Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Giáo dục ý thức chính trị của đoàn thanh niên từ thực tiễn quận hà đông, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ HUYỀN TRANG

GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA ĐOÀN THANH
NIÊN TỪ THỰC TIỄN QUẬN HÀ ĐÔNG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Nguyễn Thanh Hiền

HÀ NỘI, 2016

HÀ NỘI - năm


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ
Chính trị học “Giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên từ thực tiễn quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài
khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Hà Nội, ngày 25 tháng 7 năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Hoàng Thị Huyền Trang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH
TRỊ CHO ĐOÀN THANH NIÊN ......................................................................... 8
1.1. Quan niệm về giáo dục ............................................................................... 8
1.2. Quan niệm về Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ........................... 12
1.3 Quan niệm về ý thức chính trị và ý thức chính trị của Đoàn thanh niên ........... 14
1.4. Quan niệm về giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên ................. 19
1.5 Tiêu chí xác định ý thức chính trị của Đoàn thanh niên ............................ 23
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO ĐOÀN
THANH NIÊN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI. ........................... 31
2.1 Khái quát về Quận Hà Đông ...................................................................... 31
2.2. Khái quát về Đoàn thanh niên quận Hà Đông .......................................... 34
2.3 Thực trạng giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên quận Hà Đông ......... 40
Chương 3: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA ĐOÀN THANH NIÊN
QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................................................... 52
3.1. Đánh giá thực trạng................................................................................... 52
3.2. Những vấn đề đặt ra về giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên
quận Hà Đông hiện nay ................................................................................... 57
3.3. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ý thức
chính trị của Đoàn thanh niên quận Hà Đông hiện nay ................................... 59
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 66
PHỤ LỤC ............................................................................................................ 70



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐTN

Đoàn thanh niên

ĐVTN

Đoàn viên thanh niên

ĐV

Đoàn viên

CNCS

Chủ nghĩa cộng sản

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

HTCT

Hệ thống chính trị


PL

Phụ lục

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

TCCSĐ

Tổ chức cơ sở Đảng

Tr

Trang

TTBDCT

Trung tâm bồi dưỡng chính trị

TW

Trung ương

YTCT

Ý thức chính trị

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BIỂU

Biểu đồ 2.1: Bản đồ hiện trạng Quận Hà Đông .....

27

Biểu đồ 2.2: Biểu đồ thành phần thanh niên Quận Hà Đông

30

Biểu đồ 2.3: Biểu đồ trình độ chuyên môn Đoàn thanh niên quận Hà Đông

31

Biểu đồ 2.4: Trình độ LLCT Đoàn thanh niên quận Hà Đông....

31

Biểu đồ 2.5: Biểu đồ hệ thống giáo dục ý thức chính trị cho Đoàn viên thanh niên Quận
Hà Đông

41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một

đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Câu nói đó của Bác
Hồ đã khẳng định niềm tin vào thế hệ trẻ trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người đã căn dặn: "Bồi dưỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết",
"Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành
những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng", vừa "chuyên".
Quán triệt tư tưởng của Người, từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn đề cao vai
trò, vị trí của thanh niên, xác định thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng,
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự bị tin cậy của Đảng; công tác
thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành TW Đảng khoá
VII đã chỉ rõ: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, cách mạng Việt
Nam có vững bước theo con đường XHCN hay không, phần lớn tuỳ thuộc vào
lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Công tác
thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) tiếp tục khẳng định: “Đối với thế
hệ trẻ, chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm,
phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Vì vậy, quan tâm, giáo dục, bồi dưỡng Đoàn thanh niên luôn là một trong
những nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành mở cửa, hội nhập thực hiện công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thuận lợi
nhưng cũng không ít thách thức đang đặt ra. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch ngày càng ráo riết chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn,
1



âm mưu thâm độc, cùng với nó là sự ảnh hưởng của mặt trái thị trường và các
trào lưu văn hóa phi vô sản đang tác động từng ngày từng giờ đến Đoàn thanh
niên. Tất cả những mặt trái đó làm cho một bộ phận thanh niên sống thiếu lý
tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm tới tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp
hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc. Học vấn
của một bộ phận thanh niên nhất là thanh niên nông thôn, thanh niên dân tộc
thiểu số còn thấp; nhiều thanh niên thiếu kiến thức và kỹ năng trong hội nhập
quốc tế. Tính độc lập, chủ động, sáng tạo, năng lực thực hành sau đào tạo của
thanh niên còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Tình
trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh niên gia tăng và diễn biến ngày càng
phức tạp.
Trong bối cảnh như vậy, việc không ngừng bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng cho Đoàn thanh niên nói chung và giáo dục ý thức chính trị nói riêng
cho đội ngũ này là nhiệm vụ quan trọng đặt lên hàng đầu, có ý nghĩa chính trị
lớn lao và mang tính cấp bách hiện nay. Ý thức chính trị đúng đắn sẽ quyết định
đến phẩm chất đạo đức, đến phương châm hành động của họ. Có ý thức chính trị
đúng thì những hành vi của Đoàn thanh niên mang tính tự giác, tránh được sai
lầm trong các hoạt động, mang lại hiệu quả cao trong công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước.
Hà Đông là một quận mới được thành lập khi Hà Nội mở rộng địa giới
hành chính. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Quận Hà Đông có nhiều
khác biệt trên nhiều phương diện so với thị xã Hà Đông của tỉnh Hà Tây (cũ).
Nhiệm vụ đặt ra đối với Đoàn thanh niên quận Hà Đông hiện nay có nhiều điểm
mới mẻ, phức tạp và nặng nề hơn trước. Do đó, đòi hỏi Đoàn thanh niên của
quận cần phải cố gắng tích cực và nỗ lực hơn nữa, đặc biệt là việc không ngừng
giáo dục ý thức chính trị.
Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề: “Giáo dục ý thức chính trị của Đoàn
thanh niên từ thực tiễn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học với hy vọng có thể góp phần đánh giá thực
2



trạng và qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao giáo dục ý
thức chính trị của Đoàn thanh niên quận Hà Đông hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nguồn tài liệu liên quan đến chủ đề nghiên cứu khá đa dạng, phong phú và
có thể chia thành các nhóm như sau:
* Nhóm các tác phẩm lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, các luật, Văn kiện, Nghị định, Nghị quyết…
* Nhóm các công trình khoa học liên quan đến đề tài:
Đây là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng. Có thể kể đến các công trình:
- "Giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội cho thanh niên ở nước ta hiện nay"
của Lương Thị Hường, Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học, năm 2016.
- "Giáo dục chính trị tư tưởng cho chiến sỹ nghĩa vụ từ thực tiễn Trung tâm
huấn luyện công an tỉnh Hòa Bình", của Nguyễn Phương Thanh, Luận văn Thạc
sỹ Chính trị học, năm 2016.
-“Giáo dục ý thức chính trị cho cán bộ Hội liên hiệp phụ nữ thành phố Hà
Nội hiện nay” của Nguyễn Thị Loan, Luận văn Thạc sỹ Triết học, năm 2009.
- “Vấn đề giáo dục ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa cho Đoàn viên thanh
niên ở tỉnh Hải Dương hiện nay” của Trần Thị Ngọc Yến, Luận văn Thạc sỹ
Triết học, năm 2012.
* Nhóm các công trình nghiên cứu đã công bố trong sách, tạp chí:
- Cuốn sách “Ý thức chính trị của công nhân trong một số doanh nghiệp ở
Hà Nội hiện nay” do PGS, TS Phan Thanh Khôi chủ biên, xuất bản năm 2003.
- Cuốn sách "Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau" của Trần Quy Nhơn, Nxb Giáo dục, Hà Nội (2006).
- Bài viết của Nguyễn Khắc Thanh, Nguyễn Văn Hiếu (Học viện CSND),
đăng trên Tạp chí Cảnh sát nhân dân số 4/2014 đã nhấn mạnh “Một số biện
pháp nhằm giáo dục chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đoàn
viên, thanh niên Học viện Cảnh sát nhân dân”.

- PGS. TS Vũ Quang Hiển và Ths. Hồ Thị Liên Hương của Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội có bài viết “Đảng với
3


công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đoàn viên, thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Trích trong “Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh - Những chặng đường phát triển”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014.
* Nhóm các công trình điều tra các số liệu liên quan đến đề tài:
Đây là nhóm tài liệu được coi là cơ sở để chúng tôi đánh giá thực trạng
thực hiện ý thức chính trị của Đoàn thanh niên nói chung. Qua đó có những
đánh giá khách quan đến ý thức chính trị của Đoàn viên thanh niên hiện nay.
Trong nhóm này phải kể đến đó là 2 cuộc điều tra về vị thành niên và thanh niên
Việt Nam do Bộ Y tế và Tổng cục Thống kê thực hiện dưới sự hỗ trợ về kỹ thuật
và tài chính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
(UNICEF). Cuộc điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm
2003 (SAVY 1) "là cuộc điều tra lần đầu tiên được tiến hành trên quy mô toàn
quốc tại 42 tỉnh thành. Điều tra đã tiến hành trên 7.584 thanh thiếu niên trong độ
tuổi từ 14 đến 25 tuổi" [9,tr 9]. SAVY 2 "có sự mở rộng về diện bao trùm và cỡ
mẫu, sử dụng dàn mẫu hộ gia đình của Tổng cục Thống kê, cuộc điều tra được
tiến hành với 10.044 vị thành niên và thanh niên trong độ tuổi từ 14-25 sống
trong gia đình ở 63 tỉnh thành trên toàn quốc. SAVY 2 được phổ biến kết quả và
tháng 6 năm 2010" [10,tr2].
Cùng với 2 cuộc điều tra trên là Báo cáo Quốc gia về thanh niên Việt Nam
tháng 6 năm 2015. "Báo cáo sử dụng các số liệu thứ cấp từ các cuộc điều tra
quốc gia trong những năm gần đây để đưa ra các chỉ số định lượng và phân tích
định tính về thực trạng giáo dục, việc làm và chăm sóc sức khỏe cho thanh niên
và sự tham gia của thanh niên trong việc xây dựng và thực thi chính sách trong
các lĩnh vực này" [8,tr 3].
Cá nhân tác giả có thực hiện cuộc điều tra quy mô nhỏ khoảng 500 phiếu

điều tra về công tác giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên quận Hà
Đông tại một số trường, phường và cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn Quận Hà
Đông. Ngoài ra tác giả còn tham khảo một số bài viết trên Internet về các vấn đề
4


thanh niên và giáo dục ý thức chính trị Đoàn thanh niên. Đây là những tư liệu
tham khảo giúp cá nhân tác giả có cái nhìn đa diện hơn khi nghiên cứu đề tài.
Như vậy, nhìn tổng quan có thể nói vấn đề giáo dục ý thức chính trị của
Đoàn thanh niên được đề cập đến từ khá lâu, được thể hiện trong các bài viết,
bài phát biểu của các nhà chính trị cũng như giới nghiên cứu. Tuy nhiên, có thể
khẳng định rằng, cho tới nay chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu
nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ và có hệ thống về thực trạng, cũng như nêu
ra những quan điểm, giải pháp giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Trong luận văn này chúng tôi sẽ tập trung
nghiên cứu vấn đề giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên từ thực tiễn
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Hy vọng rằng những vấn đề và những giải
pháp mà chúng tôi nêu ra sẽ góp phần tích cực vào việc củng cố, giáo dục ý thức
chính trị của Đoàn thanh niên quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, từ đó góp phần
thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" mà
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ thực trạng và sự cần thiết phải giáo dục ý thức chính trị
cho Đoàn thanh niên quận Hà Đông, xác định những vấn đề đặt ra từ thực trạng
đó và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa
chất lượng công tác giáo dục ý thức chính trị cho Đoàn thanh niên quận Hà
Đông trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ:
Một là, làm rõ một số khái niệm như "Giáo dục", "Ý thức chính trị", "
Giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên"...

Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục ý thức chính trị của Đoàn
thanh niên quận Hà Đông, chỉ ra thành công, tồn tại, thuận lợi, khó khăn và triển
vọng của công tác này.
Ba là, nêu những quan điểm, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên quận Hà Đông.
5


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu công tác giáo dục ý thức chính trị của
Đoàn thanh niên quận Hà Đông trong đó sẽ tập trung nghiên cứu các chủ thể
giáo dục, mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức, phương
tiện giáo dục và nhất là đối tượng giáo dục đó là các Đoàn viên thanh niên trên
địa bàn Quận Hà Đông.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đề tài đi sâu nghiên cứu giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên
trong địa bàn Quận Hà Đông chủ yếu từ năm 2008 đến nay (thời điểm hợp nhất
Hà Nội và Hà Tây)
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trước hết, Luận văn sử dụng các phương pháp chính trị học, xã hội học và
phương pháp nghiên cứu liên ngành để thực hiện Luận văn này. Đồng thời, Luận
văn còn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội như
phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, logic - lịch sử, phương pháp thu thập
tài liệu, thảo luận, trao đổi, so sánh, hệ thống hóa, thống kê…
Để có thêm luận cứ thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài, tác giả đã chú
trọng đến phương pháp điều tra xã hội học. Trong điều kiện, khả năng nghiên
cứu có hạn và thời gian cũng bị hạn chế, tác giả mới chỉ có thể thực hiện điều tra
xã hội học ở một số trường, phường và cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn Quận
Hà Đông. Vì vậy, đề tài sử dụng những số liệu thống kê trong SAVY 1, SAVY
2, bản tổng hợp điều tra xã hội học và báo cáo của Quận Đoàn Hà Đông từ năm

2008.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm một số nội dung lý luận về
giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên nói chung và của Đoàn thanh niên
quận Hà Đông nói riêng, từ đó khẳng định sự cần thiết phải thực hiện công tác
này ở nước ta.
Ý nghĩa thực tiễn: Từ thực tiễn của quận Hà Đông, Luận văn chỉ ra thực
trạng giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên trong quận, nêu lên một số
6


giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục ý thức chính trị của Đoàn
thanh niên quận Hà Đông hiện nay, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho
công tác này ở các địa phương và ở quy mô quốc gia.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết
cấu của Luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giáo dục ý thức chính trị cho Đoàn
thanh niên.
Chương 2: Thực trạng giáo dục ý thức chính trị cho Đoàn thanh niên quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Đánh giá thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục ý
thức chính trị cho Đoàn thanh niên quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO
ĐOÀN THANH NIÊN

1.1. Quan niệm về giáo dục
1.1.1 Khái niệm
Trong Từ điển Tiếng Việt, với danh nghĩa là danh từ, giáo dục được hiểu là
hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy - giáo dục của một nước.
Với danh nghĩa là một động từ, giáo dục được hiểu là "hoạt động nhằm tác
động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối
tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng
lực như yêu cầu đặt ra" [22,tr.415].
Trong giáo trình Giáo dục học đại cương, NXB Giáo dục, Hà Nội 2005, tác
giả Hà Thị Đức đã nêu ra một số cách khiểu khác nhau về giáo dục:
Giáo dục (theo nghĩa rộng): là quá trình toàn vẹn nhằm hình thành, phát
triển nhân cách con người, được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch
thông qua hoạt động và các quan hệ giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục
nhằm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội mà loại người đã tích lũy
trong lịch sử [21,tr.9].
Giáo dục (theo nghĩa hẹp): là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, động
cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách của nhân cách, những hành vị, thói
quen, những hành vi và thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội thuộc các lĩnh
vực tư tưởng - chính trị, đạo đức, lao động, thẩm mỹ và thể chất cho học sinh
[21,tr.9].
Trong phạm vi luận văn này, cá nhân tác giả đề cập đến giáo dục theo
nghĩa rộng nhất, phạm vi rộng nhất, nghĩa là giáo dục từ không chính quy đến
chính quy, giáo dục từ trong gia đình đến giáo dục trong nhà trường và giáo dục
trong xã hội. Giáo dục là một quá trình hành động phối hợp, thống nhất giữa chủ
thể - nhà giáo dục và đối tượng – người được giáo dục nhằm hình thành và phát
triển nhân cách con người theo những yêu cầu của xã hội trong những giai đoạn
lịch sử nhất định. Giáo dục là quá trình có mục đích, có kế hoạch mà chủ thể
8



giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành nhân cách cho đối
tượng ấy. Chủ thể giáo dục nhằm hình thành nhân cách cho đối tượng ấy. Chủ
thể giáo dục có thể là bản thân đối tượng giáo dục. Khi đó giáo dục là tự giáo
dục.
1.1.2 Các hình thức giáo dục
Căn cứ vào phạm vi, giáo dục được chia thành giáo dục trong gia đình, giáo
dục trong nhà trường và giáo dục trong xã hội.
Chia sẻ với quan điểm của tác giả đề tài nghiên cứu "Giáo dục ý thức trách
nhiệm xã hội cho thanh niên ở nước ta hiện nay" của Lương Thị Hường, Luận
văn Thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học, năm 2016 [32], chúng tôi nhận thấy:
Giáo dục trong gia đình có vai trò quan trọng bậc nhất của cá nhân ngay từ
khi còn nhỏ, đây là nhóm xã hội đầu tiên và gắn bó suốt đời của mỗi người, là
môi trường chính yếu hình thành nên nhân cách của cá nhân. Giáo dục con cái
trong gia đình không phải chỉ là việc của bố mẹ, mà còn là trách nhiệm đạo đức
và nghĩa vụ công dân của những người làm cha mẹ. Tại gia đình, trẻ được nuôi
dưỡng, chăm sóc và được dạy bảo những điều đầu tiên, sơ đẳng để sống làm
người. Bố mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên đối với trẻ. Ngay cả những điều
mà cha mẹ không chủ ý truyền dạy cho con, nhưng trẻ quan sát được hàng ngày
thì cũng sẽ rất tự nhiên ngấm vào trẻ và được chúng lặp lại, học theo. Sự giáo
dục trong gia đình quan trọng nhất đó là làm gương. Giáo dục trong gia đình
được lồng ghép trong các hoạt động sống của gia đình, khi tham gia học chơi
cùng con, bố mẹ có thể trang bị cho con những kiến thức, kỹ năng sống cần thiết
cho trẻ như: tinh thần đoàn kết, yêu thương con người, sống có trách
nhiệm...những phẩm chất đó đều được hình thành và vun đắp từ trong gia đình.
Nếu ngay từ khi còn nhỏ, học sinh đã học được cách cư xử, lối học tập, làm việc
có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và tập thể thì khi bước vào tuổi thanh
niên, đặc biệt là ở thời trung học phổ thông, thời điểm về mặt sinh lý cơ thể cũng
như đời sống tâm lý của cá nhân có những biến đổi rất mạnh mẽ, cách cư xử ấy
sẽ trở thành lối sống, nhân cách sống. Mỗi cá nhân là một sản phẩm của sự giáo
dục trong gia đình.

9


Tuy nhiên, mức độ và tính chất tác động của giáo dục trong gia đình đối
với cá nhân trong mỗi giai đoạn cuộc sống đều có những khác biệt. Càng trưởng
thành, sự tác động của giáo dục trong gia đình càng giảm dần và sự tiếp nhận
cũng có chọn lọc hơn.
Hình thức giáo dục khác rất quan trọng là giáo dục trong nhà trường. Nhà
trường là một tổ chức chuyên biệt đối với công tác giáo dục, được sự lãnh đạo
trực tiếp của Đảng và Nhà nước, nắm vững quan điểm, đường lối, mục tiêu bồi
dưỡng đào tạo con người xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, nhà trường luôn luôn có
đội ngũ thầy cô giáo - những chuyên gia sư phạm có trình độ, năng lực, đạo
đức...đã được đào tạo có hệ thống, đã được tuyển chọn kỹ càng. Giáo dục nhà
trường trong mọi thời đại có chức năng cơ bản là truyền thụ tri thức văn hóa, mở
mang trí tuệ cho học sinh. Kho tàng tri thức văn hóa đó từ bao thế hệ đúc kết lại.
Giáo dục trong nhà trường vạch ra kế hoạch và phương pháp bù đắp những
thiếu hụt, hạn chế do các yếu tố bẩm sinh - di truyền hoặc hoàn cảnh gây nên,
nhằm xây dựng những nhân cách hoàn thiện nhất có thể. Nhà trường có thể phát
huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân
cách và uốn nắn những sai lệch theo đúng hướng mong muốn của xã hội. Hơn
thế, giáo dục trong nhà trường có thể đi trước, đón đầu sự phát triển để "hoạch
định nhân cách trong tương lai" phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Cuối cùng, cần bàn đến hình thức giáo dục nữa là giáo dục trong xã hội.
Những tri thức văn hóa cơ bản, thông qua hoạt động thực tiễn của môi trường xã
hội mà thế giới quan khoa học và nhân sinh quan biện chứng của cá nhân được
hình thành và phát triển một cách vững vàng. Đời sống xã hội sẽ tạo ra những
điều kiện mà trong mỗi nhà trường không thể có được. Xã hội chính là môi
trường tốt để thử thách đối với mỗi cá nhân.
Trong sự phát triển nguồn nhân lực cho đất nước đang đổi mới hiện nay, rõ
ràng nổi lên yêu cầu cấp bách là nâng cao chất lượng người lao dộng, đào tạo

nhân tài, đào tạo con người có nhân cách phù hợp với xã hội mới. Để hình thành
được những con người như vậy cần có sự kết hợp nhịp nhàng đồng bộ và hỗ trợ
giữa ba môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường và xã hội, tác động mạnh vào
10


việc phát triển nhân cách toàn diện cho mỗi con người. Muốn tạo ra mối liên kết
chặt chẽ đó, nhà trường cần phải phát huy vai trò trung tâm, tổ chức phối hợp
dẫn dắt nội dung, phương pháp giáo dục của gia đình và các lực lượng trong xã
hội.
Việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội đối với việc giáo dục đã
trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Sự phối hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục trên, trước là để đảm bảo sự thống
nhất trong nhận thức cũng như trong hoạt động giáo dục cùng một hướng, một
mục đích, một tác động tổ hợp, đồng tâm tạo sức mạnh kích thích, thúc đẩy quá
trình phát triển nhân cách con người, tránh sự tách rời mâu thuẫn, vô hiệu hóa
lẫn nhau gây cho cá nhân tâm trạng nghi ngờ, hoang mang, dao động trong việc
lựa chọn, định hướng các giá trị tốt đẹp của nhân cách. Sự phối hợp gia đình,
nhà trường, xã hội có thể diễn ra dưới nhiều hình thức. Vấn đề cơ bản hàng đầu
là tất cả các lực lượng giáo dục phải phát huy tinh thần trách nhiệm, chủ động
tạo ra những mối quan hệ phối hợp vì mục tiêu giáo dục đào tạo thế hệ trẻ thành
những người công dân hữu ích cho đất nước.
Ý nghĩa sâu sắc của việc phối hợp giáo dục đã được Bác Hồ chỉ ra "giáo
dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và
trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo
dục trong nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và
ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn" [30,tr 591]
Căn cứ theo tính chất, người ta chia giáo dục thành hai loại là giáo dục và
tự giáo dục. Đây là hai mặt của một vấn đề. Giáo dục muốn phát huy tác dụng
cũng phải thông qua khâu tự giáo dục, và tự giáo dục muốn có chất lượng và

hiệu quả thì phải dựa trên nền tảng giáo dục. Triết học giáo dục phương Đông
truyền thống quan niệm rằng: Muốn thực hiện tốt việc giáo dục người, trước hết
phải tự giáo dục chính bản thân mình, lấy mình ra làm mẫu cho mọi người noi
theo. Nếu xét về bản chất, giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu những
kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người thì tự giáo dục chính là quá
trình chủ thể đồng thời thực hiện cả quá trình truyền đạt cũng như tiếp thu
11


những tri thức lịch sử xã hội dựa trên chính kinh nghiệm, tri thức của cá nhân.
Trong tất cả các phương thức giáo dục, tự giáo dục là con đường tốt nhất để phát
triển và hoàn thiện bản thân cũng như khai thác tối đa tài năng của mỗi người.
Trong phạm vi luận văn này chúng tôi đề cập đến giáo dục trong gia đình,
nhà trường, xã hội và cả quá trình tự giáo dục.
1.2. Quan niệm về Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
1.2.1 Khái niệm:
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Đoàn TNCS Hồ Chí Minh) là tổ
chức chính trị - xã hội của thanh niên Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện.
Đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là thanh niên Việt Nam tiên tiến,
phấn đấu vì lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, có
tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc; có lối sống lành mạnh, cần kiệm, trung
thực; tích cực, gương mẫu trong học tập, lao động, hoạt động xã hội và bảo vệ
Tổ quốc, gắn bó mật thiết với thanh niên; chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của
Nhà nước và Điều lệ Đoàn [44].
Thanh niên Việt Nam tuổi từ 16 đến 30, tích cực học tập, lao động và bảo
vệ Tổ quốc, được tìm hiểu về Đoàn và tán thành Điều lệ Đoàn, tự nguyện hoạt
động trong một tổ chức cơ sở của Đoàn, có lý lịch rõ ràng đều được xét kết nạp
vào Đoàn. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thành lập ngày 26/3/1931.
1.2.2 Tính chất của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:

- Tính chính trị:
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Mục đích lý tưởng của Đoàn là phấn
đấu theo mục đích lý tưởng của Đảng. Đoàn là người kế tục trung thành sự
nghiệp cách mạng của Đảng; là đội dự bị tin cậy của Đảng và là tổ chức chính
trị gần Đảng nhất. Đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên, là tổ
chức cộng sản trẻ tuổi, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Tính tiên tiến:
12


Tính chất này thể hiện ranh giới để phân biệt đoàn viên và thanh niên, giữa
tổ chức Đoàn với các tổ chức khác của thanh niên; thể hiện bản chất, tư tưởng
của Đoàn, đó là vai trò của một đội quân xung kích cách mạng.
- Tính quần chúng:
Đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên. Đoàn có nhiệm vụ
đoàn kết tập hợp rộng rãi các tầng lớp thanh niên để giáo dục rèn luyện thanh
niên tiến bộ trưởng thành và tổ chức các phong trào hành động cách mạng trong
thanh niên.
1.2.3 Vị trí, vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là thành viên trong hệ thống chính trị, hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo,
Đoàn là một trong các tổ chức thành viên.
- Đối với Đảng: Đoàn hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, là đội
dự bị tin cậy của Đảng, nguồn cung cấp cán bộ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị
của Đảng.
- Đối với Nhà nước: Đoàn là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đoàn phối hợp với các cơ quan nhà nước, các đoàn thể và các tổ chức xã hội
chăm lo giáo dục, đào tạo và bảo vệ thanh niên.
- Đối với các tổ chức xã hội của thanh niên và phong trào thanh niên:
Đoàn giữ vai trò làm nòng cốt chính trị trong việc xây dựng tổ chức và hoạt
động của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Đoàn viên thanh niên Việt
Nam và các thành viên khác của Hội.
- Đối với Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh: Đoàn giữ vai trò là
người phụ trách xây dựng tổ chức Đội, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm
công tác thiếu nhi; tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tài chính cho hoạt động của
Đội.
13


1.2.4 Chức năng của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh:
Đoàn là đội dự bị tin cậy của Đảng Cộng sản Việt Nam, bổ sung đảng viên,
cán bộ cho Đảng, Nhà nước và các ngành. Đoàn luôn xác định nhiệm vụ của
mình là tích cực tham gia xây dựng Đảng và là người kế tục trung thành sự
nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh; là đội quân
xung kích thực hiện đường lối chính trị của Đảng.
Đoàn là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên Việt Nam; tạo môi
trường đưa thanh niên vào các hoạt động giúp họ rèn luyện và phát triển nhân
cách, năng lực của người lao động mới phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện nay.
Đoàn là người đại diện chăm lo và bảo vệ quyền lợi của tuổi trẻ. Chức năng
này khẳng định rõ tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh là tổ chức của thanh niên,
vì thanh niên.
1.3 Quan niệm về ý thức chính trị và ý thức chính trị của Đoàn thanh niên
1.3.1 Ý thức chính trị
- Ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ý thức là sự phản ánh thế giới
xung quanh vào bộ não con người. C.Mác gọi, ý thức, ý niệm là hiện thực khách

quan đã được di chuyển vào bộ não con người và được cải biến đi trong đó. Do
vậy, người ta coi ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức xã
hội bao gồm tình cảm, tập quán, tâm trạng, truyền thống, quan điểm, tư tưởng,
lý luận .... của cộng đồng xã hội, được nảy sinh từ tồn tại xã hội, phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn nhất định.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Ý thức xã hội là sự phản ánh của
tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội như thế nào, ý thức xã
hội như thế ấy. Khi tồn tại xã hội biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội,
quan điểm về chính trị, đạo đức, pháp quyền ... sớm muộn cũng biến đổi theo.
C.Mác viết:" không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại,
tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ" [51, tr.15]. Tuy nhiên, ý thức xã
hội cũng có tính độc lập tương đối.
14


Ý thức của con người ở đây chủ yếu là muốn nói đến ý thức của một cộng
đồng. Nói cách khác là ý thức của con người nói chung chứ không nhấn mạnh ý
thức của một cá nhân này hay một cá nhân khác tách khỏi cộng đồng. V.I.Lênin
nói: ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội và vẫn là vậy chừng nào con
người còn tồn tại. Như vậy, là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội, xét về
bản chất, ý thức có tính xã hội.
Ý thức xã hội của mỗi thời đại, mỗi giai cấp vừa phản ánh tồn tại xã hội
của thời đại đó vừa tiếp thu những tư tưởng, quan niệm của các thời đại trước,
các giai cấp ở các thế hệ trước để lại. Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội
mang tính giai cấp. Các giai cấp có địa vị kinh tế xã hội khác nhau, lợi ích giai
cấp khác nhau nên ý thức xã hội cũng khác nhau, thậm chí đối kháng nhau,
nhưng chúng lại có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, tư tưởng của giai cấp
này có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của giai cấp khác. Trong đó, tư
tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị ở
thời đại đó.

Dó đó, nghiên cứu ý thức xã hội cần gắn với tồn tại xã hội, với cơ sở tồn
tại xã hội sinh ra nó; đặt trong điều kiện giai đoạn lịch sử cụ thể để nghiên cứu;
không tách rời ý thức xã hội với tồn tại xã hội. Đây là cơ sở để có cách tiếp cận
đi vào nghiên cứu ý thức chính trị của Đoàn thanh niên.
Ý thức xã hội tiếp cận dưới góc độ trình độ phản ánh có các cấp độ: ý thức
xã hội thông thường và ý thức lý luận; tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Tiếp
cận ở góc độ phản ánh tồn tại xã hội thì có các hình thái ý thức xã hội như: ý
thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức tôn giáo, ý thức đạo đức… Như vậy ý
thức chính trị chỉ là biểu hiện một lĩnh vực phản ánh của ý thức xã hội đối với
tồn tại xã hội.
- Chính trị:
Chính trị là hiện tượng có tính lịch sử, xuất hiện trên nền tảng phát triển
của xã hội loài người, mà cụ thể là trên cơ sở của trình độ sản xuất của con
người, gắn liền với sự xuất hiện giai cấp, nhà nước và đồng thời cũng đánh dấu
giai đoạn văn minh của con người.
15


Từ khi xuất hiện, chính trị đã có vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống
xã hội. Ngay từ thời cổ đại cho đến sau này đã có nhiều nhà tư tưởng lớn giành
thời gian công sức nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ bản chất của chính trị. Nhưng
chỉ đến khi xuất hiện chủ nghĩa Mác - Lênin, thì bản chất của chính trị mới được
nêu lên một cách đầy đủ trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Theo V.I.Lênin: "Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà
nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định hình thức, nhiệm vụ,
nội dung hoạt động của nhà nước" [59, tr.404]. Như vậy cái quan trọng nhất
trong chính trị, theo V.I.Lênin là " tổ chức chính quyền nhà nước", chính trị là
mối quan hệ giữa các giai cấp và các cộng đồng xã hội về vấn đề nhà nước; là sự
tham gia của nhân dân vào các công việc của nhà nước; là tổng hợp những
phương thức, những mục tiêu được quy định bởi lợi ích cơ bản của giai cấp, của

đảng phái; là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái, các nhà nước
để thực hiện đường lối đã lựa chọn nhằm đạt mục tiêu đề ra. Bất kỳ xã hội có
giai cấp nào cũng mang tính chính trị vì việc giải quyết vấn đề chính trị trực tiếp
hay gián tiếp đều gắn với lợi ích giai cấp với vấn đề quyền lực.
Trung tâm của đời sống chính trị là quyền lực chính trị. Theo C.Mác và
Ph.Ăngghen: " Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ
chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác" [48, tr.628]. Quyền lực
chính trị nói lên thực chất hoạt động chính trị của mọi giai cấp, mọi đảng phái
trong xã hội có giai cấp. Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được tổ
chức thành nhà nước.
Chính trị là một lĩnh vực hoạt động bao trùm, thâm nhập vào các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đặc biệt trong kinh tế, tư tưởng, văn hóa, khoa học, nghệ
thuật. Trong xã hội còn giai cấp, còn chính trị thì chính trị lôi cuốn tất cả các
thành viên trong xã hội vào các hoạt động xã hội, không có thể "đứng ngoài
chính trị".
Chính trị thực chất là quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã
hội, các quốc gia dân tộc. Trong đó, trước hết cơ bản là lợi ích kinh tế, C.Mác và
Ph.Ăngghen viết: " ... tất cả các cuộc đấu tranh chính trị đều là đấu tranh giai
16


cấp, dù hình thức chính trị tất yếu của chúng là thế nào đi nữa, ... xét đến cùng,
đều xoay quanh vấn đề giải quyết kinh tế" [54, tr.441]. V.I.Lênin cho rằng:
"Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế ... Chính trị không thể không
chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế" [61, tr.349].
Như vậy, C.Mác - Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều khẳng định sự hình thành,
tồn tại và phát triển của chính trị là trên cơ sở những đòi hỏi khách quan của sự
phát triển kinh tế, của thực trạng kinh tế, của sự liên hệ những lợi ích kinh tế cơ
bản của các giai cấp, tầng lớp khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
thông qua hoạt động chính trị của mình để giải quyết những vấn đề kinh tế, tạo

điều kiện môi trường và bảo hộ cho hoạt động kinh tế.
- Ý thức chính trị:
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin về ý
thức, ý thức xã hội và chính trị có thể rút ra những dấu hiệu bản chất trong nội
hàm của ý thức chính trị như sau:
Trước hết, là quan hệ giữa các giai cấp trong vấn đề giành, giữ và sử dụng
quyền lực nhà nước. Do đó, ý thức chính trị, điều đầu tiên cần kể đến, là những
hiểu biết, những nhận thức của một giai cấp nhất định về địa vị lịch sử, về
đường lối, chiến lược, sách lược và những nhiệm vụ của giai cấp mình trong sự
phát triển của lịch sử. Bên cạnh đó, ý thức chính trị còn thể hiện ở quan điểm
giải quyết mối quan hệ giữa các lợi ích chính trị mà các giai cấp, tầng lớp xã hội
đó đang theo đuổi; sự liên minh giai cấp, đấu tranh và hợp tác giữa các giai cấp,
tầng lớp vì những yêu cầu nhất định...
Ý thức chính trị rất phong phú, V.I.Lênin đã từng nói, chính trị là sự tham
gia vào các công việc của nhà nước, là chỉ đạo nhà nước, là xác định những hình
thức, những nhiệm vụ và nội dung hoạt động của nhà nước, vì thế ý thức chính
trị còn là sự nhận thức về nhà nước, về mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước và sự
tham gia của chủ thể vào hoạt động của nhà nước đó. Nhưng nhà nước lại luôn
là của một giai cấp nhất định, bị chi phối trực tiếp của một đảng phái nào đó.
Bên cạnh đảng cầm quyền còn có những đảng phái khác (cả đối lập và không
đối lập). Mọi quan hệ giữa các đảng phái ấy, đấy là chính trị. Đương nhiên, đảng
17


cầm quyền bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của mỗi nước,
chi phối các hoạt động của nhà nước. Do đó, đồng thời với việc nhìn nhận nhà
nước, ý thức chính trị còn là thái độ đối với hoạt động của các đảng phái.
Ý thức chính trị thể hiện một cách nhạy cảm nhất ở nhu cầu và lợi ích
chính trị. Ý thức chính trị cao hay thấp của một chủ thể nào đó được nhận thấy
thông qua sự nhận thức về nhu cầu chính trị đến đâu, chính đáng hay không

chính đáng và lợi ích chính trị đáp ứng nhu cầu đó nhiều ít ra sao.
Ý thức chính trị gắn trực tiếp và bị quyết định bởi vấn đề kinh tế. Tuy
nhiên, chính trị và ý thức chính trị không phải là hậu quả tiêu cực của kinh tế mà
có tác động trở lại đối với kinh tế. Nếu như không có một đường lối chính trị
đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ vững được sự thống trị
chính trị của mình và cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ kinh tế.
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội, bên cạnh và bị tác động
qua lại của những hình thái ý thức xã hội khác như: ý thức pháp quyền, ý thức
đạo đức, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo ... Nhưng trong tổng thể của ý thức xã
hội thì ý thức chính trị có tầm quan trọng đặc biệt, nó quyết định đến xu hướng
và bản chất của các hình thái ý thức xã hội khác.
Xét theo trình độ phát triển, ý thức chính trị cũng như các hình thái ý thức
xã hội khác, có hai cấp độ chính là ý thức chính trị thông thường và ý thức chính
trị lý luận.
Xét theo chủ thể, thì ý thức chính trị gồm: ý thức chính trị cộng đồng (xã
hội, giai cấp, tầng lớp ...) và ý thức chính trị cá nhân.
Những vấn đề nêu trên, cho thấy sự phong phú của đời sống chính trị xã
hội, cũng chỉ ra rằng, có thể nhận biết được ý thức chính trị của cộng đồng nào
đó thông qua tìm hiểu một cách tổng hợp những biểu hiện của ý thức này trong
thực tiễn.
Như vậy, giai cấp, tầng lớp nào cũng có ý thức chính trị. Trong xã hội có
nhiều giai cấp, tầng lớp sẽ có nhiều loại ý thức chính trị tương ứng. Nhưng
không phải ý thức chính trị của giai cấp nào cũng đã vươn tới được tầm lý luận,
hơn nữa là hệ tư tưởng chính trị. Chỉ có những giai cấp có khả năng đại biểu cho
18


một phương thức sản xuất mới, một hình thái kinh tế - xã hội mới, mới có điều
kiện hình thành hệ tư tưởng chính trị dưới dạng một học thuyết.
Trên cơ sở khái quát những dấu hiệu bản chất trong nội hàm ý thức chính

trị nêu trên, có thể đồng tình với quan niệm về ý thức chính trị của một giai cấp
như tác giả một cuốn sách như sau: Ý thức chính trị của một giai cấp được hiểu
là thái độ đối với các thể chính trị (nhà nước, đảng phái, ...); là nhận thức về
những nội dung chính trị quan trọng (chế độ chính trị, đường lối, chính sách...
phát triển quốc gia); là sự hiểu biết về mình với tính cách là một giai cấp trong
mối quan hệ với các giai cấp - tầng lớp cơ bản (kẻ thù, bạn, đồng minh ...), dân
tộc .. nảy sinh trong quá trình xây dựng chế độ chính trị của một đất nước.
1.4. Quan niệm về giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên
Giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên là quá trình tác động có mục
đích, có tổ chức của chủ thể tới đối tượng đoàn viên thanh niên nhằm truyền lại
các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính
trị, xã hội tới đối tượng Đoàn viên thanh niên từ đó làm cho Đoàn viên thanh
niên có ý thức chính trị tự giác, định hướng, suy nghĩ và hành động đúng đắn
theo Hiến pháp, pháp luật, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước đã đề ra.
Giáo dục ý thức chính trị của Đoàn thanh niên là nhiệm vụ thường xuyên
vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài, điều đó xuất phát từ những lý do cơ
bản sau:
Thứ nhất, bắt nguồn từ vai trò lịch sử của Đoàn thanh niên: Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”, “nước
nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh phần lớn là do các thanh niên, thanh niên
muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần
và lực lượng của mình, phải làm việc để chuẩn bị cho cái tương lai tươi sáng
đó”. Bởi vậy, “phải củng cố tổ chức Đoàn, phải đoàn kết rộng rãi các tầng lớp
thanh niên”. Tổ chức Đoàn phải tổ chức được nhiều phong trào hành động cách
mạng nhằm thu hút thanh niên tham gia để từ đó giáo dục lý tưởng cho họ.
19


Trải qua các giai đoạn cách mạng, Đoàn thanh niên luôn khẳng định vai trò

lịch sử của mình đối với sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Bởi vì, trong
thời chiến, họ luôn nêu cao vai trò tiên phong gương mẫu trong tất cả các lĩnh
vực, các mặt hoạt động của đời sống xã hội, không chỉ tiên phong về tư tưởng
mà còn phải tiên phong trong hành động, trong lời nói, việc làm; tiên phong
gương mẫu thể hiện ở vị trí đi đầu khi ra mặt trận, ở vị trí dẫn đầu, hăng hái, tích
cực nhất và làm gương cho mọi người noi theo. Họ luôn hiểu rõ giá trị to lớn
không gì sánh được của độc lập dân tộc, mất độc lập dân tộc là mất tất cả.
Hiện nay, trong thời đại toàn cầu hóa, với lượng thông tin được tiếp nhận
rất nhanh, Đoàn thanh niên thể hiện vai trò lịch sử của mình, chính là cần giải
thích cho quần chúng hiểu rõ những chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Chẳng hạn, chúng ta đang phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, Đoàn thanh niên bao gồm các đoàn viên cũng là người dân, nên phải biết
làm giàu từ chính những tri thức của mình; làm giàu chính đáng sẽ mở đường
cho nhân dân đi theo…; đồng thời Đoàn thanh niên phải có trình độ nhất định về
các mặt văn hóa, trình độ chuyên môn, lý luận, quản lý nhà nước, quản lý kinh
tế, pháp luật… để có đủ năng lực tiếp tục thực hiện thành công những nhiệm vụ
trong thời kỳ mới.
Thứ hai, do vai trò đặc biệt của ý thức chính trị trong việc định hướng các
hoạt động khác của Đoàn thanh niên: Trong các hình thái ý thức xã hội, ý thức
chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó thâm nhập, quyết định xu hướng và
bản chất của các hình thái ý thức xã hội khác. Do đó, Đoàn thanh niên có ý thức
chính trị chân chính sẽ có khả năng phân tích và nhận thức đúng về các vấn đề
khác như pháp luật, đạo đức…
Mỗi Đoàn viên thanh niên, ngoài việc thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối
với nhân dân, với đất nước, thì còn tham gia vào nhiều hoạt động khác như khoa
học, nghệ thuật, thể thao, tín ngưỡng tôn giáo… Những hoạt động này đều được
định hướng, chi phối bởi nhận thức về vấn đề đó ra sao, sẽ chi phối, điều chỉnh
hành vi của con người, mà sâu xa chính là sự chi phối, định hướng bởi ý thức
chính trị của chính Đoàn viên thanh niên.
20



×