Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Đánh giá vai trò của các nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.82 KB, 24 trang )

Đánh giá vai trò của các nguồn nhân lực đối với
tăng trưởng kinh tế Việt Nam : Luận văn ThS. Kinh
tế: 60 31 01 / Nguyễn Thị Hồng Nhung ; Nghd. :
TS. Đào Thị Bích Thủy
Cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc là mong ước của mọi người. Bàn luận
về điều này thật có ý nghĩa vô cùng to lớn. Cùng với sự phát triển của nhân loại,
những nghiên cứu về các vần đề kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường đã làm
tốn không biết bao thời gian, công sức, trí tuệ mà vẫn là chưa đủ. Có thể nói
rằng, các phạm trù - phát triển và phát triển bền vững, tăng trưởng và chất lượng
tăng trưởng - có mối quan hệ gần gũi với nhau, nhưng không trùng lặp, mà bổ
sung lẫn cho nhau.
Ngày nay, năng suất có quan hệ nhiều mặt của nền kinh tế - xã hội, liên
quan đến sản xuất và đời sống của dân cư. Nó trở thành nội lực phát triển của
các công ty, ngành và nền kinh tế. Hơn nữa, nó còn là cơ sở đảm bảo cho đời
sống của dân cư ngày càng tốt hơn. Chính vì vậy, luận văn này sẽ nghiên cứu
các cách tiếp cận mới về bản chất năng suất, tổng hợp và phân tích cơ sở của
việc đo lường năng suất. Trên cơ sở đó, sẽ trình bày phương pháp phân tích biến
động năng suất, tổng hợp và tìm hiểu các nghiên cứu về lượng hoá vai trò cũng
như mức độ ảnh hưởng của các nhân tố của tăng trưởng đến sự biến động đó.
Đồng thời xem xét ảnh hưởng của năng suất đến các chỉ tiêu kinh tế xã hội khác.
Trong đó, chú trọng đến phân tích chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp (TFP), từ
đó đánh giá được vai trò của của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế.
Đề tài: “Đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế
Việt Nam” nhằm khám phá và xác định các nhân tố có khả năng tác động đến
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, tìm hiểu phương pháp ứng dụng các tính toán
về tốc độ tăng trưởng năng suất nhân tố (TFP) để xác định một cách chính xác
và đo lường tác động của các các nhân tố này đến tăng trưởng kinh tế của Việt
1


Nam, đồng thời tổng hợp các kết quả kiểm tra mô hình lý thuyết về tăng trưởng,


phương pháp hạch toán tăng trưởng của Solow đối với nền kinh tế của các nước
đang phát triển.

CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA SOLOW VÀ PHƯƠNG
PHÁP ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CÁC NGUỒN LỰC ĐỐI VỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
1.1.

Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Solow và phương pháp hạch toán

tăng trưởng
1.1.1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Solow
Mô hình tăng trưởng của Solow được lựa chọn làm cơ sở lý thuyết cho
việc xác định, đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế
Việt Nam vì những lí do sau:
- Mô hình tăng trưởng của Solow có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh
tế Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư
bản chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, sự đóng góp của vốn vào tốc độ phát triển
kinh tế hay sự tăng trưởng của nền kinh tế là rất đáng kể;
- Trong Mô hình tăng trưởng của Solow, công nghệ được coi là biến
ngoại sinh, vì vậy nó rất phù hợp với thực trạng của nền kinh tế Việt Nam từ
trước đến nay chủ yếu nhập công nghệ từ nước ngoài;
- Mô hình Solow cho ta phương pháp hạch toán tăng trưởng. Phương pháp
này cho phép xác định và tính toán được sự đóng góp của các yếu tố đầu vào đã
được sử dụng. Và như thế chúng ta có thể sử dụng phương pháp này để xác
định, tính toán, đánh giá vai trò của các nguồn tăng trưởng trong nền kinh tế
Việt Nam.
1.1.1.1. Hàm sản xuất và những nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế
2



Lý thuyết tăng trưởng kinh tế có liên quan đến sự tăng trưởng của GDP
thực tế. (Gross Domestic Product – GDP: tổng sản phẩm quốc nội). Những yếu
tố kinh tế trực tiếp sản xuất ra GDP thực tế là những yếu tố đầu vào.
Hàm sản xuất: là mối quan hệ thường được trình bày theo kiểu đại số học,
cho thấy có thể sản xuất bao nhiêu đầu ra bằng một số lượng nhất định các yếu
tố đầu vào. Nói cách khác, hàm sản xuất thể hiện suất sinh lợi theo quy mô
không đổi.
Mối quan hệ giữa Y, A, K và L được biểu thị bằng Hàm sản xuất dạng
tổng quát sau:
Y = AF (K,L) (1)
Trong đó, tổng sản phẩm quốc dân (Y) được sản xuất từ lao động (L) và
vốn (K). Ở đây có một giả thiết cụ thể là F(K,L) (thể hiện sản lượng được sản
xuất từ L và K trong thời kỳ đầu) tăng lên A lần nhờ tiến bộ công nghệ.
Hàm sản xuất cũng có thể được thể hiện dưới dạng: “hàm sản xuất Cobb –
Douglas”
Dạng tổng quát như sau:
Y = A KαL1-α (2)
Phương trình (2) nói lên rằng GDP thực tế bằng yếu tố tăng trưởng tự
định (A) nhân với chỉ số vốn (K) và lao động (L). Các trọng lượng α và 1-α
biểu thị mức co dãn (hay tỷ lệ phần trăm ứng đối) của GDP thực tế theo sự gia
tăng của một trong hai yếu tố này. Tính co dãn được hiểu là tỷ lệ phần trăm thay
đổi trong một biến số ứng với bao nhiêu phần trăm thay đổi trong một biến số
khác.
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và sự tăng trưởng của vốn
Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu xem sự tăng trưởng trong K/L có
liên quan như thế nào với tổng mức tiết kiệm quốc dân. Giả định rằng trong nền
kinh tế đóng thì tổng mức tiết kiệm quốc dân (S) bằng tổng mức đầu tư trong
nước (I).

S = I (4)
Sau khi biến đổi, phương trình (4) trở thành:
3


S=

K .∆K
.∆K
+ ∂K = (
+∂) K
K
K

Phương trình trên cho thấy mức tiết kiệm quốc dân bằng tổng mức đầu tư,
tổng mức đầu tư này đến lượt nó bằng mức tăng trưởng của vốn cộng với mức
hao mòn nhân với kho vốn. Rõ ràng là mức tiết kiệm quốc dân và mức tăng của
vốn (

∆K
) có mối liên hệ mật thiết với nhau.
K

1.1.2. Phương pháp hạch toán tăng trưởng
Mô hình Solow cho ta một phương pháp luận (hạch toán tăng trưởng) để
đo tốc độ tiến bộ công nghệ, còn gọi là phần dư Solow hay tăng trưởng tổng
năng suất nhân tố (TFP).
Chỉ tiêu TFP rất quan trọng trong phân tích kinh tế. Sự biến động TFP
được Solow sử dụng đầu tiên vào năm 1957 nhằm phản ánh sự thay đổi công
nghệ và giải thích sự tăng trưởng kinh tế. Từ đó về sau được các nhà kinh tế sử

dụng rộng rãi và trở thành một chỉ tiêu không thể thiếu trong phân tích kinh tế.
Phương pháp hạch toán tăng trưởng đặt giả thiết là có một hàm sản xuất
liên kết đầu ra (sản lượng) của một nền kinh tế với các đầu vào lao động và vốn
(và tài nguyên thiên nhiên nếu nó được tách ra khỏi vốn). Nhờ sử dụng hàm sản
xuất này, người ta đo được phần đóng góp của mỗi đơn vị đầu vào tăng lên đối
với tăng trưởng đầu ra và phần dư không thể giải thích bằng gia tăng đầu vào
được gọi là tăng trưởng “Tổng năng suất nhân tố” (TFP). Khi đó, TFP là thước
đo tiến bộ công nghệ được hiểu theo nghĩa rộng, tức là thước đo tăng trưởng sản
lượng khi các đầu vào không thay đổi. Trong luận văn này, phân tích sẽ dựa trên
phương trình tính toán đơn giản nhất, chỉ để tìm ra kết luận về những yếu tố của
tăng trưởng kinh tế.
Trước hết, ta xem xét hàm tổng sản xuất giả định dạng tổng quát
Y = AF (K, L)
Giả thiết là F(K,L) thể hiện sản lượng được sản xuất từ K và L trong thời
kỳ đầu, tăng lên A lần nhờ tiến bộ công nghệ. Việc đưa ra giả thiết như vậy
nhằm hàm ý tiến bộ công nghệ trung lập theo cách xác định của Hick (năng suất
4


cận biên của vốn và lao động thay đổi cùng tốc độ với một tỷ lệ vốn – lao động
cho trước).
Trong thực tế, các nhà nghiên cứu thường sử dụng dạng hàm sản xuất
Cobb-Douglas:
Y = AKα L1-α
Hàm này thỏa mãn các giả định của mô hình Solow và có tỷ phần thu nhập
nhân tố cố định (tỷ phần của vốn bằng α, còn tỷ phần của lao động bằng 1- α)
Một khi ta ước lượng được tốc độ tăng trưởng của sản lượng, vốn và lực lượng
lao động và tìm được ước lượng của α, thì có thể giải phương trình (20) để tính
tốc độ tiến bộ công nghệ:
gY =gA + α gK + (1- α) gL

gA= g y - αgK - (1- α) gL
Trong đó, gy là tốc độ tăng GDP, gK là tốc độ tăng vốn hoặc tài sản cố
định, gL là tốc độ tăng lao động làm việc, α và (1- α) là hệ số đóng góp của vốn
và lao động, thường được xác định bằng phương pháp hạch toán hoặc dựa trên
hàm sản xuất Cobb-Douglas.
1.2.Các chỉ tiêu đánh giá nguồn lực tăng trưởng kinh tế và vận dụng vào
Việt Nam
1.2.1. Thu nhập bình quân đầu người
Để đánh giá xác thực hơn về tăng trưởng kinh tế của một quốc gia dưới
góc độ mức sống dân cư, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu bình quân đầu
người, chẳng hạn GDP bình quân đầu người. Khi đó, tăng trưởng kinh tế lại phụ
thuộc vào hai yếu tố: tăng trưởng thu nhập và tăng trưởng dân số.
Tốc độ tăng trưởng GDP/người = Tốc độ tăng trưởng GDP - Tốc độ gia tăng dân số

Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng những thước đo cụ
thể và ta có thể nhận biết được nó thông qua phân tích các chỉ tiêu đánh giá động
thái biến động của nó.
1.2.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động – Năng suất lao động

5


Để tính năng suất lao động cho toàn bộ nền kinh tế, có thể đơn giản lấy
GDP (theo giá cố định) chia cho số lao động (hoặc giờ lao động). Nếu GDP bình
quân trên mỗi lao động càng lớn, thì năng suất lao động xã hội càng cao.
Dưới góc độ ngành, GDP có thể được thay bằng các chỉ số khác sẵn có
như giá trị sản phẩm, từ đó có chỉ số giá trị sản phẩm trên một giờ lao động hoặc
chỉ số giá thành lao động trên một đồng giá trị sản phẩm. Đây là những chỉ số
theo dõi chi phí và năng suất lao động.
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn - Hệ số ICOR

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp cho biết:
để tăng thêm một đơn vị GDP đòi hỏi phải tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu
tư thực hiện. Vì vậy, hệ số này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư
dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Với nội dung đó, hệ số ICOR được coi là một trong
nhưng chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tăng trưởng kinh tế.
Hệ số ICOR thấp, chứng tỏ đầu tư có hiệu quả cao. Tuy nhiên, theo quy luật lợi
tức biên giảm dần, khi nền kinh tế tăng trưởng thì hệ số ICOR sẽ tăng lên, tức là
để duy trì cùng một tốc độ tăng trưởng, cần một tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP cao
hơn.
1.2.4 . Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)
Mặc dù hai chỉ tiêu năng suất lao động xã hội và hiệu quả sử dụng vốn
thường được sử dụng nhiều trong phân tích hiệu quả kinh tế, nhưng trên thực tế,
trong sản xuất có ba yếu tố chính làm tăng GDP: lao động, vốn sản xuất và TFP.
TFP phụ thuộc vào hai yếu tố: tiến bộ công nghệ và kỹ thuật; hiệu quả sử dụng
các yếu tố đầu vào.

6


CHƯƠNG 2
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CÁC NGUỒN LỰC ĐỐI VỚI TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
2.1. Các nguồn tăng trưởng kinh tế Việt Nam
2.1.1.Vốn đầu tư
Đầu tư phát triển xã hội tăng cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng, tạo
nguồn lực cho phát triển sản xuất. Nhìn chung, vốn đầu tư đóng vai trò chủ yếu
và ngày càng tăng trong tăng trưởng kinh tế, thể hiện qua tỷ lệ vốn đầu tư so với
GDP tăng mạnh qua các năm
Mặc dù vậy, dường như nền kinh tế Việt Nam vẫn luôn khát vốn. Vốn
thiếu xét trên cả ba nguồn. Nguồn vốn của dân cư và doanh nghiệp ngoài nhà

nước tuy đã tăng khá, nhưng tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội còn thấp;
chủ trương xã hội hóa đã được đưa ra từ lâu, nhưng việc thực hiện còn chậm,
người dân vẫn có thói quen gửi tiền tiết kiệm hay đầu tư vào vàng, USD, vào bất
động sản, mà việc đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh doanh vẫn chưa gia tăng
mạnh. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy đã có dấu hiệu khởi sắc. Tỷ
trọng vốn FDI thực hiện trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội còn thấp và có
xu hướng giảm dần.
2.1.2. Nguồn lực con người
Với số dân trên 80 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động
chiếm khoảng 55%, thì nguồn nhân lực là lợi thế phát triển quan trọng của nước
ta hiện nay. Số lao động đang làm việc hàng năm vẫn tăng thêm khoảng 1 triệu
người. Tuy nhiên, lợi thế này không được sử dụng hết, thậm chí đang bị lãng phí
nghiêm trọng, bởi đến đầu năm 2009, có tới 5,3% lao động ở thành thị thất
nghiệp và 19,4% lao động ở nông thôn chưa được sử dụng. Những tỷ lệ này vẫn
7


còn đang tiếp tục lớn hơn cho đến thời điểm tháng 9 năm 2009 do cuộc khủng
hoảng kinh tế làm cho hàng loạt các doanh nghiệp lớn nhỏ bị phá sản kéo theo
hệ quả tất yếu là người lao động bị mất việc làm. Có thể nhận thấy rằng, nguồn
lao động lớn chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa hiệu quả đang trở thành vấn đề
đáng báo động đe dọa sự phát triển của nền kinh tế nước ta.
2.1.2.1. Năng suất lao động và việc áp dụng tính toán ở Việt Nam
2.1.2.1.1. Phân tích năng suất lao động chung toàn nền kinh tế giai đoạn 2001 2008

Từ số liệu về tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá thực tế và lao
động làm việc có trong Niên giám Thống kê của Tổng cục Thống kê, ta tính
được mức năng suất lao động của năm 2005 đạt 19,62 triệu đồng. Nếu tính theo
giá cố định (giá năm 1994) và nghiên cứu biến động của năng suất lao động ta
thấy trong thời gian từ 2001 đến 2005,năng suất lao động chung toàn nền kinh tế

quốc dân của Việt Nam liên tục tăng lên và tăng với xu thế cao dần. Xu thế này
cũng tiếp diễn từ năm 2006 đến 2008. Con số tăng trung bình từ 2006 đến 2008
là 5,27%.
2.1.2.1.2. Phân tích năng suất lao động theo khu vực kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam chia thành 3 khu vực: Kinh tế nhà nước, kinh tế
ngoài nhà nước (gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, kinh tế tư
nhân,...) và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (gồm các loại hình 100% vốn đầu
tư nước ngoài và loại hình liên doanh liên kết với nước ngoài). Năng suất lao
động chung của cả ba khu vực ở Việt Nam đạt thấp chủ yếu là do, năng suất lao
động của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đạt quá thấp, trong khi đó lao động
của khu vực kinh tế này lại rất lớn, chiếm tới 88% tổng số lao động làm việc ở
cả ba khu vực.
Xét về tốc độ tăng, quan sát năng suất lao động tính theo giá cố định (giá
năm 1994), thì năng suất lao động khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng nhanh
8


và đều nhất, sau đến năng suất lao động khu vực kinh tế nhà nước. Đến năm
2005, bắt đầu tăng lên và có mức tăng khá (tăng trên 5%)..

Bảng 2.3: Tốc độ tăng năng suất lao động của các khu vực kinh tế thời kỳ 2001- 2008

Đơn vị tính: %
Năm
1. KV kinh tế nhà
nước
2. KV kinh tế ngoài
nhà nước

2001


2004

2006

2007

2008

Bình quân 5 năm

4,39

2,91

0,05

5,84

6,87

3,98

4,16

4,85

4,29

4,55


5,17

4,60

Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của WB

2.1.2.1.3. Phân tích năng suất lao động theo ngành kinh tế
Năng suất lao động bình quân chung toàn nền kinh tế quốc dân của nước
ta đạt được còn ở mức thấp so với các nước trên thế giới. Trong đó, đặc biệt khu
vực kinh tế ngoài nhà nước (xét theo hình thức sở hữu) và ngành nông - lâm
nghiệp (xét theo ngành kinh tế) có mức năng suất lao động rất thấp, nhưng lại có
lao động chiếm tỷ lệ rất cao. Điều đó đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến mức năng
suất lao động bình quân chung toàn nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, xét theo xu thế biến động, thì năng suất lao động toàn nền kinh
tế liên tục tăng lên và có mức tăng khá. Mức tăng lên của năng suất lao động
bình quân chung này do sự tăng lên thuần túy về năng suất lao động các ngành,
các khu vực đóng góp bình quân dưới 40%, còn do chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng tỷ trọng lao động của các khu vực kinh tế, các ngành có năng
suất lao động cao hơn tức là giảm tỷ trọng lao động theo tỷ lệ tương ứng của các

9


khu vực kinh tế, các ngành có năng suất lao động thấp đóng góp bình quân trên
60%.
2.1.3. Khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ là yếu tố có vai trò ngày càng to lớn trong tăng
trưởng kinh tế. Nếu quá trình tăng tích luỹ vốn, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất
được coi là quá trình tái sản xuất theo chiều rộng thì phát triển khoa học công

nghệ lại được gọi là quá trình tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu. Khoa học
công nghệ là yếu tố tác động trực tiếp đến sản xuất, là nhân tố tăng năng suất lao
động, hoàn thiện, nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh sản phẩm; đó
cũng là yếu tố tạo đà tăng trưởng cho mọi quốc gia.
2.1.4. Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế
Đối với Việt Nam, tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu, không
chỉ do xuất phát điểm của nước ta còn thấp, phải tăng trưởng nhanh để chống
nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, mà còn là tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế-xã hội khác như
chống lạm phát, giảm thất nghiệp, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân
sách, phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, xóa đói giảm nghèo…
Bảng 2.7: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ 1991 – 2008
Đơn vị: %
Năm

Tốc độ tăng
trưởng kinh tế

Năm

Tốc độ tăng
trưởng kinh tế

Năm

Tốc độ tăng
trưởng kinh tế

1991


5.81

1996

9.34

2001

6.89

1992

8.70

1997

8.15

2002

7.08

1993

8.08

1998

5.76


2003

7.34

1994

8.83

1999

4.77

2004

7.79

1995

9.54

2000

6.79

2005

8.43

TB
thời

kỳ

TB
8.2

thời

TB

7.0

thời kỳ

kỳ
10

Năm

2006
2007
2008

Tốc độ tăng
trưởng kinh tế

8.17
8.44
6.3

TB

7.5

thời
kỳ

7.64


Nguồn: Tổng cục Thống kê
Sự tăng trưởng của nền kinh tế thể hiện rõ qua việc nhóm ngành nào cũng
có tăng trưởng. Sau khi cải cách kinh tế, Việt Nam đã đạt được những bước tăng
trưởng vượt bậc, kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng lên một cách nhanh chóng.
Việt Nam cũng thu hút được nhiều quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài,
được thể hiện qua dòng vốn FDI và FPI chảy vào ngày càng lớn.
2.2. Phân tích vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam
Theo tính toán của giáo sư Goldman sachs (GS), ta có thể nhận thấy: sự
tăng trưởng TFP chính là nguồn lực chính cho sự tăng trưởng sản lượng quốc
nội GDP của Việt Nam kể từ khi đổi mới.
Bảng 2.11: Các nhân tố tăng trưởng của Việt Nam qua các thời kỳ

Giai
đoạn
19862006
19861991
19921996
19971999
20002006
20072020


Tăng trưởng

Bình quân đóng góp cho

Bình quân tỷ lệ đóng góp

bình quân

tăng trưởng

cho tăng trưởng

GDP

A

A

K

L

A(%)

K(%)

L(%)

6,85


3,05

3,10

2,30

1,45

45

31

24

4,68

2,83

2,85

0,17

1,65

60

3

37


8,90

5,10

5,19

2,39

1,32

58

27

15

6,23

1,87

1,91

3,31

1,01

26

56


18

7,50

2,27

2,33

3,63

1,55

31

48

21

8,07

2,99

3,06

3,63

1,38

38


45

17

Nguồn: Goldman sachs
11


2.2.1.Tác động của Khoa học &Công Nghệ đối với Tăng trưởng kinh tế
Trên góc độ phân tích thống kê, có thể kết luận: Năng lực công nghệ có
ảnh hưởng khá rõ nét đến tăng trưởng kinh tế, tức là khi năng lực công nghệ
càng được nâng cao thì kết quả tăng trưởng kinh tế cũng sẽ đạt kết quả càng tốt
và các mối quan hệ này tương đối chặt chẽ. Cụ thể là: Cứ tăng lên 1% về chỉ số
năng lực công nghệ thì sẽ tăng thêm được 1,2298% về chỉ số phát triển kinh tế
và sự phát triển kinh tế có thể giải thích liên quan đến yếu tố năng lực công nghệ
là 73,52%.
2.2.2. Đóng góp của TFP đối với tăng trưởng kinh tế
Năng suất lao động gia tăng chậm chạp trong khi hiệu quả đầu tư có xu
hướng giảm sút trong giai đoạn 2004-2008 đã cho chúng ta một cái nhìn khá rõ
về chất lượng tăng trưởng dưới góc độ hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, việc tính
toán năng suất của lao động và vốn như trên không tách được tác động riêng
phần của từng nhân tố với tăng trưởng. Cụ thể hơn, năng suất của nhân tố này
cũng chịu tác động từ sự thay đổi của nhân tố kia. Ví dụ, năng suất lao động có
thể tăng lên do đầu tư gia tăng. Để đánh giá được chất lượng của tăng trưởng
kinh tế cũng như đánh giá các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế, ta phải
xem xét đến năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).
Tăng trưởng TFP thể hiện cả hiệu quả khoa học – công nghệ lẫn hiệu quả
sử dụng các nguồn lực. Kết quả nghiên cứu của Lê Dân trong bài viết giới thiệu
bản chất của TFP và phương pháp nghiên cứu sự biến động của nó cho thấy:
trong giai đoạn 1991-1996, tăng trưởng TFP là nhân tố quyết định tăng trưởng

GDP, nhưng trong giai đoạn 1997 – 2004, tăng trưởng GDP được quyết định bởi
tăng vốn là chủ yếu.
2.3. Đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam
2.3.1. Đánh giá vai trò của nguồn vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam
12


Hiệu quả đầu tư của Việt Nam từ năm 2005 đến 2008 hầu như không
được cải thiện. Nhiều khoản đầu tư công sử dụng kém hiệu quả.
Có thể rút ra một số nhận xét sau:
Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp
của yếu tố số lượng vốn đầu tư.
Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan
trọng vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt.
Một mặt, do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1
triệu người mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu
việc làm ở nông thôn còn cao.
Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng
góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư
tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
2.3.2. Đánh giá vai trò của nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam
Lao động Việt Nam còn bộc lộ khá nhiều nhược điểm. Lực lượng lao
động tuy đông về số lượng nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, ít qua đào tạo.
Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Với năng suất còn thấp như trên thì
giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi.
2.3.3. Đánh giá vai trò của khoa học công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế
Việt Nam

Mô hình tăng trưởng của Việt Nam theo phân tích ở phần trên không dựa
trên đầu tư cho khoa học công nghệ, nhưng việc hoạch định chính sách phát
triển đã không thực hiện được vai trò dẫn hướng để doanh nghiệp nâng cao năng
lực cạnh tranh, cũng như đầu tư vào các lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
Giá trị gia tăng công nghệ thấp
13


Các phân tích ở phần trên và số liệu thống kê cho thấy trong giai đoạn
2001 – 2008, giá trị tuyệt đối gia tăng công nghệ của Việt Nam tăng bình quân
11,8%, tương đương với Trung Quốc, cao hơn hai lần so với các nước ASEAN
khác.
Năng lực cạnh tranh công nghệ tụt hậu
Xét về cơ cấu, giá trị ngành công nghiệp chủ yếu dựa vào ngành sử dụng
tài nguyên thô, hàm chứa ít công nghệ. Tỷ trọng ngành có hàm lượng công nghệ
trung bình và cao luôn đứng ở mức 25%, so sánh với hơn 60% ở Thái Lan,
Malaysia và Trung Quốc, sau quá trình tăng mạnh giá trị gia tăng công nghiệp
của các nước này qua các năm.
Năng lực cạnh tranh Việt Nam còn được thể hiện ở tỷ trọng hàm lượng
công nghệ trong các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, trong mối tương quan so
sánh với các nước khác. Tỷ trọng cao của những ngành khai thác tài nguyên thô
trong cơ cấu xuất khẩu cho thấy khả năng cạnh tranh của những ngành công
nghiệp còn rất khiêm tốn.
Thiếu chiến lược cạnh tranh hiệu quả
Việt Nam vẫn dựa vào các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, hàm
chứa ít công nghệ, có giá trị gia tăng thấp, mà không thực sự nâng được tầm
cạnh tranh quốc tế. Những ngành này tuy mang lại giá trị xuất khẩu lớn như dệt
may, da giày, đồ gỗ, v.v… có khả năng cạnh tranh rất dễ bị tổn thương, bị tác
động lớn bởi những rủi ro và những ngoại ứng.
2.3.4. Đánh giá vai trò của TFP đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Trong thời kỳ 2000 – 2005 đóng góp của TFP vào tăng trưởng chiếm đến
22,5% tức là TFP bình quân vào khoảng 1,58 điểm phần trăm vào tăng trưởng
và giai đoạn 2003 – 2008 đóng góp vào tăng trưởng vào khoảng 1,6 điểm phần
trăm. Nếu vậy, đóng góp của TFP vào tăng trưởng của Việt Nam cao hơn hầu
hết các giai đoạn của Mỹ (trừ giai đoạn 1957 – 1960 và 1979 – 1989) với mức
14


bình quân giai đoạn 1948 – 2006 chỉ là 1,5 điểm phần trăm. Tuy nhiên, về thực
chất mô hình Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua chủ yếu vẫn theo
chiều rộng, mặc dù đóng góp của nhân tố TFP có tăng dần qua các năm nhưng
không đáng kể. Tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn và lao động cao gấp hơn 3 lần
so với của TFP.
2.3.5. Đánh giá vai trò của các yếu tố đầu ra đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam
Tăng trưởng kinh tế xét ở yếu tố đầu ra có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự
đóng góp của tiêu dùng cuối cùng, của tích luỹ tài sản, của xuất khẩu ròng (xuất
khẩu ròng được tính bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu).
Có thể nhận thấy rằng, sự đóng góp của các nhân tố công nghệ, lao động,
vốn và TFP vào sự tăng trưởng của Việt Nam có sự khác biệt qua từng thời kỳ.
Cụ thể là:

- Trong thời kỳ 1986 – 1988, đóng góp của hiệu quả công nghệ rất thấp,
đóng góp của vốn âm, đóng góp của lao động giảm rất nhiều. Về mặt toán học,
có thế nhận thấy rằng các nhân tố đóng góp cho tăng trưởng đều sụt giảm sẽ dẫn
tới kết quả tất yếu là tăng trưởng GDP trong thời kỳ này cũng phải giảm. Tuy
nhiên, Tăng trưởng GDP trong thời kỳ này vẫn tăng từ 2,13% năm 1986 lên 5,54
% năm 1987 và đến năm 1988 con số tăng trưởng là 4.69. Như vậy , theo tác
giả, sự thay đổi của chỉ tiêu tăng trưởng GDP trong thời kỳ này chủ yếu là do tác
động của chu kỳ kinh doanh.


- Trong thời kỳ 1989 -1992, đóng góp của vốn tăng từ giá trị âm lên giá trị
dương, đóng góp của lao động giảm mạnh (từ 90,4% xuống còn 14,5%). Đóng
góp của chu kỳ kinh doanh mang giá trị âm vào năm 1989, nhưng sau đó lại
chiếm tỷ phần lớn trong tăng trưởng GDP, TFP chỉ chiếm một tỷ phần tương đối
trong giai đoạn này.

15


- Trong thời kỳ 1992 -1996, đóng góp của TFP tăng đáng kể, đạt tỷ phần
trung bình là 60%. Đóng góp của vốn tăng lên còn của lao động giảm xuống.
Điều này thể hiện quá trình thay thế lao động bằng vốn dưới dạng đầu tư. Chu
kỳ kinh doanh có đóng góp âm trong những năm này.

- Điều đáng chú ý là hiệu quả công nghệ có đóng góp cao nhất vào tăng
trưởng GDP trong suốt thời kỳ khủng hoảng kinh tế châu Á (1997-1999). Kết
quả này có được là do hiệu ứng của yếu tố chu kỳ kinh doanh. Vốn cũng có vai
trò đáng kể trong giai đoạn này.

- Trong thời kỳ 2000-2002, đóng góp của TFP có xu hướng giảm còn của
vốn vẫn ở mức cao.

16


CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY CÁC NGUỒN
LỰC CHO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI

3.1. Triển vọng và quan điểm tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Tham khảo một vài nhận định của Goldman Sachs (ngân hàng đầu tư hàng đầu
của Mỹ) về nền kinh tế Việt Nam, chúng ta được biết rằng:
- Việt Nam là một trong 11 nền kinh tế đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao nhất
trong nhiều năm gần đây;
- Năng suất các nhân tố tổng hợp không ngừng được nâng cao là động lực chủ
yếu tạo nên sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong suốt hai thập kỷ qua, kể
từ khi đổi mới (1986-2006). Kế đó là sự tăng trưởng nguồn nhân lực và tính lũy
vốn/tư bản;
- Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng với động lực chủ yếu dựa trên năng suất các
nhân tố tổng hợp trong thời gian tới. Tuy nhiên, vẫn còn những lo ngại về những
rủi ro liên quan đến lạm phát và những thách thức về chính sách tài chính tiền tệ.
3.1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra ra mục tiêu tổng
quát của phát triển kinh tế nước ta trong nhiệm kỳ lãnh đạo 5 năm (2006-2010)
của Đảng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh bài học về phát triển nhanh và bền vững
đồng thời cũng là mục tiêu quan trọng hàng đầu cần hướng tới là: “Đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu
quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển…”. Có thể thấy Đảng ta đã rất chú trọng đến tăng trưởng kinh tế
nhanh trong mối quan hệ với nâng cao hiệu quả và sự phát triển bền vững của
17


đất nước. Tuy nhiên, cần thấy tiêu chí cấu thành quan trọng nhất và trước hết
của phát triển bền vững chính là tăng trưởng kinh tế nhanh. Để đạt được như vậy
lại phụ thuộc trước hết vào sự tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững của toàn
bộ các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân như công nghiệp, nông
nghiệp, thương mại, dịch vụ…
3.1.2. Triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới

● Bối cảnh kinh tế thế giới
Trong những năm gần đây kinh tế thế giới đã đạt được tốc độ tăng trưởng
ấn tượng. Những nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, Trung Quốc có tốc độ tăng
trưởng cao. Sự phát triển công nghệ thông tin, thương mại và dịch chuyển dòng
vốn các quốc gia trở nên gần gũi và phụ thuộc lẫn nhau hơn.
● Bối cảnh kinh tế Việt Nam
Trong bối cảnh như vậy, kinh tế Việt Nam sẽ chịu tác động rất lớn do xuất
nhập khẩu, vốn đầu tư nước ngoài suy giảm. Các doanh nghiệp sản xuất trong
nước sẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt của hàng ngoại nhập. Sự ảnh hưởng này
còn tăng thêm do kinh tế Việt Nam tồn tại một số yếu kém nên khó có những
thay đổi kịp thời để thích nghi với tình hình mới.
3.2. Các giải pháp pháp huy các nguồn lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam
3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô
3.2.1.1.Cải cách toàn diện nền kinh tế
Theo tác giả, Việt Nam có hai lựa chọn: một là theo mô hình hiện nay là
tiếp tục tăng đầu vào (trong một thời kỳ nhất định); hai là tăng hiệu quả đầu tư
và sáng tạo trong quá trình phát triển.
Một là: Thay đổi tư duy về mô hình Tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng
kinh tế cần dựa trên nền tảng coi trọng chất lượng.
Hai là: Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư.
18


3.2.1.2. Từ bỏ cơ cấu kinh tế theo đuôi, tìm lối đi riêng dựa vào những điểm
Việt Nam có lợi thế
Một là, xây dựng nền tảng cho sự phát triển bền vững, xây dựng cơ cấu
kinh tế hiệu quả, chất lượng, tiến bộ, không phải cơ cấu kinh tế theo đuôi. Gắn
với nó là thể chế kinh tế thị trường hiện đại.
Hai là, trong sự phát triển, đặc biệt phát triển kinh tế, lựa chọn những

ngách đi, những gì mình có thể phát huy được lợi thế tốt nhất, chen kẽ hở mà đi.
3.2.2. Nhóm giải pháp vi mô
3.2.2.1. Tăng việc làm, tạo nguồn việc làm mới để tăng GDP
Trong suy giảm kinh tế hiện nay, hàng triệu người lao động Việt Nam sẽ
không có việc làm, và hàng triệu người khác không có việc làm đầy đủ, vốn ít
được tính đến (cần gấp rút đánh giá đúng và dự báo các con số này). Tạo việc
làm là giải pháp quyết liệt nhất, là ưu tiên hàng đầu. Chỉ có tạo việc làm thì Việt
Nam mới tạo ra được thêm nhiều GDP, không thể chỉ dựa vào vốn.
3.2.2.2. Đầu tư cho công nghệ
Đầu tư cho công nghệ cũng là một hướng quan trọng. Năng suất các nhân
tố tổng hợp TFP phụ thuộc vào quản trị, công nghệ và nguồn nhân lực. Quản trị
khó đo đếm, lao động của Việt Nam còn phải đào tạo thêm, trong khi cải tiến
công nghệ là điều Việt Nam có thể làm ngay.
3.2.3. Một số giải pháp khác
3.2.3.1. Giảm chi phí trung gian là biện pháp quan trọng để thực hiện mục
tiêu phát triển kinh tế bền vững
Trong những năm qua tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm (VA) chậm
hơn tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất (GO). Sự tăng trưởng như vậy của
nền kinh tế quốc dân phần nào nói lên hiệu quả sản xuất của xã hội bị suy giảm
19


đồng thời cũng thể hiện một trong số rất nhiều yếu tố gây ra sự tăng trưởng kinh
tế không bền vững. Qua sự phân tích các chỉ số tăng trưởng ngành công nghiệp
Việt Nam, chúng ta đã phần nào nhận ra thực trạng của sự cách biệt và một số
giải pháp cần thiết để giảm bởi sự cách biệt về nhịp độ tăng trưởng của 2 chỉ tiêu
này trong công nghiệp Việt Nam, vì đây là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng nhanh
và sử dụng nhiều nguồn tài nguyên không thể tái tạo đựơc. Sự phát triển bền
vững của ngành công nghiệp sẽ góp phần tích cực không chỉ vào sự phát triển
bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân mà còn là cơ sở để phát triển bền

vững của lĩnh vực xã hội và môi trường (Phụ lục số 01).
3.2.3.2. Phát huy và sử dụng mọi tiềm năng vốn có của lực lượng sản xuất
Lối ra đầu tiên cho vấn đề này là cần có nhiều biện pháp hỗ trợ tích cực
đẩy mạnh phát triển kinh tế dân doanh hơn nữa trong thời gian tới theo đúng
tinh thần chỉ đạo của Hội nghị TW 5 (khoá 9) nhằm giải phóng mọi tiềm năng
vốn có của lực lượng sản xuất.
3.2.3.3. Đổi mới công nghệ và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trong hoạt động
của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp kinh doanh tế bào của nền kinh tế, là nơi sử dụng và kết
hợp các nguồn lực để tạo ra sản phẩm hàng hoá, điều quan trọng để tạo ra nhiều
sản phẩm tốt với giá thành hạ, thì cần tăng năng suất lao động.
3.2.3.4. Nhận thức đúng vai trò của tín dụng, ngân hàng trong việc phân phối
và tối ưu hoá nguồn vốn xã hội
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang phát triển lên một cấp độ mới, nền kinh
tế hội nhập. Điều đó đang đặt ra cho các chủ thể kinh doanh của nền kinh tế phải
đối mặt với những thách thức mới.
3.2.3.5. Phát triển và nâng cao trình độ nguồn nhân lực cho nền kinh tế

20


Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến việc thực hiện các mục tiêu kinh
tế xã hội và nó cũng quyết định đến quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước nhằm nhanh chóng hoà nhập nền kinh tế nước ta với khu vực
và quốc tế.
3.3. Gợi ý giải pháp phát triển các nguồn lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam
trong thời gian tới
Những phân tích trên cho thấy tăng trưởng kinh tế liên quan mật thiết tới
các chính sách công của chính phủ. Tư bản hiện vật, vốn nhân lực, tài nguyên
thiên nhiên và tri thức công nghệ là những nhân tố quyết định năng suất, còn

năng suất lại quyết định mức sống. Do đó, muốn tăng năng suất và mức sống
cho người dân, Chính phủ Việt Nam có thể thực hiện các chính sách sau:
3.3.1. Tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) để nâng cao chất lượng tăng
trưởng
3.3.2. Khuyến khích phát triển một số lĩnh vực
3.3.2.1. Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư
Nếu tiêu dùng ít hơn và tiết kiệm nhiều hơn, xã hội sẽ có nhiều nguồn lực
hơn dành cho việc sản xuất hàng hóa tư bản. Tư bản bổ sung làm tăng năng suất
và nâng cao mức sống.
3.3.2.2. Khuyến khích đầu tư từ nước ngoài
Khuyến khích đầu tư từ nước ngoài có thể được thực hiện thông qua việc
dỡ bỏ những hạn chế về sở hữu tư bản trong nước và tạo ra một môi trường
chính trị ổn định. Bên cạnh việc sử dụng tiết kiệm trong nước để đầu tư vào
hàng tư bản, Việt Nam có thể thu hút đầu tư từ nước ngoài.
3.3.2.3. Khuyến khích giáo dục
Giáo dục là đầu tư vào con người, làm tăng vốn nhân lực. Giáo dục không
chỉ giúp nâng cao năng suất đối với người tiếp nhận mà còn đem lại ảnh hưởng
ngoại biên tích cực. Một ảnh hưởng ngoại biên nảy sinh khi hành động của một
người ảnh hưởng đến phúc lợi của người ngoài cuộc.
3.3.2.4. Bảo vệ quyền sở hữu và duy trì ổn định chính trị
21


Quyền sở hữu là khả năng của con người trong việc kiểm soát nguồn lực
của họ. Để các cá nhân sẵn sàng làm việc, tiết kiệm, đầu tư, sản xuất và trao đổi
với cá nhân khác theo hợp đồng, họ nhất định phải tin tưởng rằng tư bản của họ
và kết quả tạo ra không bị người khác chiếm đoạt và những thỏa thuận của họ
phải có hiệu lực.
3.3.2.5. Khuyến khích thương mại tự do
Thương mại tự do giống như tiến bộ công nghệ. Nó cho phép một nước sử

dụng các sản phẩm mà nước khác sản xuất hiệu quả hơn. Lập luận về ngành non
trẻ cho rằng các nước đang phát triển nên theo đuổi chính sách hướng nội bằng
cách ngăn cản thương mại quốc tế nhằm bảo hộ các ngành công nghiệp nội địa
còn non trẻ trước sức cạnh tranh của nước ngoài.
3.3.2.6. Kiểm soát tăng trưởng dân số
Tăng trưởng dân số nhanh có khuynh hướng dàn mỏng các nhân tố sau
nghiên cứu và triển khai, năng suất giảm ( giảm lượng tư bản và tài nguyên tính
bình quân cho một công nhân). Những phụ nữ có trình độ học vấn thường sinh ít
con hơn vì chi phí cơ hội của việc sinh con tăng lên khi họ có nhiều cơ hội trong
xã hội hơn.
3.3.2.7. Khuyến khích nghiên cứu và triển khai
Phần lớn sự tăng trưởng về mức sống bắt nguồn từ tiến bộ công nghệ vốn
là kết quả của quá trình nghiên cứu và triển khai. Sau một thời gian, tri thức trở
thành hàng hóa công cộng, nghĩa là chúng ta có thể cùng sử dụng nó mà không
làm giảm phúc lợi của người khác.

22


KẾT LUẬN
Tăng trưởng kinh tế là yếu tố quan trọng nhất quyết định phúc lợi kinh tế
của người dân mỗi quốc gia và con đường tăng trưởng kinh tế từ lâu đã trở thành
một trong những câu hỏi trung tâm của kinh tế học. Nói đến tăng trưởng người
ta không chỉ hiểu đơn thuần là tăng thu nhập bình quân đầu người, mà phải gắn
với phát triển bền vững, chú trọng tới cả ba thành tố : kinh tế, xã hội và môi
trường. Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, tăng thu nhập phải gắn
với tăng chất lượng cuộc sống hay tăng phúc lợi và xóa đói nghèo. Tăng trưởng
không nhất thiết phải đạt tốc độ quá cao, mà chỉ cần cao ở mức hợp lý nhưng
bền vững...
Luận văn đã góp phần xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng

của Việt Nam qua các thời kỳ, vận dụng Mô hình tăng trưởng Tân Cổ Điển,
thường được gọi là mô hình tăng trưởng SoLow để phân tích các tác động của
các nhân tố đó đến tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở thu thập một số lượng rất lớn
các số liệu thực tế, vận dụng lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Solow, tác giả đã
chứng minh lý thuyết tăng trưởng của Solow vẫn còn nguyên giá trị đối với các
quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Từ đó gợi ý các nhóm giải pháp thiết
thực giúp Việt Nam có thể duy trì tốc độ tăng trưởng tốt tương ứng với tiềm lực
nền kinh tế, tạo đà phát triển kinh tế quốc gia trong dài hạn. Đó là: nguồn biến
động tốc độ tăng trưởng sản lượng bình quân lao động (hay thu nhập bình quân
đầu người) trong mô hình này là tốc độ tăng hiệu quả lao động được xác định là
biến Ngoại Sinh. Hiệu quả của lao động không phải gì khác mà chính là đại diện
cho tất cả các nhân tố tác động tới sản lượng ngoại trừ vốn và lao động. Theo
phương pháp hạch toán tăng trưởng do Solow khởi xướng, nó được gọi với cái
tên là Tổng Năng Suất Nhân Tố (TFP) hay Số Dư Solow. Như vậy, vấn đề sống
còn đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là tăng năng suất và hiệu quả lao
động đồng thời phát huy tối đa hiệu quả của công nghệ trong sản xuất.
Tác giả.
23


24



×