chào
bán rộng rãi cho các đối tượng khác nhau, cổ đông của công ty cổ phần thường rất
lớn về số lượng và không quen biết nhau. LDN chỉ hạn định số lượng tối thiểu mà
không giới hạn số lượng tối đa số cổ đông CTCP. Trong suốt quá trình hoạt động ít
nhất phải có 03 cổ đông tham gia CTCP. Là loại hình công ty đặc trưng cho công ty
đối vốn nên có sự liên kết của nhiều cổ đông. Vì vậy, việc quy định số cổ đông tối
thiểu phải có đã trở thành thông lệ quốc tế trong mấy trăm năm tồn tại của CTCP.
 Về chuyển nhượng cổ phần vốn góp
Phần vốn góp (cổ phần) của các cổ đông được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Cổ
phiếu do công ty phát hành là một loại hàng hóa. Các cổ đông có quyền tự do
chuyển nhượng cổ phần. Một số trường hợp bị pháp luật cấm chuyển nhượng. Cụ
thể, các cổ đông được tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần phổ thông của các sáng lập viên trong 03 năm
kể từ ngày công ty được cấp GCN ĐKDN.
 Về chế độ chịu trách nhiệm

4


CTCP phải tự chịu trách nhiệm độc lập về các khoản nợ của công ty bằng tài sản
của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn đã góp (đến hết giá trị cổ phần sở hữu). Tuy nhiên,

chế độ trách nhiệm hữu hạn mà cổ đông được hưởng cũng kèm theo những ràng
buộc nhất định nhằm bảo vệ quyền lợi của người thứ ba. Khi công ty thanh toán cổ
phần mua lại hoặc trả cổ tức trái quy định, tất cả số cổ đông phải hoàn trả số tiền
hoặc tài sản đã nhận của công ty. Tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn trên đã thu hút
mạnh mẽ các nhà đầu tư đầu tư vào CTCP nhiều hơn so với các loại hình doanh
nghiệp khác. Bất kỳ nhà đầu tư nào cũng hiểu rằng khi mình đầu tư vào CTCP với
tính chất chịu trách nhiệm hữu hạn của cổ đông thì không bao giờ mình bị mất
nhiều hơn so với số vốn đã bỏ ra đầu tư nên họ ít sợ rủi ro hơn đầu tư vốn vào công
ty hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân.
 Về phát hành chứng khoán
CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật
về chứng khoán để huy động vốn. Điều này thể hiện khả năng huy động vốn lớn và
rộng ra công chúng của CTCP. CTCP có khả năng chủ động vốn một cách linh hoạt
khi cần nguồn vốn lớn để tham gia các dự án đầu tư. Sự chủ động này là yếu tố
quan trọng hàng đầu góp phần vào thành công của doanh nghiệp.
Khả năng huy động vốn lớn và rộng rãi trong công chúng cũng kéo theo nguy cơ
gây rủi ro rất cao. Bởi vậy, CTCP phải chịu nhiều quy chế pháp lý khắt khe hơn so
với loại hình doanh nghiệp khác.
 Về tư cách pháp lý
CTCP là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp GCN ĐKDN.
Pháp luật về công ty xác lập một cách cụ thể CTCP với tư cách là một pháp nhân
độc lập, có năng lực pháp luật độc lập, có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý
theo luật định và tách biệt với cổ đông công ty. Trong quá trình hoạt động công ty
chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng chính tài sản của mình. Thông
qua người đại diện của mình theo quy định của pháp luật, công ty có thể trở thành
nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trong các quan hệ tranh tụng tại tòa án.
1.2. Khái quát về quản trị công ty cổ phần
1.2.1. Khái niệm quản trị công ty cổ phần
Khái niệm quản trị CTCP xuất phát từ khái niệm quản trị tổ chức và quản trị doanh
nghiệp nói chung. Quản trị tổ chức được hiểu là sự duy trì và thúc đẩy hoạt động

của tổ chức, đảm bảo sự vận hành nhằm hoàn thành mục tiêu nhất định. Doanh
nghiệp là một tổ chức kinh tế nên doanh nghiệp cần được quản trị. Quản trị doanh
5


nghiệp nói chung và quản trị CTCP nói riêng là một dạng của hoạt động quản trị tổ
chức, quản trị doanh nghiệp được hiểu là quá trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo,
kiểm tra hoạt động của các thành viên nhằm thực hiện những mục tiêu của doanh
nghiệp.
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinhh tế (OECD), quản trị công ty là một hệ
thống các cơ chế, các hành vi quản lý. Cơ chế này xác định việc phân chia các
quyền và nghĩa vụ giữa cổ đông, HĐQT, các chức danh quản lý và những người có
liên quan, quy định trình tự ban hành các quyết định kinh doanh. Bằng cách này,
công ty tạo ra một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động, tạo ra phương tiện thực thi và
giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó.
Theo ngân hàng thế giới (WB), quản trị công ty được coi là một hệ thống kết hợp
các yếu tố luật pháp, thể chế và các hệ thống quản trị của công ty. Nó cho phép
công ty có thể thu hút được các nguồn tài chính và nhân lực, hoạt động một cách
hiệu quả, tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho thành viên trong khi vẫn tôn trọng các
quyền lợi của những người có quyền, lợi ích liên quan và toàn xã hội.
Theo ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), quản trị công ty bao gồm một hệ thống
các quy chế xác định rõ mối liên hệ giữa các cổ đông, các chức danh quản lý, các
chủ nợ, Chính phủ và những người có lợi ích liên quan khác cũng như hệ thống các
cơ chế đảm bảo thực hiện các quy chế trên.
Như vậy có thể hiểu, quản trị CTCP (corporate governance) là một hệ thống các cơ
chế nhằm định hướng, vận hành và kiểm soát CTCP; bao hàm mối quan hệ giữa
nhiều bên, nội bộ CTCP (cổ đông, ban GĐ, HĐQT) và bên có lợi ích liên quan bên
ngoài công ty (cơ quan quản lý Nhà nước, đối tác kinh doanh và cộng đồng); trong
đó quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quản lý như cổ đông, HĐQT, TGĐ (GĐ),
người lao động và những người có lợi ích liên quan được phân định rõ ràng, giám

sát thực hiện chặt chẽ.
1.2.2. Vai trò của quản trị công ty cổ phần
Quản trị CTCP có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các cổ đông, các
đối tác của công ty; ảnh hưởng tới sự ổn định và phát triển của chính công ty và xa
hơn chính là nền kinh tế.
 Với quyền và lợi ích của cổ đông CTCP
Một hệ thống quản trị tốt sẽ đảm bảo về mặt tài chính cho các cổ đông, tạo được
lòng tin, giúp cổ đông gắn bó với công ty. Quản trị công ty không hiệu quả là
nguyên nhân chính khiến công việc kinh doanh của công ty kém hiệu quả, mất đi
niềm tin nơi thành viên và khiến họ muốn rời bỏ công ty nhằm bảo toàn, cứu vãn
6


vốn đầu tư đã bỏ ra. Một hệ thống quản trị tốt còn là yếu tố đảm bảo tiếng nói của
các cổ đông công ty, đặc biệt là các cổ đông thiểu số. Tại môi trường này, mỗi cổ
đông đều được thực hiện quyền tham gia vào quá trình đưa ra những quyết định về
hoạt động kinh doanh. Đây cũng là điều kiện giúp cổ đông gắn bó với công ty.
 Với đối tác và khách hàng của công ty
Khi lựa chọn đối tác, bộ máy quản trị cũng là một yếu tố cần xem xét. Vì vậy, hoàn
thiện quản trị làm tăng sức hấp dẫn của doanh nghiệp. Có nhiều đối tác là công ty
có cơ hội phát triển lớn hơn. Với người tiêu dùng, vai trò quản trị công ty mờ nhạt
hơn. Trong thương mại hàng hóa, quản trị CTCP thể hiện vai trò với khách hàng
chủ yếu thông qua phân phối sản phẩm, người tiêu dùng luôn lựa chọn sản phẩm,
dịch vụ từ nhà cung cấp tin cậy. Muốn vậy bộ máy quản trị tốt là không thể thiếu.
Trong thương mại dịch vụ, quản trị công ty có ý nghĩa lớn hơn với khách hàng bởi
người sử dụng dịch vụ cần xem xét nhà cung cấp có hoạt động ổn định hay không.
 Với sự tồn tại và phát triển của chính công ty
Quản trị công ty tốt thì công ty mới bền vững. Một công ty có cơ sở vững chắc
như nguồn vốn lớn, nhân lực dồi dào, giàu kinh nghiệm, nhưng trong quá trình hoạt
động để có được hiệu quả kinh doanh và phát triển hơn nữa thì cần thiết phải có bộ

máy quản trị tốt. Quản trị tốt nghĩa là phân phối hợp lý, duy trì ổn định các nguồn
lực nói riêng và công ty nói chung. Cùng với đó là cơ chế kiểm soát chặt chẽ,
nghiêm túc nhằm tạo ra kỷ luật cũng như tính ổn định cho hoạt động của công ty.
 Với nền kinh tế
Doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng là một bộ phận của nền kinh tế. Chính
vì vậy, sự tăng trưởng của chúng góp phần duy trì ổn định và phát triển cho cả nền
kinh tế. Số lượng CTCP ít hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác nhưng sự ảnh
hưởng cũng như đóng góp của chúng là không hề nhỏ. Một hệ thống quản trị kém
sẽ dẫn theo sự yếu kém của công ty gây ảnh hưởng đến các công ty đối tác, các bạn
hàng và một lượng người tiêu dùng đông đảo trong xã hội, tất yếu dẫn đến thiệt hại
cho nền kinh tế. Vì vậy, kiện toàn hệ thống quản trị công ty nói chung, CTCP nói
riêng đặc biệt là CTCP đại chúng là cách làm lành mạnh hóa thị trường, tăng luân
chuyển vốn, tăng lợi nhuận, góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế.
1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản trị công ty cổ phần
 Điều lệ công ty
Điều lệ CTCP là bản cam kết của tất cả các thành viên công ty về mục đích thành
lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty được các thành viên công ty thông
7


qua và được cơ quan đăng ký kinh doanh xác nhận. Bởi vậy quy định của điều lệ
công ty có tính bắt buộc thi hành. Điều lệ công ty không chỉ điều chỉnh các quan hệ
đối nội giữa các thành viên trong công ty, thành viên công ty với công ty mà còn
điều chỉnh mối quan hệ đối ngoại của công ty với những người liên quan. Quản trị
công ty là quá trình phức tạp và điều lệ công ty cho ta thấy tương đối tổng quát về
quá trình đó. Đây là cơ sở quan trọng để các nhà đầu tư đưa ra quyết định có bỏ vốn
hay không và bỏ bao nhiêu vốn. Do đó, một bản điều lệ tốt cũng là nhân tố khẳng
định khả năng quản trị, phát triển công ty.
 Cấu trúc vốn
CTCP là loại hình doanh nghệp đa sở hữu, khi tham gia vào CTCP các cổ đông chủ

yếu quam tâm đến phần vốn góp. Vốn là toàn bộ tài sản hữu hình thuộc sở hữu của
công ty có quyền quản lý, sử dụng và được đưa vào bất kỳ giai đoạn nào của chu
trình sản xuất kinh doanh nhằm kiếm lợi nhuận. Vốn của công ty được hình thành
từ nhiều nguồn: vốn vay, vốn tích lũy, vốn góp… Với CTCP, vốn điều lệ được thể
hiện dưới dạng các cổ phần, đó là phần chia nhỏ nhất của vốn điều lệ và được thể
hiện dưới hình thức cổ phiếu. Cổ phần bao gồm: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu
đãi.
Với tính chất sở hữu, cơ cấu bộ máy và cơ chế quản trị trong CTCP dựa trên sức
mạnh kinh tế của nhóm sở hữu công ty. Trong cơ cấu bộ máy quản trị công ty có sự
phân quyền rõ ràng giữa các bộ phận. Sự phân quyền này trước hết dựa trên tỷ lệ
vốn góp của các cổ đông nhằm đảm bảo một cơ cấu quản trị chặt chẽ, bảo vệ đến
mức tối đa quyền lợi của các cổ đông.
Trong cơ cấu tổ chức quản trị CTCP, ĐHĐCĐ là cơ quan có quyền lực cao nhất,
nơi thể hiện tập trung nhất vai trò của các cổ đông. Cổ đông là người góp vốn tạo
nên công ty, tùy thuộc vào số lượng cổ phần nắm giữ, họ có vai trò lớn trong việc
tồn tại và phát triển của công ty.
HĐQT là cơ quan quản lý điều hành hoạt động của CTCP. Cấu trúc vốn góp phần
quan trọng trong việc hình thành HĐQT. Điều này thể hiện rằng các cổ đông hoặc
nhóm cổ đông sở hữu tỷ lệ nhất định trong vốn điều lệ công ty có quyền đề cử
người vào HĐQT. HĐQT do cổ đông bầu tại ĐHĐCĐ theo nguyên tắc bầu dồn
phiếu. Quyền bỏ phiếu gắn liền với cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Sự chi phối này
cũng thể hiện qua tỷ lệ cổ phần có quyền bầu thành viên BKS.
 Cơ cấu thành viên của CTCP
CTCP thường có số lượng cổ đông lớn và dễ thay đổi cơ cấu thành viên. Với khả
năng huy động, chuyển nhượng vốn linh hoạt, cổ đông CTCP dễ dàng ra nhập hoặc
8


rút khỏi công ty, linh động trong việc chuyển nhượng cổ phần giữa các cổ đông
trong công ty với nhau. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới tính ổn định trong nội bộ

công ty, vì vậy quản trị công ty cũng gặp phải những khó khăn như ảnh hưởng đến
việc thành lập hoặc không thành lập BKS tại CTCP.
 Quy mô hoạt động của CTCP
CTCP có khả năng thu hút vốn thông qua việc phát hành chứng khoán ra công
chúng để đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Chính vì vậy, CTCP thường có
quy mô hoạt động rộng trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề và cũng kéo theo
việc quản trị CTCP thường gặp nhiều khó khăn, không đơn giản so với một số loại
hình doanh nghiệp khác.
 Trình độ cổ đông, năng lực đội ngũ lãnh đạo
Hoạt động của ĐHĐCĐ là hoạt động tập thể nên trình độ, kinh nghiệm của cổ đông
có ảnh hưởng lớn đến CTCP. Nếu cổ đông là người có năng lực, trình độ cao thì dễ
dàng lựa chọn những phương pháp hợp lý để quản lý hữu hiệu. Là cơ quan quyền
lực cao nhất có sự tham gia của các cổ đông nhưng ĐHĐCĐ lại không hoạt động
thường xuyên, 01 năm chỉ tiến hành một vài lần. Vì vậy, hoạt động điều hành hàng
ngày của lãnh đạo công ty giữ vai trò quan trọng. Các nhà lãnh đạo giỏi là những
người có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm làm việc và hơn hết là tâm huyết
với công ty. Những quyết sách đúng đắn của họ góp phần không nhỏ tới hiệu quả
hoạt động của công ty. Vì vậy, đội ngũ lãnh đạo giỏi là chìa khóa thành công của
doanh nghiệp.
1.3. Mô hình quản trị công ty cổ phần ở một số nước trên thế giới và bài học
kinh nghiệm đối với Việt Nam
Trong việc quản trị CTCP, mỗi quốc gia trên thế giới đều có những quy định và
đặc điểm riêng. Tuy nhiên, nếu xem xét và phân loại chúng thành một số mô hình
thì có thể đưa ra ba mô hình quản trị CTCP điển hình là mô hình quản trị CTCP của
Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản.
1.3.1. Mô hình quản trị công ty cổ phần của Nhật Bản
Trong các CTCP của Nhật, ĐHĐCĐ là cơ quan quyết định cao nhất. Cơ quan này
bầu ra thành viên HĐQT và kiểm soát viên để hình thành hai cơ quan chức năng
thường trực là HĐQT (gọi là Hội đồng đổng sự) và BKS (gọi là Hội đồng giám sự).
HĐQT trong nội bộ bầu ra một số thành viên và ủy quyền cho họ đại diện công ty,

những người này được gọi là “đổng sự đại diện”, có quyền đại diện công ty quản lý
điều hành các mặt mà mình đảm nhiệm. HĐQT còn bổ nhiệm một số chuyên gia
làm cán bộ quản lý cao cấp để trợ giúp công việc quản lý kinh doanh. BKS giữ
9


quyền và nhiệm vụ giám sát, kiểm toán các hoạt động kinh doanh của HĐQT, điều
tra và xử lý hành vi vi phạm pháp luật hoặc không hợp lý gây hậu quả nghiêm trọng.
Ngoài ra, ĐHĐCĐ còn thuê công ty kiểm toán độc lập làm “người giám sát kế toán”
để thẩm tra tính hợp pháp hoạt động kinh doanh của HĐQT trong phạm vi tài chính.
Ngoài ra, khi tiến hành điều tra một vụ việc nghiêm trọng, ĐHĐCĐ sẽ trực tiếp bổ
nhiệm một “người điều tra” nhằm giám sát HĐQT cũng như BKS một cách thiết
thực.
Năm 1950 khi sửa đổi luật thương mại quyền lực của các giám sự đã bị cắt giảm,
họ chỉ thực hiện quyền kiểm soát tài chính còn quyền kiểm soát nghiệp vụ thuộc về
HĐQT. Nhưng sau một thời gian thi hành HĐQT đã không thực sự làm tốt nhiệm
vụ này. Luật thương mại Nhật sửa đổi năm 1974 đã tăng cường quyền lực cho các
kiểm soát viên và khôi phục quyền giám sát nghiệp vụ công ty cho họ. Ngoài ra,
nhằm tăng cường giám sát tài chính trong các CTCP Nhật Bản đã ban hành luật
thương mại đặc biệt về việc giám sát CTCP, trong đó quy định bắt buộc những
CTCP lớn phải thiết lập cơ chế kiểm soát viên song trùng, tức là ngoài có kiểm soát
viên theo luật thương mại, các công ty có quy mô lớn còn phải thiết lập kiểm soát
viên về tài chính. Năm 1993 luật thương mại Nhật Bản sửa đổi, quy định CTCP có
quy mô lớn phải thành lập BKS có ít nhất ba kiểm soát viên, trong đó có ít nhất 01
kiểm soát viên độc lập. Những CTCP nhỏ chỉ cần 01 kiểm soát viên với trách nhiệm
chủ yếu là giám sát tài chính công ty.
Năm 2002, mô hình công ty có thiết lập ủy ban được du nhập vào Nhật Bản. Khác
với CTCP có thiết lập BKS, mô hình CTCP có thiết lập ủy ban gồm ĐHĐCĐ,
HĐQT, các ủy ban, bên cạnh đó có người điều hành, giám sát viên kế toán. Việc du
nhập mô hình này trong hoàn cảnh HĐQT, BKS trong mô hình truyền thống bị hình

thức hóa, không phát huy được vai trò giám sát phát hiện những gian lận tài chính
trong công ty.
1.3.2. Mô hình quản trị công ty cổ phần của Hoa Kỳ
Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ về quản trị công ty được coi là một trong những mô
hình tiêu biểu nhất để xây dựng pháp luật cho quản trị công ty trên thế giới. CTCP
của Mỹ thực hiện cơ chế quản lý “đơn lớp” (one - tier board), cơ quan chức năng
thường trực của công ty chỉ có HĐQT (board of directors). Quyền lực của ĐHĐCĐ
được pháp luật quy định rõ ràng, các quyền lực không thuộc ĐHĐCĐ là thuộc
phạm vi của HĐQT. HĐQT có quyền lực to lớn tập trung vào các chức năng quản
lý kinh doanh. Cụ thể, HĐQT là cơ quan tập trung các chức năng như quyết sách,
điều hành, kiểm soát và đại diện đối ngoại. Để phân công các chức năng một cách
10


rõ ràng, HĐQT trong nội bộ thành lập các ủy ban chuyên trách như ủy ban chấp
hành (the executive committee of the board of directors), ủy ban kiểm toán (the
audit committee of the board of directors), ủy ban tiền lương (the compensation
committee of the board of directors), ủy ban đề bạt (the nomination commiettee of
the board of directors). HĐQT do các cổ đông bầu ra gồm những người không phải
là thành viên công ty, nói cách khác, hệ thống điều hành giám sát công ty ở Hoa Kỳ
sử dụng giám sát bên ngoài nhằm đảm bảo dễ dàng thay đổi. HĐQT triệu tập họp
theo định kỳ với sự tham gia của toàn thể các đổng sự, tại cuộc họp các đổng sự
thẩm định báo cáo của các ủy ban, thảo luận các vấn đề liên quan đến mọi công việc
quản lý kinh doanh, biểu quyết thông qua các nghị quyết với đa số các thành viên
tán thành.
1.3.3. Mô hình quản trị công ty cổ phần của Châu Âu
Cơ cấu quản lý CTCP của Châu Âu được giới luật học khái quát là “song lớp”
(two-tier board) với hai cơ quan chức năng và thường trực là BKS và HĐQT.
HĐQT là cơ quan quản lý điều hành và đại diện đối ngoại của công ty nhưng xét về
địa vị pháp lý, nó đứng dưới BKS. Các thành viên HĐQT và chủ tịch HĐQT do

BKS bổ nhiệm. HĐQT có nghĩa vụ báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước
BKS. BKS giám sát hoạt động điều hành nghiệp vụ của HĐQT bao gồm kiểm tra sổ
sách tài chính, văn kiện và vật tư tài sản của công ty.
BKS có thể triệu tập họp ĐHĐCĐ để giải quyết việc thực hiện nghiệp vụ của
HĐQT. Điều lệ công ty có thể quy định và BKS có thể ra quyết định rằng, việc
HĐQT tiến hành một số nghiệp vụ nhất định cần phải có sự đồng ý của BKS;
trường hợp BKS không đồng ý HĐQT mới được tiến hành nghiệp vụ đó sau khi
được 3/4 số phiếu biểu quyết của ĐHĐCĐ tán thành. Trong khi HĐQT đại diện cho
công ty trong mọi hoạt động đối ngoại thì BKS đại diện cho công ty đối với HĐQT.
Các kiểm soát viên do ĐHĐCĐ bầu và bổ nhiệm, trừ một số là đại biểu của công
nhân viên tùy theo quy mô công ty. ĐHĐCĐ có thể bổ nhiệm kiểm toán viên đặc
biệt để kiểm soát các nghiệp vụ của công ty. Ở Châu Âu, quyền lực của ĐHĐCĐ bị
giới hạn trong một phạm vi do luật định, bao gồm bổ nhiệm các kiểm soát viên;
quyết định việc sử dụng khoản tiền lợi nhuận; quyết định việc giảm hay miễn trừ
trách nhiệm của kiểm soát viên và các thành viên HĐQT; bổ nhiệm kiểm toán viên
độc lập; sửa đổi điều lệ công ty; quyết định huy động vốn hoặc cắt giảm vốn và giải
thể công ty. Ngoài quyền hạn nêu trên, mọi thẩm quyền khác về cơ bản thuộc về
HĐQT nếu điều lệ công ty không quy định khác. Ban kiểm soát là cơ quan giám sát
đồng thời là cơ quan lãnh đạo của HĐQT. Dưới cơ chế này BKS có quyền lực rất
11


lớn, nó không những thực hiện quyền giám sát mà còn bổ nhiệm, miễn nhiệm các
thành viên HĐQT, quyết định mức lương của họ đồng thời phê chuẩn hay hủy bỏ
những nghiệp vụ trọng đại của công ty. Với cơ chế giám sát như vậy, hoạt động
giám sát của BKS ở Châu Âu có hiệu quả cao hơn ở Việt Nam.
1.3.4. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Qua tổng kết cho thấy, hiện nay trên thế giới cơ bản tồn tại hai chế độ tổ chức quản
lý CTCP khác nhau là đơn lớp và song lớp. Ở chế độ thứ hai, ngoài việc thiết lập
một cơ quan chuyên trách thực hiện hoạt động quản lý điều hành còn thiết lập một

cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng kiểm soát. Trong thực tiễn, các công ty
theo kiểu đơn lớp cũng thực hiện sự tách biệt chức năng quản lý điều hành với chức
năng kiểm soát, tức là thành viên điều hành chuyên trách công việc quản lý kinh
doanh trong khi thành viên không điều hành có quyền và nhiệm vụ giám sát hoạt
động quản lý kinh doanh. Việc hoàn thiện sự phân định này có thể sẽ khuyến khích
nhà đầu tư từ các nước khác nhau cùng thành lập công ty, đẩy mạnh tiến trình hòa
hợp giữa các công ty ở các nước khác nhau trên thế giới.
So sánh với ba mô hình, mô hình ở Việt Nam có nhiều điểm tương đồng nhất với
mô hình của Nhật Bản, quy định cơ cấu quản lý CTCP gồm ĐHĐCĐ – cơ quan
quyết định cao nhất của công ty; HĐQT – cơ quan chấp hành nghiệp vụ và đại diện
công ty; BKS – cơ quan giám sát. HĐQT và BKS do ĐHĐCĐ bầu ra, có nghĩa vụ
báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ. HĐQT và BKS là hai cơ quan
chức năng và thường trực có địa vị pháp lý ngang nhau.
Từ việc nghiên cứu trên nhận thấy rằng, việc lựa chọn mô hình tổ chức quản lý nào
không phải là điều quan trọng nhất mà là khi lựa chọn mô hình bất kỳ pháp luật cần
cho phép cơ quan quản lý điều hành có đầy đủ thẩm quyền để có thể thực hiện chức
trách một cách năng động, tích cực đồng thời phải luôn chú trọng việc thiết lập một
cơ chế kiểm soát đắc lực để thực hiện chức năng giám sát mọi hoạt động của cơ
quan quản lý điều hành đó.

12


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN Ở
VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về quản trị công ty cổ phần
Quá trình quản trị CTCP phát sinh mối quan hệ giữa rất nhiều chủ thể. Để điều
chỉnh các quan hệ đó, nhà nước ban hành nhiều quy phạm pháp luật khác nhau

trong nhiều văn bản khác nhau nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động quản
trị CTCP đảm bảo quyền, lợi ích cho các chủ thể tham gia quan hệ, gián tiếp giúp
CTCP hoạt động lành mạnh, hiệu quả. Như vậy, pháp luật về quản trị CTCP là tập
hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản trị CTCP.
2.1.1. Các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội đồng cổ đông
 Khái niệm cổ đông và ĐHĐCĐ
Người mua cổ phần để góp vốn vào CTCP gọi là cổ đông, là người chủ của công ty,
có vai trò to lớn trong sự tồn tại và phát triển của công ty. Cổ đông của CTCP có thể
là tổ chức hoặc cá nhân, trừ trường hợp bị cấm theo khoản 2 Điều 18 LDN 2014.
Thực tế, cổ đông có thể gồm nhiều loại với tên gọi khác nhau. Cổ đông tham gia
xây dựng công ty, thông qua, ký tên vào bản điều lệ đầu tiên của CTCP gọi là cổ
đông sáng lập. Người mua cổ phần là cá nhân với số lượng nhỏ, đơn lẻ vì mục đích
chờ chênh lệch mệnh giá hay đơn giản chỉ để duy trì việc làm gọi là cổ đông cá
nhân. Cổ đông là các tổ chức như cơ quan nhà nước, ngân hàng, quỹ bảo hiểm và
các tổ chức khác được gọi là cổ đông thiết chế. Người nắm giữ phần vốn đáng kể
trong công ty, có thể gom để thao túng công ty gọi là cổ đông đa số. Người nắm giữ
ít cổ phần không có ảnh hưởng đáng kể đến công ty gọi là cổ đông thiểu số. Các cơ
sở kinh doanh cung cấp nguồn vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu; hệ thống đại lý, người
bán hàng; hệ thống cung cấp tín dụng, hỗ trợ công nghệ có liên quan mật thiết đến
hoạt động kinh doanh của công ty khi họ mua cổ phần của công ty có thể gọi là cổ
đông chiến lược. Cổ đông có thể là các nhà đầu tư cá nhân hoặc tổ chức trong nước
hoặc nước ngoài. Số lượng cổ đông CTCP tối thiểu là 03 và không hạn chế số lượng
tối đa. Cổ đông là chủ sở hữu công ty nhưng không nhất thiết phải tham gia quản lý
công ty, họ thực hiện quyền giám sát thông qua cơ chế ủy quyền, đại diện như bỏ
phiếu tại ĐHĐCĐ, bầu HĐQT, thông qua định hướng phát triển công ty.

13



Dưới góc độ pháp lý, pháp luật quy định có 03 loại cổ đông: cổ đông sáng lập, cổ
đông phổ thông và cổ đông ưu đãi.
Cổ đông sáng lập là những người khai sinh ra công ty trên cơ sở hợp đồng thành
lập công ty. Hợp đồng thành lập công ty là sự thể hiện năng lực, trách nhiệm của cổ
đông sáng lập đồng thời là cơ sở pháp lý để hạn chế sự gia tăng việc lợi dụng thành
lập công ty để chiếm dụng vốn, tài sản của cổ đông khác. LDN 2014 quy định các
cổ đông sáng lập phải cùng nhau mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông tại
thời điểm ĐKDN và phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn
90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp GCN ĐKDN. Quy định này nhằm nâng cao
vai trò, trách nhiệm và vị trí của các cổ đông sáng lập trong công ty.
Cổ đông phổ thông là những người sở hữu cổ phần phổ thông. Cổ đông phổ thông
thường chiếm ưu thế hơn về số lượng trong CTCP và cả trong hoạt động quản trị
công ty, thực hiện các hoạt động liên quan đến quản lý nhân sự và giám sát hoạt
động của công ty theo tỷ lệ và mức độ sở hữu.
Cổ đông ưu đãi là người sở hữu cổ phần ưu đãi. Cổ đông ưu đãi bao gồm cổ đông
ưu đãi biểu quyết, cổ đông ưu đãi cổ tức, cổ đông ưu đãi hoàn lại và các cổ đông ưu
đãi khác do điều lệ công ty quy định. Mức độ đa dạng của các loại cổ phần ưu đãi
về hình thức và đối tượng sở hữu trong CTCP đã góp phần tạo nên tính linh hoạt,
mềm dẻo của công ty đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư, huy động được tối đa các
nguồn vốn.
Sự đa dạng trong cơ cấu cổ đông dẫn đến sự phức tạp trong việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ của cổ đông. Hiện nay, LDN 2014 quy định quyền của cổ đông tại Điều
114, 116, 117, 118, 119. Bao gồm các nhóm quyền sau:
- Các nhóm quyền liên quan đến hệ thống quản lý điều hành công ty:
Đây là nhóm quyền thể hiện quyền làm chủ sở hữu công ty, theo đó cổ đông có
quyền tham dự ĐHĐCĐ; biểu quyết, bầu thành viên HĐQT, BKS; thông qua các
quyết định… Cổ đông có thể trực tiếp hoặc cử đại diện tham dự họp và biểu quyết
tại cuộc họp ĐHĐCĐ, trừ cổ đông phổ thông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi hoàn
lại không có quyền này. Đối với cổ đông phổ thông thì mỗi cổ phần có 01 phiếu
biểu quyết, với cổ đông ưu đãi biểu quyết thì có số phiếu biểu quyết cao hơn.

- Các quyền liên quan đến kinh tế:
Đây là nhóm quyền quan trọng nhất của cổ đông. Quyền kinh tế của cổ đông CTCP
bao gồm: cổ đông được nhận cổ tức theo quyết định của ĐHĐCĐ, được ưu tiên
mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ, được
tự do chuyển nhượng cổ phần cho cổ đông khác và cho người khác không phải cổ
14


đông, được nhận lại tài sản tương ứng với số cổ phần đã góp vào công ty khi công
ty giải thể hoặc phá sản… Như vậy, pháp luật quy định khá cụ thể quyền liên quan
đến kinh tế của cổ đông giúp họ có đầy đủ các quyền của một sở hữu thực sự đối
với CTCP.
- Các quyền kiểm tra và giám sát hoạt động của công ty:
Cổ đông có thể trực tiếp hoặc thông qua BKS để thực hiện việc giám sát toàn bộ
hoạt động của công ty nhằm bảo vệ lợi ích của chính mình. Cổ đông có quyền xem
xét, tra cứu, sao chép các thông tin trong danh sách cổ đông, sao chụp điều lệ công
ty, số biên bản họp ĐHĐCĐ, có quyền yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính
xác. Như vậy, cổ đông có thể nắm bắt đầy đủ và chính xác nhất về công ty, đồng
thời có quyền biểu quyết yêu cầu sửa đổi nếu thông tin đó thiếu hoặc không chính
xác.
- Quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh:
Trong quá trình hoạt động của mình, công ty có thể phát sinh tranh chấp giữa các
cổ đông với nhau hoặc giữa cổ đông với công ty. Nhằm bảo vệ quyền lợi chính
đáng của mình và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật của cổ đông khác, cổ đông
có quyền yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết tranh chấp xảy ra theo quy định của
pháp luật và điều lệ công ty. Đồng thời, cổ đông phải thực hiện các nghĩa vụ của
mình về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi cổ phần sở hữu
theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Cùng với đó, phải tuân thủ điều lệ và
quy chế quản trị CTCP, chấp hành các quyết định của ĐHĐCĐ, HĐQT.
Tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, khi họp trở thành một cơ quan quyết nghị có

quyền quyết định cao nhất trong công ty gọi là ĐHĐCĐ. Thực tế chỉ ra rằng có 03
loại ĐHĐCĐ: ĐHĐCĐ thành lập nhóm họp khi các sáng lập viên thông qua điều lệ
và ủy quyền người tiến hành thành lập công ty; ĐHĐCĐ thường niên nhóm họp
hàng năm chậm nhất 04 tháng (có thể được gia hạn nhưng không quá 06 tháng) kể
từ ngày kết thúc năm tài chính; ĐHĐCĐ bất thường được triệu tập theo yêu cầu của
HĐQT hoặc cổ đông theo thể thức do pháp luật quy định.
- Thứ nhất, ĐHĐCĐ thường niên:
Khác với Hội đồng thành viên trong công ty TNHH có thể nhóm họp theo những
thể thức đơn giản nhằm bàn bạc và can thiệp vào bất cứ nội dung nào trong quá
trình quản trị và điều hành công ty. ĐHĐCĐ trong CTCP là một cơ quan đại diện –
cơ quan nghị quyết được tổ chức ít nhất 01 năm 01 lần với những thủ tục chặt chẽ
nhằm định hướng phát triển cho công ty và đánh giá hoạt động của HĐQT. Trên
thực tế, ĐHĐCĐ không nhất thiết phải họp ở trụ sở công ty mà có thể tổ chức tại
15


bất kỳ nơi nào miễn là địa điểm họp phải trên lãnh thổ Việt Nam để thảo luận và
thông qua các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 136 LDN 2014.
+ Kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty;
+ Báo cáo tài chính hằng năm;
+ Báo cáo của HĐQT về quản trị và kết quả hoạt động của HĐQT và từng thành
viên HĐQT;
+ Báo cáo của BKS về kết quả kinh doanh của công ty, kết quả hoạt động của
HĐQT, TGĐ (GĐ);
+ Báo cáo tự đánh giá kết quả hoạt động của BKS và của từng kiểm soát viên;
+ Mức cổ tức đối với mỗi cổ phần các loại;
+ Các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 135 LDN 2014
như bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên HĐQT, thành viên BKS; xem xét, phê
duyệt các dự án đầu tư lớn do HĐQT trình bày; xem xét và xử lý các hành vi vi
phạm của HĐQT, BKS gây thiệt hại cho công ty và cổ đông của công ty; quyết định

sửa đổi, bổ sung điều lệ, tổ chức lại, giải thể công ty.
- Thứ hai, ĐHĐCĐ bất thường.
Ngoài các phiên họp ĐHĐCĐ thường niên, ĐHĐCĐ có thể nhóm họp bất cứ lúc
nào khi HĐQT xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty hoặc xuất hiện những tình
huống cần phê chuẩn của ĐHĐCĐ:
+ Bầu bổ sung thành viên HĐQT;
+ Xem xét, phê duyệt các dự án đầu tư có quy mô vốn lớn (lớn hơn 50% tổng giá
trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu điều lệ công ty
không quy định một tỷ lệ thấp hơn).
+ Xem xét vi phạm, dấu hiệu bất thường trong quản trị công ty theo yêu cầu của
BKS;
+ Xem xét, phê duyệt các giao dịch có dấu hiệu tư lợi giữa công ty và người có liên
quan nếu giao dịch này có giá trị từ 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo
tài chính gần nhất của công ty theo khoản 3 Điều 162 LDN 2014;
+ Quyết định mua trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại đã được chào bán
trong mỗi 12 tháng theo khoản 1 Điều 130 LDN 2014;
+ Sửa đổi, bổ sung, tổ chức lại, giải thể công ty;
+ Các vấn đề bất thường khác do yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông đại diện
cho ít nhất trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn 06 tháng liên tục
16


hoặc một tỷ lệ thấp hơn do điều kiện công ty quy định theo khoản 2, 3 Điều 114 và
khoản 3 Điều 136 LDN 2014.
Tóm lại, dù là ĐHĐCĐ thường niên hay bất thường thì địa vị pháp lý của chúng
đều như nhau. Nếu điều lệ không quy định khác, ngoài các thẩm quyền chung của
ĐHĐCĐ thường niên tại khoản 2 Điều 135, điểm c khoản 2 Điều 169 LDN 2014,
các vấn đề khác liên quan đến việc quản trị, điều hành công ty do HĐQT quyết định.
 Thẩm quyền triệu tập họp ĐHĐCĐ
Trước đó, Luật công ty chưa quy định về người có thẩm quyền triệu tập ĐHĐCĐ

mà chỉ mới quy định nhiệm vụ, quyền hạn của ĐHĐCĐ thành lập và ĐHĐCĐ
thường. Sau đó, LDN 1999 không quy định tách biệt các loại ĐHĐCĐ và quy định
cụ thể thẩm quyền triệu tập ĐHĐCĐ. ĐHĐCĐ được triệu tập họp theo quyết định
của HĐQT hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% số cổ
phần phổ thông trong thời hạn ít nhất 06 tháng hoặc tỷ lệ nhỏ hơn theo quy định của
điều lệ công ty. Quy định như vậy đã khắc phục được những nhược điểm quy định
sơ lược không chi tiết, không cụ thể, rất khó để thực hiện trong thực tiễn. Tuy nhiên,
bên cạnh những ưu điểm vẫn còn nhiều nhược điểm cần được khắc phục. Sau này
khi LDN 2005 ra đời đã có những quy định hoàn thiện về thẩm quyền triệu tập
ĐHĐCĐ. Và càng được quy định hoàn thiện hơn nữa tại LDN 2014 trên cơ sở kế
thừa và hoàn thiện LDN 2005. Thời hạn triệu tập và tổ chức ĐHĐCĐ thường niên
không quá 04 tháng (có thể được ra hạn nhưng không quá 06 tháng) kể từ ngày kết
thúc năm tài chính. Trong các tình huống bất thường, HĐQT phải triệu tập phiên
họp ĐHĐCĐ bất thường trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày xuất hiện các tình huống
đó. Nếu trong trường hợp HĐQT không triệu tập ĐHĐCĐ trong 30 ngày tiếp theo,
BKS được thay thế HĐQT trực tiếp triệu tập ĐHĐCĐ. Chủ tịch HĐQT có nghĩa vụ
đền bù mọi thiệt hại phát sinh đối với công ty. Nếu BKS cũng không thực hiện triệu
tập cuộc họp ĐHĐCĐ thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% số cổ phần
phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất là 06 tháng có quyền thay thế HĐQT, BKS
triệu tập họp ĐHĐCĐ. Nói cách khác, triệu tập họp ĐHĐCĐ trước hết thuộc về
nghĩa vụ của HĐQT, nếu HĐQT không thực hiện BKS có quyền thay thế, nếu
không có BKS hoặc BKS không thực hiện thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông tại khoản
2 Điều 114 LDN 2014 có quyền triệu tập cuộc họp. Khi cổ đông hoặc nhóm cổ
đông trực tiếp triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ thì cơ quan ĐKDN có thể được mời tham
gia giám sát việc triệu tập và giám sát tiến hành phiên họp.
Người triệu tập họp ĐHĐCĐ phải lập danh sách cổ đông có quyền dự họp và biểu
quyết; chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu cuộc họp; xác định thời gian, địa
17



điểm họp và gửi thông báo mời đến các cổ đông có quyền dự họp. Cổ đông hoặc
nhóm cổ đông tại khoản 2 Điều 114 LDN 2014 có quyền kiến nghị vấn đề đưa vào
chương trình họp ĐHĐCĐ. Kiến nghị phải bằng văn bản và được gửi đến công ty
chậm nhất 03 ngày làm việc trước ngày khai mạc, trừ trường hợp điều lệ công ty có
quy định thời hạn khác. Kiến nghị phải ghi rõ tên cổ đông, số lượng từng loại cổ
phần của cổ đông, số và ngày đăng ký cổ đông tại công ty, vấn đề kiến nghị đưa vào
chương trình họp. Người triệu tập họp ĐHĐCĐ chỉ có quyền từ chối kiến nghị nói
trên nếu có một trong các trường hợp: kiến nghị được gửi đến không đúng thời hạn
hoặc không đủ, không đúng nội dung; vấn đề kiến nghị không thuộc thẩm quyền
quyết định của ĐHĐCĐ; trường hợp khác theo điều lệ công ty. Nếu chấp nhận các
kiến nghị, người triệu tập họp ĐHĐCĐ phải đưa kiến nghị đó vào dự kiến chương
trình, nội dung cuộc họp nếu được ĐHĐCĐ chấp nhận.
Người triệu tập ĐHĐCĐ phải gửi thông báo mời họp tới tất cả cổ đông có quyền
dự họp chậm nhất 07 ngày làm việc trước ngày khai mạc nếu điều lệ không quy
định khác. Thông báo được gửi bằng phương thức bảo đảm đến địa chỉ thường trú
của cổ đông kèm theo mẫu chỉ định đại diện theo ủy quyền dự họp, chương trình
họp phiếu biểu quyết, các tài liệu thảo luận làm cơ sở thông qua quyết định và dự
thảo nghị quyết đối với từng vấn đề trong chương trình họp. Nếu công ty có trang
thông tin điện tử thì thông báo mời họp và các tài liệu gửi kèm theo phải được công
bố trên trang thông tin điện tử đó đồng thời với việc gửi thông báo cho các cổ đông.
 Điều kiện, thể thức tiến hành cuộc họp và thông qua quyết định tại
ĐHĐCĐ
LDN 1999 đã quy định cụ thể điều kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ song lại chưa đề
cập đến thể thức họp và biểu quyết tại cuộc họp. Bổ sung khiếm khuyết này, LDN
2005 đã dành 02 điều luật quy định về điều kiện, thể thức tiến hành họp ĐHĐCĐ tại
Điều 102, 103 và được hoàn thiện hơn tại LDN 2014 tại Điều 141, 142.
Về điều kiện tiến hành họp ĐHĐCĐ, LDN 2005 quy định cuộc họp ĐHĐCĐ được
tiến hành khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền
biểu quyết, tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy định. Cuộc họp lần 02 được tiến hành
khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết,

tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy định. Trường hợp cuộc họp lần 02 không đủ điều
kiện tiến hành theo quy định trên thì được triệu tập lần 03 trong thời hạn 20 ngày kể
từ ngày dự họp lần 02. Trong trường hợp này, cuộc họp ĐHĐCĐ được tiến hành
không phụ thuộc vào số cổ đông dự họp và tỷ lệ số cổ phần có quyền biểu quyết của
các cổ đông có quyền dự họp. Nhưng LDN 2014 lại quy định lại rằng cuộc họp
18


×