Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Đảng lãnh đạo hợp tác trên lĩnh vực đào tạo của việt nam với liên xô từ năm 1954 đến năm 1964

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.58 KB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

PHẠM XUÂN TÚ

ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỢP TÁC TRÊN LĨNH vực
ĐÀO TẠO CỦA VỆT NAM VỚI LIÊN XÔ
TỪ NĂM 1954 ĐẾN NĂM 1964

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngưòi hướng dẫn khoa học:
ThS.Phạm Văn Giềng

HÀ NỘI, 2016


BẢNG KÝ HIỆU NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

CNCS

: Chủ nghĩa cộng sản

CNĐQ

: Chủ nghĩa đế quốc

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội



ĐCSLX

: Đảng cộng sản Liên Xô

ĐCSVN

: Đảng cộng sản Việt Nam

LBCHXHCN
NXB

: Liên bang Cộng hòa xã hội chủ
: Nhà xuất bản

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

VNDCCH

: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa


MỤC LỤC


MỞ

1. Lý do chọn đề tài

Trong lịch sử ngoại giao của Việt Nam, quan hệ giữa Việt Nam - Liên Xô (hiện
nay là quan hệ Liên Bang Nga) có một vị trí đáng kể, đã và đang góp phần tích cực
vào sự phát triển của mỗi nước.
Quan hệ giữa hai dân tộc Việt - Xô trong lịch sử được biểu hiện ngay từ những
lần tiếp xúc đầu tiên của người Nga với người Việt Nam vào giữa thế kỷ XIX. Theo
nguồn tài liệu Nga thì vào năm 1981, trong chuyến du khảo Viễn Đông “một nhân vật
nổi tiếng trong lịch sử Nga là Nga hoàng Nikolai Đệ nhị - khi còn là Thái Tử đã viếng
thăm Sài Gòn trên chiến hạm Gzov”. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa nhân dân Liên Xô
và nhân dân Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ sau cách mạng tháng Mười Nga năm
1917. Bên cạnh đó do tác động của hoàn cảnh lịch sử phức tạp lúc bây giờ thì phải đến
năm 1950 quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Liên Xô mói chính thức được thiết lập.
Tính từ khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay, mối quan hệ giữa
Liên Xô - Việt Nam đã trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau. Nhưng trong đó
giai đoạn 1954 - 1964 là thời kì mà quan hệ Việt-Xô diễn ra trong bối cảnh mới. Đây
là giai đoạn đường lối cách mạng Việt Nam có sự thay đổi. Mối quan hệ ở thời kỳ này
đã góp phàn quan trọng đối vói thắng lọi của cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ và trong công cuộc xây dựng đất nước, đồng thời cũng đóng vai trò
không nhỏ trong sự lớn mạnh của Liên Xô.
Thời kỳ 1954 - 1964, cũng là thòi kì mà mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô
được củng cố và phát triển trong bối cảnh quốc tế phức tạp vói sự đan xen lọi
ích của các cường quốc. Vì vậy, quan hệ Việt Nam - Liên Xô, nhất là thời kỳ
1954 - 1964 là vấn đề quan trọng trong lịch sử ngoại giao của hai nước, thu
hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu.


Nghiên cứu vấn đề quan hệ Việt Nam - Liên Xô có ý nghĩa khoa học sâu sắc
giúp người nghiên cứu: thấy được mối quan hệ của Việt Nam - Liên Xô nhất là thòi kỳ
1954 -1964, thấy được lọi ích của hai nước ữong mối quan hệ này và thấy được sự tác
động của các nước lớn đối với quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Liên Xô.
Nghiên cứu vấn đề này còn mang ý nghĩa thực tiễn: trên cơ sở làm sáng tỏ mối

quan hệ Việt - Xô ữong thời kỳ 1954 -1964, tạo cơ sở cho chính sách ngoại giao đúng
đắn, phù hợp với Liên Bang Nga trong bối cảnh ngày nay, góp phần xây dựng kinh tến
- văn hóa của đất nước đảm bảo an ninh quốc phòng cho Tổ quốc.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn đó, tôi đã chọn đề tài “Đảng lãnh
đạo hợp tác trên lĩnh vực đào tạo của Việt Nam với Liên Xô từ năm 1954 đến
năm 1964” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc tìm hiểu mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong lịch sử nói chung và ttong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam nói riêng đã được nhiều học giả
quan tâm nghiên cứu.
Trước tiên, ta phải kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu như “Việt Nam Liên Xô 30 năm quan hệ 1950 - 1980” xuất bản năm 1983 của Nxb Ngoại giao Hà
Nội và Nxb Tiến bộ Matxcova đã đề cập đến mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và
Liên Xô thông qua những văn kiện quan trọng.
Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu tổng kết về thắng lọi của mối quan hệ
giữa hai nước ừong lĩnh vực kinh tế, văn hóa cũng được công bố, như cuốn “Quan hệ
hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam - Liên Xô” do Nxb Sự thật ấn hành năm 1975,
cuốn “Thẳng lợi của tình hữu nghị và hợp tác toàn diện Việt Nam - Liên Xô” do Nxb
Sự thật Hà Nội ấn hành năm 1983.
Đặc biệt là công trình nghiên cứu “Quan hệ Việt Nam - Liên Xô 1917 - 1991:
những sự kiện lịch sứ” của TS. Nguyễn Thị Hồng Vân do Nxb Từ điển Bách Khoa ấn


hành năm 2010 đã ghi lại những sụ kiện quan trọng trong hoạt động chính trị - ngoại
giao - văn hóa - xã hội giữa Việt Nam và Liên Xô trong thời kỳ 1917- 1991.
Các bài viết “Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong kháng chiến chổng Mỹ 1954
-1964” của tác giả Phạm Quang Minh in trên Tạp chí Lịch sử quân sự số 205(2009),
“Góp phần tìm hiểu về quan hệ Việt - Xô 1954 -1964” của tác giả Nguyễn Thị Mai
Hoa in trên Tạp chí Lịch sử quân sự 239, (2011) đã phản ánh mối quan hệ giữa Việt
Nam và Liên Xô trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

Kế thừa kết quả của những nguời đi truớc tôi nghiên cứu vấn đề “Đảng lãnh
đao hop tác trên lĩnh vue đào tao của Viêt Nam vói Liên Xô từ năm 1954 đến năm
1964” một cách hệ thống và toàn diện với mong muốn phác họa toàn cảnh mối quan
hệ họp tác Việt - Xô cũng nhu nêu lên đuợc thực chất, đặc điểm của mối quan hệ Việt
Nam - Liên Xô thời kỳ này.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.
-

Mục đích nghiên cứu

Đề tài làm rõ đặc điểm tình hình tác động đến hợp tác quốc tế ữong lĩnh vực đào tạo
của Việt Nam với Liên Xô.

-

Đề tài làm rõ chủ truơng và quá trình Đảng chỉ đạo họp tác ừên lĩnh vực đào tạo của
Việt Nam với Liên Xô từ năm 1954 đến năm 1964.

-

Đề tài làm rõ sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam trên lĩnh vục đào tạo.

-

Nêu lên các thành tựu và hạn chế, tồn tại từ đó rút ra những nhận xét, kinh nghiệm về
sụ lãnh đạo, chỉ đạo họp tác đào tạo với Liên Xô của Đảng.

3.2.


Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này tôi giải quyết các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, khái quát về mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô truớc năm 1954.
Thứ hai, nêu rõ chủ trương và quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hợp

tác đào tạo với Liên Xô từ năm 1954 đến năm 1964.

4. Đổi tượng và phạm vi nghiên cứu


a. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung chủ yếu nghiên cứu vấn đề lãnh đạo họp tác đào tạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam với Liên Xô giai đoạn 1954 đến năm 1964.

b. Phạm vị nghiên cứu
về không gian: Họp tác đào tạo của Việt Nam vói Liên Xô.
về thời gian: Khóa luận nghiên cứu Đảng lãnh đạo họp tác trên lĩnh vực đào tạo
của Việt Nam với Liên Xô từ năm 1954 đến năm 1964. Bên cạnh đó, khóa luận cũng
khái quát về mối quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn trước đó để làm cơ sở cho việc
phân tích quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong kháng chiến chống Mỹ giai đoạn đàu tiên.
về nội dung: Nghiên cứu mối quan hệ họp tác Việt - Xô trên các lĩnh vực chính
trị - ngoại giao, hợp tác trên lĩnh vực quân sự, kinh tế, văn hóa - xã hội. Trong đó chú
ừọng khai thác về chủ trương hợp tác đào tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Liên
Xô.

5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
a. Nguồn tài liệu
Nghiên cứu đề tài, tôi sử dụng nguồn tài liệu gốc như những tuyên bố chính thức
của hai Đảng, hai Nhà nước về quan hệ ngoại giao, các phát biểu của những nhà lãnh

đạo, báo cáo của các cơ quan Nhà nước về viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam. Ngoài
ra, tôi sử dụng nhiều nguồn tài liệu tham khảo khác như sách viết về quan hệ Việt
Nam- Liên Xô giai đoạn này và những bài nghiên cứu có liên quan đăng trên tạp chí
Lịch sử quân sự, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, các văn kiện đại hội Đảng... nguồn tài
liệu trên mạng Internet.
b. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương
pháp duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ yếu để đánh giá, nhận xét các sự
kiện, hiện tượng lịch sử. Sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp phương pháp logic
.Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp thống kê, đối chiếu, phân tích, so sánh xác minh


sự kiện, hiện tượng lịch sử

6. Ý nghĩa của đề tài
Trên cơ sở nguồn tài liệu đã tập hợp, khóa luận bước đầu hệ thống bức tranh
toàn cảnh quan hệ Việt Nam - Liên Xô thòi kỳ 1954 - 1964. Khóa luận góp phần vào
hệ thống tư liệu phục vụ cho quá trình tìm hiểu về quan hệ hợp tác đào tạo Việt Nam Liên Xô.

7. Bổ cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo, khóa
luận gồm 2 chương:
Chương 1 : Tiền đề cho mối quan hệ hợp tác đào tạo giữa Việt Nam và Liên Xô
trong giai đoạn 1954 đến năm 1964.
Chương 2: Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam hợp tác đào tạo với Liên Xô
trong giai đoạn 1954 đến năm 1964.


NỘI DUNG
Chương 1

TIỀN ĐÈ CHO MỐI QUAN HỆ HỢP TÁC ĐÀO TẠO GIỮA
VIỆT NAM VÀ LIÊN XÔ TRONG GIAI ĐOẠN 1954 -1964

1.1.

Khái quát về quan hệ Việt Nam - Liên Xô trước năm 1954

1.1.1.

Bối cảnh quốc tế
về bối cảnh quốc tế lúc bấy giờ thì đang bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố lớn đó là:
Thứ nhất: Chiến tranh Thế giói thứ II (1939 - 1945) kết thúc, bàn cờ chính trị

thế giới hình thành thế đối đầu gay gắt giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN) và
tư bản chủ nghĩa (TBCN) do Liên Xô và Mỹ đứng đầu. Hai khối Đông - Tây đối đầu
toàn diện cả về tư tưởng, chính trị, quân sự, kinh tế v.v... Trong bối cảnh như vậy, đến
năm 1949 CHND Trung Hoa ra đời, CNCS trở thành hệ thống trên toàn thế giới đã
phá võ thế độc quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ và tăng cường lực lượng của CNXH.
Để đối phó lại, Mỹ đã hô hào các nước tư bản tập trung chống phá Liên Xô và
các nước dân chủ nhân dân, chống chủ nghĩa cộng sản và các lực lượng tiến bộ ở các
nước tư bản.
Nhiệm vụ của Mỹ là phải đứng ra “đảm nhiệm sứ mạng lãnh đạo thế giới tự do”,
phải “giúp đỡ” cho các dân tộc trên thế giới chống lại sự đe doạ của chủ nghĩa cộng
sản, chống lại sự bành trướng của nước Nga Xô Viết bằng mọi biện pháp kinh tế, quân
sự. Chính quyền Tơ - ru - man và Sóc - sin hy vọng bằng những biện pháp cứng rắn sẽ
buộc được Liên Xô phải lùi bước, tiến tới làm tan rã nhà nước Liên Xô và xoá bỏ hệ
thống xã hội chủ nghĩa. “Chính sách ngăn chặn” (Contaimetn policy ) của chính quyền
Tơ - ru - man được đề ra dựa ừên quan điểm của các nhà chiến lược Mỹ.
Vì bị chi phối nặng nề bởi “chiến tranh lạnh” do Mỹ phát động, trật tự hai cực
Xô - Mỹ đã có những ảnh hưởng quyết định đến toàn bộ mối quan hệ quốc tế, lôi cuốn

các khu vực, các quốc gia phát triển theo xu hướng có lợi cho mỗi cực.


Đến giai đoạn 1950 - 1954, sự đối đầu giữa hai cực Xô - Mỹ ngày càng trở nên
gay gắt, chiến tranh lạnh đã lên đến đỉnh điểm được đánh dấu bằng cuộc chiến tranh
cục bộ Triều Tiên (1950-1953).
Cùng với việc củng cố địa vị của mình ở Tây Âu và những khu vực khác, Mỹ đã
xác lập những căn cứ và liên minh quân sự bao quanh Châu Á - Thái Bình Dương
nhằm ngăn chặn CNCS đang phát triển ở Châu Á. Năm 1951, Mỹ ký hiệp ước an ninh
với Philippin, lập khối liên minh quân sự ANZUS gồm Mỹ, Ôtxtrâylia, Niudilân, ký
hiệp ước hòa bình với Nhật.
Theo đó, Mỹ có quyền đóng quân lâu dài ừên đất Nhật. Trong những năm 1952,
1953 và 1954, Mỹ tiếp tục ký Hiệp ước phòng thủ chung với Nam Triều Tiên, thành
lập khối liên minh quân sự của Mỹ ở Nhật, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Philippin, Thái
Lan, Pakixtan....
Giai đoạn này tình hình thế giới đang rất căng thẳng đặc biệt là giữa 2 nước lớn
đang đối đàu với nhau một bên là chủ nghĩa đế quốc (Mỹ) với tham vọng bá chủ thế
giới một bên là phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu lúc bấy giờ là Liên Xô.
Thứ hai: Sau thế chiến thứ II, phong trào giải phóng dân tộc đã phát triển mạnh
mẽ ở nhiều nước Á, Phi, Mỹ Latinh.
Hầu hết các quốc gia ở những khu vực này đã giành được độc lập dân tộc, làm
tan rã hệ thống thuộc điạ của chủ nghĩa thực dân.
* Ở châu Á.
Phong trào giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ngay sau Thế chiến thứ II, dẫn
đến sự ra đòi của hàng loạt quốc gia độc lập.

-

Ở Trung Quốc: Cuộc nội chiến Cách mạng 1946-1949 đã lật đổ nền thống trị cuả tập
đoàn Tưởng Giới Thạch, thành lập nước CHND Trung Hoa (1/10/1949), đưa nhân dân

Trung Quốc vào thời kỉ nguyên độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội.

-

Ở Ấn Độ: Sự lớn mạnh cuả phong trào giải phóng dân tộc đã buộc đã buộc thực dân
Anh phải thay đổi hình thức cai trị. Ngày 26/1/1950, Ấn Độ tuyên bố độc lập, nước


Cộng hoà Ấn Độ ra đòi.

-

Ở Triều Tiên: Sau Thế chiến thứ II, Triều Tiên tạm thời chia làm 2 miền quân quản
(quân đội Liên Xô đóng quân ở miền Bắc vĩ tuyến 38°, quân đội Mỹ đóng quân ở
Nam vĩ tuyến 38°).
+ Ở Bắc Triều Tiên: Nhân dân Triều Tiên đã xây dựng chính quyền nhân dân,
thực hiện các cải cách dân chủ.
+ 9/1948, nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Triều Tiên ra đòi tiến hành xây
dựng chủ nghiã xã hội, đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục,
giao thông vận tải.
+ Ở Nam Triều Tiên, 5/1948, Mỹ lập ra chính phủ Lý Thừa Văn, thành lập nước
Đại Hàn Dân Quốc (Hàn Quốc).
+ Gần đây, Hàn Quốc đã trở thành nước công nghiệp mới (NIC) với nền nông
nghiệp, giao thông và giáo dục hiện đại...

-

Ở Trung Đông:
+ Sau Thế chiến thứ II, mâu thuẫn và tranh chấp giữa Mỹ, Anh, Pháp nhằm
khống chế khu vực này là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây bất ổn định ở

Trung Đông (chiến tranh, xung đột tôn giáo và dân tộc, tranh chấp lãnh thổ...).

1.1.2.

Tình hình Liên Xô
Sau chiến tranh, vị trí của Liên Xô được nâng cao trên trường quốc tế, trở thành

cường quốc mạnh nhất ở Châu Âu, là trụ cột của phe XHCN. Tuy nhiên, do bị tổn thất
nặng nề, nên sau khi chiến tranh kết thúc, Liên Xô khẩn trương bắt tay vào việc khôi
phục đất nước mà không có bất kỳ sự viện ữợ nào từ bên ngoài. Bằng tinh thần lao
động càn cù và sáng tạo, tự lực cánh sinh, Liên Xô đã giành được những thắng lọi
quan trọng trong kế hoạch 5 năm lần thứ IV (1946 -1950) về khôi phục và phát triển
nền kinh tế quốc dân. Trên các lĩnh vực khác, Liên Xô cũng gặt hái được những thành
tựu, nhất là lĩnh vực quốc phòng. Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên
tử, chấm dứt sự độc quyền của Mỹ về loại vũ khí này.


Cùng vói vấn đề này chúng ta có thể thấy nền khoa học - kỹ thuật ưên thế giới
đặc biệt là Liên Xô rất được chú trọng và phát triển mạnh mẽ đáp ứng nhu cầu thiết
yếu lúc bấy giờ khi Mỹ đang đứng đầu về các loại vũ khí quân sự, để ttánh tình trạnh
này yêu cầu Liên Xô cần phải tăng cường đầu tư cho lĩnh vực khoa học, kỹ thuật. Với
những thành tự to lớn như năm 1957 là nước đầu tiên phóng thành công vệ tinh nhân
tạo lên khoảng không vũ trụ. Cho đến năm 1961 phóng con tàu vũ trụ “Phương Đông”
đưa nhà du hành vũ trụ Ga- ga- rin bay vòng quanh trái đất, dẫn đầu thế giói về những
chuyến bay dài trong vũ trụ. Đây hoàn toàn là những thành công to lớn của Liên Xô
mà không phải nước nào cũng làm được trong giai đoạn 1954 - 1964, khẳng định một
làn nữa sự đứng đầu về tất cả các mặt của Liên Xô - đại diện cho phe XHCN.
Là một nhà nước XHCN, họp tác hữu nghị vẫn là điểm chủ chốt cơ bản trong
hoạt động ngoại giao của nhà nước Xô Viết. Chính sách đó càng được Liên Xô đề cao
trong điều kiện Mỹ luôn tìm cách phá vỡ nền hòa bình bằng việc phát động “chiến

tranh lạnh” nhằm tiêu diệt Liên Xô và hệ thống XHCN.
Sau chiến ữanh, chính sách đối ngoại của Liên Xô đó là: “Phát triển tình đoàn
kết anh em với các nước dân chủ nhân dân, củng cố toàn diện hệ thống XHCN thế
giới, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của các nước đang đấu tranh xóa bỏ ách
thống trị thực dân, họp tác hữu nghị với các quốc gia độc lập trẻ tuổi, bảo vệ hòa bình,
vạch trần chính sách đe dọa an ninh chung của giới cầm quyền Mỹ và có những biện
pháp đích đáng đối với những hành động của chúng”. [6, tr.26].
Thực hiện chính sách đó, trong thòi gian từ 1945 đến 1950 Liên Xô đã ký một
loạt các hiệp ước hữu nghị, tương trợ với các nước như: Hiệp ước hữu nghị, tương trợ
và hợp tác sau chiến tranh giữa Liên Xô - Tiệp Khắc ngày 12/12/1943, Hiệp ước giữa
Liên Xô - Ba Lan ngày 21/4/1945, Hiệp ước giữa Liên Xô-Bungari ngàyl8/3/1948,
Hiệp ước giữa Liên Xô - Hunggari ngày 18/2/1948, Hiệp ước giữa Liên Xô - Rumani
ngày 4/2/1948...Với các hiệp ước hữu nghị, họp tác này Liên Xô đã dành cho các nước
Trung - Đông Âu những khoản tín dụng dài hạn, giúp đỡ khoa học, kỹ thuật, công


nghệ, lương thực, nguyên liệu và kinh nghiệm quản lý kinh tế, giúp các nước Đông Âu
chống lại chính sách bao vây, cô lập kinh tế do Mỹ và các nước Tây Âu tiên hành.
Đồng thời, qua đó Liên Xô đã xác lập vai trò ảnh hưởng của mình ở khu vực Trung Đông Âu. Liên Xô cũng đóng vai trò trụ cột là nhân tố quyết định sự tồn tại của Hội
đồng tương trợ kinh tế (SEV) thành lập tháng 1/1949 giữa các nước đó.
Bên cạnh việc bảo vệ, giúp đỡ các nước ở Châu Âu, Liên Xô tiếp tục mở rộng
phạm vi ảnh hưởng của mình ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 14/2/1950,
Liên Xô ký vói Trung Quốc “Hiệp ước hữu nghị, đồng minh và tương trợ lẫn nhau”.
Đây là sự kiện có tác động mạnh mẽ tói quan hệ giữa Liên Xô với các nước Châu Á,
đặc biệt tạo sự chuyển biến mói trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc - Liên Xô. Để
củng cố mối quan hệ Xô - Trung, năm 1952, Liên Xô còn ký vói Trung Quốc một hiệp
ước trị giá 300 triệu USD, sau đó cấp 500 triệu rúp với lãi xuất ưu đãi.
Tiếp đó, trong chuyến đi thăm Trung Quốc tháng 10/1954, Khơrupsốp đã ký một
loạt Hiệp định vói Trung Quốc để khẳng định tình đoàn kết, hữu nghị giữa hai nước và
ký kết 5 văn kiện phụ lục: Liên Xô rút khỏi cảng Đại Liên, Lữ Thuận; bán lại các

Công ty liên doanh Xô - Trung thành lập năm 1950 - 1951 cho Trung Quốc; xây dựng
đường sắt Lan Châu - Alma Ata và Cát Lân - Ulan Bato; ký kết chương trình hợp tác
khoa học kỹ thuật 5 năm.
Thời gian này, quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc rất tốt đẹp.Trong giai đoạn
này Trung Quốc hoàn toàn ủng hộ đường lối và thừa nhận sự lãnh đạo của Liên Xô
đối với phe XHCN.Nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc đã khôi phục được nền
kinh tế trong thòi gian ngắn và đã xây dựng được sơ sở quan trọng cho nền công
nghiệp nặng của mình.
Bên cạnh Trung Quốc, Liên Xô còn ký Hiệp ước hữu nghị và tương trợ lẫn nhau
ngày 27/2/1946 với Mông cổ; Hiệp định hợp tác về kinh tế và văn hóa tháng 3/1949
vói Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên.Những hiệp ước này có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với công cuộc xây dựng và củng cố nền độc lập của các nước, đồng


thời tăng cường sức mạnh cho hệ thống XHCN.Qua đó, Liên Xô cũng có điều kiện
thuận lợi hơn để giúp đỡ cách mạng Việt Nam và ngăn chặn ảnh hưởng của Mỹ.
Như vậy, chính sách ngoại giao tích cực, chủ động của Liên Xô là một trong những
nhân tố góp phàn đưa tới sự xác lập mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô, đồng thời đưa
tới sự lớn mạnh không ngừng của phe XHCN.

1.1.3.

Tình hình Việt Nam
Chiến tranh thế giói thứ n kết thúc, Nhà nước VNDCCH vừa mới ra đòi

(2/9/1945) đã phải đương đàu với muôn vàn khó khăn, chính quyền cách mạng vừa
mới thành lập song đã phải đối đầu vói giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Vận mệnh
dân tộc lúc đó như “ngàn cân ừeo sợi tóc”.
Ngày 3/10/1945 Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đưa ra chính sách
ngoại giao để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế và xem đây là một trong những

nhân tố góp phần đưa nước nhà đến sự độc lập hoàn toàn vĩnh viễn. Nội dung cơ bản
của chính sách ngoại giao là mong muốn hợp tác với các nước đồng minh, sẵn sàng
thân thiện, hợp tác với các nước nhược tiểu dân tộc, cùng với hai người bạn Lào và
Cao Miên chống lại sự xâm lăng của Pháp và giúp đỡ nhau trong sự nghiệp xây dựng
đất nước. Riêng với tướng Đờ Gôn - người đứng đầu Chính phủ Pháp, chủ trương
thống trị Việt Nam thì quan điểm đối ngoại của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là kiên
quyết chống lại. Còn những kiều dân Pháp, Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho họ làm ăn
sinh sống, nếu họ tôn ttọng độc lập chủ quyền của Việt Nam.
Ngày 21/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi công hàm cho chính phủ Liên Xô.
Nội dung công hàm lên án mạnh mẽ chính sách phản động, nhu nhược và đầu hàng
phát xít Nhật của thực dân Pháp trong chiến tranh thế giới lần thứ hai và âm mưu tái
chiến Đông Dương của chúng sau khi nhân dân Việt Nam đã giành được độc lập. Bức
công hàm nêu rõ: “Nhân dân An Nam muốn hợp tác với Liên Hợp Quốc trong việc
bảo vệ hòa bình lâu dài trên thế giới... Cương quyết đấu ữanh chống lại chúng bất cứ
tình huống nào...” [19, tr.101].


Từ năm 1947 đến năm 1949, cùng với những thắng lọi trên các chiến trường,
hoạt động đối ngoại của nhà nước Việt Nam trở nên sôi động, chủ động và tích cực
hơn bằng những hình thức phong phú, đa dạng. Lúc này, hoạt động đối ngoại của Nhà
nước Việt Nam bắt đầu hướng ra quan hệ hợp tác với quốc tế. Ngày 14/7/1947, cơ
quan đại diện của Việt Nam tại Băng Cốc chính thức đi vào hoạt động. Năm 1948,
Việt Nam lập cơ quan đại diện ở Miến Điện, đồng thòi lập quan hệ với Ấn Độ,
Inđônêxia, Pakixtan dưới nhiều hình thức khác nhau. Chính phủ Việt Nam còn cử phái
viên đến các nước để mở rộng quan hệ với các tổ chức dân chủ, hòa bình, các Đảng
anh em ở các châu lục. Trên các diễn đàn quốc tế, các đại biểu của Việt Nam đã dự hội
nghị quốc tế và khu vực. Trong thòi gian này, Việt Nam đã tổ chức được 10 phòng
thông tin ở các quốc gia khác nhau như Pari, New York, Luân Đôn, Băng Cốc, Hồng
Kông, Tân Đảo, Singapo, Niuđêli.
Trước năm 1950, VNDCCH đã tranh thủ giành sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô.

Đối vói Liên Xô, ngay sau khi nước VNDCCH ra đời, Chính phủ Hồ Chí Minh đã
nhiều làn kêu gọi sự ủng hộ về vật chất và tinh thần đồng thời kín đáo khẳng định sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương trong cuộc kháng chiến của mình.
Nếu như sau cách mạng tháng Tám, Việt Nam bị cô lập không nhận được sự
công nhận cũng như sự giúp đỡ của các nước thi đến thòi gian này, hoạt động ngoại
giao của nước VNDCCH đã thu được những thắng lợi đáng kể, bước đầu phá được sự
cô lập vói bên ngoài, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các nước làm cho cuộc
kháng chiến hòa với xu hướng chống chủ nghĩa thực dân, CNĐQ vì độc lập, hòa bình
và dân chủ.
Riêng đối với Liên Xô, trụ cột của phe CNXH, Đảng ta vẫn tiếp tục phát triển
mối quan hệ truyền thống cũ, tuyên truyền bảo vệ Liên Xô khỏi sự xuyên tạc của bọn
thù địch, nâng cao vai trò của Liên Xô ừên vũ đài quốc tế, tiến hành tổ chức kỷ niệm
cách mạng tháng Mười.
Một điều đáng chú ý là với tư cách một nước vừa mới giành độc lập, Việt Nam


đã rất sớm có mối quan hệ với nhà nước Xô Viết để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ
của bạn.
Hai mươi ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
mật điện cho Chủ tịch I.v. Xtalin, thông báo khẩn cấp về tình hình Việt Nam và đề
nghị Liên Xô có giải pháp hỗ trợ.
Ngày 30/1/1950, thay mặt Chính phủ Việt Nam, Bộ Ngoại giao Hoàng Minh
Giám gửi công hàm cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô, đề nghị hai nước “kiến lập
quan hệ ngoại giao chính thức và trao đổi đại sứ ” [18, tt.l 12].
Kể từ chiến thắng Biên Giói tháng 10/1950, cuộc kháng chiến chống Pháp của
nhân dân Việt Nam bước vào giai đoạn mới vói liên tiếp những thắng lợi trên chiến
trường: Năm 1953 -1954 thắng lợi trong chiến cuộc Đông - Xuân và tháng 5/1954
chiến thắng Điện Biên Phủ. Nhân dân Campuchia và Lào cũng giành được thắng lợi to
lớn. Với viện trợ của Mỹ cũng đã không giúp Pháp giữ được Việt Nam và Đông
Dương. Để Đông Dương không rơi vào tay cộng sản, không trở thành phản ứng dây

chuyền “đe dọa” đến địa vị của Mỹ ở khu vực như thuyết Đôminô của Mỹ đưa ra, Mỹ
tìm cách thay thế Pháp nhằm xác lập vị trí của mình ở Đông Dương.
Từ cuối năm 1953 đến đầu năm 1954, khi “chiến tranh lạnh” đến đỉnh điểm,
xuất hiện xu thế hòa dịu giữa các cường quốc để giải quyết vấn đề quốc tế. Hội nghị
Bộ trưởng ngoại giao bốn cường quốc: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp tại Beclin tháng
1/1954, đưa ra những biện pháp làm dịu tình hình trong quan hệ quốc tế và triệu tập
Hội nghị năm nước lớn với sự tham gia của CHND Trung Hoa để giải quyết hàng lọat
vấn đề, trong đó sẽ triệu tập Hội nghị Giơnevơ về chấm dứt tình hình căng thẳng trên
bán đảo Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Tình hình trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ Xô - Việt. Một mặt, Liên Xô
ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam, mặt khác vì lợi ích
chiến lược, muốn tìm giải pháp hòa bình cho vấn đề Đông Dương.

1.2.

Quan hệ Việt Nam - Liên Xô trước năm 1954


Liên Xô và Việt Nam tuy cách xa nhau hàng vạn dặm, nhưng giữa hai dân tộc đã
có những cuộc tiếp xúc với nhau từ rất sớm. Theo những tài liệu do các nhà sử học
Nga sưu tàm: vào năm 1862, một chiếc tàu thuộc hạm đội hải quân Nga trên chuyến
vòng quanh thế giới đã thả leo tại vịnh Sài Gòn. Trong số những người trên tàu, có nhà
văn dân chủ Nga Makhailôvich Xtanhiucôvich - người đã ghi lại ấn tượng, tình cảm
tốt đẹp trong hồi ký của mình về mảnh đất Nam Bộ của Việt Nam: “Người dân địa
phương khi biết rằng con tàu lạ lẫm này tới đây với mục đích hòa bình, đã đón tiếp
những sứ giả của đất nước Nga xa xôi với một tình cảm chân thành, về phía mình,
những người thủy thủ Nga cũng đáp lại họ bằng một lòng cảm thông sâu sắc vói cuộc
đấu tranh bi tráng của nhân dân Việt Nam chống lại bọn thực dân ngoại quốc”[12,
tr.3]. Như vậy, ngay từ giữa thế kỷ XIX, những người thủy thủ Nga đã đem những bức
thông điệp của tình hữu nghị đầu tiên đến với Việt Nam.

Song phải đến khi cuộc Cách mạng tháng Mười Nga thành công thì tên gọi nước
Nga mói trở nên quen thuộc với những nhà yêu nước Việt Nam và toàn thể nhân dân
lao động Việt Nam.
Thắng lọi của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vang vọng đến “năm châu bốn
biển”, mở ra kỷ nguyên mói trong lịch sử loài người, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh
giá: “Như ánh mặt ữời chói lọi Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu,
thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới. [7]
Tác động to lớn nhất và quan trọng nhất của Cách mạng tháng mười Nga đối với
cách mạng Việt Nam là đã vạch ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam. Khi đọc được “Luận cưomg về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin,
Nguyễn Ái Quốc nhận thức được rằng: chính Cách mạng vô sản theo khuôn mẫu của
Cách mạng tháng Mười là con đường đúng đắn duy nhất để giải phóng dân tộc Việt
Nam. Trên cơ sở những ý kiến của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nguyễn
Ái Quốc đã xây dựng một hệ thống chiến lược cho cách mạng Việt Nam, dẫn đến


thắng lọi của Cách mạng tháng Tám và sự ra đòi của nước Việt Nam độc lập. Nguyễn
Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên nhận thức được một cách đầy đủ và sáng tạo nhất
tư tưởng tiến bộ của Cách mạng tháng Mưòi, của Lênin - tư tưởng kết hợp CNXH với
độc lập dân tộc và coi đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng đất nước, giải
phóng dân tộc.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được sơ thảo đề cương về vấn đề dân tộc
và thuộc địa của Lênin. Bản đề cương đã chỉ cho Người thấy con đường cứu nước,
giải phóng cho dân tộc mình. Từ đó, Người tin theo Lênin. Tháng 6/1923, được sự
giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc được cử sang công tác ở Maxcơva.
Đây là sự kiện quan trọng không chỉ trong cuộc đời hoạt động của Người mà còn với
cách mạng Việt Nam. Trong thòi gian sống và hoạt động tại Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc
tận mắt chứng kiến những thành quả đặc biệt trong lĩnh vực xã hội của đất nước và
nhân dân Xô Viết. Tại quê hương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc vừa công tác tại Quốc

tế nông dân, vừa công tác tại bộ Phương Đông, tham gia lớp học ngắn ngày tại Trường
Đại học Phương Đông Matxcơva. Nguyễn Ái Quốc đã tham dự nhiều đại hội Quốc tế
quan ữọng ở Liên Xô: Đại hội thành lập quốc tế nông dân, Đại hội quốc tế nông hội
đỏ, đặc biệt là Đại hội V Quốc tế cộng sản (17/6 đến 8/7/1924). Tại các diễn đàn,
Nguyễn Ái Quốc đều có những bài tham luận trình bày chi tiết đời sống của công
nhân, nông dân ở các nước thuộc địa, đánh giá các cuộc đấu tranh của họ, vừa để thu
hút sự chú ý của các tổ chức quốc tế đối với cuộc đấu tranh ở Việt Nam, vừa để tuyên
truyền, giương cao ngọn cờ của Lênin. Sự có mặt của Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô
trong những năm 20 - 30 của thế kỷ XX đã góp phàn mở đàu cho các mối quan hệ
Liên Xô - Việt Nam, từng bước thiết lập một cách vững chắc và lâu dài tình hữu nghị,
đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa nhân dân hai nước.
Ngay sau khi ra đời, Chính phủ Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đã tích cực tiến hành các hoạt động ngoại giao để các nước trên thế giới, trước hết là
các nước XHCN phải công nhận và ủng hộ Việt Nam, song những cố gắng đó chưa


đem lại kết quả. Sau chiến tranh, Liên Xô còn lo củng cố các mối quan hệ quốc tế và
ổn định tình hình trong nước. Mặt khác do các nhà lãnh đạo Liên Xô chưa tin tưởng
vào mặt trận Việt Minh do
Đảng Cộng sản lãnh đạo cho nên Việt Nam chưa nhận được sự ủng hộ nào từ phía
Liên Xô.
Trong thời gian từ 1917 đến 1950 Việt Nam - Liên Xô chưa thiết lập quan hệ
ngoại giao, mối quan hệ ấy mới chỉ dừng lại ở việc Liên Xô với tư cách là trung tâm
của phong trào Cộng sản thế giới đã giúp đỡ Việt Nam đào tạo cán bộ cốt cán, còn về
phía Việt Nam những người yêu nước mà nổi bật là Nguyễn Ái Quốc đã tìm được con
đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam từ sau thắng lợi của cách mạng tháng
Mười Nga, đó là con đường Cách mạng vô sản và quyết tâm đi theo con đường ấy.
Ngày 30/1/1950, sau khi cách mạng Việt Nam giành được những thắng lọi đáng
kể và tình hình Châu Á có thay đổi lớn sau thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, Liên
Xô đã tuyên bố công nhận và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vói Việt Nam,

mở ra một bước ngoặt lịch sử trong quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Quan hệ
Việt Nam - Liên Xô từng bước được đẩy mạnh từ sau cuộc gặp giữa Chủ tịch Hồ Chí
Minh và nguyên soái Xtalin (3/2/1950). Liên Xô chủ động phối hợp với Việt Nam và
các nước dân chủ nhân dân tuyên truyền, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, đề cao cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt nam.
Trước đó, năm 1949, Chính phủ Pháp đã đề nghị Liên Xô công nhận và ủng hộ Chính
phủ Bảo Đại và Liên Hợp Quốc. Song Liên Xô không ủng hộ đề nghị này của Pháp.
Ngày 25/9/1949, trong báo cáo gửi I.V.Xtalin về vấn đề này, Thứ trưởng thứ nhất bộ
ngoại giao Liên Xô A A.Grômưcô viết: “... Chính phủ Bảo Đại mà Chính phủ Pháp
mưu toan sử dụng ữong cuộc đấu tranh chống lại phong trào giải phóng dân tộc không
được sự ủng hộ thực tế nào trong nước và là bù nhìn của Chính phủ Pháp.Liên Xô tất
nhiên không thể thừa nhận sự tồn tại của chính phủ này và giá trị các thỏa thuận của
nó với nước Pháp” [18, tr.113].


Ngày 31/1/1950, báo Sự thật (Liên Xô) đãng bài tẩy chay Chính phủ Bảo Đại và
nêu rõ: “Chính phủ bù nhìn Bảo Đại là bọn người vô dụng, bởi vì chúng chỉ là một
nhóm nhỏ gồm bọn phản động và không đại diện được cho ai cả” [18, tr.113].
Tháng 2/1952, với tư cách là Ưỷ viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp
Quốc, Liên Xô phủ quyết đề nghị của chính quyền Bảo Đại xin gia nhập tổ chức này,
trước sau khẳng định VNDCCH là đại biểu duy nhất và họp pháp của nhân dân Việt
Nam và ủng hộ VNDCCH trở thành thành viên của Liên Họp Quốc. Tuy nhiên, đề
nghị của Liên Xô đã bị Pháp, Mỹ, Anh phản đối và phủ quyết. Theo họ nước
VNDCCH “không phải là một quốc gia”. Còn lập trường của Liên Xô vẫn luôn luôn
khẳng định VNDCCH là đại biểu duy nhất và họp pháp của nhân dân Việt Nam.
Song từ năm 1953, vì lợi ích chiến lược của mình, Liên Xô bắt đầu điều chỉnh
sâu hơn chính sách đối ngoại nhằm làm dịu tình hình căng thẳng. Liên Xô đã nhận lòi
vói Anh - Pháp điều đình với chính phủ Triều Tiên giải quyết vấn đề tù binh, chiến
tranh và ngoại kiều trên cơ sở giữa nguyên hiện trạng hai miền Triều Tiên. Kết cục
chiến tranh Triều Tiên đã mở ra xu hướng mới cho việc giải quyết vấn đề xung đột vũ

trang ở Đông Dương bằng một giải pháp hòa bình, bằng thương lượng giữa các nước
lớn và dân tộc bị xâm chiếm. Vì vậy, ngày 4/8/1953 Liên Xô gửi công hàm cho Anh,
Pháp, Mỹ đề nghị triệu tập Hội nghị 5 nước: Liên Xô, Pháp, Anh, Mỹ và Trung Quốc
để tìm cách làm giảm bớt tình hình căng thẳng ở Viễn Đông và Đông Dương.
Việc Liên Xô chủ động đề nghị họp Hội nghị Giơnevơ 1954 trong lúc ở Việt
Nam, tình hình chiến sự đang ừên đà tiến mạnh có lợi cho cách mạng. Việt Nam quyết
tâm giành thắng lọi trên mặt trận quân sự “đánh quỵ Pháp” [10, tr.l 13] rồi mới đàm
phán để tránh trường họp như đã xảy ra ở Triều Tiên. Tuy nhiên, chính phủ nước
VNDCCH cũng luôn có giải pháp mềm dẻo phù hợp hoàn cảnh để giành thế có lợi cho
cách mạng, nên cũng khẳng định lập trường của mình: sẵn sàng kết thúc chiến tranh
bằng thương lượng nếu “chính phủ Pháp thật thà tôn trọng độc lập thật sự của Việt
Nam” và “Việc thương lượng đình chiến chủ yếu là việc giữa chính phủ VNDCCH vói


chính phủ Pháp” [10, tr.169].
Đây cũng là thời điểm Mỹ từng bước thay thế Pháp ở Đông Dương và Việt Nam
để mở rộng chiến tranh ở khu vực này. Vì vậy, đề nghị của Liên Xô là phù hợp với chủ
trương hòa dịu tránh đụng đầu với Mỹ để chuẩn bị đi vào hòa hoãn với Mỹ. Hơn nữa,
Liên Xô cũng muốn đáp ứng ý đồ của Pháp là muốn sớm có đình chiến để tranh thủ
Pháp gạt bỏ Hiệp ước cộng đồng phòng thủ Châu Âu.
Với tư cách là đồng Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương, Liên Xô đã
phối hợp với các nước XHCN khác thúc đẩy nhanh quá trình ký kết Hiệp định chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
về phía Việt Nam, sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao với tinh thần chủ động,
tích cực, ngày 3/2/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đáp tầu liên vận tiếp tục cuộc hành
trình bí mật sang Matxcơva sau khi đã sang thăm và tranh thủ được sự ủng hộ của
Chính phủ Trung Quốc (ngày 2/1/1950). Đây là một sự kiện quan trọng trong lịch sử
quan hệ Việt Nam- Liên Xô. Bởi lẽ trong cuộc gặp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp
những nhà trong ban lãnh đạo cấp cao Liên Xô như: Xtalin, Malencôp, Môlôtôp,
Bulganhin, Khơrutsôp. Trong chuyến thăm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thông báo

về tình hình đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, về đường lối chiến lược, sách lược của
Đảng cộng sản Đông Dương, về sự giúp đỡ của quốc tế đối vói cách mạng Việt Nam.
Sau khi nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày. Ban lãnh đạo Liên Xô nhìn chung tán
thành đường lối chiến lược và sách lược của Đảng Cộng sản Việt Nam và đồng chí
Xtalin nói: “Trước kia do nhiều nguồn tin chưa chính xác nên lãnh đạo Liên Xô chưa
hiểu tình hình Đông Dưomg và Việt Nam, nay Liên Xô đồng tình với đường lối của
Đảng Việt Nam sẽ cùng với các nước Xã hội chủ nghĩa công nhận VNDCCH và tích
cực viện trợ cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến và đào tạo cán bộ cho xây dựng
hòa bình, Liên Xô sẽ phối hợp với Trung Quốc về vấn đề viện trợ”.[13, tr.121].
Sau chuyến thăm Liên Xô của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nhà lãnh đạo Liên Xô
hiểu rõ hơn về sự nghiệp cách mạng và cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Kể từ


đây, các hoạt động hợp tác giữa hai bên từng bước được tiến hành.
Trong khoảng thòi gian từ năm 1950 đến năm 1954, Việt Nam đã có những hoạt
động tích cực nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển.Nghị quyết ngày 10/10/1950
của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương về Kỷ niệm cách mạng tháng Mười Nga
đã nhấn mạnh ý nghĩa hòa bình thế giới. Thực hiện Nghị quyết của Đảng Cộng sản
Đông Dương, các hoạt động kỷ niệm Cách mạng tháng Mưòi Nga diễn ra dưới nhiều
hình thức: tại nhiều địa phương xuất hiện quốc kỳ Việt Nam và Liên Xô cùng các
khẩu hiệu, biểu ngữ ca ngợi tình hữu nghị Việt - Xô, ủng hộ đất nước Xô Viết.
Ngày 6/11/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện mừng nhân kỷ niệm Cách
mạng tháng Mười. Nội dung bức điện có đoạn: “... Là thành trì của nhân loại mới và
tiến bộ, chúng tôi tin chắc rằng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Ngài và Chính phủ
Liên Xô, nước Xã hội chủ nghĩa Liên Xô càng ngày càng cường thịnh, do đó mà hòa
bình thế giới được bảo vệ, dân chủ được phát triển và các dân tộc nhược tiểu được
mau chóng giải phóng”.[18, tt.116]. Trước tình hình thế giới và ừong nước có những
thay đổi thuận lọi cho cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, đặc biệt là sau
chiến thắng Biên giói (1950), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng cộng sản
Đông Dương được triệu tập (tháng 2/1951). Đại hội khẳng định: “Cách mạng Việt

Nam là một bộ phận của phe dân chủ chống đế quốc do Liên Xô lãnh đạo” và đặc biệt
nhấn mạnh đến sự cần thiết củng cố tình hữu nghị với Liên Xô, đoàn kết chặt chẽ với
Liên Xô và học tập Liên Xô.[18, tr.18].
Cũng trong năm 1952, một sự kiện quan trọng trong lịch sử quan hệ ngoại giao
giữa hai nước đó là sự kiện Việt Nam chính thức mở Đại sứ quán tại Matxcơva. Ngày
23/4/1952, tại điện Kremli, Đại sứ Việt Nam đầu tiên tại Liên Xô, Nguyễn Lương
Bằng đã trình quốc thư lên Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô N. M.
Serơnich. Nhiệm vụ của Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô lúc này là phát triển quan
hệ nhiều mặt giữa Việt Nam vói Liên Xô và các nước Dân chủ nhân dân trong phe
XHCN, thu thập tài liệu và kinh nghiệm về xây dựng và quản lý kinh tế, về đối nội và


đối ngoại, về chính sách ruộng đất và tổ chức chính quyền nhân dân của Liên Xô.
Cùng với đó, ngày 10/10/1952, nhân kỷ niệm làn thứ 35 Cách mạng tháng Mười
Nga, Trung ương Đảng ra Nghị quyết nhấn mạnh đến tình hữu nghị Việt - Xô, vai trò
to lớn của Liên Xô đối với phong trào đấu tranh vì hòa bình trên thế giới. Thực hiện
nghị quyết trên, tháng 10/1952 theo lòi mòi của Ban chấp hành Trung ương ĐCSLX
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tham dự Đại hội lần thứ XIX Đảng Cộng sản Liên Xô. Tại
đại hội, Người đã bày tỏ tình đoàn kết gắn bó của Đảng và nhân dân Việt Nam với
Đảng Cộng sản và nhân dân Liên Xô, qua đó giúp nhân dân Liên Xô và bạn bè quốc tế
hiểu rõ hom về cuộc đấu tranh chính nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành.
Trên diễn đàn quốc tế khác, Việt Nam luôn luôn đứng về phía Liên Xô đấu tranh
cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Kể từ năm 1950, cùng với Liên Xô, Việt Nam
tích cực tham gia nhiều hoạt động quốc tế bảo vệ hòa bình như Đại hội hòa bì nh thế
giới ở Viên (11/1951); Hội nghị Châu Á - Thái Bình Dương vì hòa bình tổ chức ở Bắc
Kinh (10/1952).
Có thể nói, quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước thời gian này đã rất
thuận lợi cho các mối quan hệ trên những lĩnh vực khác. Ở giai đoạn này, tuy Việt
Nam và Liên Xô đã thiết lập quan hệ ngoại giao, song chưa có những hoạt động trao
đổi chính thức về mặt nhà nước.

Sau khi Việt Nam - Liên Xô thiết lập quan hệ với nhau, thực hiện lời hứa trong
cuộc gặp gỡ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh vói Xtalin, ngày 3/2/1950 Liên Xô bắt đầu
viện trợ cho Việt Nam. Hàng viện trợ của Liên Xô sẽ được chuyển sang Trung Quốc,
cùng hàng viện trợ của Trung Quốc đến với cách mạng Việt Nam.
Tính từ tháng 5/1950 đến tháng 6/1954, Việt Nam nhận được 21.517 tấn hàng
viện Liên Xô, Trung Quốc và các nước Dân chủ nhân dân [16, tr.42]. Trong đó tất cả
số pháo cao xạ 37mm (76 khẩu), toàn bộ số hỏa tiễn Cachiusa (12 khẩu), toàn bộ số
tiểu liên K50, phần lớn số ôtô vận tải (685/745 chiếc) và một số lượng lớn thuốc
Quynine... là của Liên Xô. Nhờ viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân


chủ nhân dân, ttong những năm 1950 -1954 sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ
trang Việt Nam được tăng cường và mở liên tiếp 8 chiến dịch lớn trên chiến trường
Bắc Bộ, tiến tới giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến. Năm 1954, các loại
pháo cao xạ 37mm và hỏa tiễn Cachiusa của Liên Xô vói tính tiến công cao, uy lực
mạnh đã góp phần làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ trấn động toàn thế giói
[18, tr.115- 116]
Theo tính toán của các nhà quân sự Việt Nam, riêng về mặt vật chất, toàn bộ số
viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác cho Việt Nam,
chỉ giải quyết được 20% tổng số vật chất mà bộ đội chủ lực của Việt Nam ở chiến
trường Bắc Bộ những năm 1950 -1954”[11, tr.42]. Song ý nghĩa to lớn của nguồn viện
trợ này ở chỗ, nhờ đó sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang được phát triển
và cổ vũ tỉnh thần chủ động của quân đội ta, góp phàn quan trọng vào thắng lợi của
chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc (1952), chiến cuộc Đông Xuân 1953 -1954 và chiến
dịch Điện Biên Phủ.
Hơn nữa nguồn viện trợ này là những viện trợ không hoàn lại và thường vượt
mức Việt Nam đề nghị. Đặc biệt, trong số những mặt hàng quân sự Liên Xô viện trợ
cho Việt Nam hầu hết là những mặt hàng chiến lược có tính dã chiến, tiến công cao,
uy lực mạnh như: xe vận tải, motorola, tiểu liên K50, pháo cao xạ 37 ly, nhất là hỏa
tiễn H6 (Cachiusa). Đây là lần đầu tiên bộ đội Việt Nam được dùng vũ khí Cachiusa một vũ khí nổi tiếng tạo khả năng cơ động mạnh, tiến công nhanh cho quân đội Việt

Nam trong trận Điện Biên Phủ. Việc sử dụng Cachiusa đã gây tâm lý hoang mang,
hoảng sợ cho quân đội Pháp: Những tên lính lê dương trong đó có không ít tên Đức đã
tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô của phát xít Hitle đã phải kêu lên “hỏa
lực Xtalingrat” và “chúng vứt vũ khí và lăn xuống chiến hào” [1, tr.350]. Điều đó, đã
góp phần làm cho chiến dịch Điện Biên Phủ nhanh chóng kết thúc thắng lợi.
Những khoản vật chất đầu tiên của Liên Xô đã đến với Việt Nam tuy chưa phải
là lớn (vì thòi gian này Việt Nam chủ yếu nhận viện trợ từ phía Trung Quốc) nhưng đã


mạng lại ý nghĩa không nhỏ cho cách mạng Việt Nam, sự viện trợ đó không chỉ có ý
nghĩa vật chất mà còn có ý nghĩa cổ vũ tinh thần, góp phần đánh thắng thực dân Pháp
xâm lược lập lại hòa bình ở miền Bắc.
Trong lĩnh vực văn hóa, bên cạnh viện trợ vật chất cho Việt Nam, Liên Xô cũng
chú trọng đến việc xuất bản những tác phẩm viết về Việt Nam, về Đông Dương. Ngay
từ năm 1935, văn học Xô Viết đã có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam. Văn học Xô Viết đến
với nhân dân Việt Nam qua các con đường Matxcơva - Pari - Hà Nội hoặc Matxcơva Thượng Hải - Hà Nội viết về thòi kỳ nội chiến và chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân
dân Liên Xô. Các tác phẩm nổi tiếng như: Người mẹ của M. Gorki, Thép đã tôi thế
đấy của Ôxtrôpxki, Chiến bại của Phađêep, Đất vỡ hoang của Sôlôkhốp...những tác
phẩm này được bí mật truyền vào Việt Nam, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với tầng lớp
trí thức tiến bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.
Tại Liên Xô đã đăng tải các bài viết về tình hình Đông Dương như: Vaxilieva V.
la, Cuộc đấu tranh vì vai trò tiên phong của vô sản ở Đông Dương in trong cuốn Các
vấn đề thuộc địa, Tuyển tập 3 - 4 , Matxcơva, 1935...
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, những tác phẩm văn học của Liên Xô
được dịch thuật, in ấn và phát hành không ngoài mục đích tuyên truyền cổ động về
chính trị, tuyên truyền cho đòi sống mới thông qua giói thiệu văn hóa Liên Xô, sách
báo lưu hành chủ yếu viết về lịch sử và cuộc sống của nhân dân Liên Xô, về kinh
nghiệm xây dựng, quản lý và bảo vệ chế độ Xô Viết như: Liên Xô kiến thiết Chủ
nghĩa xã hội, Chế độ chính trị Xô Viết, Hiến pháp mới của Liên Xô, đời sống của
Hồng Quân Liên Xô. Theo nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hải Hà cuốn “Thép đã tôi

thế đấy” chép tay đặc sắc hiện đang được trưng bày ở bảo tàng Ôxtôrôpxki ở
Matxcơva (do một nhóm chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam tặng bảo tàng năm
1950). Đây là chứng tích và là biểu tượng tuyệt vời của tình bạn chiến đấu giữa nhân
dân Việt Nam và nhân dân Liên Xô.
Trên các báo: Sự thật, Tin tức, Sao đỏ, Hải quân đỏ, Thanh niên cộng sản, Lao


×