VN NINH
ĐảNG Bộ THị Xã SƠN TÂY, TỉNH Hà TÂY
LãNH ĐạO PHáT TRIểN GIáO DụC PHổ THÔNG
Từ NĂM 2001 ĐếN NĂM 2008
CHUYấN NGNH: LCH S NG CNG SN VIT NAM
M S: 60 22 03 15
H NI 2015
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Bộ Giáo dục và đào tạo
Công ty
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Giỏi
Học sinh
Khá
Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân
Số lượng
Tiểu học
Trang
Trung bình
Trung học cơ sở
Trung học phổ thồng
Yếu
Chữ viết tắt
BGD&ĐT
Cty
CNH,HĐH
G
HS
K
Nxb
QĐND
SL
TH
tr
TB
THCS
THPT
Y
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1
Trang
3
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
THỊ XÃ SƠN TÂY VỀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
11
1.1
PHỔ THÔNG (2001- 2008)
Yêu cầu khách quan phát triển giáo dục phổ thông của
11
1.2
thị xã Sơn Tây (2001-2008)
Đảng bộ thị xã Sơn Tây vận dụng chủ trương của Đảng
và của Đảng bộ tỉnh Hà Tây để đề ra chủ trương phát
27
1.3
triển giáo dục phổ thông (2001 – 2008)
Đảng bộ thị xã Sơn Tây chỉ đạo phát triển giáo dục phổ
Chương 2
2.1
thông (2001 – 2008)
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
Nhận xét quá trình Đảng bộ thị xã Sơn Tây lãnh đạo phát
38
51
51
2.2
triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2008
Những kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng bộ thị xã
Sơn Tây lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm
2001 đến năm 2008
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
64
81
83
91
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục phổ thông là nền tảng cơ bản của hệ thống giáo dục quốc dân,
là cơ sở đem đến chất lượng cho cả hệ thống giáo dục nhằm phát triển nguồn
nhân lực của mỗi quốc gia. Lịch sử ra đời và phát triển của dân tộc Việt Nam
luôn gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền giáo dục Việt Nam trong đó có
giáo dục phổ thông. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu”, “Đất nước thịnh hay suy, có sánh vai được các cường quốc
hay không đều phụ thuộc vào giáo dục”. Nhận thức rõ vị trí quan trọng của
giáo dục phổ thông, ngay từ khi mới giành được chính quyền, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước ta đã hình thành một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh
và toàn diện. Giáo dục phổ thông của nước nhà đã tạo nên những thành tựu
hết sức quan trọng và to lớn, cung cấp cho xã hội nhiều lớp thế hệ trẻ, thông
minh, sáng tạo, trung thành, dũng cảm, giàu lòng nhân ái, sẵn sàng hy sinh vì
Tổ quốc, vì dân tộc, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, góp phần
xây dựng Tổ quốc phát triển như ngày hôm nay.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, chủ trương của tỉnh Hà Tây,
Đảng bộ thị xã Sơn Tây luôn chú trọng lãnh đạo phát triển giáo dục nói
chung, giáo dục phổ thông nói riêng nhằm góp phần nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, gắn giáo dục phổ thông với sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cũng như sự phát triển mọi mặt trên
địa bàn thị xã. Quá trình Đảng bộ thị xã Sơn Tây lãnh đạo phát triển giáo dục
phổ thông giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2008 đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, như: mạng lưới trường lớp ngày càng mở rộng, việc xây dựng
kiên cố hóa các trường học, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý phát triển, hoàn
thành chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở đúng độ tuổi,
tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đến trường ngày càng tăng, chất lượng giáo dục
toàn diện có chuyển biến tích cực; số học sinh được lên lớp, học sinh giỏi các
4
cấp ngày càng nhiều, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp luôn ở mức cao.
Bên cạnh những kết quả đạt được của Đảng bộ thị xã Sơn Tây trong lãnh
đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông, vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định,
chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của thị xã, như: tiến độ xây dựng
trường, lớp, việc phổ cập giáo dục cả tiểu học và trung học, số lượng giáo
viên chưa đạt chuẩn còn nhiều, dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học, có
nơi, có lúc chưa bảo đảm chất lượng, trang thiết bị phục vụ cho dạy học còn
thiếu và cũ...
Hơn lúc nào hết, việc nghiên cứu quá trình Đảng bộ thị xã Sơn Tây lãnh
đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2008, đánh giá đúng
những thành tựu, hạn chế, rút ra bài học kinh nghiệm, làm cơ sở cho việc lãnh
đạo sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông trong những năm tới là vấn đề
cần thiết và cấp bách. Với ý nghĩa trên, tác giả chọn đề tài “Đảng bộ thị xã
Sơn Tây, tỉnh Hà Tây lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001
đến năm 2008” làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Giáo dục có vị trí, vai trò quan trọng, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
sự phát triển, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người. Do tính chất quan trọng của giáo
dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng, đến nay đã có rất nhiều công
trình của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học, liên quan
trực tiếp, hoặc gián tiếp đến phát triển giáo dục phổ thông của thị xã Sơn Tây.
Tuy nhiên, chưa một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện,
sâu sắc đề tài: Đảng bộ thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây lãnh đạo phát triển giáo
dục phổ thông giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2008. Cụ thể:
5
Nhóm các tác phẩm và bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và
Nhà nước
Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước có rất nhiều công trình đề cập
đến giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng, như: Hồ Chí Minh Bàn
về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1975; Phạm Văn Đồng Sự nghiệp
giáo dục trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1979; Lê Duẩn,
Trường Chinh, Phạm Văn Đồng Về đường lối giáo dục xã hội chủ nghĩa, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1979; Võ Nguyên Giáp Mấy vấn đề về khoa học và giáo dục,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986; Đỗ Mười Phát triển mạnh mẽ giáo dục- đào tạo
phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 1996; Phạm Văn Đồng Về vấn đề giáo dục- đào tạo, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1999… Các tác phẩm, bài viết trên chỉ ra những quan
điểm cơ bản có tính chất định hướng phát triển giáo dục phổ thông, phục vụ
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Tác phẩm “Về vấn đề giáo dục- đào tạo” của cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng là một trong những công trình có ý nghĩa to lớn, thể hiện rõ
tư tưởng coi giáo dục là “Quốc sách hàng đầu”, mặt trận quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Đồng thời, tác giả cũng khẳng
định sự nghiệp phát triển giáo dục, trong đó có phát triển giáo dục phổ thông
là một công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành từng
bước và có sự tham gia tích cực của toàn dân. Tác giả cũng chỉ rõ mục đích
của giáo dục dưới chế độ ta là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đào tạo ra
những người kế tục sự nghiệp cách mạng. Đây chính là sự kế thừa, tiếp nối
những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, đồng thời là cơ sở
quan trọng để Đảng ta đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn lãnh đạo phát
triển sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước nhà. Công trình trên đã định hướng
giúp tác giả hình thành những phát hiện, có cách nhìn tổng quát trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
6
Các công trình, chuyên luận, chuyên khảo, bài viết của các nhà khoa
học có liên quan đến đề tài
Bộ Giáo dục và đào tạo, “Giáo dục cho mọi người Việt Nam- Các thách
thức hiện nay và tương lai”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1994; Phạm Minh Hạc,
“Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999; Đặng Bá Lãm, “Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu
thế kỷ XXI: Chiến lược phát triển”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2003; Đinh Văn
Ân - Hoàng Thu Hòa, “Giáo dục và đào tạo chìa khóa của sự phát triển”,
Nxb Tài chính, Hà Nội, 2008; Phan Ngọc Liên, “Đảng Cộng sản Việt Nam
với sự nghiệp giáo dục và đào tạo”, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2010;
Phạm Tất Dong, “Giáo dục Việt Nam 1945-2010”, Nxb Giáo dục Việt Nam,
Hà Nội, 2010…
Ngoài ra, còn có rất nhiều các bài viết đã đăng tải trên các tạp chí như:
Vũ Thiện Vương, “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 47 năm
2001, tr.36-39; Vũ Ngọc Hải, “Đổi mới giáo dục và đào tạo nước ta trong
những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 4 năm
2003, tr.3-4; Ngô văn Hiển, “Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo
dục- đào tạo thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Giáo
dục, số 112 năm 2005, tr.8-10; Dương Văn Khoa, “Phát triển mạnh mẽ giáo
dục- đào tạo theo hướng hiện đại, thiết thực, nhanh chóng nâng cao dân trí,
tạo nguồn nhân lực dồi dào và đội ngũ nhân tài cho đất nước”, Tạp chí Dạy
và Học ngày nay, số 8 năm 2005, tr.4-7; Phạm Thị Kim Anh, “Những thay
đổi của giáo dục- đào tạo Việt Nam từ sau công cuộc đổi mới (1986) đến
nay”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, số 7 năm 2008, tr.58-62; Nguyễn Hữu
Chí, “Những quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục- đào tạo qua các chặng
đường lịch sử”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10 năm 2010, tr.20-24…
7
Đây là những công trình, bài viết tiêu biểu, phản ánh nhiều mặt thực trạng
của nền giáo dục nước nhà, trong đó có giáo dục phổ thông. Đồng thời, đề ra
phương hướng khắc phục hạn chế, khuyết điểm, tìm ra những giải pháp tích
cực nhằm chấn hưng nền giáo dục Việt Nam trong thời kỳ mới.
Như vậy, có thể nói những công trình, bài viết của các nhà khoa học đã
được công bố liên quan đến phát triển giáo dục được đề cập một cách đa dạng,
phong phú, trên nhiều nội dung khác nhau. Có công trình đề cập đến quan điểm
của Đảng về vị trí, vai trò của giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng,
có những công trình đề cập đến chủ trương phát triển giáo dục phổ thông của
thành phố Hà Nội, của tỉnh Hà Tây, ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau.
Nhóm những luận án, luận văn liên quan đến đề tài
Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng của Bùi Minh Hằng (1998) Một số quan
điểm cơ bản của Đảng về giáo dục và đào tạo trong công cuộc đổi mới 19861996 (qua thực tiễn ở tỉnh Đắc Lắc); Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng của Trần
Đình Cường (2007) Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo phát triển giáo dục và đào
tạo từ năm 1996 đến năm 2006; Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng của Nguyễn
Hải Anh (2008) Đảng lãnh đạo thực hiện chiến lược phát triển giáo dục đào tạo
1996 đến 2006; Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng của Nguyễn Thị Hồng Hạnh
(2009), Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông giai
đoạn 1996-2006.
Luận văn thạc sĩ lịch sử Đảng của Nguyễn Thị Quý (2013), Đảng bộ
Huyện Thạch Thất tỉnh Hà Tây lãnh đạo phát triển giáo dục và đào tạo từ
năm 1996 đến năm 2008, đã nghiên cứu tình hình kinh tế- xã hội của huyện
Thạch Thất đã tác động ảnh hưởng đến giáo dục và đào tạo của Huyện. Đồng
thời, tác giả chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân trong công tác
giáo dục và đào tạo của Huyện trước năm 1996. Rút ra một số kinh nghiệm
quý, là cơ sở để Đảng bộ Huyện Thạch Thất tham khảo trong lãnh đạo và chỉ
8
đạo phát triển giáo dục đào tạo của Huyện. Đây là công trình liên quan trực
tiếp đến phát triển giáo dục phổ thông của thị xã Sơn Tây trong giai đoạn từ
năm 2001 đến năm 2008, vì địa bàn thị xã Sơn Tây giáp với huyện Thạch
Thất và có những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tương đồng nhau, sự
nghiệp phát triển giáo dục phổ thông của thị xã Sơn Tây có sự tác động, chi
phối của sự nghiệp phát triển giáo dục huyện Thạch Thất.
Có thể nói các công trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục phổ thông
ở thị xã Sơn Tây đa dạng và phong phú, đề cập ở nhiều góc độ, khía cạnh
khác nhau. Tất cả các công trình đã được công bố là nguồn tài liệu tham
khảo phong phú, quý giá để tác giả phục vụ quá trình làm luận văn của
mình. Tóm lại, nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Sơn Tây đối
với sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2008,
đến nay chưa công trình nào đề cập một cách đầy đủ, toàn diện và hệ
thống. Từ đặc điểm trên, tác giả chọn đề tài “Đảng bộ thị xã Sơn Tây,
tỉnh Hà Tây lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến
năm 2008” làm luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung làm sáng tỏ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ thị xã
Sơn Tây trong phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2008. Rút
ra một số kinh nghiệm làm cơ sở để Đảng bộ thị xã Sơn Tây tham khảo lãnh
đạo nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông của thị xã trong những năm tiếp
theo.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, làm rõ yêu cầu khách quan về lãnh đạo phát triển giáo dục phổ
thông ở thị xã Sơn Tây từ năm 2001 đến năm 2008.
Hai là, phân tích chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ thị xã Sơn Tây
phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2008.
9
Ba là, nhận xét và rút ra một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ
thị xã Sơn Tây lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến
năm 2008.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã Sơn Tây phát triển
giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2008.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ thị xã
Sơn Tây đối với việc phát triển giáo dục phổ thông.
Về thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2008.
Về không gian: Trên địa bàn thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử và phương pháp luận sử học Mác xít.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu của khoa học Lịch
sử, như: Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp của 2
phương pháp này. Đồng thời, sử dụng một số phương pháp khác như:
phương pháp đồng đại, lịch đại, phương pháp phân tích, so sánh, thống kê,
tổng hợp, phương pháp chuyên gia... để thực hiện mục đích, nhiệm vụ
nghiên cứu luận văn.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo về chủ trương và
sự chỉ đạo của Đảng bộ Thị xã Sơn Tây trong phát triển giáo dục phổ thông
giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2008.
10
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ để
Đảng bộ thị xã Sơn Tây vận dụng lãnh đạo sự nghiệp phát triển giáo dục phổ
thông giai đoạn cách mạng hiện nay. Đồng thời, luận văn có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy môn Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam ở các nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (5 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục.
11
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY VỀ
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG (2001- 2008)
1.1. Yêu cầu khách quan phát triển giáo dục phổ thông của thị xã
Sơn Tây (2001-2008)
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thị xã Sơn Tây
Sơn Tây là Thị xã thuộc vùng trung du đồng bằng Bắc bộ, nằm ở phía
Tây Bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 40 km. Phía Bắc giáp huyện
Vĩnh Tường (tỉnh Vĩnh Phúc), phía Đông giáp huyện Phúc Thọ, phía Nam
giáp huyện Thạch Thất, phía Tây giáp huyện Ba Vì. Tọa độ: 21 008’20”B;
21002’76”N; 105015’79”T; 105053’65”Đ. Sơn Tây có các tuyến đường giao
thông quan trọng chạy qua như: quốc lộ 21A, quốc lộ 32, tỉnh lộ 87A… Diện
tích thị xã Sơn Tây khoảng 113,46 km² (11.346,85ha), dân số: khoảng
182.000 người (năm 2014).
Thị xã Sơn Tây có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 9 phường: Lê
Lợi, Quang Trung, Phú Thịnh, Ngô Quyền, Sơn Lộc, Xuân Khanh, Trung
Hưng,Viên Sơn, Trung Sơn Trầm; và 6 xã: Đường Lâm, Thanh Mỹ, Xuân
Sơn, Kim Sơn, Sơn Đông, Cổ Đông.
Sơn Tây là một trong những khu vực được xây dựng và phát triển thành
phố vệ tinh của Thủ đô Hà Nội. Đồng thời, là một trong những khu vực quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Là khu vực chuyển tiếp giữa vùng núi và trung du phía Tây với vùng
đồng bằng phía Đông, địa hình Sơn Tây thấp dần từ Tây sang Đông và chia
thành hai vùng địa hình tương đối rõ rệt: vùng gò, đồi phía Tây và vùng đồng
bằng phía Đông nằm bên hữu ngạn sông Tích Giang. Khí hậu Sơn Tây đậm nét
đặc trưng của vùng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm và mưa nhiều với 4 mùa rõ rệt:
xuân, hạ, thu ,đông. Tài nguyên thiên nhiên của Sơn Tây không nhiều chỉ có một
số khu vực gò đồi trồng rừng và cây ăn trái. Khoáng sản chủ yếu là đá ong, được
12
nhân dân khai thác phục vụ xây dựng, nhưng hiện nay đã giảm khai thác do nhu
cầu không cao. Ngoài ra còn có quặng sắt nhưng chữ lượng ít, chưa đưa vào khai
thác. Hệ thống sông, suối, hồ đầm tương đối nhiều, vừa là nguồn cung cấp nước
sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân, vừa là nơi nuôi trồng thủy sản và phát triển
du lịch, như hồ Đồng Mô, hồ Xuân Khanh, hồ Đầm Dương…
Về lịch sử phát triển: Theo thư tịch cổ thì tên Sơn Tây xuất hiện lần
đầu tiên vào năm 1469, đó là trấn sở Sơn Tây đóng ở xã La Phẩm, huyện Tiên
Phong, phủ Quảng Oai (nay thuộc, Tản Hồng, Ba Vì, Hà Nội), thời đó gọi là
Sơn Tây Thừa Tuyên. Đến thời Lê Cảnh Hưng do bị ngập lụt, nước làm lở
thành, trấn sở được dời về xã Mông Phụ, huyện Phúc Lộc, phủ Quảng Oai
(nay thuộc xã Đường Lâm).
Trải qua một quá trình phát triển, biến đổi lâu dài trong lịch sử, ngày 16
tháng 12 năm 1883, sau Hòa ước Quý Mùi 1883 nhà Nguyễn đầu hàng Pháp,
quân đội Viễn chinh Pháp đã chiếm được thành Sơn Tây. Sau khi ổn định
chính quyền cai trị tại Việt Nam, năm 1884, thực dân Pháp thành lập thị xã
Sơn Tây, làm thủ phủ của tỉnh Sơn Tây.
Từ khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945), thị xã Sơn Tây gồm 3
phường: Lê Lợi, Ngô Quyền, Quang Trung và xã Viên Sơn. Ngày 21 tháng
4 năm 1965 tỉnh Sơn Tây nhập với tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây. Ngày 27
tháng 12 năm 1975, kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa V, thông qua Nghị quyết hợp
nhất hai tỉnh Hà Tây và Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Thị xã Sơn Tây
lúc này là một trong 3 thị xã thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII thông
qua Nghị quyết chia tách tỉnh Hà Sơn Bình thành 2 tỉnh Hà Tây và Hòa Bình.
Theo đó, thị xã Sơn Tây lại thuộc tỉnh Hà Tây. Ngày 2 tháng 8 năm 2007,
Chính phủ ra Nghị định số 130/2007/NĐ-CP, thành lập thành phố Sơn Tây
trên cơ sở toàn bộ diện tích và nhân khẩu của thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây.
Sau nhiều điều chỉnh địa giới Thành phố Sơn Tây có 11.346,85 ha diện tích
13
đất tự nhiên và khoảng 181.831 nhân khẩu, với 15 đơn vị hành chính trực
thuộc. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 3, ngày 29 tháng
5 năm 2008, từ ngày 1 tháng 8 năm 2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây,
thành phố Sơn Tây được nhập về thủ đô Hà Nội. Ngày 8 tháng 5 năm 2009,
Chính phủ ra Nghị quyết số 19/NQ-CP, về việc chuyển thành phố Sơn Tây
thành thị xã Sơn Tây thuộc thành phố Hà Nội.
Về kinh tế - xã hội: Trong 3 năm (2005 – 2008), thị xã Sơn Tây đã đạt
được những thành tích đáng ghi nhận trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế phát
triển cao, mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 16,5%. Giải quyết việc
làm cho 8.351 lao động, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch nhanh; công nghiệp - xây dựng chiếm 48%, thương mạidịch vụ chiếm 42%, nông-lâm nghiệp, thủy sản chiếm 10%. Giá trị sản xuất
công nghiệp – xây dựng khoảng 1.052 tỷ đồng, tăng bình quân 18,2% năm,
đạt 101,2% so với mục tiêu đề ra. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa
bàn thị xã 3.858 tỷ đồng đầu tư cho 1.157 dự án, công trình bao gồm: 341
công trình giao thông, 231 công trình trường học, 221 công trình y tế, nhà văn
hóa, 103 công trình xây mới và sửa chữa trụ sở làm việc, 41 công trình thủy
lợi và 220 công trình khác. [20, tr.2]
Sơn Tây có 2 làng nghề được công nhận làng nghề truyền thống là: làng
nghề bánh tẻ Phú Nhi ở phường Phú Thịnh, làng nghề Thêu ren Ngọc Kiên xã
Cổ Đông. Hiện nay có thêm 8 làng nghề mới đang phát triển gồm các nghề thêu
ren, sinh vật cảnh, mộc, đan lát, đóng giầy, tơ tằm,… tập trung ở các xã Cổ
Đông, Trung Sơn Trầm, Sơn Đông, Đường Lâm, phường Xuân Khanh… Trong
5 năm (2005 – 2010), đã tổ chức dạy nghề cho 7.844 người, đạt 107,5% chỉ tiêu
đề ra, số người sau học nghề có việc làm ổn định đạt trên 70%.
Đối với nông nghiệp, tổng sản lượng bình quân giai đoạn từ năm 2005
đến năm 2008 của cây lương thực có hạt đạt 19.100 tấn/năm; giá trị canh tác
bình quân đạt khoảng 47,8 triệu đồng/ha. Kinh tế trang trại và hộ gia đình
14
phát triển mạnh đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, trên địa bàn thị xã có 168
trang trại lớn nhỏ (trang trại lâm nghiệp, kết hợp chăn nuôi; cây ăn quả; nuôi
trồng thủy sản), nhiều trang trại lợi nhuận từ 200-400 triệu đồng/năm.
Đối với thương mại-dịch vụ, Giá trị các ngành dịch vụ (2001-2008) là
796 tỷ đồng, tăng bình quân 19,6%/năm [20, tr.1,2]. Năm 2008, toàn thị xã có
4.035 hộ và 215 doanh nghiệp kinh doanh các ngành dịch vụ (tăng 163 doanh
nghiệp so với năm 2005).
Về giáo dục, y tế: Chất lượng giáo dục phổ thông của thị xã Sơn Tây
ngày càng được nâng cao. Đầu năm học 2008 - 2009, đã có 94,5% giáo viên
các cấp học đạt chuẩn và trên chuẩn. Số học sinh giỏi và học sinh thi đỗ đại
học, cao đẳng hàng năm chiếm khoảng 30%.
Cùng với sự phát triển của giáo dục, chất lượng đội ngũ cán bộ y tế của thị
xã Sơn Tây từng bước được nâng cao, cơ sở vật chất đã được đầu tư tương đối
hiện đại. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân được chăm lo chu đáo.
Về danh lam thắng cảnh, du lịch: Thị xã Sơn Tây có nhiều danh lam
thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng như thành cổ Sơn Tây, đến thờ
Phùng Hưng, Lăng Ngô Quyền, đền thờ thám hoa Giang Văn Minh, Chùa
Mía nơi lưu giữ 287 pho tượng cổ, quý hiếm vào bậc nhất của Việt Nam; lễ
hội đền Và, đình làng Mông Phụ, làng Việt cổ đá ong Đường Lâm, quần thể
khu du lịch Đồng Mô, hồ Xuân Khanh, hồ Đầm Dương, hiện đang được khai
thác hiệu quả, thu hút được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.
Về con người và truyền thống hiếu học: Là vùng đất trung tâm của xứ
Đoài, nơi tiếp giáp giữa vùng đồi núi phía tây và vùng châu thổ sông Hồng ở
phía đông, lại gần với trung tâm văn hóa lớn của dân tộc là vùng Kinh Kỳ,
Sơn Tây được coi là mảnh đất “địa linh nhân kiệt”, “mảnh đất 2 vua”, nơi có
truyền thống văn hóa lâu đời. Truyền thống văn hóa của thị xã Sơn Tây được
biểu hiện ngay trong các di chỉ khảo cổ khai quật ở khu vực Thành cổ và xung
quanh xã Đường Lâm. Trong tuyển tập ca dao nổi tiếng Cô gái Sơn Tây, hay
15
trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh, nói nên truyền thống đoàn kết,
thượng võ của nhân dân thị xã Sơn Tây trong đấu tranh chống giặc ngoại
xâm, chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên.
Sơn Tây là vùng đất đã sinh ra những anh hùng, hào kiệt, những nhà văn
hóa lớn trong lịch sử của dân tộc. Tiêu biểu như: Phùng Hưng – Bố cái Đại
vương (761 – 802) - một thủ lĩnh đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại sự thống
trị của nhà Đường (602 – 905). Ngô Quyền (898 – 944), người đã lãnh đạo nhân
dân ta đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng (938), kết thúc
hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập lâu dài cho dân tộc Việt Nam.
Đình nguyên Thám hoa Giang Văn Minh, người xã Đường Lâm, ông từng đỗ
đầu kỳ thi Hội, rồi thi Đình đỗ Thám hoa tại khoa Mậu Thìn, “năm Vĩnh Tộ thứ
10 (1628)” đời Lê Thần Tông. Khoa thi này không có ai đỗ Trạng
nguyên hay Bảng nhãn. Vì vậy, ông là người đỗ cao nhất trong cả khoa thi. Sau
khi đỗ đạt, ông lần lượt được bổ nhiệm vào các chức vụ như Binh khoa đô cấp
sự trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631). Khi chết, ông được truy tặng chức
Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công... Đó là những yếu tố thuận lợi đã tác
động tích cực đến việc phát triển giáo dục phổ thông của thị xã Sơn Tây. Tuy
nhiên, tình hình kinh tế- xã hội của thị xã Sơn Tây vẫn còn những khó khăn,
thách thức, ảnh hưởng trực tiếp tới việc phát triển giáo dục phổ thông, như: tăng
trưởng kinh tế chưa bền vững, chưa phát huy hết tiềm năng và lợi thế của thị xã;
một số mục tiêu về phát triển văn hóa xã hội chưa đạt kế hoạch, đời sống một bộ
phận nhân dân còn gặp khó khăn…Từ đó, đòi hỏi cấp ủy, chính quyền, đoàn thể
và nhân dân thị xã Sơn Tây phải nỗ lực, phấn đấu phát triển kinh tế- xã hội
nhanh và bền vững hơn nữa, làm tiền đề vững chắc cho việc phát triển giáo dục
phổ thông trên địa bàn thị xã.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, đã tác động không nhỏ tới sự nghiệp
phát triển giáo dục phổ thông của thị xã Sơn Tây, trên cả hai chiều hướng,
tích cực và tiêu cực. Do đó, đòi hỏi Đảng bộ thị xã Sơn Tây cần phải có
16
những chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát đúng nhằm phát huy thế mạnh,
khắc phục những hạn chế, thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phổ thông của thị xã
tương xứng với tiềm năng, thế mạnh.
1.1.2. Thực trạng giáo dục phổ thông của thị xã Sơn Tây trước
năm 2001
* Những ưu điểm
Sơn Tây tuy là thị xã, nhưng trước năm 2001 nền kinh tế tương đối chậm
phát triển so với nhiều địa phương khác trong tỉnh Hà Tây. Tuy nhiên, sự
nghiệp giáo dục thường xuyên được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị xã
coi trọng. Là địa phương có truyền thống hiếu học, sau nhiều năm phấn đấu,
chất lượng giáo dục phổ thông của thị xã Sơn Tây có những bước tiến bộ rõ
rệt, đáp ứng được phần nào nhu cầu đòi hỏi sự phát triển chung của xã hội,
cũng như của địa phương. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp và học sinh thi đỗ
vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, tương
đối cao so với các địa phương lân cận. Trong Báo cáo của Ban Chấp hành
Đảng bộ thị xã Sơn Tây tại Đại hội đại biểu Đảng bộ thị xã khóa XVI I (từ 14
đến 16/11/2000) đánh giá:
Đảng bộ đã chỉ đạo việc giảng dạy, học tập của các trường học theo đúng quy
định, hoàn thành việc tách trường cấp I và cấp II, thành lập trường cấp II + III
Xuân Khanh. Công tác bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho giáo viên, cán bộ
quản lý giáo dục và việc xây dựng tu sửa trường lớp được quan tâm đúng mức.
Định kỳ đã chỉ đạo việc kiểm tra chất lượng toàn diện các trường phổ thông cơ
sở, thi giáo viên và học sinh giỏi. Chất lượng giáo dục có chuyển biến. Số học
sinh được lên lớp, tốt nghiệp và được công nhận là học sinh giỏi cấp Thị xã và
cấp Tỉnh qua các năm học rất cao, số học sinh bỏ học giảm, năm 1991 có 153
em, năm 1995 chỉ còn một số ít em bỏ học. Phong trào học tập của học sinh
được nâng lên, ngoài các môn văn hóa cơ bản, nhiều học sinh đã học thêm tin
học, ngoại ngữ, nhạc họa để nâng cao trình độ. Sự phối kết hợp giữa nhà trường
17
với các đoàn thể, hội cha mẹ học sinh có tiến bộ, bước đầu đã thực hiện xã hội
hóa về công tác giáo dục [18, tr.12].
Như vậy, mặc dù quá trình phát triển nền kinh tế của thị xã Sơn Tây còn gặp
nhiều khó khăn, nhưng do sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các ngành, các cấp,
cũng như sự đoàn kết thống nhất chủ động khắc phục khó khăn của lãnh đạo, chính
quyền, phòng giáo dục và đào tạo, của cả hệ thống giáo dục trong toàn thị xã, sự
nghiệp giáo dục phổ thông trước năm 2001 có những bước phát triển đáng kể. Quy
mô giáo dục ngày càng được mở rộng cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Cùng với tỉnh Hà Tây, thị xã Sơn Tây được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận
đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học năm 1992. Sau nhiều năm phấn đấu,
năm học 2000 – 2001, số lượng học sinh trung học cơ sở đã tăng 1,5 lần, học sinh
trung học phổ thông tăng gấp 2 lần so với năm học 1991 - 1992. Mạng lưới trường,
lớp học được củng cố, xây dựng và phát triển hơn, với 34 trường học. Các trường học
được phân bố rộng khắp trong tất cả các xã, phường. Tính đến cuối học kỳ 1 năm học
2000 - 2001, mạng lưới trường lớp của toàn thị xã có: 15 trường tiểu học công lập với
243 lớp học và 7956 học sinh (trong đó có 9/15 trường có học sinh học bán trú); 14
trường trung học cơ sở với 4925 học sinh; 2 trường trung học phổ thông với 3455
học sinh; 1 trường cấp II +III với 1125 học sinh (ở Xuân Khanh); 1 trung tâm giáo
dục thường xuyên (năm 1995, chỉ có 18 trường: 15 trường phổ thông cơ sở; 2 trường
cấp III và 1 trung tâm giáo dục thường xuyên). Tất cả 100% các xã, phường đều có
trường tiểu học, trung học cơ sở. Quy mô giáo dục các cấp học được tổ chức xây
dựng ngày càng phát triển nhanh cả số lượng và chất lượng. Nhờ đó đã đáp ứng cơ
bản được nhu cầu học tập của con em nhân dân trong thị xã [59, tr.12].
Hệ thống giáo dục phổ thông của thị xã bao gồm giáo dục tiểu học, giáo dục
trung học cơ sở và trung học phổ thông luôn được kiện toàn, đổi mới, đa dạng hóa
các loại hình trường, lớp và các phương thức giáo dục. Không những bảo đảm được
sự liên thông giữa các cấp học, bậc học, mà còn tạo ra nhiều cơ hội tốt để mọi tầng
lớp nhân dân trong thị xã có nhu cầu đều được đi học. Tỷ lệ người đi học chiếm
18
khoảng 30% dân số của thị xã, và là một trong số ít địa phương có tỷ lệ đi học thuộc
diện cao nhất tỉnh. Thị xã Sơn Tây đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học năm 1992 và
trung học cơ sở năm 1996. Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học năm 2000 và trung
học cơ sở năm 2001. Hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi vào năm
2002, trung học cơ sở năm 2006. Hiện nay, đang thực hiện phổ cập giáo dục trung
học phổ thông. Các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông luôn
được quan tâm và đầu tư đúng mức.
Cùng với việc xây dựng, phát triển mạng lưới trường lớp, đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý giáo dục được xây dựng theo hướng đủ, đồng bộ,
chuẩn hóa và từng bước nâng chuẩn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo
dục phổ thông trong giai đoạn mới. Số lượng giáo viên hằng năm liên tục
tăng. Đến năm học 2000 – 2001, có 39,5% giáo viên trình độ đạt chuẩn,
trong đó nhiều giáo viên tiểu học và trung học cơ sở có trình độ trên
chuẩn, một số giáo viên trung học phổ thông có trình độ thạc sĩ. Đại bộ
phận giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục giữ gìn được phẩm chất đạo đức,
trung thành với lý tưởng của Đảng, yêu quý nghề nghiệp, có trách nhiệm
cao với học sinh và sự nghiệp giáo dục phổ thông. Chế độ chính sách đối
với giáo viên được Đảng bộ, chính quyền các cấp quan tâm chăm lo, vị
trí người thầy trong xã hội được đề cao [18, tr.13].
Việc đầu tư cho giáo dục phổ thông luôn được quan tâm, hằng năm chi
ngân sách cho giáo dục phổ thông đạt 68% tổng chi ngân sách dành cho giáo
dục của thị xã. Nguồn tài chính hỗ trợ của trên và của nhân dân đóng góp luôn
được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học của các trường luôn được đầu tư đúng mức, được bổ sung hàng năm, bảo
đảm đủ phòng học, bàn ghế, dụng cụ thí nghiệm, đồ dùng dạy học cho giáo
viên và học sinh. Từng bước nâng dần số lượng các tiết dạy trong phòng học
có thí nghiệm và thực hành. Bước đầu khắc phục được tình trạng giáo viên
phải dạy chay. Số phòng học kiên cố chiếm gần 30% tổng số phòng học trong
19
toàn bộ hệ thống giáo dục của thị xã, góp phần giảm đáng kể tình trạng học 3
ca. Tất cả các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông được
trang bị máy vi tính đến đầu mối nhà trường. Hầu hết các trường đều được
quy hoạch bảo đảm cảnh quan môi trường sư phạm tốt. Trật tự kỷ cương
trong các nhà trường được duy trì chặt chẽ, có nền nếp, các vấn đề bức xúc
được quan tâm giải quyết. Công tác giáo dục pháp luật và giáo dục ý thức đấu
tranh phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào nhà trường luôn được
quan tâm đúng mức. Những tiêu cực trong thi cử, việc dạy thêm tràn lan cơ
bản được khắc phục.
Kết quả số lượng học sinh không ngừng tăng, bình quân hằng năm khoảng 3%.
Chất lượng giáo dục từng bước được nâng cao trên cả 3 phương diện: giáo dục toàn
diện, giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn. Tỉ lệ học sinh được lên lớp, tốt nghiệp ở
các cấp học luôn đạt trên 80%. Số lượng học sinh giỏi cấp tỉnh, học sinh thi đỗ vào
các trường đại học và cao đẳng ngày càng tăng. Trong 10 năm (1990 – 2000) có gần
5000 học sinh thi đỗ các trường đại học, cao đẳng và trung cấp.
Chất lượng xây dựng trường chuẩn quốc gia có bước phát triển mới, hệ
thống trường học được xây dựng khang trang. Đến đầu năm 2001, toàn thị xã
có 11/15 số trường đã được xây dựng có nhà hai tầng trở lên.
* Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, tính đến đầu năm 2001, trong công tác
giáo dục và bảo đảm cho giáo dục phổ thông của thị xã Sơn Tây còn bộc lộ
một số hạn chế, bất cập như:
Công tác lãnh đạo đổi mới nội dung, chương trình dạy học còn chậm,
chưa đề ra được giải pháp khoa học phát huy tính sáng tạo của học sinh trong
học tập. Lãnh đạo nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông có mặt còn bị
buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức, lối sống. Trong giáo dục phổ
thông mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” vẫn chưa được
quan tâm đúng mức, nhất là công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống,
20
lịch sử dân tộc, tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng sống cho học
sinh. Công tác quản lý giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, nhất là xây dựng
cơ chế quản lý còn lúng túng, với nhiều nhận thức khác nhau. Đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục và giáo viên nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu, đạo đức
và năng lực của một bộ phận còn thấp.
Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục. Định
hướng liên kết trong phát triển giáo dục còn lúng túng, chưa xác định rõ
phương châm. Tư duy giáo dục chưa theo kịp yêu cầu sự nghiệp đổi mới của
đất nước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Công tác nghiên cứu khoa học phục vụ cho giáo dục phổ thông chưa được
quan tâm đúng mức, kinh phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học còn ít; chất
lượng nghiên cứu còn hạn chế, nhiều đề tài thiếu tính khả thi.
Một số cơ quan chức năng của thị xã chậm cụ thể hóa các quan điểm của
Đảng bộ thành cơ chế, chính sách; chưa nhạy bén trong công tác tham mưu,
thiếu những quyết sách đồng bộ và hợp lý, một số chính sách về giáo dục phổ
thông còn mang tính chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sự đồng thuận của
xã hội.
Vì vậy, cho đến năm 2001, mạng lưới trường, lớp và quy mô giáo dục phổ
thông của thị xã Sơn Tây tuy có sự phát triển, song giữa quy mô và các điều kiện
như con người, cơ sở vật chất, trang thiết bị... còn chưa cân đối. Số lượng trường
bảo đảm đủ, nhưng tình trạng xuống cấp của các phòng học còn nhiều. Công
tác xây dựng cơ sở vật chất trường học còn gặp nhiều khó khăn. Số lượng
phòng học ở một số trường còn ít so với yêu cầu, dẫn đến tình trạng phải
chung phòng học. Hệ thống phòng học chức năng trong nhà trường chưa bảo
đảm đủ. Trang thiết bị dạy học còn ít, cũ, hư hỏng và lạc hậu, thiết bị cho giáo
dục toàn diện còn thiếu, chất lượng kém. Đặc biệt, là các đồ dùng phục vụ dạy
học như: dụng cụ làm thí nghiệm, hóa chất, dụng cụ thực hành kỹ thuật, khu
vực sân tập thể dục, thể thao, các nhạc cụ, máy vi tính... Còn tình trạng quá tải
21
về số lượng đối với cấp học tiểu học và trung học phổ thông ở tất cả các trường
trên địa bàn thị xã. Số lượng học sinh trong một lớp còn quá cao, ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng giáo dục. Một số trường tiểu học và trung học cơ sở
chưa được tách riêng. Nhà ở, trang thiết bị phục vụ cho học sinh nội trú, học
sinh bán trú còn thiếu, sơ sài và kém chất lượng. Việc mua sắm trang, thiết bị
và khai thác, sử dụng đồ dùng dạy học còn thiếu hiệu quả, một số trường tiểu
học và trung học cơ sở bàn ghế không đúng quy định, cũ nát không đảm bảo
cho học sinh học tập. Số lượng phòng học kiên cố, phòng học cao tầng còn ít,
các điều kiện để thực hiện việc xây dựng trường chuẩn quốc gia ở cả cấp học
tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông còn rất khó khăn do nhiều
nguyên nhân khác nhau như: thiếu đất đai, cơ sở vật chất, tỉ lệ phòng học
không đảm bảo. Số lượng giáo viên đạt chuẩn thấp (đến năm học 2000 - 2001
mới chỉ có 39,5% giáo viên có trình độ đạt chuẩn).
Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý còn thiếu, nhất là giáo viên dạy các
môn năng khiếu như: thể dục, nhạc - họa, kỹ thuật. Ngay cả các giáo viên dạy
toán, văn, vật lý, giáo dục công dân, ngoại ngữ và tin học ở một số trường
cũng chưa đáp ứng đủ về số lượng, nhất là ở bậc tiểu học. Một bộ phận giáo
viên và cán bộ quản lý còn ngại khó, ngại đi học để nâng cao trình độ.
Số lượng cán bộ quản lý có trình độ trung cấp lý luận chính trị còn ít. Chất
lượng giáo viên chưa đồng đều ở các địa bàn, còn 60,5% giáo viên trình độ
chưa đạt chuẩn, tập trung chủ yếu ở các trường thuộc 6 xã (Đường Lâm,
Thanh Mỹ, Xuân Sơn, Kim Sơn, Sơn Đông, Cổ Đông). Việc bố trí xắp xếp
giáo viên cũng chưa thật hợp lý, có nơi thừa, có nơi lại thiếu, nơi thường
xuyên thiếu là trường Tiểu học Sơn Đông và Trung học cơ sở Xuân Khanh.
Một số ít giáo viên chưa thật sự yên tâm với nghề nghiệp, thiếu gương mẫu về
phẩm chất đạo đức, lối sống, thiếu ý thức tự học tập, tự rèn luyện. Hiếu quả
công tác và chất lượng giảng dạy còn hạn chế, ảnh hưởng không tốt đến công
tác quản lý và giáo dục.
22
Công tác quản lý giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Trong giảng
dạy còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chậm đổi mới phương pháp, chưa
khơi dậy được tư duy đào sâu suy nghĩ của học sinh. Tình trạng dạy thêm, học
thêm tràn lan ngoài quy định tuy đã được ngăn chặn, nhưng hiệu quả còn thấp.
Nội dung giáo dục chưa toàn diện, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, giáo
dục thẩm mỹ, thể chất cho học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Công tác
hướng nghiệp cho học sinh phổ thông trung học chưa được coi trọng.
Việc bố trí, sử dụng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý, tổ chức thi tuyển
công chức có những năm còn để lại dư luận không tốt. Đời sống của giáo
viên và cán bộ quản lý còn gặp nhiều khó khăn, chưa có cơ chế chính sách
thỏa đáng để động viên, khuyến khích cán bộ, giáo viên đi học nâng cao
trình độ. Tình trạng học sinh vi phạm đạo đức, pháp luật vẫn còn, gây ảnh
hưởng xấu đến dư luận xã hội. Học sinh trong độ tuổi phổ cập còn bỏ học,
nghỉ học, nhất là ở các gia đình khó khăn về kinh tế, hay trong các làng nghề
truyền thống.
Công tác đào tạo nhân lực, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài chưa được
quan tâm. Chất lượng giáo dục đại trà cho học sinh ở các cấp học, chưa đồng
đều, giáo dục mũi nhọn chưa được chú trọng. Tỉ lệ học sinh được học tin học
còn thấp (năm 2000, mới chỉ học sinh trung học phổ thông và học sinh trung
học cơ sở ở 9 phường được học tin học, học sinh trung học cơ sở ở 6 xã và
học sinh tiểu học chưa được tiếp cận với bộ môn này). Nhìn chung, chất
lượng giáo dục phổ thông trên địa bàn thị xã Sơn Tây trước năm 2001 chưa
đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của đất nước.
Học sinh sau khi học hết phổ thông cơ sở bỏ học còn nhiều, tỷ lệ học
sinh thi trượt tốt nghiệp so với các địa phương khác trong khu vực còn khá
cao (trên 15%). Số học sinh sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học thi đỗ các
trường đại học, cao đẳng chưa nhiều.
23
Thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục còn nhiều mặt hạn chế, phát triển
chưa đều, thiếu chiều sâu. Việc huy động các nguồn lực ở các xã nghèo còn
nhiều khó khăn. Chưa khai thác, phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của thị xã.
Những hạn chế, khuyết điểm trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, trong đó đáng chú ý là: một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở chưa nhận
thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đến sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo
nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng. Chưa huy động được sức mạnh tổng
hợp cho việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và của Đảng bộ thị xã.
Có nơi còn trông chờ, ỷ lại, thiếu chủ động trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
phát triển giáo dục phổ thông. Năng lực, trách nhiệm của một bộ phận giáo viên,
cán bộ quản lý giáo dục, còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều trường
còn biểu hiện chạy theo thành tích, chưa chú ý đến chất lượng thực tế và chất
lượng giáo dục toàn diện. Việc phối, kết hợp giữa các cấp, các ngành cho công
tác giáo dục phổ thông trên địa bàn thị xã nhiều lúc chưa được chặt chẽ.
Thực trạng đó đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền, Phòng Giáo dục và Đào tạo
thị xã Sơn Tây phải có chủ trương, giải pháp vừa thiết thực, vừa lâu dài để
phát triển giáo dục phổ thông đáp ứng nhu cầu xây dựng, phát triển của thị xã,
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.3. Yêu cầu mới đòi hỏi phải phát triển giáo dục phổ thông của thị
xã Sơn Tây giai đoạn (2001 – 2008)
Bước sang thế kỷ XXI, cùng với sự phát triển mang tính đột phá và nhảy
vọt của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sự phát triển của các nền kinh tế và
quá trình hội nhập toàn cầu hóa làm cho việc rút ngắn khoảng cách về trình độ
phát triển giữa các nước, các khu vực trở nên nhanh hơn. Bên cạnh đó, việc đổi
mới và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông đang tạo nên những thay đổi căn
bản quan niệm về giá trị giáo dục, cũng như tác động của nó đến việc xác định
mục tiêu, nội dung chương trình và phương pháp giáo dục. Nhà trường từ chỗ
khép kín chuyển sang mở cửa, đối thoại với xã hội và ngày càng gắn bó chặt chẽ
24
với sự phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với sự đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực, nhà giáo thay vì đơn thuần truyền thụ tri thức, chuyển sang vai
trò hướng dẫn cho người học phương pháp tư duy, hình thành năng lực hành
động, có khả năng thu nhận, xử lý, sử dụng thông tin và sáng tạo tri thức mới.
Thực trạng đó đã tác động sâu sắc, khiến cho mọi quốc gia không phân biệt
về địa lý, tôn giáo, chế độ chính trị hay hệ tư tưởng đều nhận thức được vị trí,
vai trò hàng đầu của giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng, đều
phải đổi mới giáo dục để đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu quả hơn, trực
tiếp hơn, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế.
Xuất phát từ tình hình thế giới và yêu cầu phát triển đất nước trong thời
kỳ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) xác định mục
tiêu đến năm 2010 là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại” [26, tr.24] và “con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần
và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần
tự, vừa có bước nhảy vọt” [26, tr.25]. Ở Việt Nam, quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa được tiến hành trong điều kiện tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao động được mở rộng,
nhu cầu học tập tăng lên; mặt khác cũng làm thay đổi quan niệm về giá trị, ảnh
hưởng đến xu hướng và động cơ học tập, các quan hệ trong nhà trường và ngoài
xã hội. Cơ chế thị trường cũng tạo ra sự phân hóa giàu nghèo, góp phần tăng
thêm sự cách biệt về cơ hội học tập giữa các tầng lớp cư dân. Xã hội tạo điều
kiện cho giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng phát triển, đồng thời
cũng đòi hỏi giáo dục phổ thông phải đáp ứng nhu cầu của xã hội, phải kịp thời
điều chỉnh cơ cấu và quy mô, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục,
đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có trình độ của nền kinh tế thị trường định
25