MAI THỊ CHI
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
MAI THỊ CHI
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ TRẺ EM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
KHÓA …… ĐỢT…… NĂM……..
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THỊ CHI
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ TRẺ EM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số : 60 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Phạm Hữu Nghị
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài luận văn “Thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em từ thực tiễn thành
phố Hà Nội” là kết quả nghiên cứu độc lập của tôi. Các thông tin có nguồn
gốc rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc trích dẫn tài liệu. Nghiên cứu hoàn toàn
trung thực và chưa hề được công bố ở công trình đề tài nào.
Tác giả luận văn
Mai Thị Chi
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH BẢO VỆ TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................ 9
1.1.Các khái niệm: Trẻ em, bảo vệ trẻ em, chính sách bảo vệ trẻ em .............. 9
1.2. Vấn đề thiết kế chính sách bảo vệ trẻ em................................................. 11
1.3. Giải pháp chính sách và công cự chính sách ........................................... 18
1.4.Cách tiếp cận và phương pháp tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em. .. 20
1.5. Trách nhiệm thực hiện của chủ thể thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em.......... 25
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em. .............. 31
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ TRẺ
EM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................................... 34
2.1. Kết quả thực hiện mục tiêu chính sách bảo vệ trẻ em ............................. 34
2.2. Thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em ở thành phố Hà Nội .............. 39
2.3 Đánh giá chung về việc tổ chức, thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em ở
thành phố Hà Nội ............................................................................................ 56
Chương 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO VỆ TRẺ EM ......................................................................................... 62
3.1. Mục tiêu thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em........................................... 62
3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em ...................... 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 77
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết:
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan
Sinh thời Bác Hồ đã dành cho các em thiếu nhi những điều tốt đẹp
nhất. Các em là tương lai của đất nước. Nên Người đã đặt trọn niềm tin cũng
là giao trọng trách lớn lao cho thế hệ măng non của đất nước: “Non song Việt
Nam có vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không
chính nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu” cho nên Bác mong:
“Mong cháu ra công mà học tập
Mai sau cháu giúp nước non nhà”
(Tặng cháu Nông Thị Trưng)
Hay:
“Mong các cháu cố gắng
Thi đua học và hành”
(Thư Trung Thu 1952)
Có thể nói, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một trong những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó ngày càng được
nhân dân ta giữ gìn, tôn trọng và phát huy. Sự quan tâm đến trẻ em được thể
hiện rõ ràng hơn khi Việt Nam phê chuẩn công ước Liên hợp quốc về quyền
trẻ em năm 1990, theo đó trẻ em phải được chăm sóc trong điều kiện tốt nhất,
đảm bảo được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, nhằm làm cho mọi
trẻ em đều được hưởng các quyền cơ bản và làm tròn bổn phận của trẻ em.
Đây không phải là nhiệm vụ của riêng các cấp hay các ngành nào mà chính là
nhiệm vụ của toàn xã hội. Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là
một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng, Nhà nước và mỗi địa
1
phương trong việc đảm bảo an sinh xã hội, vì mục tiêu phát triển ổn định và
lâu dài của đất nước.
Từ nhiều năm qua Đảng và Nhà nước ta quan niệm “Chăm sóc, giáo
dục và bảo vệ trẻ em là một vấn đề có tính chiến lược lâu dài, góp phần quan
trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự
nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đầu tư
cho trẻ em là đầu tư cho tương lai của đất nước. làm tốt công tác này là nhiệm
vụ của các cấp ủy Đảng, chính quyền đoàn thể, gia đình và toàn xã hội”[11]
Nhận thức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về công tác bảo vệ
trẻ em được nâng lên, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mô côi, khuyết
tật ngày càng được xã hội quan tâm chăm lo.
Hà Nội là trung tâm văn hóa chính trị của cả nước, là nơi đón đầu mọi
tiến bộ xã hội nên công tác bảo vệ trẻ em luôn được Đảng bộ và chính quyền
các cấp quan tâm chỉ đạo và nỗ lực thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế bên
cạnh rất nhiều thành tựu đáng ghi nhận thì những hạn chế yếu kém của công
tác bảo vệ trẻ em cũng bộc lộ. Đó là vấn đề về đạo đức và lối sống xuống cấp,
lệch chuẩn của một số trẻ em đang trở thành nối lo của gia đình và xã hội.
Tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục, bạo lực, bị lạm dụng sức lao động có
xu hướng gia tăng, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Tính trạng trẻ em phạm
tội, trẻ em lang thang bị tai nạn, bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS vẫn là những
vấn đề xã hội bức xúc. Các điểm vui chơi và các hình thức giải trí phù hợp
với trẻ em còn thiếu, không gian vui chơi thì ngày càng thu hẹp. Nguồn lực
trong xã hội dành cho sự nghiệp chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em chưa
đáp ứng được yêu cầu. Huy động cộng đồng vào chăm sóc, giáo dục và bảo
vệ trẻ em, nhất là ở nông thôn còn thiếu.
Đặc biệt từ năm 2008 Hà Nội mở rộng địa giới hành chính. Dẫn đến
việc chăm sóc trẻ em chưa có sự đồng bộ giữa các khu vực trong Hà Nội.
2
Hàng năm Hà Nội lại tiếp nhận thêm nhiều trẻ em di cư đến gây khó khăn
trong công tác quản lí, đặc biệt là nhóm trẻ di cư tự do.
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có thể thấy nhận
thức của từng gia đình của toàn cộng đồng chưa đấy đủ, năng lực của đội ngũ
cán bộ còn yếu kém, dịch vụ bảo vệ trẻ em còn nghèo nàn, chưa có mạng
lưới; thiếu hệ thống pháp lí thân thiện với trẻ em; vai trò của quản lí nhà nước
còn mờ nhạt, chưa hiệu quả.
Từ những lí giải trên, lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách bảo vệ
trẻ em từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm luận văn chính sách công là xuất
phát từ nhu cầu cấp thiết của thực tế và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo vệ trẻ em hiện nay vẫn luôn được các ngành các cấp và
địa phương quan tâm và chú trọng. Đã có nhiều bài viết trên sách báo, tạp chí,
bài luận văn, đề tài khoa học, công trình nghiên cứu về vấn đề bảo vệ trẻ em.
Dưới đây là một số bài viết có liên quan đến đề tài:
Ấn phẩm “Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam. Đánh giá
pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
ở Việt Nam”/Bộ lao động - thương binh và xã hội và UNICEF – Hà Nội
2009. Tài liệu nhằm xem xét rà soát lại một cách toàn diện hệ thống pháp luật
chính sách bảo vệ trẻ em ở Việt Nam. Sau khi Việt Nam tham gia kí kết công
ước quốc tế về Quyền trẻ em đã được ban hành. Tài liệu phân tích và đánh giá
những văn bản quy phạm pháp luật đó trong mối tương quan với cộng đồng
quốc tế về quyền trẻ em cũng như các tiêu chuẩn quốc tế về bảo vệ trẻ em
khác. Tài liệu cũng nhằm mục đích xác định các khoảng cách giữa pháp luật
Việt Nam và pháp luật quốc tế cũng như dự báo về những diễn biến mới về
việc xây dựng các chính sách và chương trình liên quan đến lĩnh vực bảo vệ
trẻ em.
3
Ấn phẩm “Điều tra quốc gia về lao động trẻ em 2012 - các kết quả
chính”/Tổ chức lao động quốc tế, chương trình quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ
em của tổ chức lao động quốc tế (ILO-IPEC); Bộ lao động – thương binh và
xã hội (BLĐTBXH) và tổng cục thống kê Việt Nam – Hà Nội: ILO,2014. Tài
liệu đã đưa ra cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động trẻ em, góp phần thực hiện
mục tiêu toàn cầu về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất vào năm
2016.
Bài viết của Mai Thị Quế trong hội thảo khoa học: chất lượng cuộc
sống của người thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh kinh tế hiện nay
(2012), “Vấn đề chăm sóc, bảo vệ trẻ em tại thành phố Hồ Chí Minh”, viện
nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết đã nêu được thực
trạng chăm sóc, bảo vệ trẻ em tại thành phố Hồ Chí Minh và những nguyên
nhân khách quan và chủ quan. Bên cạnh đó bài viết cũng đưa ra những giải
pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Bài viết chuyên đề của Lê Thị Oanh “Một số giải pháp cho trẻ em lang
thang trên địa bàn Hà Tĩnh”. Bài viết đưa ra quan điểm: trẻ em lang thang là
một thực tế khách quan của một xã hội và là sản phẩm của nền kinh tế thị
trường. Tình trạng này khiến các em không được đáp ứng đầy đủ những nhu
cầu thiết yếu, gây ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình hình thành nhân cách và phát
triển toàn diện của trẻ em. Vì vậy những trẻ em này rất cần được quan tâm,
chăm sóc, giúp đỡ thường xuyên của gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. Giải
quyết vấn đề trẻ em lang thang là việc bảo đảm quyền được chăm sóc giúp đõ
đặc biệt của trẻ em. Mặt khác còn góp phần ổn định tình hình kinh tế xã hội đất
nước, và nhằm bổ sung cơ sở lí luận trong việc quản lí xã hội về trẻ em.
Nguyễn Hữu Quân (2013), “Hoạt động thực hiện chính sách trợ giúp xã
hội cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trong hệ thống an sinh xã hội tại Ngọc
Hồi – huyện Thanh Trì – thành phố Hà Nội hiện nay”, luận văn thạc sĩ công
4
tác xã hội, đại học khoa học xã hội và nhân văn, Luận văn đã rà soát, đánh giá
các chính sách trợ giúp trẻ em và nghiên cứu thực trạng hoạt động chính sách
trợ giúp tập trung vào hai nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: Trẻ
em nghèo và trẻ em khuyết tật trên địa bàn Ngọc Hồi – huyện Thanh Trì –
thành phố Hà Nội.
Luận văn thạc sĩ chính sách công “Thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em
từ thực tiễn Đà Nẵng” của Võ Thị Bích Trâm (2016). Luận văn đã đưa ra
những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện chính sách bảo vệ quyền trẻ em ở
thành phố Đà Nẵng. Cũng như chỉ rõ các yếu kém, trách nhiệm của các chủ
thể tham gia vào việc thực hiện chính sách bảo vệ quyền trẻ em. Từ đó luận
văn đề xuất những giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của thành phố Đà
Nẵng.
Tuy nhiên, vấn đề thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em tại Hà Nội chưa
có đề tài nào đi sâu nghiên cứu. Xuất phát từ những lí do trên tôi chọn đề tài
này làm luận văn thạc sĩ của mình, luận văn thực hiện có sự kế thừa, phát
triển những thành quả của các đề tài liên quan trước đó để đánh giá, phân tích
từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của thành phố.
3. Mục đích nhiệm vụ và nghiên cứu
3.1.
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em,
đồng thời đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em tại thành
phố Hà Nội. Từ đó, đề xuất những giải pháp tăng cường thực hiện chính sách
bảo vệ trẻ em ở nước ta và tại thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách bảo vệ trẻ em; tổng
quan và nhận xét thực hiện chính sách hiện hành về bảo vệ trẻ em ở Việt
Nam, tìm hiểu kinh nghiệm điển hình của các nước về thực hiện chính sách
bảo vệ trẻ em.
Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em tại thành phố
Hà Nội, phát hiện những vấn đề, nguyên nhân, những ưu điểm và hạn chế.
Đề xuất hoàn thiện các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bảo
vệ trẻ em tại thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em cụ thể là nghiên cứu giải pháp
tăng cường thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Nghiên cứu tại thành phố Hà Nội. Ở một số quận, huyện
của Hà Nội ( Quận Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hoàng Mai, Đông Anh, Long
Biên, Cầu Giấy, Hà Đông, Huyện Gia Lâm, Thanh Trì)
- Nội dung: Nghiên cứu giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bảo
vệ trẻ em.
- Thời gian: nghiên cứu từ năm 2010 cho đến 2015.
- Nguồn thông tin dữ liệu: Dựa trên các báo cáo tổng kết của Sở
Thương binh, Lao động và Xã hội của thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận:
Luận văn vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công kết hợp
giữa nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tế với cách tiếp cận đa ngành,
liên ngành.
6
Cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ
hoạch định đến xây dựng và thực hiện và đánh giá chính sách có sự tham gia
của các chủ thể chính sách. Lý thuyết chính sách công được soi sáng qua thực
tiễn của chính sách công giúp hình thành lý luận về chính sách chuyên ngành.
5.2.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra, khảo sát trực tiếp bằng các bảnh hỏi cho các đối
tượng là: Các nhóm trẻ em ở hai khu vực nội và ngoại thành thành phố Hà Nội.
- Phương pháp phỏng vấn sâu dành cho đối tượng là: Các lãnh đạo, cán
bộ chuyên trách của 9 quận, huyện kể trên. Đặc biệt là các nhà quản lí của
Trung tâm Bảo trợ trẻ em huyện Thanh trì. Các em lang thang tại quận Hoàn
Kiếm, Học sinh trường tiểu học Trần Quốc Toản trên phố Hàng Than, quân
Hoàn Kiếm; Các em huyện Thường Tín.
- Phương pháp thu thập thông tin, phương pháp phân tích và tổng hợp,
thống kê và so sánh: Các phương pháp này được sử dụng để thu thập, phân
tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên
cứu, bao gồm các văn kiện, nghị quyết của Đảng, nhà nước, bộ ngành ở trung
ương và địa phương; các tài liệu công trình nghiên cứu, các báo cáo, thống kê
của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp đến các vấn đề thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em ở nước ta
nói chung và từ thực tiễn thành phố Hà Nội nói riêng. Đồng thời thu thập, tìm
hiểu và vận dụng các lý thuyết của ngành chính sách xã hội liên quan đến vấn
đề chính sách bảo vệ trẻ em.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận:
Đề tài này cung cấp lý luận chính sách công về vấn đề chính sách bảo vệ
trẻ em.
7
Hệ thống hóa một số lý luận và đánh giá thực tiễn, từ đó đề xuất giải
pháp tăng cường thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em nhằm phát huy tối đa
hiệu quả chính sách đã ban hành.
Ý nghĩa thực tiễn:
Cung cấp những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn trong việc vận dụng các
lý thuyết và thực tiễn về thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em tại thành phố Hà
Nội. Từ đó nêu ra những đề xuất có giá trị tham khảo đối với các nhà quản lý
để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em trong thực tiễn năm
tiếp theo.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em
nước ta.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sach bảo vệ trẻ em tại thành phố
Hà Nội.
Chương 3: Định hướng, giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bảo
vệ trẻ em từ thực tiễn thành phố Hà Nội.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ
TRẺ EM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Các khái niệm: Trẻ em, bảo vệ trẻ em, chính sách bảo vệ trẻ em
1.1.1. Trẻ em
Theo Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em là
người dưới 18 tuổi” [3]
Còn theo Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, trẻ em là
công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Luận này quy định về quyền, bổn phận của
trẻ em; nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em; trách nhiệm
của cơ quan tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện
quyền và bổn phận của trẻ em [24]
Đối tượng áp dụng là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ sở giáo dục, gia đình, công
dân Việt Nam, cơ quan tổ chức quốc tế, tổ chức nước ngoài hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam, cá nhân là người nước ngoài cư trú tại Việt Nam.
Giải thích từ ngữ trong luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1.1.2. Bảo vệ trẻ em
Bảo vệ trẻ em là thực hiện các biện pháp phù hợp để đảm bảo trẻ em
được sống an toàn; lành mạnh; phòng ngừa; ngăn chặn và xử lý các hành vi
xâm hại trẻ em, trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt [25]
Trẻ em không phân biệt gái, trai, con trong giá thú, con ngoài giá thú,
con đẻ, con nuôi; con riêng, con chung; không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng,
tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, chính kiến của cha mẹ hoặc người giám
hộ, đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền theo quy
định của pháp luật.
9
“Trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là: Trẻ em có hoàn cảnh không bình
thường về thể chất hoặc thinh thần, không đủ điều kiện để thược hiện các
quyền cơ bản và hoà nhập với gia đình, cộng đồng”. [24]
Trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia
đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và công dân. Trong mọi hoạt động của cơ
quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em
phải được quan tâm hàng đầu. Nhà nước khuyến khích tạo điều kiện để cơ
quan, tổ chức, gia đình cá nhân ở trong và ngoài nước góp phần vào sự nghiệp
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Qua đó các quyền trẻ em phải được tôn trọng và thực hiện. Mọi hành vi
vi phạm quyền trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường của trẻ em
đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Chính sách bảo vệ trẻ em
Dựa trên quan điểm của chính sách công, chính sách công là tập hợp
những quyết định mang tính chính trị nhằm vạch ra những đường hướng hành
động ứng xử cơ bản của chủ thể quản lí với các vấn đề, hiện tượng tồn tại
trong đời sống để thúc đẩy và quản lí sự phát triển nhằm đạt tới những mục
tiêu nhất định cho trước. Khái niệm chính sách công được diễn đạt khái quát
như sau: Chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của
nhà nước nhằm chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện
giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu xác định của Đảng chính trị
cầm quyền [17]
Từ quan niệm về “chính sách công” và “bảo vệ trẻ em” nêu trên,
chúng ta có thể định nghĩa về chính sách bảo vệ trẻ em như sau: Chính sách
bảo vệ trẻ em là tập hợp các quyết định có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu,
giải pháp và công cụ chính sách để giải quyết vấn đề bảo vệ trẻ em theo mục
tiêu tổng thể đã xác định.
10
Việc thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em là việc thực hiện hóa các
quyết định chính trị về bảo vệ trẻ em. Đây là khâu đặc biệt quan trọng trong
chu trình chính sách bảo vệ trẻ em. Nó có nhiệm vụ hiện thực hóa chính sách
bảo vệ trẻ em của nhà nước, đưa chính sách bảo vệ trẻ em của nhà nước vào
cuộc sống.
1.2. Vấn đề thiết kế chính sách bảo vệ trẻ em
1.2.1. Vấn đề của chính sách
Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện chính sách bảo
vệ trẻ em. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004) quy định khá đầy
đủ các quyền trẻ em, trách nhiệm của Nhà nước, gia đình, cộng đồng và các tổ
chức xã hội trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Một số các
chương trình đã được xây dựng và triển khai nhằm giúp đỡ một số đối tượng
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó phải kể đến Chương trình ngăn ngừa
và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình dục và trẻ
em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai đoạn
2004 – 2010 (được phê duyệt bởi Quyết đinh 19/2004/QĐ-TTG, ngày
12/02/2004) và Chương trình hành động quốc gia đấu tranh phòng chống
buôn bán người; Quyết định 312/2005/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt các đề án thuộc chương trình hành động phòng chống tội phạm
buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2005 đến năm 2010; Quyết định số
17/2007/QĐ-TTG ban hành Quy chế tiếp nhận và hỗ trợ tái hòa nhập cộng
đồng cho phụ nữ và trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về. Và kế hoạch
quốc gia về phòng, chống tội phạm giai đoạn 2005 – 2010 (bao gồm các điều
khoản về các hành vi phạm tội do trẻ em thực hiện và tội phạm chống lại trẻ
em), Quyết định 65/2005/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
đề án “Chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em
11
tàn tật nặng, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học và trẻ em nhiễm
HIV/AIDS ” [19]
Tuy nhiên việc triển khai thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em vẫn còn
nhiều hạn chế, bất cập.
Theo số lượng thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội,
hiện tỉ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt trên tổng số trẻ em nước ta vẫn ở mức
cao và có xu hướng gia tăng, cụ thể năm 2001 là khoảng 1,4 triệu trẻ em
chiếm khoảng 5,5% tổng số trẻ em, năm 2010 tăng lên 1,54 triệu chiếm tỷ lệ
trên 6%.
Hằng năm cả nước có từ khoảng 1.000 đến 1.400 em bị xâm hại tình
dục, 2.000 đến 3.900 em bị bạo lực. Tỉ lệ trẻ em bị xâm hại tình dục có xu
hướng tăng nhanh (Nguồn: Số liệu thống kê của Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội 2015). Đây là số trẻ em bị xâm hại tình dục được trình báo, trên
thực tế con số này còn cao hơn nhiều vì người dân không muốn trình báo vấn
đề nhạy cảm có thể ảnh hưởng đến con cái họ, hoặc tự thỏa thuận đền bù với
người xâm hại trẻ.
Đối với nhóm trẻ vi phạm pháp luật, hàng năm cả nước có khoảng
12.000 đến 18.000 em, trong đó có khoảng 15% phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng (Nguồn: số liệu thống kê của bộ lao động, thương binh và xã hội năm
2015). Tính chất vi phạm cũng phức tạp hơn, xu hướng băng nhóm, phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng như cướp của, giết người gia tăng. Khi các em hoàn
thành việc chấp hành án trở về cộng đồng cũng gặp nhiều rào cản trong quá
trình hòa nhập cộng đồng.
Điều tra quốc gia về lao động trẻ em công bố năm 2014 cho thấy
khoảng 1,75 triệu trẻ em đang làm việc dưới độ tuổi tối thiểu mà pháp luật
cho phép. Con số này tương ứng với gần 10% số trẻ từ 15-17 tuổi trên toàn
quốc. Đa phần nhóm trẻ em này đã bỏ học vì hoàn cảnh kinh tế gia đình khó
12
khăn và không có điều kiện vui chơi giải trí như bạn bè cùng trang lứa và
nguy cơ bị ngược đãi, bạo lực và bóc lột sức lao động từ rất cao. Đặc biệt số
lượng trẻ em bị đuối nước không ngừng ra tăng, để lại nỗi đau lớn cho gia
đình; nhà trường và xã hội.
Hà Nội mặc dù là một trong những trung tâm kinh tế, chính trị và xã
hội của cả nước vấn đề chăm sóc, bảo vệ trẻ em luôn được các lãnh đạo các
cấp của thành phố quan tâm. Nhưng do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan (Sẽ được đề cập trong mục 1.2.2.) mà việc thực hiện chính sách bảo vệ
trẻ em của thành phố còn nhiều hạn chế và chưa có sự đồng bộ giữa các quận
huyện của thành phố. Theo thống kê của Bộ Thương binh, lao động và Xã
hội, giai đoạn 2010-2015 Hà Nội đứng thứ 3 trên toàn quốc về số trẻ em bị
đuối nước. [10]
Những điều trên cho thấy, vấn đề chính sách bảo vệ trẻ em chính là
giải quyết tình trạng trẻ em chưa được sống trong môi trường sống an toàn,
thân thiện; trẻ em chưa được bảo vệ toàn diện, tập trung chủ yếu vào bốn
nhóm trẻ có hoàn cảnh đặc biệt có xu hướng ngày càng gia tăng nghiêm
trọng cụ thể là trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em bị vi
phạm pháp luật, trẻ em bị lao động sớm trong điều kiện nặng nhọc; trẻ em ở
những vùng ngoại thành, nông thôn chưa được bổ sung kĩ năng sống của
thành phố Hà Nội.
1.2.2. Nguyên nhân của những vấn đề chính sách
Nguyên nhân của những vấn đề chính sách nêu trên đây là:
Thứ nhất, chưa tạo dựng được môi trường sống an toàn và thân thiện
cho trẻ em.
Vai trò bảo vệ trẻ em của gia đình, cộng đồng và trường học chưa
được coi trọng, kiến thức và kỹ năng bảo vệ của cha mẹ, người chăm sóc trẻ
em và bởi chính bản thân của các em chưa đầy đủ dẫn đến năng lực bảo vệ trẻ
13
em còn hạn chế, trẻ em dễ thành nạn nhân của hành vi bạo lực, xâm hại tình
dục dễ bị lôi kéo vào con đường phạm tội. Tình trạng gia đình có hoàn cảnh
kinh tế khó khăn cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em bỏ học, lang
thang kiếm sống.
Môi trường xã hội còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến trẻ em bị bạo
lực, bị xâm hại và vi phạm pháp luật: những ấn phẩm, internet, phim ảnh bạo
lực, khiêu dâm, cùng các hiện tượng tiêu cực khác ngoài xã hội đã tác động
mạnh mẽ đến tư tưởng, lối sống của trẻ em. Bên cạnh đó việc tạo môi trường
thân thiện, các khu vui chơi, giải trí lành mạnh chưa được quan tâm đúng
mức. Các khu vui chơi thiếu, tạm bợ, thiếu người quản lí (như các sân chơi ở
nhà văn hóa các phường, xã, thôn) đã và đang hư hỏng gây lãng phí trong khi
trẻ em vẫn thiếu khu vui chơi, sinh hoạt tập thể. Cùng với sự quản lí lỏng lẻo
của cha mẹ mang đặc trưng vùng nông thôn dẫn đến các em tìm đến những
khư vực nguy hiểm (ao, hồ, sông,…). Theo thống kê của sở Thương binh, Lao
động và Xã hội Hà Nội, trong giai đoạn 2010-2015 số trẻ em bị tai nạn
thương tích(đặc biệt là số trẻ em bị đuối nước không ngừng tăng lên ). Đấy là
đối với khu vực ngoại thành, còn đối với khu vực nội thành thì thiếu không
gian học tập, vui chơi tự nhiên cho các em nổi cộm là một số quận như Thanh
Xuân, Hoàng Mai, Cầu Giấy... Nhiều trường các em phải tập thể dục trên vỉa
hè. Không gian tự nhiên thiếu, trật hẹp, không an toàn khiến các bậc cha mẹ
không an tâm nên thay vì để trẻ được sinh hoạt, vui chơi trong không gian tự
nhiên thì cha mẹ các em lại đảm bảo an toàn cho các em bằng các hoạt động
như vào các trung tâm thương mại, xem mạng, TV. Tậm lí phụ huynh( đặc
biệt là trong những tháng hè) để quản lí các em các bậc phụ huynh đang kí
cho con mình theo học nhiều môn học khác nhau( đàn, hát, múa, vẽ, …). Dẫn
đến trẻ em ngày nay hết sức thụ động, lười vận động, ít suy nghĩ, nặng hơn
nhiều là trẻ em còn mắc phải một số bệnh liên quan đến thần kinh như: tự kỉ,
14
tăng động,… Ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của các em và mang đến gánh
nặng cho gia đình và xã hội. Ở Thủ đô Hà Nội (nhất là khu vực nội thành),
công viên được xem là khu vưc sinh hoạt chung cho người dân trong đó có trẻ
em. Tuy nhiên mấy năn gần đây nhiêu công viên đã bị lấy xây trung tâm
thương mại, các chung cư đã thu hẹp không gian vui chơi tự nhiên của các em
điều này đã tác động không nhỏ đến tuổi thơ của các em.
Thứ hai, hệ thống luật pháp, chính sách về bảo vệ trẻ em chưa được
đồng bộ đầy đủ, thiếu hệ thống tư pháp thân thiện với người chưa thành niên.
Một số quy định về cơ sở trợ giúp trẻ em và cơ sở bảo trợ xã hội đang
thiếu hoặc có sự chồng chéo, mâu thuẫn về đối tượng, chức năng hoạt động
giữa hai loại hình trợ giúp này. Hiện nay luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ
em chưa quy định cụ thể cơ quan hưởng ứng tổ chức bộ máy cho quỹ bảo trợ
trẻ em, do vậy hoạt động của hệ thống quỹ này ở địa phương các cấp gặp
nhiều khó khăn. Cơ chế chính sách trợ giúp trẻ em vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu thực tiễn, trong đó mới chú ý đến trợ giúp, hòa nhập mà chưa chú
trọng việc phòng ngừa, can thiệp và phát triển. Chế tài xử phạt các hành vi vi
phạm quyền trẻ em chưa đủ mạnh. Một số nhóm đối tượng trẻ em đặc biệt
chưa được đưa vào luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em như trẻ em bị
lạm dụng, bạo lực, trẻ em bị tai nạn thương tích, trẻ em bị ảnh hưởng từ các
vụ ly hôn, con nuôi, trẻ em di cư, bị buôn bán, trẻ em sống trong các hộ
nghèo, trẻ em có biểu hiện khác về giới tính. Thiếu các số liệu đáng tin cậy
liên quan đến trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt. Thiếu các quy trình tư pháp
thân thiện với trẻ em.
Công tác phối hợp liên ngành trong việc thực hiện quyền trẻ em vẫn
còn bộc lộ một số hạn chế như: trách nhiệm phối hợp liên ngành chưa đầy đủ;
phối hợp trong tổ chức các hoạt động kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa cơ sở dữ
liệu về trẻ em đôi khi vẫn còn bị động; hoạt động phối hợp cụ thể vẫn còn
15
mang tính hình thức. Năng lực cán bộ tham gia phối hợp còn hạn chế và điều
kiện để tham gia phối hợp chưa đầy đủ.
Thứ ba, công tác truyền thông, giáo dục pháp luật về bảo vệ trẻ em
chưa đạt hiệu quả sâu rộng, chưa thường xuyên liên tục.
Truyền thông chưa đạt hiệu quả cao, hậu quả là các phương pháp tiếp
cận dựa trên quyền trẻ em chưa được thực hiện rộng rãi, sự tham gia của trẻ
em chưa thực sự được phát huy. Còn có hiện tượng lợi dụng xã hội hóa công
tác bảo vệ trẻ em để trục lợi từ việc gây ngân quỹ từ thiện, buôn bán trẻ em
dưới hình thức nuôi con nuôi. Ý thức chấp hành pháp luật cũng như nhận thức
về bảo vệ trẻ em, quyền trẻ em của một bộ phận cán bộ, cha mẹ, giáo viên và
công dân chưa cao; kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em của nhiều gia đình và kỹ
năng tự bảo vệ của trẻ em chưa đầy đủ và cập nhật. Tâm lí sợ điều tiếng mà
nhiều gia đình đã không tố cáo các hành vi xâm hại trẻ em. Bản thân các em
lại thiếu hiểu biết, không có kĩ năng tự bảo vệ đã bị bọn xấu lạm dụng. Bên
cạnh đó sự bùng nổ của công nghệ thông tin, các trang mạng xã hội các em dễ
dàng tiếp cận các nội dung phim ảnh đồ truỵ. Chưa kể các em cũng chính là
nạn nhân của một nhóm tội phạm có suy nghĩ lệch chuẩn làm cho tình trạng
trẻ em bị bỏ rơi, bị lạm dụng, xâm hại đang có chiều hướng gia tăng.
Thứ tư, thiếu nguồn lực cho công tác bảo vệ trẻ em (gồm nguồn lực tài
chính và con người).
Thời gian qua, các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương đã
quan tâm bố trí kinh phí thực hiện công tác bảo vệ trẻ em tuy nhiên nguồn lực
đầu tư cho sự nghiệp này vẫn còn nhiều hạn chế và phân tán, ngân sách chi
cho hoạt động sự nghiệp bảo vệ trẻ em quá thấp, chưa tương xứng với tăng
trưởng kinh tế và đầu tư cho các lĩnh vực khác ở cả cấp độ trung ương và địa
phương. Tổng kinh phí chi cho hoạt động sự nghiệp bảo vệ trẻ em giai đoạn
2006 – 2010 khoảng 2.416 tỷ đồng, trong đó chi cho trợ cấp xã hội hàng
16
tháng cho trẻ em khoảng 1.406 tỷ đồng; chi cho việc thực hiện các chương
trình đề án thuộc ngành lao động, thương binh và xã hội khoảng 260 tỷ đồng;
ngân sách địa phương bố trí cho các hoạt động sự nghiệp bảo vệ trẻ em
khoảng 250 tỷ đồng; huy động từ cộng đồng và tổ chức quốc tế khoảng 500 tỷ
đồng [30] Song song với đó, đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ, chăm sóc
trẻ em vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng lại luôn có sự biến động
do thay đổi cơ cấu tổ chức. Tính đến năm 2014, tổng số cán bộ làm công tác
bảo vệ trẻ em cấp tỉnh là 315 người, số cán bộ kiêm nghiệm hoặc trực tiếp
làm công tác này ở cấp huyện là 1.117 người, cấp xã có 11.708 cán bộ (kiêm
nghiệm là 10.598 người, chuyên trách là 1.110 người). Tuy nhiên vẫn còn
nhiều địa phương chưa bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác bảo vệ trẻ em
ở cấp huyện; chính sách hỗ trợ cho đội ngụ cán bộ và cộng tác viên làm công
tác bảo vệ trẻ em ở cơ sở còn rất eo hẹp và mới chỉ có 16/63 tỉnh, thành phố
(25%) bố trí nguồn ngân sách địa phương để chi trả thù lao cho đội ngũ cộng
tác viên thôn, bản với mức thù lao từ 50.000đ – 830.000đ/tháng [15]
1.2.3. Mục tiêu chính sách bảo vệ trẻ em
Mục tiêu tổng quan của chính sách bảo vệ trẻ em là:
- Tạo dựng được môi trường sống mà ở đó tất cả trẻ em đều được bảo
vệ, trong đó ưu tiên nhóm trẻ có hoàn cảnh đặc biệt, nhóm trẻ có nguy cơ cao.
- Chủ động phòng ngừa, giảm thiểu hoặc loại bỏ các nguy cơ tổn hại,
tạo cơ hội để các em tái hòa nhập cộng đồng và bình đẳng về cơ hội phát
triển, thông qua phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em đồng bộ và hoạt động có
hiệu quả.
Mục tiêu cụ thể phải đạt được:
- Giảm tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt xuống dưới 5,5% so với tổng
số trẻ em.
17
- Giảm hàng năm 10% số trẻ em bị xâm hại tình dục, bị bạo lực; 100%
trẻ em được phát hiện bị xâm hại tình dục, bị bạo lực được can thiệp, trợ giúp;
giảm tỷ lệ trẻ em lang thang xuống 7/10.000 trẻ em; 90% trẻ em bị bỏ rơi, trẻ
mồ côi, không nơi nương tựa được chăm sóc.
- 80% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp, chăm sóc từ cộng
đồng và nhà nước để phục hồi, tái hòa nhập và có cơ hội phát triển.
- 70% trẻ em có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt có nguy cơ bị tổn hại
được phát hiện sớm và can thiệp để giảm thiểu và bỏ nguy cơ.
- 50% tỉnh, thành phố xây dựng được hệ thống bảo vệ trẻ em, trong đó có
trung tâm công tác xã hội trẻ em, văn phòng tư vấn, điểm tư vấn, mạng lưới
cộng tác viên, nhóm trẻ nòng cốt và hoạt động hiệu quả.
1.3. Giải pháp chính sách và công cự chính sách
Từ những vấn đề chính sách trên cho thấy chính sách bảo vệ trẻ em
hướng đến một số nhóm giải pháp cơ bản sau:
Một là, nhóm giải pháp đẩy mạnh công tác xã hội hóa, công tác bảo vệ
trẻ em theo hướng nâng cao trách nhiệm của gia đình và nhà trường, cộng
đồng dân cư và các tổ chức chính trị xã hội. Các công cụ là tổ chức dựa vào
cộng đồng và kết hợp với các tổ chức chính trị xã hội để thực hiện giải pháp
trên. Giải pháp này góp phần nâng cao trách nhiện của các cấp, các ngành
đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác bảo vệ trẻ của Nhà nước với
nhân dân, của gia đình với nhà trường. Từ đó xây dựng được môi trường sống
an toàn cho trẻ em.
Hai là, nhóm giải pháp tăng cường sự quản lý nhà nước, củng cố kiện
toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em các cấp; tăng cường
công tác xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ ngành,
mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội trong công tác bảo vệ trẻ em
nhằm phát huy các nguồn lực của Nhà nước và xã hội để chăm lo, bảo vệ trẻ
18
em phù hợp với hoàn cảnh đất nước; xây dựng chính sách đãi ngộ phù hợp với
đội ngũ cộng tác viên bảo vệ trẻ em, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc chấp
hành pháp luật chính sách liên quan đến trẻ em và thực hiện quyền trẻ em. Các
công cụ có thể được sử dụng là công cụ được dựa vào tổ chức là công cụ hành
chính, tổ chức như hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, mô hình tổ chức,
bộ máy các bộ công chức tham gia hoạch định, triển khai chính sách bảo vệ trẻ
em. Bên cạnh đó, nhóm công cụ dựa vào quyền lực là các quy định, mệnh lệnh
và kiểm soát, quy định xử phạt hành chính, xử lý trách nhiệm hình sự đối với
các đối tượng buôn bán trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em.
Ba là, nhóm giải pháp đẩy mạnh các chiến dịch truyền thông, trên cơ
sở hình thành chiến lược truyền thông với sự tham gia tích cực của các cấp,
các ngành, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức quốc tế để tạo dư luận xã hội
quan tâm hơn đến công tác bảo vệ trẻ em, đặc biệt là lên án các hành vi xâm
hại, ngượcđãi và bạo lực đối với trẻ em. Chủ động huy động và sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực có thể được cho nhiệm vụ bảo vệ trẻ em đồng thời
mở rộng, nâng cao chất lượng dịch vụ và phúc lợi xã hội dành cho trẻ em.
Công cụ truyền thông trực tiếp và gián tiếp sẽ được sử dụng cho giải pháp
này: là các chiến dịch truyền thông, tuyên truyền, tư vấn trực tiếp cho sự tham
gia của cộng đồng. Đặc biệt là sự vào cuộc của hội phụ nữ, hội cựu chiến
binh, đoàn thanh niên,…tuy nhiên để công cụ chính sách này có hiệu lực thì
các tổ chức này phải được trao cho những quyền nhất định và được trang bị
đầy đủ về cả trí lực và vật lực. Các tổ chức cần phối hợp với các tổ chức
truyên thông để mang tiếng nói, nguyện vọng đến những người có trách
nhiệm và thẩm quyền. Là hàng rào vô hình góp phần bảo vệ các em.
Bốn là, nhóm giải pháp đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế trong
việc huy động nguồn lực xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án, dự
án trợ giúp, bảo vệ trẻ em, thực hiện quyền tham gia của trẻ em; hỗ trợ kỹ
19
thuật, kiến thức và kinh nghiệm cho công tác xây dựng, sửa đổi và hoàn thiện
chính sách, hướng dẫn thực hiện cũng như xây dựng kế hoạch giám sát, đánh
giá thực hiện mục tiêu bảo vệ trẻ em. Nhóm công cụ mạng lưới (cho phép)
với các tổ chức quốc tế, kết hợp tổ chức xã hội trong nước, và các tổ chức dựa
vào cộng đồng thực hiện giải pháp này.
Năm là, nhóm giải pháp phát triển hệ thống quỹ bảo trợ trẻ em cũng
như huy động các nguồn lực đầu tư cho công tác bảo vệ trẻ em; nhà nước đầu
tư ngân sách đảm bảo cho công tác bảo vệ trẻ em; khuyến khích và huy động
sự đóng góp của các nguồn lực xã hội, các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân
cho các hoạt động và công trình dành cho trẻ em. Nhóm công cụ tài chính
được sử dụng như ngân sách nhà nước, các quỹ bảo trợ, các hoạt động khuyến
khích và huy động sự đóng góp của các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức
quốc tế khác.
1.4. Cách tiếp cận và phương pháp tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ
trẻ em.
1.4.1. Cách tiếp cận thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em
Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã
hội và vận dụng phương pháp nghiên cúu chính sách công. Đó là cách tiếp
cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây
dựng chính sách, thực hiện và đánh giá chính sách có sự tham gia của các bên
chủ thể chính sách.
Có một số phương pháp tiếp cận khi thực hiện chính sách trong đó
phương pháp tiếp cận “từ trên xuống, từ dưới lên” được xem là phương pháp
truyền thống nhất khi thực hiện chính sách:
- Phương pháp từ trên xuống:
20
* Ưu điểm: Cách tiếp cận này đảm bảo được tính thống nhất khi ban
hành chính sách, đảm bảo chính sách được triển khai nhanh gọn và tránh được
sự chồng chéo, mất tập trung khi thực hiện chính sách.
* Nhược điểm: Tuy nhiên phương pháp này không phát huy được tính
chủ động, sáng tạo của cơ sở và chưa thực sự phù hợp với hoàn cảnh, tình
hình kinh tế xã hội của từng địa phương thực hiện.
- Phương pháp từ dưới lên:
Khắc phục được nhược điểm của phương pháp tiếp cận “từ trên
xuống” nhưng vẫn phải gặp một số vấn đề khi thực hiện bởi vì nó chịu ảnh
hưởng mang tính chủ quan của những cán bộ chuyên trách.
Ngoài ra phương pháp tiếp cận trên chưa thực sự có sự tham gia của
người dân. Do đó, để đảm bảo phù hợp với tình hình mới cũng như mục tiêu
hướng tới cộng đồng phương pháp tiếp cận phù hợp nhất khi thực hiện chính
sách là tiếp cận theo hàng đọc (cách tiếp cận mang tính hai chiều)
Tiếp cận theo chiều ngang có sự phối hợp giữa cán bộ, các cơ quan ban
ngành: Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp và sự tham gia của các
bên liên quan và cộng đồng, người dân, các tổ chức trong nước và quốc tế.
Như vậy, cách tiếp cận đối với chính sách bảo vệ trẻ em đó là Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức đoàn thể xã hội, chính
trị thông qua các chương trình, chiến lược, chính sách, nghị quyết và chỉ thị
về mặt chính trị. Quốc hội thực hiện vai trò giám sát tối cao các hoạt động
của nhà nước. Trong các cơ quan của Quốc hội, có một số ủy ban trực tiếp
liên quan đến trẻ em như Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh thiếu niên và nhi
đồng (UBVH-GD-TTN&NĐ), Ủy ban các vấn đề xã hội, Ủy ban kinh tế, Ủy
ban tài chính và ngân sách.
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (Bộ LĐTB&XH) chịu trách
nhiệm quản lý nhà nước đối với các vấn đề trẻ em, cùng với các bộ ngành liên
21