MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong các nguồn lực để phát triển KT-XH, thì NNL là nguồn lực quan
trọng nhất, quyết định việc sử dụng các nguồn lực khác; bởi con người bao giờ
cũng là nhân tố quyết định. Ngày nay, ở tất cả các quốc gia, phát triển NNL đã
trở thành vấn đề trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm
2011) đã khẳng định “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể phát triển” [8, tr. 76]. Đứng trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH
trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN và HNQT, Đại hội XI của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn “Phát triển và nâng cao chất lượng NNL,
nhất là NNL chất lượng cao là một đột phá chiến lược” [8, tr. 130].
Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học của cả nước;
hòa cùng tiến trình phát triển chung của cả nước, Hà Nội cũng đang thực hiện
đẩy mạnh CNH, HĐH trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN và
HNQT. Quá trình đó đòi hỏi phải có NNL đủ về số lượng, cao về chất lượng;
bao gồm những người có đức, có tài, thông minh, sáng tạo, được chuẩn bị tốt
về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp…, có
một cơ cấu phù hợp. Để phấn đấu hoàn thành các mục tiêu KT - XH của mình,
góp phần cùng cả nước thực hiện mục tiêu cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng bộ, Hội đồng nhân dân và UBND Thành
phố rất coi trọng phát huy vai trò, vị trí của NNL. Thành phố đã có nhiều biện
pháp để phát triển NNL cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, trong đó đã chú
trọng đầu tư cho giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh việc thu hút nhân tài, v.v. Nhờ
đó, chất lượng NNL của Thành phố đã được cải thiện nhiều. Tuy nhiên, sau khi
không gian địa lý của Hà Nội được mở rộng, nước ta đã tham gia WTO, thực
hiện cam kết mở cửa thị trường (trong đó có thị trường lao động) theo các tiến
trình hội nhập với khu vực và thế giới, thì NNL của Hà Nội bộc lộ nhiều bất
3
cập cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu trước những yêu cầu, thách thức mới
để hoàn thành mục tiêu CNH, HĐH sớm 1 đến 2 năm so với cả nước theo yêu
cầu Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển
Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011-2020” [9]. Vì thế, việc nghiên cứu vấn đề phát
triển NNL ở thành phố Hà Nội hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Đó là lý do học viên chọn đề tài “Phát triển nguồn nhân lực ở thành
phố Hà Nội hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành KTCT.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề nghiên cứu
của đề tài luận văn được công bố.
Trước hết là các công trình nghiên cứu vấn đề nguồn nhân lực nói chung.
* Về các sách đã xuất bản, tiêu biểu có:
- Mai Quốc Chính (1999), Nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách này,
tác giả đề cập đến vai trò của nguồn lực con người như là nhân tố quyết định
sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta. Bên cạnh đó, tác giả phân
tích thực trạng NNL ở nước ta xét ở khía cạnh chất lượng, chủ yếu là ở góc độ
trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề, lao động qua đào tạo, v.v. Qua đó,
chỉ ra những bất cập của chất lượng NNL ở nước ta trước yêu cầu đẩy mạnh
CNH, HĐH. Trên cơ sở đó, tác giả cuốn sách đề xuất một số giải pháp cơ bản
về nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH ở nước ta trong thế
kỷ XXI. Trong các giải pháp mà tác giả đề xuất, rất đáng chú ý là các giải
pháp về đổi mới giáo dục, đào tạo; ban hành cơ chế chính sách để cân đối cơ
cấu đào tạo “thầy”, “thợ” cho nền kinh tế quốc dân.
- Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ
CNH, HĐH, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phạm Minh Hạc (2011), Nghiên
cứu con người và NNL đi vào CNH, HĐH, Đề án phát triển NNL trong quá
trình CNH, HĐH ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. Cũng giống như tác giả
4
Mai Quốc Chính, trong 2 cuốn sách này, tác giả Phạm Minh Hạc đề cập đến
vai trò quyết định của nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH; đồng
thời, phân tích các quan niệm khác nhau về NNL, đưa ra quan niệm của chính
tác giả về NNL của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam. Tác giả 2 cuốn
sách này nhấn mạnh đến yêu cầu phát triển toàn diện con người Việt Nam với
tư cách là nguồn lực quan trọng nhất của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH cả về
phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn, trong đó đã chú ý đề cập đến yêu
cầu phát triển bộ phận NNL chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước.
- Đoàn Khải (2005), Nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH
ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong tác phẩm này, tác giả
Đoàn Khải phân tích vai trò của nguồn lực con người trong quá trình CNH,
HĐH ở Việt Nam; đánh giá những ưu điểm và hạn chế của NNL Việt Nam về
số lượng, chất lượng và cơ cấu trước yêu cầu của giai đoạn đẩy nhanh quá
trình CNH, HĐH đất nước. Trên cơ sở những phân tích, đánh giá đó, tác giả
cuốn sách đã nêu lên một số định hướng và giải pháp để khắc phục những mặt
hạn chế của NNL Việt Nam trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH; trong
đó có vấn đề phải tiến hành một cách thực chất, quyết liệt chủ trương coi
“giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu” bằng nhiều việc làm cụ thể liên
quan đến đổi mới nhận thức, chính sách, quy mô, công nghệ, phương pháp
giáo dục, đào tạo.
* Về các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, tiêu biểu có:
- Trần Kim Hải (1998), Sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH đất
nước, Luận án Tiến sĩ KTCT, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Trong luận án của mình, tiến sĩ Trần Kim Hải đã bàn đến vai trò quyết định
của nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH; phân tích khái niệm
NNL và “sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH” dưới góc độ KTCT.
Trên cơ sở phân tích, luận giải thực trạng sử dụng NNL ở nước ta, tiến sĩ Trần
5
Kim Hải đã đưa ra hệ thống giải pháp khả thi để nâng cao hiệu quả sử dụng
NNL của đất nước trong quá trình CNH, HĐH; trong đó có những giải pháp
về công tác quy hoạch đào tạo và sử dụng, giải pháp về cơ chế chính sách đào
tạo, bồi dưỡng, thu hút NNL chất lượng cao đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
- Phạm Thị Thơm (2010), NNL cho CNH, HĐH ở thành phố Hà Nội,
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành KTCT, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng
viên lý luận chính trị, Hà Nội. Trong luận văn này, thạc sĩ Phạm Thị Thơm
phân tích yêu cầu về số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL trước yêu cầu đẩy
mạnh CNH, HĐH ở thành phố Hà Nội. Tác giả phân tích thực trạng NNL của
Thành phố trước thời kỳ mở rộng địa giới hành chính (2008); chỉ ra những bất
cập về NNL trước yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH ở thành phố Hà Nội. Trên
cơ sở đó, tác giả đề xuất phương hướng và các giải pháp xây dựng NNL về số
lượng, chất lượng và cơ cấu để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng CNH, HĐH của Hà Nội trong thời gian tiếp theo. Tuy nhiên,
tác giả luận văn chưa chú ý bàn vấn đề NNL của Hà Nội đã mở rộng địa giới
hành chính.
* Về bài báo, có tương đối nhiều; trong đó học viên quan tâm đến:
- Phạm Tất Dong (2011), Xây dựng con người và phát triển NNL chất
lượng cao, Dạy và học ngày nay online, ngày 29 tháng 3. Trong bài báo này,
bên cạnh việc khẳng định vai trò quyết định của nguồn lực con người, tác giả
có phân biệt quan niệm về NNL với nguồn lao động; đồng thời đưa ra quan
niệm của mình về NNL chất lượng cao. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các giải
pháp phát triển NNL chất lượng cao, tập trung vào các giải pháp nhận thức
đúng vai trò, vị trí của NNL chất lượng cao, đổi mới giáo dục đào tạo về
chương trình, nội dung, cơ cấu đào tạo.
- Đinh Văn Tấn (2014), NNL trong công cuộc CNH, HĐH ở nước ta,
www,truongchinhtrina.gov.vn. Tác giả bài báo đề cập đến vai trò của NNL
6
trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta; nêu lên các quan niệm khác nhau về
NNL: của Liên hợp quốc, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); phân biệt với
nguồn lao động và khái quát quan niệm về NNL dưới góc độ KTCT đã được
một số luận án, luận văn nghiên cứu. Trên cơ sở đó, tác giả bài báo có nêu lên
một số giải pháp để xây dựng và phát triển NNL ở nước ta đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH thời kỳ HNQT.
Về vấn đề phát triển nguồn nhân lực, có một số luận văn thạc sĩ tiêu biểu:
* Về phát triển NNL ở một đơn vị, địa phương ngoài thành phố Hà Nội , có:
- Lê Thị Minh Hải (2007), Phát triển NNL đáp ứng yêu cầu của CNH,
HĐH ở thành phố Hải Phòng, Luận văn Thạc sĩ kinh tế chuyên ngành KTCT,
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Trong luận văn này, tác giả phân tích sự tất
yếu phát triển NNL trước yêu cầu phát triển của thành phố Hải Phòng trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và HNQT. Trên cơ sở đánh giá thực trạng NNL
của thành phố Hải Phòng, tác giả luận văn đưa ra một số giải pháp phát triển
NNL của Thành phố Hải Phòng trong những năm tiếp theo; trong đó đáng chú
ý là giải pháp xây dựng chiến lược phát triển NNL phù hợp với định hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố trong tương lai, triển khai thực
hiện các chính sách đào tạo, bồi dưỡng, thu hút NNL chất lượng cao, v.v.
- Ngô Văn Thắng (2014), Phát triển NNL chất lượng cao ở Viện Khoa
học Lao động và Xã hội, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành KTCT, Học viện
Chính trị. Cũng giống như luận văn của thạc sĩ Phạm Thúy Lan, tác giả Ngô
Văn Thắng hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về NNL, đưa ra khái niệm về
NNL chất lượng cao, phân tích đặc điểm NNL chất lượng cao ở Viện Khoa
học Lao động và Xã hội, đề xuất khái niệm phát triển NNL chất lượng cao ở
Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển
NNL chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội, tác giả chỉ ra các
vấn đề cần tập trung tháo gỡ để đẩy mạnh phát triển NNL chất lượng cao tại
đơn vị này. Bên cạnh đó, tác giả đã đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải
7
pháp chủ yếu để phát triển NNL chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và
Xã hội trong thời gian tới.
* Về phát triển NNL ở thành phố Hà Nội, có:
- Nguyễn Mạnh Hồ (2012), Phát triển NNL chất lượng cao trong CNH,
HĐH ở Hà Nội hiện nay, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành KTCT, Học viện
Chính trị. Tác giả luận văn đã luận giải khái niệm NNL, NNL chất lượng cao
và phát triển NNL chất lượng cao trong quá trình CNH, HĐH ở thành phố Hà
Nội. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển NNL chất lượng cao ở thành
phố Hà Nội, xác định các mâu thuẫn nổi lên cần tập trung giải quyết, tác giả
luận văn đã đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu để phát
triển NNL chất lượng cao ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
- Phạm Thúy Lan (2014), Phát triển NNL chất lượng cao cho ngành in
ở thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ kinh tế chuyên ngành KTCT, Học viện
Chính trị. Cũng giống như luận văn của thạc sĩ Nguyễn Mạnh Hồ, tác giả
Phạm Thúy Lan hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về NNL, NNL chất lượng
cao; phân tích đặc điểm NNL chất lượng cao của ngành in; đưa ra cách hiểu
của riêng mình về phát triển NNL chất lượng cao cho ngành in ở thành phố
Hà Nội. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển NNL ngành in của thành
phố Hà Nội, tác giả luận văn khái quát những vấn đề đặt ra cần tập trung giải
quyết để phát triển NNL cho ngành in của Thành phố trong thời gian tới;
đồng thời, đề xuất các quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu để phát triển
NNL cho ngành in thành phố Hà Nội trong thời gian tới. Đáng chú ý trong
các giải pháp mà tác giả luận văn đề ra là giải pháp về nâng cao chất lượng
đào tạo NNL chất lượng cao, hoàn thiện hệ thống chính sách và cơ chế thu
hút NNL chất lượng cao cho ngành in thành phố Hà Nội.
Mặc dù 2 luận văn nói trên liên quan đến phát triển NNL ở thành phố Hà
Nội, nhưng phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của các luận văn đó
hẹp hơn phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài mà học viên lựa chọn làm
luận văn thạc sĩ, nên không có sự trùng lặp.
8
Tuy vậy, trong cả 3 luận văn được bảo vệ tại Học viện Chính trị/ Bộ
Quốc phòng gần đây, các thạc sĩ: Nguyễn Mạnh Hồ, Phạm Thúy Lan, Ngô
Văn Thắng đều đã bàn khái niệm NNL dưới góc độ KTCT “là tổng hòa thể
lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc
gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một
dân tộc trong lịch sử, được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước”. Sự khác nhau
trong từng luận văn khi bàn đến khái niệm này chỉ xoay quanh lối diễn đạt,
thêm, bớt một vài từ ngữ nhưng không làm thay đổi bản chất của khái niệm
đã được kế thừa của nhau. Bên cạnh đó, cả 3 luận văn này cũng đều đề cập
đến khái niệm phát triển NNL ở những mức độ nhất định, trước khi bàn khái
niệm trung tâm của từng luận văn là phát triển NNL chất lượng cao phù hợp
với đối tượng của từng luận văn; trong đó đáng chú ý là các tác giả đều thống
nhất cho rằng phát triển NNL “là sự biến đổi về số lượng và chất lượng NNL
trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình
tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu NNL”. Đó là những kiến thức rất bổ
ích giúp học viên có thể tiếp thu để xây dựng khung lý luận trong luận văn
của mình.
Tóm lại, do tầm quan trọng của NNL, nên vấn đề sử dụng, đào tạo,
nâng cao chất lượng và phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong
điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN và HNQT thu hút rất nhiều sự
vào cuộc của các nhà nghiên cứu, cũng như của các nghiên cứu sinh và học
viên cao học kinh tế. Những vấn đề lý luận chung về NNL và phát triển NNL
được đề cập trong các công trình nói trên rất bổ ích cho học viên trong quá
trình triển khai nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, các công trình nghiên
cứu đã công bố không trùng lặp với đề tài luận văn mà học viên lựa chọn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
9
Trên cơ sở luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn, đề xuất một số
quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NNL ở thành phố Hà
Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về phát triển NNL ở thành phố Hà
Nội dưới góc độ KTCT.
- Đánh giá đúng thực trạng phát triển NNL của thành phố Hà Nội từ khi
mở rộng đến nay.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển
NNL ở thành phố Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển NNL ở thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu vấn đề phát triển NNL ở cấp thành phố của
thành phố Hà Nội là chủ yếu; không đi sâu vào sự phát triển NNL của từng
ngành, lĩnh vực và từng tổ chức cụ thể.
- Về không gian nghiên cứu: địa bàn thành phố Hà Nội đã mở rộng
địa giới hành chính (gồm cả tỉnh Hà Tây cũ và một số đơn vị hành chính
của tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Hòa Bình).
- Về thời gian khảo sát thực tiễn để đánh giá thực trạng: từ năm 2008
đến năm 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước, chủ trương của Thành ủy, UBND Thành phố Hà Nội về vấn đề
phát triển NNL đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện KTTT định
hướng XHCN và HNQT.
10
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học của KTCT
Mác – Lê-nin để làm sáng tỏ cơ sở lý luận về phát triển NNL ở thành phố
Hà Nội; sử dụng các phương pháp: tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích,
kết hợp lô-gíc với lịch sử, cùng một số phương pháp khác để phân tích
thực trạng, đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển NNL ở thành
phố Hà Nội thời gian tới.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo bổ ích
để phát triển NNL của thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu; 3 chương, (6 tiết); Kết luận; Danh mục
tài liệu tham khảo; Phụ lục.
11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ở
thành phố Hà Nội
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Học thuyết Mác – Lê nin đã khẳng định: sản xuất ra của cải vật chất là
cơ sở của đời sống xã hội loài người và là hoạt động cơ bản nhất trong tất cả
các hoạt động của con người. Để tiến hành sản xuất, xã hội cần có những yếu
tố cơ bản, như: sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Theo C.
Mác: Sức lao động chính là toàn bộ năng lực, thể chất và tinh thần tồn tại
trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng để sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó [25, tr. 251]. Trong quá trình phát triển của
nền sản xuất xã hội, sức lao động của con người cũng không ngừng hoàn
thiện, phát triển và nhận thức về vai trò của nguồn lực này cũng ngày càng
đẩy đủ hơn. Nếu như trước đây, sức lao động chỉ đơn thuần được coi là
phương tiện, là một dạng chi phí khi được sử dụng vào quá trình sản xuất, thì
ngày nay nguồn lực này còn được xác định là mục tiêu của sự phát triển.
Thuật ngữ NNL (hurman resourses) mới xuất hiện vào khoảng thập
niên 80 của thế kỷ XX khi có sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý, sử
dụng con người trong hoạt động kinh tế. Nếu như trước đây, phương thức
quản trị nhân viên (personnel management) với các đặc trưng coi nhân viên là
lực lượng thừa hành, phụ thuộc, cần khai thác tối đa sức lao động của họ với
chi phí tối thiểu, thì từ những năm 80 (thế kỷ XX) đến nay, với phương thức
mới, quản lý NNL được thực hiện mềm dẻo, linh hoạt hơn theo hướng tạo
điều kiện tốt hơn để người lao động có thể phát huy ở mức cao nhất các khả
năng tiềm tàng, vốn có của họ thông qua tích lũy trong quá trình lao động.
Hiện nay có nhiều quan niệm về NNL, do tiếp cận nhân tố con người từ
những góc độ khác nhau.
12
Theo Tổ chức Liên hợp quốc, “NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát
triển của mỗi cá nhân và của đất nước” [33]. Cách hiểu này chỉ tiếp cận NNL
ở khía cạnh chất lượng chuyên môn có trong con người, mà bỏ qua những yếu
tố thuộc về thể lực, tâm lực (như đạo đức, lối sống, nhân cách và truyền thống
lịch sử văn hoá dân tộc) và số lượng.
Tiếp cận NNL với tư cách là một nguồn vốn (tư bản), Ngân hàng Thế
giới cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ
năng nghề nghiệp của mỗi cá nhân [33]. Với cách hiểu này, nguồn lực con
người được xem là một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: tiền
tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Do đó, NNL có thể được xem xét cả về
mặt số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, về mặt chất lượng, cách hiểu này bỏ
qua yếu tố xã hội là “tâm lực” trong nguồn vốn con người, mà chỉ chú ý đến
thể lực và trí lực.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì cho rằng: “NNL của một quốc gia
là toàn bộ những người trong độ tuổi, có khả năng tham gia lao động” [33].
Theo cách hiểu này thì NNL được xem xét cả về mặt số lượng (toàn bộ những
người…) và chất lượng (trong độ tuổi nhất định và có khả năng lao động).
Cách hiểu này loại những người còn khả năng lao động, nhưng ngoài độ tuổi
lao động ra khỏi quan niệm về NNL. Do vậy, quan niệm này không bao quát
được tình hình thực tiễn là có rất nhiều người ngoài độ tuổi lao động theo quy
định của nhà nước, nhưng lại vẫn đang tham gia vào các hoạt động KT-XH và
nhiều khi lại đóng góp rất lớn vào sự phát triển của xã hội, nếu họ là những
chuyên gia trình độ cao. Vì thế, cách hiểu này gần như đồng nhất NNL với
nguồn lao động của một quốc gia.
Lý thuyết Kinh tế phát triển quan niệm “NNL là một bộ phận của dân
số trong độ tuổi nhất định theo quy định của luật pháp có khả năng tham gia
lao động. NNL được biểu hiện trên hai mặt: Về số lượng đó là tổng số những
13
người trong độ tuổi lao động và thời gian làm việc có thể huy động được của
họ… Về chất lượng NNL, đó là trình độ chuyên môn và sức khỏe của người
lao động” [44, tr.131]. Quan niệm này không khác nhiều so với quan niệm
của ILO, tuy có cụ thể hơn và khi giải thích thì có phân biệt với quan niệm về
nguồn lao động chỉ bao gồm những người muốn tham gia lao động, không
tính những người không có nhu cầu lao động, để khắc phục sự đồng nhất giữa
NNL với nguồn lao động của xã hội.
Bàn về vấn đề này, Giáo sư - viện sĩ Phạm Minh Hạc cho rằng: “NNL
cần được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh
thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động.
Nó là tổng thể NNL hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để
tham gia phát triển KT-XH của một quốc gia hay một địa phương nào đó…”
[13, tr.213]. Quan niệm này đã đề cập đến khía cạnh xã hội của NNL, khi
nhấn mạnh mặt chất lượng của NNL bao gồm cả “phẩm chất và đạo đức của
người lao động”. Như vậy, tuy tiếp cận ở những góc độ khác nhau, nhưng các
quan niệm về NNL nói trên đều coi NNL là một bộ phận dân số trong độ tuổi
lao động theo quy định của pháp luật từng quốc gia, có khả năng hoạt động
trong các lĩnh vực của đời sống KT-XH; NNL cần được xem xét cả về số
lượng và chất lượng.
Dưới góc độ KTCT, một số tác giả đã quan niệm “NNL là tổng hòa thể
lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc
gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một
dân tộc trong lịch sử, được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước” [22, tr. 18], hoặc
“là tổng thể các nguồn: thể lực, trí lực, trình độ, phẩm chất thái độ nghề
nghiệp chuyên môn tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một
quốc gia, trong đó có sự kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng
tạo của một dân tộc đang được sử dụng, hoặc sẽ sử dụng để sản xuất ra của
14
cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất
nước” [19, tr. 14]. Cả hai quan niệm này đều coi NNL là tổng hòa (hay tổng
thể) các yếu tố thể lực, trí lực cùng phẩm chất tồn tại trong toàn bộ lực lượng
lao động xã hội được vận dụng vào sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
cho xã hội; mà thực chất đó chính là số và chất lượng sức lao động của xã hội.
Tuy nhiên, việc diễn giải quan niệm về NNL của hai tác giả này còn có sự
trùng lặp giữa yếu tố trí lực và trình độ chuyên môn, kinh nghiệm lao động.
Do vậy, trên cơ sở kế thừa các yếu tố hợp lý của các quan niệm nói trên, tiếp
cận dưới góc độ KTCT, tác giả luận văn cho rằng: NNL là tổng thể sức lao
động của xã hội, biểu hiện thông qua số lượng, chất lượng (gồm: thể lực, trí
lực, tâm lực) và cơ cấu bộ phận dân số có khả năng lao động, được sử dụng
vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho sự tồn tại
và phát triển của xã hội. Nó là bộ phận quan trọng trong dân số, là tổng thể
sức lao động trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, (cũng có thể được
xác định trên một địa phương, một ngành hay một vùng) đóng vai trò quyết
định tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Theo đó, NNL được xác
định bằng số lượng, chất lượng và cơ cấu sức lao động của bộ phận dân số có
thể tham gia vào hoạt động KT - XH.
Trước hết, số lượng NNL thể hiện quy mô NNL, được hiểu theo nghĩa
rộng: là toàn bộ sức lao động (được xem xét dưới góc độ tổng hòa trí lực, thể
lực và tâm lực) của một quốc gia, vùng lãnh thổ có khả năng huy động để
tham gia vào quá trình phát triển KT - XH. Theo đó, cơ cấu NNL có NNL
trong độ tuổi lao động và NNL ngoài độ tuổi lao động. Theo nghĩa này, khái
niệm NNL rộng hơn khái niệm nguồn lao động, vì trong thực tế, có một bộ
phận dân số chưa đến tuổi, hoặc đã quá tuổi lao động do nhà nước quy định
vẫn có khả năng lao động và nhu cầu tham gia thị trường lao động. Độ tuổi
người lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể, tâm sinh lý xã hội mà
con người tham gia vào quá trình lao động. Giới hạn độ tuổi lao động được
15
quy định tùy thuộc vào điều kiện KT - XH của từng nước và trong từng thời
kỳ. Bộ Luật lao động Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định độ
tuổi lao động của nam từ 15 – 60 và nữ là 15 –55 tuổi.
Thứ hai, chất lượng NNL thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu
thành nên bản chất bên trong của NNL, được biểu hiện thông qua những nét
đặc trưng về trạng thái thể lực, trí lực và phẩm chất đạo đức (tâm lực). Nó thể
hiện trạng thái nhất định của NNL với tư cách vừa là một khách thể vật chất
đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội.
Trong đó:
Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất, sự chăm
sóc sức khỏe và rèn luyện của từng cá nhân cụ thể. Một cơ thể khỏe mạnh,
thích nghi với môi trường sống thì năng lượng do nó sinh ra sẽ đáp ứng yêu
cầu của một hoạt động cụ thể nào đó. Thể lực có ý nghĩa quan trọng quyết
định sức - năng lực hoạt động của con người. Phải có thể lực con người mới
có thể phát triển trí tuệ và quan hệ của mình trong xã hội.
Trí lực được xác định bởi trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ
năng, kinh nghiệm làm việc và khả năng tư duy xét đoán của mỗi con người.
Trí lực được hình thành và phát triển thông qua giáo dục - đào tạo, cũng như
tích lũy trong quá trình lao động sản xuất.
Phẩm chất đạo đức (tâm lực) là yếu tố xã hội của NNL, bao gồm toàn
bộ những tình cảm, tập quán phong cách, thói quen, quan niệm, truyền thống,
các hình thái tư tưởng, đạo đức và nghệ thuật, gắn liền với truyền thống văn
hóa của dân tộc, của cộng đồng.
Thứ ba, cơ cấu NNL là yếu tố không thể thiếu khi đánh giá NNL của
một quốc gia, địa phương hay một tổ chức. Cơ cấu NNL thường được xem
xét theo giới tính, dân tộc, lứa tuổi, trình độ đào tạo và ngành nghề.
16
1.1.2. Đặc điểm nguồn nhân lực ở thành phố Hà Nội
Bên cạnh những đặc điểm, yêu cầu chung như NNL của các địa
phương khác, NNL ở thành phố Hà Nội có một số đặc điểm riêng sau:
Một là, số lượng và yêu cầu về nhân lực chất lượng cao có nhiều hơn
các địa phương khác. Đặc điểm này được quy định bởi thành phố Hà Nội vốn
từ xưa đã được coi là nơi quy tụ tinh hoa của cả nước; hiện nay lại là nơi tập
trung các cơ quan Trung ương, các đơn vị đầu ngành của quốc gia, nên sức
hút và yêu cầu tập trung nhiều nhân lực chất lượng cao, nhiều chuyên gia giỏi
thuộc các lĩnh vực khác nhau cao hơn các địa phương khác.
Hai là, cơ cấu ngành nghề rất đa dạng, từ lao động giản đơn như người
giúp việc, đến lao động phức tạp, trình độ cao. Có tình hình đó là do: thành
phố Hà Nội vốn là “đất trăm nghề”; lại là trung tâm chính trị - kinh tế - văn
hóa của cả nước, là thủ đô nước CHXHCN Việt Nam, nên không chỉ nhu cầu
về NNL cho các loại ngành nghề của NNL ở Hà Nội rất đa dạng, mà khả năng
thu hút NNL nhiều ngành nghề, nhiều trình độ của Hà Nội cũng rất lớn.
Ba là, NNL của Thành phố có sự pha trộn bản sắc văn hóa của nhiều
vùng quê trên phạm vi cả nước; làm cho tính không thuần nhất về nếp sống
(thói quen, phong tục) nhiều hơn các địa phương khác. Điều đó được hình
thành do có sự dịch chuyển cơ học NNL từ các địa phương khác về Hà Nội
tương đối lớn so với các địa phương khác. Đi theo sự dịch chuyển đó, NNL
có gốc từ các miền quê khác nhau cũng mang vào Hà Nội nhiều nét văn hóa
pha tạp, làm cho tính thuần nhất về bản sắc văn hóa địa phương trong lối sống
của NNL ở thành phố Hà Nội thấp hơn các địa phương khác, dẫn đến nguy cơ
làm mai một nét thanh lịch của Người Hà Nội.
1.1.3. Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực ở thành phố Hà Nội
Cũng giống như thuật ngữ NNL, “Phát triển NNL” là một thuật ngữ
được khá nhiều tác giả bàn đến với các cách diễn đạt và tiếp cận khác nhau.
Có tác giả đồng nhất phát triển NNL với giáo dục – đào tạo, khi cho rằng
17
“Phát triển NNL là làm tăng kinh nghiệm học được trong một khoảng thời
gian xác định để tăng cơ hội nâng cao năng lực thực hiện công việc” [49, mục
1.1.1.2]. Tổ chức ILO cho rằng “Phát triển NNL bao hàm phạm vi rộng hơn,
không chỉ là sự chiếm lĩnh lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói chung, mà còn
là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó vào việc làm có hiệu quả,
cũng như thỏa mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân” [49, mục 1.1.1.2]. Cả
hai quan niệm này đều xem phát triển NNL là làm gia tăng mặt chất lượng
của NNL. Mặc dù cả hai quan niệm này đều đề cập đến vấn đề cốt lõi, căn
bản nhất của việc phát triển NNL, nhưng nếu chỉ phát triển về mặt chất lượng
mà không chú ý đến mặt số lượng và cải thiện về cơ cấu NNL thì chưa đủ,
nhất là hiện nay vấn đề gia tăng về số lượng NNL chất lượng cao và tái cơ
cấu NNL cho phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động không chỉ ở nước
ta, mà nhiều nước trên thế giới đang rất được quan tâm.
Đứng trên quan điểm xem “con người là nguồn vốn – vốn nhân lực”,
Yoshihara Kunio cho rằng “Phát triển NNL là các hoạt động đầu tư nhằm tạo
ra NNL với số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của
đất nước, đồng thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân” [49, mục 1.1.1.2].
Quan niệm này đã đề cập đến sự phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng
của NNL, xem đó là một quá trình đầu tư, nhưng chưa rõ chủ thể của hoạt
động đầu tư phát triển NNL. Một số tác giả khác lại quan niệm “Phát triển
NNL là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: thể lực, trí
lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất
NNL thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát
triển KT - XH” [22, tr. 25]. Quan niệm này giống như hai quan niệm đầu dẫn
ra ở trên, có xu hướng thiên về nâng cao mặt chất lượng của NNL và có bổ
sung thêm việc sử dụng hiệu quả NNL, mà không chú ý đến vấn đề số lượng
và cơ cấu NNL; do đó cũng chưa đầy đủ.
18
Dưới góc độ KTCT, Thạc sĩ Phạm Thúy Lan đã coi “Phát triển NNL
của một quốc gia chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng NNL trên các
mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra
những biến đổi tiến bộ về cơ cấu NNL” [22, tr. 25]. Quan niệm này đã chỉ ra
được nội dung thực chất của quá trình phát triển NNL, nhưng không rõ chủ thể
quá trình phát triển và xu hướng vận động của sự biến đổi về chất lượng NNL.
Kế thừa những nhân tố hợp lý của các quan niệm nêu trên, tiếp cận dưới
góc độ KTCT, tác giả luận văn cho rằng: Phát triển NNL là hoạt động của các
chủ thể thông qua thực hiện các biện pháp nhằm tạo ra những điều kiện làm
biến đổi về số lượng, nâng cao về chất lượng, cải thiện về cơ cấu sức lao động
để đáp ứng nhu cầu phát triển của quốc gia, địa phương hay một tổ chức cụ thể.
Vận dụng vào địa bàn thành phố Hà Nội, có thể quan niệm: Phát triển
NNL ở thành phố Hà Nội là tổng thể các biện pháp của các chủ thể, nhằm
làm biến đổi về số lượng, nâng cao về chất lượng và cải thiện về cơ cấu NNL
đáp ứng nhu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH và HNQT của thành phố Hà Nội.
Quan niệm này chỉ rõ chủ thể, phương thức, nội dung và mục tiêu phát
triển NNL. Theo đó, chủ thể phát triển NNL ở thành phố Hà Nội là cả hệ
thống chính trị, cũng như từng tổ chức (chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa họckỹ thuật…) và chính bản thân người lao động; trong đó, người lao động vừa
là đối tượng vừa là chủ thể phát triển tiềm năng sức lao động của chính mình.
Phương thức phát triển NNL là thông qua việc các chủ thể nói trên thực
hiện tổng thể các biện pháp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…, mà quan
trọng nhất là thông qua việc ban hành và thực thi các chủ trương, cơ chế,
chính sách tạo động lực, điều kiện để phát triển NNL theo yêu cầu phát triển
các hoạt động KT - XH trong từng thời kỳ của thành phố Hà Nội; trong đó,
các chính sách đầu tư cho giáo dục – đào tạo, đầu tư cho y tế, chăm sóc sức
khỏe người dân, chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao... giữ vai trò rất
quan trọng.
19
Nội dung phát triển NNL ở thành phố Hà Nội là làm biến đổi về số
lượng, nâng cao về chất lượng và cải thiện về cơ cấu NNL hướng vào mục
tiêu đáp ứng yêu cầu về NNL cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu cho sự
nghiệp CNH, HĐH của Thành phố; đảm bảo để Hà Nội có thể hoàn thành
mục tiêu CNH, HĐH sớm 1 đến 2 năm so với cả nước, như yêu cầu mà Nghị
quyết 11 của Bộ Chính trị về “Phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà
Nội giai đoạn 2011-2020” [9] đã đề ra. Theo đó, nội dung phát triển NNL ở
thành phố Hà Nội phải hướng vào những yêu cầu cụ thể sau đây:
Một là, đảm bảo về số lượng NNL cho nhu cầu đẩy nhanh quá trình CNH,
HĐH ở Thủ đô. Sự biến đổi về số lượng NNL trong quá trình này có thể tăng
hay giảm ở từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể, phụ thuộc vào nhu cầu của thị
trường lao động, nhưng điểm cốt lõi là phải làm gia tăng số lượng NNL qua đào
tạo và NNL chất lượng cao đáp ứng nhu cầu “chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế
theo hướng dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp” [9] như Nghị quyết 11 của Bộ
Chính trị về phương hướng phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2020 đã chỉ ra.
Ở Hà Nội, số dân trong độ tuổi lao động khá dồi dào, nhưng số lao
động qua đào tạo có tỷ lệ còn thấp. Do đó, so với mục tiêu của Chiến lược
phát triển KT - XH đến năm 2020 của cả nước, thì Hà Nội còn phải phấn đấu
rất nhiều trong khoảng thời gian từ 2011 đến 2018 mới có thể đạt được mục
tiêu hoàn thành CNH, HĐH sớm 1 đến 2 năm so với cả nước. Thêm nữa, số
lượng nhân lực chất lượng cao của Hà Nội còn khá khiêm tốn; trong khi đó,
nhu cầu về NNL chất lượng cao của Thành phố, nhất là cho các lĩnh vực:
Công nghiệp - Xây dựng, Tài chính, Ngân hàng, Bưu chính viễn thông, Công
nghệ thông tin, Vận tải; Nông nghiệp chất lượng cao… để đáp ứng yêu cầu
đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH Thủ đô ngày càng tăng. Vì vậy, phát triển
nhanh về số lượng NNL qua đào tạo và NNL chất lượng cao là một nội dung cốt
lõi của sự phát triển NNL ở thành phố Hà Nội.
20
Hai là, nâng cao về mặt chất lượng. Theo đó, việc phát triển NNL của
Thành phố phải hướng vào hoàn thiện, nâng cao chất lượng NNL trên cả 3
mặt: thể lực, trí lực và tâm lực. Để đạt được điều đó, phải bằng tổng hợp các
giải pháp, sự nỗ lực của tất cả các cấp, các ngành, trong đó tập trung “Xây
dựng, phát triển, nâng cao vị thế hàng đầu của giáo dục – đào tạo Thủ đô; đi
đầu trong phổ cập giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục trung học phổ thông
và trong đào tạo, phát triển NNL chất lượng cao” [9], phát triển thể lực, nâng
cao chất lượng hoạt động y tế, “tạo chuyển biến mới trong xây dựng văn hóa
người Hà Nội thanh lịch, văn minh” [9]. Đồng thời, phải “đặc biệt coi trọng
giáo dục lý tưởng, đạo đức, nhân cách, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng
thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội cho học sinh, sinh
viên trong các cấp học” [10, tr. 29], đảm bảo cung ứng cho sự nghiệp CNH,
HĐH Thủ đô lực lượng lao động có kỹ năng lao động đáp ứng yêu cầu phát
triển của các ngành và lĩnh vực KT - XH ở Thủ đô; có sức khoẻ và phẩm chất
đạo đức tốt, biết gìn giữ và phát huy nét văn minh, thanh lịch của người Hà Nội
– Thủ đô ngàn năm văn hiến.
Ba là, cải thiện về cơ cấu NNL. Theo đó, sự phát triển NNL ở thành
phố Hà Nội phải hình thành được cơ cấu NNL hợp lý, phù hợp với nhu cầu
thị trường lao động, với yêu cầu tái cơ cấu kinh tế của Thành phố trong quá
trình đẩy mạnh CNH, HĐH và HNQT. Cơ cấu đó bao gồm các loại hình: cơ
cấu trình độ học vấn (trên đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,
công nhân kỹ thuật); cơ cấu giới tính (nam, nữ); độ tuổi; cơ cấu lao động trong
các thành phần kinh tế (nhà nước, tư nhân, tập thể), trong các ngành và lĩnh vực
kinh tế; cơ cấu lao động trong nội bộ ngành, lĩnh vực kinh tế... phù hợp với
Chiến lược phát triển KT - XH của Thành phố đến năm 2020 và những năm tiếp
theo; đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của thị trường lao động ở Thành phố trong
quá trình tái cơ cấu kinh tế và CNH, HĐH.
21
1.2. Một số nhân tố chi phối sự phát triển nguồn nhân lực ở thành
phố Hà Nội
Sự phát triển NNL ở thành phố Hà Nội hiện nay chịu sự chi phối của các
nhân tố: khách quan và chủ quan.
Một là, về nhân tố khách quan, có thể kể đến:
Thứ nhất, vị trí địa lý – chính trị.
Thành phố Hà Nội là thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Theo Nghị quyết 15 - NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 15 tháng 12 năm
2000: “Hà Nội là trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính quốc
gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc
tế”. Điều đó dẫn đến sự tập trung một số lượng lớn các cơ quan hành chính của
Trung ương, các viện nghiên cứu, các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề, các
cơ sở kinh tế, văn hóa lớn… Bên cạnh đó, với bề dày lịch sử nghìn năm, thành
phố Hà Nội có nhiều điểm du lịch nổi danh; nhiều lễ hội gắn với di tích và
cùng với di tích tạo thành một sản phẩm du lịch độc đáo, góp phần làm cho
Thành phố trở thành trung tâm du lịch lớn của cả nước. Đặc điểm này vừa đòi
hỏi, vừa tạo điều kiện để thành phố Hà Nội phát triển NNL cả về số lượng, chất
lượng và cơ cấu, nhất là nhân lực chất lượng cao cho mọi lĩnh vực phát triển
của Thủ đô.
Thứ hai, điều kiện tự nhiên.
Sau khi mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008 và điều
chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm vào ngày 27 tháng 12 năm 2013,
thành phố Hà Nội là thành phố có dân số đứng thứ hai cả nước, với số lượng
khoảng trên 7,2 triệu người vào năm 2014 [4, tr. 12]; có 12 quận, 17 huyện, 1
thị xã (Sơn Tây) với 386 xã, 177 phường và 21 thị trấn. Đây là điều kiện để
cung cấp NNL tương đối dồi dào cho sự phát triển của Thủ đô; nhưng đồng thời,
do chất lượng NNL của tỉnh Hà Tây cũ và của các địa phương thuộc Vĩnh Phúc,
Hòa Bình sáp nhập vào tương đối thấp so với thành phố Hà Nội khi chưa mở
22
rộng, làm cho chất lượng và cơ cấu NNL của Thành phố có nhiều bất cập. Cùng
với đó, Thành phố tiếp giáp với 8 tỉnh: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc Giang,
Bắc Ninh, Hưng Yên, Hoà Bình, Phú Thọ, Hà Nam và Hoà Bình; lại có hệ
thống giao thông bằng đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không
đi các tỉnh, thành phố của cả nước, cũng như đi các nước dễ dàng. Do vậy,
đây không chỉ là điều kiện thuận lợi để Hà Nội mở rộng các quan hệ kinh tế,
chính trị, văn hóa, khoa học - kỹ thuật với các tỉnh, thành và với các nước trên
thế giới, phục vụ cho việc phát triển NNL của mình; mà còn là điều kiện
thuận lợi để lao động từ các nơi khác chuyển dịch đến, góp phần bổ sung
NNL cho Thành phố, cũng như tạo áp lực cho Thành phố trong vấn đề giải
quyết việc làm, cải thiện hạ tầng KT - XH phục vụ cho việc nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân.
Thứ ba, tình hình phát triển kinh tế của Thành phố.
Cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội là một trong hai
“đầu tàu” kinh tế của cả nước. Giai đoạn 2009 - 2013, Thành phố tiếp tục đẩy
mạnh CNH, HĐH để phấn đấu về đích sớm 1 đến 2 năm so với cả nước. Theo
đó, cơ cấu kinh tế của Thành phố tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ
trọng ngành dịch vụ, công nghiệp và xây dựng, giảm dần tỷ trọng ngành
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Theo đó, nhu cầu về NNL của thành phố Hà
Nội sẽ đòi hỏi sự gia tăng nhân lực trong các lĩnh vực dịch vụ (tài chính, ngân
hàng, bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, y tế, giáo dục, thương
mại…), công nghiệp và xây dựng; giảm bớt nhân lực trong lĩnh vực nông
nghiệp (theo nghĩa rộng); đồng thời gia tăng NNL chất lượng cao ở tất cả các
lĩnh vực, kể cả nông nghiệp để phát triển nền nông nghiệp chất lượng cao.
Tình hình phát triển kinh tế theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH và HNQT vừa
là nhu cầu đòi hỏi NNL về số lượng, chất lượng và cơ cấu phù hợp với sự
dịch chuyển cơ cấu kinh tế; vừa tạo ra những điều kiện thuận lợi để nâng cao
chất lượng và cải thiện cơ cấu NNL, bao gồm cả việc gia tăng NNL chất
lượng cao.
23
Hai là, nhân tố chủ quan bao gồm:
Thứ nhất, việc thực hiện chính sách dân số của Thành phố.
Nguồn nhân lực ở Hà Nội bao gồm hai bộ phận: bộ phận dân cư của Hà
Nội cấu thành NNL và bộ phận thứ hai là bộ phận dân cư từ các địa phương
khác gia nhập NNL của Thủ đô do di chuyển cơ học; số này có xu hướng
ngày càng tăng. Số lượng, cơ cấu dân số là cơ sở cho sự hình thành và phát
triển NNL. Sự gia tăng dân số sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô của NNL.
Tốc độ dân số gia tăng càng cao thì độ tăng NNL càng nhanh và ngược lại.
Cùng với cả nước, thành phố Hà Nội thực hiện công tác Dân số - Kế
hoạch hóa gia đình với việc vận động “mỗi gia đình có 1 đến 2 con”. Việc
thực hiện công tác này liên quan đến mức tăng dân số tự nhiên trên địa bàn.
Bên cạnh đó, với tính chất đặc biệt của Thủ đô, Thành phố thực hiện chính
sách quản lý dân nhập cư theo quy định của Luật Thủ đô. Việc Thành phố
thắt chặt hay nới lỏng các chính sách này sẽ làm giảm hay tăng số lượng
NNL; đồng thời, cũng tác động đến cả chất lượng và cơ cấu NNL (nhất là cơ
cấu lứa tuổi, giới tính…) của địa phương. Mức tăng dân số, dù là tự nhiên hay
cơ học, nếu không được kiểm soát, không cân đối với sự phát triển của hạ
tầng KT - XH, sẽ dẫn đến sự quá tải cho lĩnh vực giáo dục – đào tạo, chăm
sóc y tế, cải thiện điều kiện sống (nhà ở, môi trường, hạ tầng KT - XH…); do
đó sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng NNL. Trong thời gian qua, công tác
Dân số - Kế hoạch hóa gia đình của Thành phố đạt được những kết quả rất
tích cực, nên tỷ lệ sinh đạt thấp so với cả nước, nhưng việc tăng dân số cơ học
vẫn tương đối cao, trong đó rất đáng chú ý là sự gia tăng số lao động phổ
thông chưa qua đào tạo, đến từ các tỉnh lân cận.
Thứ hai, việc quan tâm đầu tư cho giáo dục – đào tạo.
Một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng NNL là trình độ văn hoá
nói chung và trình độ chuyên môn nghiệp vụ nói riêng. Trình độ văn hoá nói
chung là nền tảng cho nhân lực tiếp thu các kiến thức khoa học, kỹ thuật, đào
24
tạo và tái đào tạo nghề nghiệp. Công tác giáo dục - đào tạo đóng vai trò quyết
định trong việc nâng cao trình độ dân trí và trình độ học vấn cho người lao
động. Việc quan tâm đầu tư cho giáo dục - đào tạo được thể hiện cả từ chủ
trương, chính sách đầu tư của chính quyền các cấp và của cả mỗi gia đình
sống trong Thành phố. Điều đó tác động đến số lượng NNL qua đào tạo và
trình độ chuyên môn, phẩm chất nghề nghiệp của người lao động. Theo đó,
việc đầu tư cho giáo dục - đào tạo không chỉ làm biến đổi về chất lượng NNL,
mà còn tác động đến sự biến đổi của cơ cấu NNL trong những thời kỳ lịch sử
cụ thể. Nếu sự đầu tư hướng mạnh vào lĩnh vực đào tạo đại học mà xem nhẹ
lĩnh vực dạy nghề, hay cơ cấu ngành nghề đào tạo không bám sát nhu cầu của
thị trường, sẽ dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, không phù hợp với
nhu cầu của thị trường lao động, làm gia tăng áp lực giải quyết việc làm. Với
truyền thống hiếu học, các gia đình ở thành phố Hà Nội, nhất ở các quận nội
thành, thường có mức đầu tư cho giáo dục - đào tạo khá cao, là điều kiện
thuận lợi để nâng cao chất lượng NNL của Thủ đô. Tuy nhiên, do tâm lý chỉ
muốn con em mình vào học đại học của đa số các gia đình ở Thành phố cũng
ảnh hưởng không tốt đến cơ cấu NNL của Thủ đô, khi tình trạng “thừa thầy,
thiếu thợ” đang diễn ra.
Thứ ba, việc đầu tư vào y tế, chăm sóc sức khỏe.
Mục tiêu đầu tư vào y tế, chăm sóc sức khỏe người dân là nhằm nâng
cao thể lực của người dân, một trong những yếu tố quy định chất lượng của
NNL. Cũng giống như lĩnh vực giáo dục - đào tạo, việc quan tâm đầu tư chăm
sóc sức khỏe người dân được thực hiện cả từ phía chính quyền các cấp lẫn của
từng tổ chức sử dụng lao động và bản thân từng người lao động, cùng gia đình
họ. Việc quan tâm đầu tư vào y tế, chăm sóc sức khỏe vừa tác động đến số
lượng NNL, vừa nâng cao về chất lượng NNL do sức khỏe, tuổi thọ của người
dân được nâng cao. Việc quan tâm đầu tư vào y tế, chăm sóc sức khỏe người
dân thể hiện rõ ở số lượng các cơ sở khám, chữa bệnh, số lượng cán bộ nhân
25
viên y tế, nhất là đội ngũ cán bộ y tế trình độ cao và chất lượng các hoạt động
phòng, chống các dịch bệnh ở địa phương, v.v.
Thứ tư, chính sách thu hút NNL chất lượng cao.
Chính sách này tác động chủ yếu đến nâng cao chất lượng NNL, song ở
mức độ nhất định cũng làm gia tăng về số lượng và cơ cấu NNL của địa
phương, do được bổ sung nhân lực chất lượng cao từ địa phương khác. Chính
sách này bao gồm các biện pháp ưu tiên trong tuyển chọn vào làm việc ở các
cơ quan, doanh nghiệp…, đãi ngộ bằng vật chất và tinh thần thông qua chế độ
tiền lương, tiền thưởng, hỗ trợ học tập, điều kiện sinh hoạt, tạo môi trường và
điều kiện làm việc phù hợp… đối với nhân lực chất lượng cao.
Thứ năm, sự nỗ lực của bản thân người lao động trong việc nâng cao
thể lực, trí lực và phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH của
Thủ đô.
Đây cũng là một nhân tố rất quan trọng, vì người lao động vừa là đối
tượng, vừa là chủ thể của quá trình phát triển NNL đáp ứng yêu cầu phát triển
của quốc gia, địa phương hay từng tổ chức.
Các nhân tố khách quan và chủ quan nêu trên luôn tồn tại trong mối quan
hệ với nhau và cùng tác động vào quá trình phát triển NNL của thành phố Hà
Nội; trong đó, nhân tố chủ quan gắn liền với sự quan tâm của các chủ thể đối
với việc phát triển NNL giữ vai trò quyết định.
*
*
*
Tóm lại, NNL là tổng hòa thể lực, trí lực, tâm lực tồn tại trong toàn bộ
lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, được vận dụng vào quá trình sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của xã
hội. Nó là bộ phận quan trọng trong dân số, là tiềm năng về sức lao động
trong một thời kỳ xác định của một quốc gia, đóng vai trò quyết định tạo ra
của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. NNL được xác định bằng số lượng,
26
chất lượng và cơ cấu sức lao động của bộ phận dân số có thể tham gia vào
hoạt động KT - XH.
Phát triển NNL ở thành phố Hà Nội là hoạt động thường xuyên của các
chủ thể (Thành ủy, Hội đồng nhân dân, UBND, các tổ chức chính trị, kinh tế,
văn hóa… và bản thân người lao động), nhằm tạo ra những điều kiện làm biến
đổi về số lượng, nâng cao về chất lượng, cải thiện về cơ cấu nguồn cung sức
lao động, cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH và HNQT của Thủ đô.
Quá trình phát triển NNL ở thành phố Hà Nội phụ thuộc vào nhiều
nhân tố khách quan và chủ quan; trong đó, các nhân tố chủ quan, nhất là việc
triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Thành phố về giáo dục đào tạo, y tế, thu hút NNL chất lượng cao… giữ vai trò quyết định.
27