Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài chí phèo nam cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.88 KB, 10 trang )

Ki ến th ức c ơb ản và nh ững d ạng đề thi
v ềbài Chí Phèo- Nam Cao
Posted by Thu Trang On Tháng Bảy 03, 2016 0 Comment

Ph ần 1 : Nh ững d ạng đề thi v ề bài Chí
Phèo- Nam Cao
Về tác phẩm Chí Phèo, các em cần ôn tập theo những dạng đề thi sau :
1.Cảm nhận hình tượng nhân vật
Truyện có nhiều nhân vật nhưng đề bài có thể chỉ yêu cầu phân tích , cảm nhận
hình tượng nhân vật Chí Phèo, các nhân vật khác thường không xuất hiện trong đề
thi.
2. Cảm nhận đoạn trích
Các em chú ý những đoạn sau :+ Đoạn mở đầu ( tiếng chửi và ý nghĩa tiếng chửi )
+ “Khi Chí Phèo mở mắt thì trời sáng đã lâu….Chao ôi là buồn!”
+ Đoạn kết : Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, giết Bá Kiến và tự sát, hình ảnh cái lò
gạch cũ hiện lên trong tâm trí Thị Nở
3. Cảm nhận chi tiết
Tác phẩm có nhiều chi tiết đặc sắc, các em cần chú ý : tiếng chửi của Chí , chi tiết
bát cháo hành, cái lò gạch cũ.
4. Dạng đề nghị luận ý kiến bàn về văn học : Đề bài có thể trích dẫn một nhận định
, yêu cầu chứng minh nhận định đó.
5. Dạng đề so sánh : Chí phèo có thể so sánh với các tác phẩm cùng chủ đề, ví dụ :
Vợ nhặt của Kim Lân ( lớp 12 ), so sánh bi kịch của Chí Phèo với bi kịch của
Trương Ba ( Hồn Trơng Ba , Da hàng thịt- Lưu Quang Vũ, lớp 12)
Với tác phẩm này , các em cần chú ý giá trị nhân đạo nữa.
Một số đề Luyện tập nâng cao :
1. Đề đọc hiểu về đoạn mở đầu Chí Phèo Nam Cao:
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi ở dưới
“Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn
chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng
sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại.


Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả.
Tức thật! ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha


đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có
phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra
thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ
chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng
vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo?
Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết… ”
( Trích Chí Phèo- Nam Cao)

1) Phương thức biểu đạt của đoạn trích ?Nêu ý chính của đoạn trích?
2) Cách sắp xếp tiếng chửi của nhân vật Chí Phèo: Bắt đầu hắn chửi trời…Rồi hắn
chửi đời…chửi ngay tất cả làng Vũ Đại…chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ
ra cái thằng Chí Phèo …được sử dụng biện pháp tu từ cú pháp như thế nào? Nêu
hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó?
3) Đoạn trích sử dụng nhiều câu văn ngắn. Nêu ý nghĩa nghệ thuật của việc sử
dụng nhiều câu ngắn đó
Trả lời: />Đề 2 : Đề bài : Cảm nhận của anh/ chị về chi tiết bát cháo hành trong truyện Chí
Phèo ( Nam Cao) và bát cháo cám trong truyệnVợ nhặt ( Kim Lân).
Đáp án : />Đề 3 :So sánh đoạn kết hai tác phẩm Chí Phèo- Nam Cao và Vợ nhặt- Kim Lân
Đáp án : />Đề 4 :
Sau khi nhận được bát cháo hành từ tay thị Nở, Chí Phèo bảo với thị:
– Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. (Chí Phèo – Nam Cao, Ngữ văn
11)
Trong truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân (Ngữ văn 12), sau khi đãi người


đàn bà bốn bát bánh đúc, Tràng cười và nói với thị:

– Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.
Cảm nhận của anh chị về ý nghĩa của những câu nói trên.
Đáp án : />Đề 5 :Phân tích quá trình tha hóa và bi kịch tinh thần của nhân vật Chí Phèo trong
tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
Đề 6 :Phân tích bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo ( từ khi Chí Phèo bị Thị Nở cự
tuyệt đến khi Chí Phèo đâm chết Bá Kiến rồi tự sát) trong truyện ngắn Chí Phèo
của Nam Cao.
Còn nữa, cô đang soạn, các em theo dõi để đọc nhé. bấm vào tags
này : />
Ph ần 2 :T ổng h ợp ki ến th ức c ơ b ản v ề
bài “Chí Phèo”
Về bài “Chí Phèo” , các em cần nắm được những nội dung cơ bản sau:
1. Tác giả
Nam Cao (1917 – 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh ra trong một gia đình
nông dân nghèo ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Xam Sang phủ Lí Nhân,
tỉnh Hà Nam. Ông là một trong những cây bút viết truyện ngắn rất thành công của
dòng văn học hiện thực phê phán thời kì trước Cách mạng.
Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ lạnh lùng, ít nói nhưng đời sống nội tâm
thì rất phong phú. Nam Cao là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương.
Ông gắn bó sâu nặng, giàu ân tình với quê hương và những con người nghèo khổ
bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ. Ông từng quan niệm, không có tình thương
đồng loại thì không đáng gọi là người. Đó chính là một trong những lí do dẫn Nam
Cao đến với con đường nghệ thuật “vị nhân sinh” và tạo nên những tác phẩm thấm
đượm tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tập trung vào hai đề tài chính người trí
thức nghèo và người nông dân nghèo.
2. Tác phẩm
Hoàn cảnh ra đời:
“Chí Phèo” là truyện viết về người thật, việc thật ở làng Đại Hoàng – quê hương
của tác giả trước Cách mạng tháng Tám.



Truyện ngắn “Chí Phèo” lúc đầu có tên là “Cái lò gạch cũ”. Khi in thành sách lần
đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới Hà Nội tự ý đổi tên là “Đôi lứa xứng đôi”. Năm
1946, khi in trong tập “Luống cày”, tác giả đặt lại tên là “Chí Phèo”.
Chí Phèo là tác phẩm thành công của Nam Cao viết về đề tài người nông dân.
Nhân vật Chí Phèo thể hiện tấn bi kịch tinh thần lớn nhất của con người, đó là bi
kịch bị tha hoá. Những thế lực tàn bạo đã tước đoạt của người nông dân chất phác
hiền lành những khát vong và ước mơ về một cuộc sống lương thiện, biến họ thành
kẻ lưu manh. Và khi lương tâm thức tỉnh, họ đã phải tự kết thúc đời mình khi nhận
ra rằng mình không còn con đường trở về với cuộc sống lương thiện.
Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm đều được tập trung ở nhân vật
Chí Phèo. Tác phẩm phản ánh hai mâu thuẫn gay gắt và tiêu biểu nhất trong xã hội
nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám là: Mâu thuẫn giữa giai cấp thống
trị với nhau và mâu thuẫn giữa bọn cường hào ác bá và người nông dân. Nhân vật
đều đạt đến trình độ điển hình.
Tóm tắt đoạn trích
Chí Phèo vốn không cha không mẹ, được dân làng truyền tay nhau nuôi lớn. Rồi
đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Bá Kiến ghen tuông nên đã đẩy anh vào tù.
Bảy tám năm sau, Chí ra tù và trở về làng với bộ dạng của một tên lưu manh. Hắn
chuyên uống rượu, rạch mặt ăn vạ. Cả làng lánh xa hắn, Chí bị Bá Kiến lợi dụng
thành công cụ cho hắn.
Chí gặp Thị Nở, hai người ăn nằm với nhau. Chí tỉnh rượu rồi ốm, được Thị Nở
chăm sóc. Bát cháo hành và những cử chỉ chân thật của Thị Nở đã làm sống dậy
khát vọng sống cuộc đời lương thiện của Chí. Nhưng bà cô Thị Nở ngăn cấm. Chí
tuyệt vọng khi bị Thị Nở từ chối. Anh xách dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện.
Anh đâm chết Bá Kiến và tự vẫn.
3. Phân tích nhân vật Chí Phèo
a. Cuộc đời cùng quẫn của Chí Phèo
+Hoàn cảnh của Chí Phèo

– Chí Phèo là một đứa con hoang bị bỏ rơi ở một cái lò gạch cũ. Một người đi đánh
ống lươn nhặt được Chí Phèo ‘!trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên
cái lò gạch bỏ không”.
– Sau đó, anh đánh ống lươn đem cho bà goá mù, rồi bà goá mù lại cho bác phó
cối.
– Khi bác phó cối chết, Chí Phèo làm canh điền cho nhà Lí Kiến.
+Chí Phèo trước khi đi tù
– Là người canh điền khỏe mạnh, siêng năng. Chí Phèo cũng có những ước mơ
giản dị như bao người lao động hiền lành khác: Chí “ao ước có một gia đình nho
nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm


vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
– Chí phèo là người có lòng tự trọng. Bà ba nhà Lí Kiến cứ hay gọi Chí lên để bóp
chân. Chí Phèo lấy đó làm nhục.
– Lí Kiến (khi đó chưa là Bá Kiến) ghen bóng gió và đã đẩy Chí Phèo vào nhà tù.
Một người thanh niên hiền lành vô tội đã bị đẩy vào tù.
+Chí Phèo sau khi ở tù về
– Diện mạo bên ngoài của Chí hoàn toàn thay đổi, khiến cho cả làng lúc đầu không
ai biết hắn là ai. “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà
rất cơng cơng. Hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với
cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một
ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
– Hành động của Chí cũng hoàn toàn thay đổi. “Về hôm trước, hôm sau đã thấy
ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều”. Hành vi này quả thật
không bình thường đối với một người bình thường. Đúng là như vậy, sau khi bị Bá
Kiến biến thành tay sai. Chí Phèo trở thành kẻ đâm thuê, chém mướn, rạch mặt ăn
vạ. Không mua được rượu vì chủ quán không bán chịu, Chí Phèo liền đốt quán
ngay. Người dân làng Vũ Đại coi Chí Phèo là một “con quỷ” không hơn không
kém. Không ai coi Chí là một con người. Thấy Chí Phèo, người ta tránh như gặp

phải một con quỷ. Chí Phèo vẫn triền miên trong cơn say. Say trong lúc ăn, say
trong lúc ngủ…
– Khi gặp Thị Nở, Chí Phèo mới thức tỉnh muốn được làm người lương thiện.
+ Thị Nở đã ngoài 30 tuổi, dở hơi và lại xấu “ma chê quỷ hờn”.
+ Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Sự
quan tâm ấy đã thức tỉnh Chí Phèo. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho “hắn thấy
mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người
đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy tự nhiên ai cho cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt
hay giật cướp hắn mới có cái để ăn. “Hắn nhìn bát cháo hành bốc khói mà bâng
khuâng””.
+ Hình ảnh bát cháo hành có giá trị đặc sắc. Nó thể hiện tình thương của con người
đối với đồng loại.
+ Với Chí Phèo, năm ngày sống với thị Nở là năm ngày hạnh phúc của đời Chí.
Hạnh phúc ấy quá ngắn ngủi so với cuộc đời một con người. Đó cũng là những
ngày Chí Phèo không say. Chính thị Nở đã làm cho Chí Phèo thức tỉnh.
+ Tính lương thiện trong Chí Phèo không hề mất đi mà chỉ ngủ mê trong cái vỏ bề
ngoài của một con quỷ dữ. Bản chất ấy khi có được tình người sẽ thức tỉnh. Tình
yêu, sự quan tâm của thị Nở sẽ là cơn gió lành thổi bùng lên đốm lứa thiên lương
còn âm ỉ trong Chí Phèo. Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn
hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém
người”. Bản tính thiên lương của Chí Phèo được miêu tả khá thành công trong


buổi sáng hôm sau khi Chí tỉnh dậy. “Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn
mê rất dài”, “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những
người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy
hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy”. Những ngày trước đây làm
sao Chí Phèo có thể nghe được những âm thanh của cuộc sống vì trước khi gặp thị
Nở, cuộc sống của Chí Phèo là những cơn say dài bất tận. Ăn trong lúc say, ngủ
trong lúc say, hung dữ trong lúc say, chửi trong lúc say… Vì thế mà hắn phải thốt

lên: “Chao ôi là buồn!”, “Hắn lại nao nao buồn”, “hình như có một thời hắn đã
ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại
bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
làm”. Một ước muốn thật chính đáng và giản dị, đời thường.
b.Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
– Tình yêu, sự quan tâm chăm chút của thị Nở đã thức tỉnh Chí Phèo, làm bùng lên
đốm sáng lương tri còn sót lại trong Chí. Chí Phèo khát vọng được quay trở về với
cuộc sống lương thiện, được hoà mình trong xã hội loài người mà thị Nở sẽ là cây
cầu nối.
– Chí Phèo không còn đường để trở về làm người lương thiện được nữa. Bà cô thị
Nở ngăn cấm không cho cháu mình lấy Chí Phèo.
– Chí Phèo bị cự tuyệt về tình yêu. Nguyên nhân trực tiếp là thị Nở và bà cô của
thị. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là do xã hội phong kiến tàn ác, bất công đã
biến Chí thành một “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Tuyệt vọng, Chí Phèo tìm đến
rượu. Nhưng lần này, càng uống, Chí Phèo càng tỉnh ra. “Hắn ôm mặt khóc rưng
rức”. Điều đó chứng tỏ rằng Chí Phèo luôn khát khao được trở về làm người lương
thiện. Khi không còn tình yêu, không còn con đường trở về làm người lương thiện,
Chí Phèo quyết trả hận.
– Hắn quyết định đến nhà thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm
già nhà nó”. Chí Phèo ra đi với một con dao cầm trong tay. Nhưng “hắn không rẽ
vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến và nói thẳng với Bá Kiến; “Tao
muốn làm người lương thiện”, “Ai cho tao lương thiện?” Chí Phèo giết Bá Kiến
và tự kết liễu đời mình. Chí Phèo giết Bá Kiến nghĩa là Chí Phèo đã nhận đúng kẻ
thù của mình. Hai cái chết thể hiện mâu thuẫn đối kháng gay gắt trong xã hội có
giai cấp. Đó là mâu thuẫn giữa người nông dân với giai cấp phong kiến mà đại diện
là bọn địa chủ, cường hào, ác bá ở nông thôn.
-> Chí Phèo chết ngay trước ngưỡng cửa bước vào cuộc sống lương thiện. Đó là bi
kịch của Chí Phèo cũng là bi kịch của của những người nông dân bị bần cùng, bị
lưu manh hoá. Quá thực, Chí Phèo không có lối trở về. Đứng trước hai con đường,
Chí Phèo chỉ được chọn một mà thôi.

Thứ nhất, Chí Phèo tiếp tục trở về sống cuộc sống của một “con quỷ dữ’. Hai là,
Chí Phèo chết để giữ lại phần hiền lương còn sót trong tâm hồn. Chí Phèo đã chọn


con đường thứ hai. Chí Phèo đã chết vì ý thức về nhân phẩm đã trở về trong anh.
Anh không thể chấp nhận cuộc sống thú vật được nữa.
Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn vì khát
khao được làm người lương thiện đã bị từ chối một cách lạnh lùng. Lời nói cuối
cùng của Chí Phèo vừa đanh thép vừa chất chứa phẫn nộ: “Ai cho tao lương
thiện?”.Phải chăng câu nói ấy đã được đặt ra một cách bức thiết khi tác phẩm ra
đời. Làm thế nào, bằng con đường nào để người nông dân không rơi vào tấn bi
kịch như Chí Phèo.
Ý nghĩa hình tượng Chí Phèo : Qua truyện ngắn này, Nam Cao khái quát một hiện
tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng: một bộ phận nông dân lao
động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá. Nhà văn đã kết án
đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thế xác lẫn tâm hồn người nông dân lao
động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay khi họ bị vùi dập
mất cả nhân hình, nhân tính.
4. Đặc sắc nghệ thuật
a. Tiếng chửi của Chí Phèo
– Hắn chửi tất cả : từ trời đời cả làng Vũ Đại “cha đứa nào không chửi nhau với
hắn” “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn”=> đối tượng chửi đã được xác định : xã hội
thực dân nửa phong kiến đã sinh ra cái thằng Chí Phèo, đối tượng chửi qua đó cũng
thu hẹp dần chứng tỏ Chí đang rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc.
– Cái mà Chí nhận được là : “trời có của riêng nhà nào” “đời là tất cả nhưng chẳng
là ai” “không ai lên tiếng cả” “không ai ra điều” “nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra
Chí Phèo”. Đáp lại tiếng chửi ấy trớ trêu thay lại là “tiếng chó cắn lao xao”.
• Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo:
Chí chửi tức là Chí muốn giao tiếp với mọi người nhưng tất cả đều im lặng, chỉ có
“ba con chó dữ với một thằng say rượu”) Chí đã bị đánh bật ra khỏi xã hội loài

người, tiếng chửi trở nên vật vã, tuyệt vọng.
Tiếng chửi của Chí là tiếng nói đau thương của một con người ý thức về bi kịch
của mình: sống giữa cuộc đời nhưng đã mất quyền làm người Đó chính là sự đau
xót của nhà văn đối với nhân vật của mình.
b. Chi tiết bát cháo hành
* Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở phần giữa truyện. Chí Phèo say rượu, gặp
Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị
Nở – Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu
cháo hành mang sang cho hắn.
* Ý nghĩa:
– Về nội dung:
+ Thể hiện tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo


+ Là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng
+ Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí : gây ngạc nhiên, xúc động mạnh,
khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi
dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở
về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị
vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo.
– Về nghệ thuật:
+ Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc
nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
+ Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm
hoá của tình người.
c. Ý nghĩa đoạn kết, hình ảnh cái lò gạch cũ
Sau khi Chí Phèo chết, ở phần kết thúc tác phẩm, Thị Nở lại xuất hiện. Thị “nhớ lại
lúc ăn nằm với hắn… rồi nhìn nhanh xuống bụng”, “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện
ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng bóng người lại qua…”.
– Cử chỉ và ý nghĩ của thị khiến người ta nghĩ tới: sẽ lại có một Chí Phèo con ra

đời (…).
– Hình ảnh “cái lò gạch cũ” xuất hiện trong ý nghĩ của Thị ở đây nằm trong ý đồ
nghệ thuật của nhà văn: Một kiểu kết cấu tác phẩm đầu cuối tương ứng – kết cấu
vòng tròn. Mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và địa chủ cường hoà một lần nữa
được nhấn mạnh tô đậm. Bá Kiến chết thì có lí Cường, Chí Phèo chết thì có một
Chí Phèo con sẽ xuất hiện. Mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ cường hào khi âm
ỉ, khi bùng lên dữ dội, song không thể giải quyết. Vấn đề những con người lao
động lương thiện bị xã hội đẩy vào con đường lưu manh cùng quẫn quay lại chống
trả với xã hội bằng chính sự lưu manh của mình là vấn đề thuộc về bản chất, là quy
luật tất yếu khi xã hội thực dân phong kiến còn tồn tại.
Hình ảnh “cái lò gạch cũ” nằm trong ý đồ nghệ thuật và là một sáng tạo nghệ thuật
đặc sắc của nhà văn Nam Cao.Với hình ảnh này, chủ đề của thiên truyện được khơi
thêm những chiều sâu mới.
5. Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện Chí Phèo
Giá trị hiện thực: là sự tái hiện một cách chân thực những điều đang diễn ra trong
cuộc sống; mà ở đây là bức tranh cuộc sống một làng quê trong xã hội thuộc được
nửa phong kiến.
*Giá trị hiện thực được thể hiện qua:
5.1. Bộ mặt giai cấp thống trị:
a. Phong kiến:
– Chúng cấu kết với nhau cùng bóc lột, sống xa hoa trên sức lao động của nhân
dân.


– Mặt khác, chúng “ngầm cho nhau ăn bùn”, chia thành nhiều phe cánh để đấu đá
nhau, tranh giành quyền lợi của nhau ở mảnh đất “quần ngư tranh thực”
– Để làm rõ hơn bộ mặt của giai cấp phong kiến, có thể phân tích vài nét về gia
đình Bá Kiến mà Lão Bá là chủ nhà:
+ Bá Kiến xuất thân trong một gia đình giàu có, mấy đời làm chánh tổng, bá hộ,
sống sung túc phè phỡn với nhiều đất đai, của cải.

+ Mặc dù không được đặc tả ngoại hình, nhưng qua tiếng cười và tiếng quát, ta có
thể tưởng tượng phần nào sự bề thế, uy quyền của Bá Kiến.
+ Con người Bá Kiến được thể hiện trong nhiều mối quan hệ:
> Hắn là con mọt già chuyên đục khoét và tìm mọi cách vắt kiệt sức của người dân
> Là con cáo già gian xảo quỷ quyệt với những đường đi nước bước được tính toán
cẩn thận để áp bức nhân dân (Điều này được thể hiện rõ qua những lầ Chí Phèo
đến nhà Bá Kiến)
b. Thực dân:
– Ảnh hưởng của chế độ thực dân được thể hiện gián tiếp qua sự xuất hiện của nhà
tù ~~> Làm con người biến dạng về ngoại hình, méo mó nhân cách
5.2. Miêu tả cuộc sống khốn cùng của người dân lao động:
– Người nông dân phải sống trong cảnh bần cùng cơ cực (không có của cải, nghề
nghiệp; chỉ biết làm thuê để kiếm sống)
– Người nông dân bị tha hóa, lưu manh, mất nhân phẩm (Chí Phèo, Năm Thọ, Binh
Chức) (Nguyên nhân: do cuộc sống khó khăn,..; họ bị chính đồng loại của mình
quay lưng; làm mất “sức đề kháng”)
Giá trị nhân đạo:
*Giá trị nhân đạo: Sự quan tâm đến những người có hoàn cảnh không may; thông
cảm, chia sẻ và phát hiện những phẩm chất tốt đẹp ở họ.
*Biểu hiện:
– Thấu hiểu hoàn cảnh của người lao động; bày tỏ sự thương cảm sâu sắc.
+ Sự xót xa với thân phận một sinh linh bé nhỏ (Chí Phèo từ lúc bị bỏ rơi ở cái lò
gạch cũ đã được nhiều người dân chuyền tay nhau nuôi nấng)
+ Cảm nhận được thế giới nội tâm của Chí với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau
+ Hiểu được tâm trạng phẫn uất, tuyệt vọng của Chí (khi bị cự tuyệt tình yêu và đòi
lương thiện)
– Phát hiện những phẩm chất tốt đẹp của họ
+Chí Phèo: hiền lành, cần cù lao động, ước mơ trong sáng, giàu lòng tự trọng
+Thị Nở: giàu tình người (thể hiện ở sự chăm sóc với Chí Phèo, bát cháo hành)
-Khẳng định chất lương thiện trong con người tưởng chừng đã hóa quỷ dữ (qua lời

đối thoại và độc thoại nội tâm của Chí
Kết luận :


Chí Phèo là truyện ngắn thành công của Nam Cao qua việc xây dựng kết cấu, tình
huống truyện, chi tiết đắt giá; xây dựng được nhân vật điển hình. Nhà văn đã phản
ánh đầy đủ và cụ thể bức tranh xã hội một làng quê. Bằng cái nhìn vừa căm phẫn
cái xấu vừa thấm đẫm tình yêu thương đối với tầng lớp thấp cổ bé họng, tác phẩm
vì thế đã có giá trị rất lớn trong việc nâng cao nhận thức, tình cảm cho người đọc.



×