Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Khoá luận tốt nghiệp giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của người thái đen ở mường lò, yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.59 MB, 73 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s ư PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

ĐINH THỊ THỦY NGÂN

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VẰN HOÁ TRUYỀN THỐNG CỦA
NGƯỜI THÁI ĐEN Ở MƯỜNG LÒ, YÊN BÁI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Ngưòi hướng dẫn khoa học:

ThS. Hoàng Thanh Son

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN

Để khóa luận tốt nghiệp hoàn thành và được phép bảo vệ, chúng tôi
đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của nhiều cá nhân và đơn vị.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đến:
- Giảng viên hướng dẫn Thạc sĩ Hoàng Thanh Sơn - người đã tận
tình giúp đỡ tôi ừong suốt quá trình học tập và nghiên cứu giúp nhờ đó tôi có
được những định hướng đúng đắn trong suốt thời gian thực hiện khóa luận
tốt nghiệp.
- Thầy, cô phản biện - những người đã góp ý chân thành, thẳng thắn
để tôi hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp của mình.
- Cuối cùng tôi muốn gửi lời cảm ơn đến gia đình và những người thân
yêu của tôi đã có những động viên, khích lệ và chia sẻ để tôi có thể vượt qua


những khó khăn để có được kết quả như ngày hôm nay.
Dù đã rất cố gắng, xong chắc chắn khóa luận tốt nghiệp này không
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được những ý kiến chân thành
của các thầy cô và các bạn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Người thực hiện

Đinh Thị Thủy Ngân


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của tôi trong thời gian qua.
Những kết quả và các số liệu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan khoa luận này được hoàn thành bằng sự cố gắng và nỗ
lực của bản thân cùng với sự hướng dẫn tận tình của Thạc sĩ Hoàng Thanh
Son cùng với bạn bè, thày cô Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Người thực hiện

Đinh Thị Thủy Ngân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tà i........................................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 2

3. Lịch sử nghiên cứu đề tài............................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 4
5. Mục đích nghiên cứu................................................................................. 4
6. Đóng góp của đề tà i................................................................................... 4
7. Bố cục của khoá luận................................................................................. 5
Chương 1. Cơ SỞ LÍ LUẬN VÀ THựC TIỄN CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI THÁI
ĐEN Ở MƯỜNG LÒ, TỈNH YÊN BÁ I.......................................................... 6
1.1. Cơ sở lí luận............................................................................................ 6
1.2. Cơ sở thực tiễn......................................................................................11
Chương 2. NHŨNG GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI
THÁI ĐEN Ở MƯỜNG LÒ, TỈNH YÊN BÁI.............................................. 25
2.1. Văn hoá vật chất...................................................................................25
2.2. Văn hoá tinh thần.................................................................................. 31
2.2.4. Dân ca, dân vũ.................................................................................... 44
Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ GIỮ GÌN VÀ
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI THÁI
ĐEN Ở MƯỜNG LÒ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY............................. 49
3.1. giá tri và hạn chế cuả văn hóa người Thái Đen ở Mường Lò ừong thời
đại ngày nay................................................................................................. 49
3.2. Phương hướng để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người Thái
Đen ở Mường Lò - Nghĩa Lộ...................................................................... 53


3.3. Giải pháp để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của người Thái Đen ở
Mường L ò .....................................................................................................54
3.4. Khuyến nghị để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen
ở Mường Lò - Nghĩa L ộ .............................................................................. 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 57
PHỤ LỤC



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hoá là phương thức sinh tồn, là thành quả tinh thần không ngừng
được tích tụ hình thành trong việc giải quyết những mâu thuẫn vĩnh hằng giữa
con người với thiên nhiên, giữa con người và xã hội, văn hoá là tài sản chung
của xã hội loài người được hình thành trong lịch sử.
Văn hoá chính là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực, mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội. Văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong
đa dạng đó là sự thống nhất của nền văn hoá của 54 dân tộc anh em trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời kì hiện nay văn hoá
các dân tộc thiểu số đang có nhiều biểu hiện phai nhạt đi các giá trị văn hoá
truyền thống ừong khi đòi sống văn hoá mới tại vùng đồng bào dân tộc còn
diễn ra nghèo nàn, các giá trị văn hoá mới chưa được xác lập một cách vững
chắc đang đặt ra yêu cầu cấp bách cho những người làm công tác lãnh đạo,
quản lí ở vùng đồng bào dân tộc càn kịp thời giải quyết để phát triển văn hoá
ở địa phương.
Yên Bái là một tỉnh miền núi, là nơi cư trú của nhiều dân tộc anh em cùng
chung sống như dân tộc Kinh, Thái, Mường, Dao, Hoa, H’Mông, Kho Mú,.. .và
ừong đó người Thái ở Yên Bái có khoảng 41.000 người chiếm 6,1% dân số toàn
tỉnh. Riêng ở Mường Lò tập trung khoảng 90% tổng số người Thái ở Yên Bái,
một số ít còn lại cư trú ở huyện Trạm Tấu và huyện Mù Cang Chải.
Người Thái Đen sống tập trung tại các bản làng xung quanh cánh đồng
Mường Lò men theo những con suối, người Thái Đen ở đây sống xen kẽ vói
ngưòi Kinh. Do vậy giữa họ có sự ừao đổi giao lưu mật thiết về kinh tế-xã
hội, điều đó vừa tạo những điều kiện thuận lợi để họ bổ sung, tiếp thu những
yếu tố văn hoá của nhau nhưng đồng thời cũng làm mai một đi, thậm chí làm
mất đi một số nét văn hoá truyền thống của dân tộc mình, vì vậy việc giữ gìn


1


và phát huy văn hoá dân tộc Thái ở Tây Bắc nói chung và người Thái Đen ở
Mường Lò nói riêng là vừa góp phần thấy được bản sắc văn hoá của tộc người
Thái trong giai đoạn hiện nay.
Văn hoá của người Thái Đen ở Mường Lò rất phong phú và đa dạng, về
cơ bản nó thể hiện giữa những giá ttị văn hoá rất đặc trưng của người Thái
Đen nơi đây, về văn hoá vật chất cũng như văn hoá tinh thần. Cho đến nay
các giá trị văn hoá truyền thống hầu như không còn nguyên vẹn, nhiều giá trị
đang bị phai nhạt và có nguy cơ mất đi hoàn toàn, nên việc nghiên cứu về văn
hoá của người Thái Đen ở Mường Lò là một việc làm có ý nghĩa trong giai
đoạn hiện nay, qua đó để thấy được mặt tốt mặt chưa tốt của nó để đưa ra
những biện pháp tối ưu cho việc giữ gìn và phát huy những nét đẹp văn hoá
đồng thời loại bỏ những hủ tục lạc hậu, những hủ tục mê tín dị đoan. Nhằm
góp phần giáo dục thế hệ trẻ biết tự hào về văn hoá đặc sắc của quê hương của
dân tộc mình.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước thì văn hoá có một vai trò quan trọng,
văn hoá là một trong ba mặt trận hàng đầu của công cuộc xây dựng đất nước
trong nghị quyết Trung Ương 5 khoá VIII của Đảng đã chủ trương: Xây dựng
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. Đây được coi là một
chủ trương đúng đắn trong giai đoạn hiện nay.
Với những lí do như trên, Tôi đã chọn đề tài “Giữ gìn và phát huy giá
trị văn hoá truyền thắng của người Thái Đen ở Mường Lò, Yên Bái”. Làm
đề tài khoá luận của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu về lĩnh vực văn hoá của người Thái Đen ở
Mường Lò, Yên Bái bao gồm hai nội dung chính là văn hoá vật chất và văn
hoá tinh thần.


2


2.2. Phạm vỉ nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu văn hoá của người Thái Đen tập trung chủ yếu ở Mường
Lò, Yên Bái, đề tài đề cập đến văn hoá truyền thống từ trước cho đến nay.
3. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Ở Yên Bái, người Thái Đen ở Mường Lò là một trong những tộc người
tiêu biểu. Tuy nhiên việc nghiên cứu về người Thái Đen noi đây chưa được
quan tâm đúng mức. Từ trước tói nay hàu như chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện, có hệ thống về văn hoá Thái ở Mường Lò, chỉ có một
số công trình viết về người Thái ở Tây Bắc có nhắc đến người Thái Mường
Lò nhưng chỉ dừng lại ở mức độ so sánh, liên hệ sơ lược có thể kể đến như:
Trước tiên là cuốn: “Văn hoá các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc”, của
tác giả Tràn Bình, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007; đã đi sâu nghiên cứu
về văn hoá của dân tộc thiểu số vùng tây Bắc, trong đó có dân tộc Thái.
Cuốn: “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam”, nhà nghiên cứu cầm
Trọng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978. Công trình mang tính chất tổng
quan về lịch sử cư trú, văn hoá, xã hội, kinh tế của ngưòi Thái ở Tây Bắc từ
khi di cư vào Việt Nam; công trình có nhắc tới Mường Lò là quê tổ của người
Thái Đen nhưng chỉ khái quát chung về vùng đất này.
Cuốn: “Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam” của cầm
Trọng, Phan Hữu Dật, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1995; với nội dung là
giới thiệu văn hoá Thái trong lịch sử Việt Nam, sự phân chia thành các vùng
văn hoá, các nhóm địa phương, nơi cư trú, sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt ăn
uống, ở, mặc, đi lại, quan hệ gia đình, xã hội.
Viết về Mường Lò có công trình của hội văn nghệ dân gian Việt
Nam “Tìm hiểu một số tục cúng vía của người Thái Đen ở Mường Lò” của
nhóm tác giả Hoàng Thị Hạnh - Lò Văn Biến - Nguyễn Mạnh Hùng. Hai áng

sử thi của ngưòi Thái là “Quắm tố mương” (kể chuyện bản mường) và “Táy

3


pú xấc” (dõi theo bước đường chinh chiến của cha ông) là hai tác phẩm đã
dựng nên quá trình di cư và sinh sống của người Thái Đen. Những công trình
trên ít nhiều có nghiên cứu về một số mặt của văn hoá Mường Lò, nhưng
chưa đi sâu vào nghiên cứu có hệ thống, chi tiết về văn hoá truyền thống của
người Thái Đen nơi đây. Vì thế đây cũng là một trong những lí do khiến tôi
chọn đề tài và địa điểm này để nghiên cứu ừên cơ sở nghiên cứu sâu thực
trạng văn hoá của người Thái Đen ở Mường Lò hiện nay để có phương hướng
đề ra các biện pháp cụ thể trong việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá của
người Thái Đen trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá hiện nay là
việc làm có ý nghĩa lí luận mà vừa đáp ứng được nhu cầu của hiện thực.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng những phướng của khoa học
lịch sử như: phương pháp lôgic, phương pháp phân tích tổng hợp.
Ngoài ra còn sử dụng những phương pháp khác nhau như: quan sát, và
ghi chép lại những tư liệu qua truyền miệng trong nhân dân.
5. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm giới thiệu về nét văn hoá truyền thống của
người Thái Đen ở Mường Lò, Yên Bái. Bao gồm giá trị văn hoá vật chất và
văn hoá tinh thần.
Bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy những giá
trị văn hoá truyền thống của người Thái Đen ở Mường Lò, vốn đang bị mai
một dần trong quá trình phát triển dưới tác động của nền kinh tế.
6. Đóng góp của đề tài
Khoá luận đi sâu vào việc tìm hiểu về nét sinh hoạt văn hoá của người
Thái Đen ở Mường Lò, là một vùng đất chứa đựng nhiều giá tri văn hoá cổ, là

nơi sinh tụ của nhiều tộc người, với một nền văn hoá dân gian đa sắc thái.
Trải qua nhiều thăng tràm lịch sử, sự tác động của điều kiện tự nhiên, xã hội ở

4


vùng đất mới cùng với sự giao lưu văn hoá các dân tộc trên địa bàn đã làm
cho văn hoá truyền thống có sự biến đổi. Song qua thời gian đã chứng minh
sức sống lâu bền của các giá ttị văn hoá tiêu biểu của nền văn hoá lớn. Qua đó
để có thể lựa chọn những yếu tố tích cực để lưu giữ và phát huy trong thời kì
mới và loại bỏ các yếu tố lạc hậu không phù họp, đổng thời dự báo xu hướng
phát triển văn hoá dân tộc của người Thái Đen ở Mường Lò.
Khoá luận đóng góp thêm vào nguồn tư liệu cho những người quan tâm
nghiên cứu về văn hoá của người Thái Đen một cách cụ thể và từ đó giúp cho
các thế hệ trẻ đọc và biết về văn hoá dân tộc mình. Góp phần tìm hiểu lịch sử
đại phương để giáo dục các em trong trường học và qua đây cũng là tiếng nói
muốn gửi đến các cấp lãnh đạo của xã, của huyện nhằm có một số phương
hướng giải pháp để lưu giữ và khôi phục lại vốn văn hoá truyền thống của dân
tộc trước sự vận động của thời kì kinh tế thị trường đang có nguy cơ làm mai
một đi nền văn hoá dân tộc. Góp phần làm phong phú bản sắc văn hoá Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
7. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục khoá luận
được chia làm 3 chương, 8 tiết.

5


Chương 1. C ơ SỞ LÍ LUẬN VÀ THựC TIỄN CỦA VIỆC GIỮ GÌN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG CỦA

NGƯỜI THÁI ĐEN Ở MƯỜNG LÒ, TỈNH YÊN BÁI

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niêm văn hoá
m

Khái niệm văn hóa là một khái niệm đa chiều với nhiều gốc cạnh, cho
đến ngày nay người ta đã thống kê hơn bốn trăm định nghĩa khác nhau về văn
hóa. Song các nhà văn hóa đều có chung một nhận định đó là: văn hóa có văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Từ “Văn hóa” bắt nguồn từ tiếng la tinh ở Phương Tây “Cult” ban đầu
có nghĩa là canh tác đất đai và gieo trông thực vật. Sau này với sự phát triển
lịch sử thì văn hóa mang một ý nghĩa mới đó là sự mở rộng kiến thức, bồi
dưỡng về thể chất và tinh thần hay là “trồng trọt tinh thần”.
Sang thế kỷ XVII - XVIII thuật ngữ văn hóa có ý nghĩa là “Canh tác
tinh thần ” bên cạnh nghĩa gốc là quản lý nông nghiệp, canh tác nông nghiệp,
cho đến tận thế kỷ thứ XI thuật ngữ “văn hóa” được các nhà nhân loại học
Phương Tây sử dụng như một danh từ chính.
Còn ở Phương Đông thì từ “văn hóa” có ừong đời sống ngôn ngữ rất
sớm, trong Chu Dịch (Trung Quốc) có “quan hồ dĩ nhân hóa thành thiên hạ”
nói đến phép tắc để giải hóa làm cho thiên hạ được khai hóa, theo quan niệm
của Trung Quốc lấy học thuyết Nho Gia là chính với nội dung chủ yếu của
văn hóa là: thi, thư, lễ, nhạc. Còn ừên lĩnh vực chính trị là luôn thường, đạo
lý, chế độ lễ nghi và hàng loạt những quan niệm tập tục lễ giáo.
Theo quan niệm của Chủ nghĩa Mác -Lênin thì “Văn hóa” chỉ gắn liền
với con người và xã hội loài người, con người vừa sáng tạo ra bản thân mình
vừa đồng sáng tạo ra thế giới văn hóa. Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh

6



Gôta”

c Mác đã vạch rõ nguồn gốc của văn hóa gắn liền với sự sáng tạo và

năng lực con người, sự sáng tạo đó bắt nguồn từ lao động chính lao động sáng
tạo ra con người đó chính là hoạt động sản xuất và tái sản xuất ra bản thân
con người với tư cách là một thực thể xã hội. Thể hiện quan hệ giữa con
người với con người. Như vậy con người là tác giả sáng tạo ra văn hóa và
mang các giá trị văn hóa truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang
thế hệ khác và trong quá trình đó có sự giao lưu, ảnh hưởng của các nền văn
hóa dân tộc.
Định nghĩa UNESCO về “Văn hóa” được đặc trưng bởi diện mạo và
tinh thần, vật chất trí lực, tình cảm...khắc họa tạo nên bản sắc của một quốc
gia, cộng đồng, gia đình, làng xóm...Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật
văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống giá trị, những truyền thống tín ngưỡng.
Còn ở Việt Nam cũng có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, có
nhiều quan điểm khác nhau:
Theo giáo sư Đào Duy Anh “Văn hóa” là sinh hoạt, vì văn hóa là sinh
hoạt nên văn hóa của mỗi dân tộc khác nhau, do điều kiện tự nhiên, tính chất
địa lý, điều kiện kinh tế xã hội quy định mà còn có nền văn hóa riêng của mỗi
dân tộc.
Theo giáo sư Phan Ngọc Thêm thì “Văn hóa” là hệ thống hữu cơ các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng: “Văn hóa Việt Nam là tổng thể
những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng
tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước”[7, Tr.16]. Theo nghĩa hẹp:
“Văn hóa là đời sống tinh thần của xã hội”; “Văn hóa là hệ thống các giá trị

truyền thống, lối sống”; “Văn hóa là năng lực sáng tạo” của một dân tộc.

7


“Văn hóa là bản sắc” của một dân tộc, là cái phân biệt dân tộc này với dân
tộc khác.
Vì vậy, có thể nói rằng văn hóa là một khái niệm mở, là một phạm trù
rộng lớn phong phú và đa dạng, các định nghĩa khác nhau về văn hóa đã đưa
ra không nhằm bài trừ nhau mà bổ sung cho nhau làm khái niệm văn hóa càng
ừở nên đày đủ, toàn diện hơn.
1.1.2. Khái niêm bản sắc văn hóa
Bản sắc văn hóa dân tộc nếu nói theo triết tự thì “bản” là gốc, “sắc” là
mầu có nghĩa là mầu sắc ban đầu chưa bị pha ừộn gọi là bản sắc. Theo tạp trí
cộng sản (số 13 -1997) đặc thù của bản sắc riêng biệt của đời sống sinh hoạt
của xã hội của mỗi cộng đồng, dân tộc từ cách ăn mặc, ở, đi lại... cho đến
chiều sâu tâm hồn, tư duy và lối sống ứng xử.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp nên trong lịch sử đâu
ừanh hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Vì thế, nó kết tinh những gì đặc
sắc, đẹp nhất, độc đáo nhất của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, biểu hiện
những giá trị đó là lòng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết,
ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng xóm, Tổ quốc, đức tính càn
cù trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống.
Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng thể các giá trị đặc trưng bản chất của văn
hóa dân tộc, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử lâu
dài của đất nước, các giá trị đặc trưng mang tính bền vững, trường tồn.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hiểu một cách đa chiều cóc cách
nhìn thuận chiều và ngược chiều vì vậy mà bản sắc văn hóa Việt Nam gồm
các nội dung sau:

Lòng yêu nước nồng nàn, đoàn kết chống giặc ngoại xâm, lòng tự hào,
tính khiêm nhường, giữ gìn nhân phẩm, coi trọng thực tiễn, giản dị thanh lịch

8


trong lối sống. Như vậy, bản sắc văn hóa dân tộc được hiểu là những giá trị có
tính lịch sử, trải qua hàng nghìn năm lịch sử văn hóa Việt Nam đã vượt qua
thế bị động để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm bản sắc văn
hóa của mình.
Văn hóa dân tộc Việt Nam đã trải qua quá trình lịch sử lâu dài, nhân dân
đấu ừanh chống kẻ thù không chỉ bằng súng đạn, vũ khí mà còn cả văn hóa,
văn hóa là một vũ khí sắc bén để đấu tranh với kẻ thù. “Văn hóa” và “Dân
tộc” là hai phạm trù khác nhau nhung có liên quan chặt chẽ với nhau về văn
hóa vì mỗi dân tộc có sự khác nhau về văn hóa, có bản sắc riêng của dân tộc
mình. Vì vậy, đánh mất bản sắc riêng là đánh mất dân tộc.
Dân tộc Thái Đen ở Mường Lò - Nghĩa Lộ là một bộ phận trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam nói chung và dân tộc Thái Đen nói riêng. Trải qua
hàng ngàn năm sinh sống, đấu tranh những nét văn hóa dàn được hình thành
và phát triển. Ngoài những nét chung của dân tộc Việt Nam, cộng đồng dân
tộc Thái còn mang những đặc thù riêng của mình.
Bản sắc văn hóa Thái là những nét văn hóa vật chất và tinh thần truyền từ
đời này sang đời khác và trở thành phong tục, tập quán ăn sâu, bám rễ vào từng
nếp nghĩ, lối sống của người Thái Mường Lò. Như vậy, bản sắc văn hóa Thái
bao gồm có văn hóa ẩm thực, ở, mặc và các loại hình tín ngưỡng, các loại hình
văn hóa dân gian.
1.1.3. Cẩu trúc văn hóa
Do có nhiều cách trong việc tiếp nhận nghiên cứu văn hóa, cho nên có
nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc văn hóa. Một số tác giả chia văn hóa
thành: Văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tỉnh thần hay văn hóa tư

tưởng...song, cách tiếp cận phổ biến nhất và thường được nhiều người thừa
nhận hon cả là cách tiếp cận chia văn hóa thành hai lĩnh vực: Văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần, từ đó có các dạng tồn tại của văn hóa (văn hóa vật thể và
văn hóa phi vật thể) chính là cơ sở của cách phân chia này.

9


Văn hóa vật chất: là toàn bộ những giá trị của con người được thể hiện
trong các sản phẩm vật chất do xã hội tạo ra, kể cả từ liệu sản xuất cho đến
các tư liệu lao động của xã hội. Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của
xã hội, các sản phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, phản ánh các giai đoạn
khác nhau của xã hội... Những sản phẩm vật chất của con người được tạo ra
như đồ ăn, đồ mặc, đồ sinh hoạt hàng ngày, phương tiện đi lại...là những giá
trị văn hóa vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất hoạt động khoa học,
con người không ngừng chinh phục tự nhiên, tôn tạo nên những cảnh đẹp
thiên nhiên để chúng ừở thành những danh lam thắng cảnh, những kỳ quan
phục vụ chính con người đó là Vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An, Nhã nhạc cung
đình Huế, cồng chiêng Tây Nguyên... những giá trị văn hóa vật chất ngày các
phong phú theo sự phát triển của xã hội.
Văn hóa tinh thần là toàn bộ giá trị của đời sống tinh thần, bao gồm khoa
học và các mức độ áp dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất và sinh hoạt,
trình độ học vấn, giáo dục, y tế, nghệ thuật, chuẩn mực đạo đức ừong hành vi
của các thành viên ừong xã hội, trình độ phát triển nhu cầu của con người.
Văn hóa tinh thần con người thể hiện trong phong tục tập quán, trong những
phương thức giao tiếp và ngôn ngữ.
Việc phân chia văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chỉ là tương đối,
không thể tách biệt giữa các lĩnh vực. Bởi lẽ ngay ừong văn hóa vật thể lại có
văn hóa phi vật thể và ngược lại. Những giá trị văn hóa thường găn với cá
nhân đó là thể hiện tính xã hội, cá nhân tạo ra sản phẩm văn hóa dựa trên

những cơ sở xã hội nhất định, giá trị văn hóa của cá nhân cũng mang tính xã
hội, có tính xã hội khi được xã hội công nhận. Cho nên văn hóa mang tính xã
hội cùng với lịch sử các giá ừị văn hóa lưu truyền qua các thế hệ tạo nên bản
sắc văn hóa của các dân tộc và khẳng định sự tồn tại của dân tộc ấy.
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần có quan
hệ biện chứng, thúc đẩy nhau cùng phát triển, khi xã hội phát triển nhu cầu

10


vật chất tăng lên, sự sáng tạo ra các giá trị vật chất kéo theo nhu càu tinh thần
cũng phát triển, nhu cầu tỉnh thần tới một mức độ nhất định tác động ừở lại
làm cho nhu cầu vật chất phát triển cao hơn. Do vậy, những sáng tạo vật chất
và tinh thần có tác động thúc đẩy nhau cùng phát triển.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khái quát về Mường Lò và người Thái Đen ở Mường Lò
1.2.1.1. Khái quát về Mường Lò, tỉnh Yên Bái
* Điều kiện tự nhiên
Cánh đồng Mường Lò - vựa lúa thứ hai của khu vực Tây Bắc thuộc
huyện Văn Chấn và Thị xã Nghĩa Lộ của tỉnh Yên Bái. Mường Lò nổi tiếng
với “gạo ừắng nước trong”, nơi từ lâu được nhắc đến là một trong bốn cánh
đồng lớn của miền Tây Bắc qua câu nói quen thuộc “Nhất Thanh, nhì Lò, tam
Than, tứ Tấc” (tức là Mường Thanh - Điện Biên, Mường Than - Than Uyên
và Mường Tấc - Phù Yên). Nơi đây còn biết đến là cái nôi của người Thái
Tây Bắc.
Mường Lò thuộc phía Tây của tỉnh Yên Bái là nới có địa hình đa dạng
với nhiều con suối, mương, ngòi. Là nơi được hình thành do sự chênh lệnh về
độ cao của các dãy núi và sự chia cắt đột ngột của dãy Hoàng Liên Sơn từ
Nghĩa Lộ đến đèo Lũng Lô, nơi có đường Yên Bái - Sơn La chay qua, những
vùng đồi thấp và nùi thấp tỏa rộng từ hữu ngạn sông Hồng tới tả ngạn sông

Đà tạo ra những thung lũng và được phù xa bồi lấp khá rộng ở Tú Lệ, Gia Hội
và Mường Lò.
Cánh đồng Mường Lò rộng khoảng 2300 ha, dốc dần từ phía nam xuống
phía bắc. Độ cao tuyệt đối so với mực nước biển từ 260 đến 280 mét. Cao nhất
của vùng lòng chảo là địa bàn xã Phúc Sơn, Thạch Lương (thuộc huyện Văn
Chấn), thấp nhất là xã Sơn A, Sơn Lương (thuộc Thị xã Nghĩa Lộ). Mường Lò
được thiên nhiên ưu đãi với hệ thống sông ngòi phong phú chảy vào cánh

11


đồng như: Ngòi Thia (156km) phàn chảy vào lòng chảo là 20km, bắt nguồn từ
xã Phúc Sơn kết thúc tại xã Sơn Lương; Ngòi Nậm Tăng; Ngòi Nhì; ngòi
Nậm Đông (Ngòi Nung); ngòi Min (Gia Hội). Các suối, ngòi này là nguồn
thủy sinh cho việc cấp nước ở cánh đồng Mường Lò - cũng là nơi có tổng chữ
năng về điện khá lớn, cung cấp thức ăn về thủy sản. Toàn bộ vùng lòng chảo
Mường Lò là đất phù xa của các con sông ngòi bồi tụ từ xa xưa (thời cổ). Đất
vùng ven lòng chảo là đất diệp thạch (được phân hóa từ cây) và sa thạch
(được phân hóa từ đá) do đất ừôi từ núi sau những ừận mưa. Đất đai ở
Mường Lò vì thế chủ yếu là đất phù sa, đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển nông nghiệp, thâm canh mùa vụ của đồng bào ở nơi đây.
Khí hậu nơi đây mang tính chất á nhiệt đới. Trong năm có hai mùa rõ rệt:
mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 (thường gây lũ lụt), mùa khô từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau (lượng mưa ít, thời tiết khô hanh, do đó mùa đông ở đây
lạnh nhưng không ẩm ướt). Cũng do địa thế của vùng lòng chảo nên ở đây ít
có bão lớn mà chỉ có lốc cục bộ hoặc lũ quét.
Đặc điểm khí hậu như trên có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cũng như
tập quán của người Thái nơi đây, nhất là văn hóa mặc. Khí hậu nơi đây phù
họp cho việc trồng cây bông, cây chám, cây dâu - nguyên liệu chính để làm ra
ừang phục, thêm vào đó người Thái có tập quán trồng cây chàm, cây hỏm

quanh nhà để làm nguyên liệu nhuộm sợi vải bông. Trang phục được làm từ
các loại vải có chất liệu làm từ đay, lanh, tằm, bông...được người dân ưu tiên
sử dụng vì phù họp với khí hậu nơi đây.
Cư dân sinh sống chủ yếu tập trung quanh vùng chảo Mường Lò nhưng
thuộc địa giới hành chính của huyện Văn Chấn và Thị xã Nghĩa Lộ. Huyện
Văn Chấn thuộc phía Tây Nam của tỉnh Yên Bái, phía Bắc giáp huyện Mù
Cang Chải, phía Đông giáp huyện Trấn Yên, phía Tây Nam giáp huyện Trạm
Tấu, phía Nam giáp huyện Thanh Sơn tỉnh Phú Thọ và huyện Phù Yên tỉnh

12


Sơn La. Huyện Văn Chấn có diện tích tự nhiên 122.390,6 ha, dân số trên
145.000 người, gồm 13 dân tộc anh em sinh sống trong đó người Kinh (Việt)
chiếm 42%, người Thái chiếm 23% ngoài ra còn một số dân tộc khác như,
Tày, Mông, Dao. Huyện Văn Chấn gồm 31 đơn vị hành chính trực thuộc: 28
xã, 3 thị trấn với 351 thôn, bản, tổ dân phố. Văn Chấn được chia làm hai tiểu
vùng: vừng ừong gồm 23 xã - thị trấn lấy Đèo Ách làm ranh giới; vùng ngoài
gồm 8 xã. Người Thái Đen sinh sống tại một số xã của huyện Văn Chấn
quanh cánh đồng Mường Lò như: Phù Nham, Sơn Thịnh, Hạnh Sơn, Phúc
Sơn, Sơn A, Thạch Lương, Gia Hội. Phần còn lại của vùng lòng chảo cánh
đồng Mường Lò thuộc địa giới của thị xã Nghĩa Lộ.
Nghĩa Lộ là một thị xã miền núi, là trung tâm kinh tế - văn hóa - xã hội
vùng phía Tây của tỉnh Yên Bái. Thị xã cách thành phố Yên Bái khoảng hơn
80km đường quốc lộ 32. Phía Bắc, phía Đông, phía Nam giáp huyện Văn
Chấn, Phía tây giáp huyện Trạm Tấu của tỉnh. Với diện tích 2966,6 ha, dân số
25.486 người cư trú trên địa bàn 4 phường (Trung Tâm, cầu Thia, Pú Chạng,
Tân An) và 3 xã (Nghĩa An, Nghĩa Phúc, Nghĩa Lợi). Thị xã có 17 dân tộc
anh em cùng chung sống, trong đó dân tộc Thái chiếm 44,57%, dân tộc Kinh
chiếm 43,35%.

Quá trình lịch sử và sự thay đổi địa giới hành chính, Mường Lò nằm
trong địa giới huyện Văn Chấn và sau này lại thuộc cả hai đơn vị hành chính
là thị xã Nghĩa Lộ. Như vậy, khi nhắc đến Văn Chấn - Nghĩa Lộ là nói đến
Mường Lò. Mường Lò trở thành điểm kết nối, hội tụ, kết tinh văn hóa đậm
nét, riêng có của người Thái Đen ở Yên Bái nói riêng và trung tâm văn hoá
của người Thái Tây Bắc Việt Nam nói chung.
* Điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội
Nằm trong khu vực hội tụ đông dân tộc anh em, khu vực Mường Lò có
17 dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc Thái chiếm số đông, cùng một

13


số dân tộc khác như dân tôc Kinh, dân tộc Tày, dân tộc Mường, Mông, Dao,
Khơ Mú... cư dân của Mường Lò mang đặc trưng của cư dân thành thị miền
núi Tây Bắc.

về nông - lầm nghiệp: Mường Lò là một trong bốn cánh đồng lớn của
Tây Bắc. Cánh đồng Mường Lò rộng lớn, bằng phẳng, đất đại màu mỡ, khí
hậu ôn hòa rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp với nhiều loại gạo ngon,
đặc sản. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc định cư, tụ cư và sinh sống lâu
đời của người Thái Đen nơi đây cũng như các dân tộc anh em khác.
Trong sản xuất nông nghiệp, đồng bào đã tích cực chuyển đổi cơ cấu
mùa vụ, giống cây trồng, công tác khuyến nông được cán bộ địa phương đẩy
mạnh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Vì vậy năng xuất
một số loại cây trồng nhất là cây lúa tăng nhiều so với những năm trước đây.
Sản xuất lâm nghiệp quy mô nhỏ.

về tiểu thủ công nghiệp: Các ngành nghề thủ công truyền thống tiêu biểu là
dệt vải thổ cẩm, chế biến gỗ, các ngành cơ khí sửa chữa, cớ khí xây dựng, sản xuất

vật liệu xây dựng, sản xuất nước sạch., cũng đã từng bước có sự phát triển.
Dệt thổ cẩm với các sản phẩm đa dạng như vải, chăn, quàn áo, túi, khăn,
và các loại đệm bông lau, bông gạo, đệm ghế, gối... trước đây chỉ phục vụ cho
sinh hoạt cá nhân và cho gia đình nay đã trở thành hàng hóa. Chế biến gỗ mỹ
thuật cũng là một trong những ngành nghề mới được hình thành. Các ngành
nghề may mặc, xay xát, chế biến lương thực, thực phẩm có bước phát triển
mạnh, đáp ứng nhu cầu của vùng và khu vực lân cận. Tuy nhiên, các ngành
nghề tiểu thủ công nghiệp có quy mô, giá trị sản xuất còn nhỏ bé, chưa có thị
trường ổn định, chưa tạo được một thương hiệu riêng cho sản phẩm của vùng.

về thương mại - dịch vụ, du lịch: Đây là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của
vùng, có nhiều tiền năng phát triển. Với vị trí là trung tâm giao lưu buôn bán,
trao đổi hàng hóa của khu vực, các cửa hàng và chợ đã hình thành nên một hệ

14


thống thương mai khá sôi động ở khu vực này. Từ lâu, miền đất này đã trở
thành một trong những trung tâm kinh tế - văn hóa tương đối sầm uất ừong
tỉnh và các khu vực lân cận. Thời kỳ thực dân Pháp cai trị năm 1935, chợ
Nghĩa Lộ đã được xây dựng trở thành chợ lớn thứ hai của tỉnh Yên Bái. Sau
khi thị xã được tái lập, chợ Mường Lò đã được quy hoạch, đầu tư xây dựng
lại trở thành một trong những trung tâm thương mại lớn của tỉnh Yên Bái.
Hàng hóa ở đây khá phong phú, đa dạng. Bên cạnh những sản phẩm công
nghiệp hiện đại còn có rất nhiều nông sản, sản phẩm thủ công truyền thống
phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của nhân dân và trao đổi thương mại. Có thể
gọi chợ Mường Lò là chợ đầu mối vì phần nào đã đáp ứng được nhu cầu trao
đổi hàng hóa trong vùng và khu vực lân cận.
Dịch vụ du lịch có nhiều tiềm năng đặc biệt khi Mường Lò là điểm đến
nằm trong Chương trình du lịch về cội nguồn của 3 tinh Phú Thọ, Yên Bái,

Lào Cai. Dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục bước đầu được mở rộng trong những
năm gần đây.
Văn hóa - xã hội: Cùng với sự phát triển về kinh tế, các mặt văn hóa xã
hội ở Mường Lò đạt trình độ phát triển khá cao. Khu di tích lịch sử Căng Đồn Nghĩa Lộ đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp
quốc gia, là nhà tù (căng) giam giữ tù chính trị của thực dân Pháp. Đây không
chỉ là nơi tưởng niệm mà còn là một điểm du lịch thu hút du khách đến tìm
hiểu truyền thống lịch sử cách mạng, văn hóa của địa phương; Bảo tàng Yên
Bái - Chi nhánh Nghĩa Lộ, Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được
công nhận là một trong hệ thống Bảo tàng Hồ Chí Minh cả nước. Nhiều thôn,
bản, tổ dân phố đã có nhà văn hóa. Nhìn chung đời sống vật chất tinh thân của
đồng bào các dân tộc trên địa bàn khu vụ đã được cải thiện ữong những năm
gần đây, song tỷ lệ hộ nghèo cũng còn khá cao (năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo
theo tiêu chí mới còn chiếm đến 31,7%).

15


Ở Mường Lò cùng với đa số người dân theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên,
cha mẹ và những người có công với quê hương, đất nước còn một bộ phận
giáo dân theo đạo Công giáo. Với chủ trương tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự
do tôn giáo của Đảng và Nhà nước, mỗi người dân theo tôn giáo cũng như
không theo tôn giáo ở Mường Lò đều lấy mục tiêu sống đoàn kết, tương thân,
tương ái, chung sức, chung lòng xây dựng quê hương đất nước.
Là một miền đất giàu truyền thống văn hóa, Mường Lò được coi là xứ sở
của nhiều lễ hội, cái nôi tạo nên sắc thái văn hóa khá riêng biệt, đậm đà bản
sắc dân tộc, nhất là mỗi khi Tết đến Xuân về, mùa màng thu hoạch xong xuôi.
Lễ hội nào cũng chứa đựng một tâm tưởng vừa kín đáo, vừa lan tỏa, bao trùm
lên nó là sự thờ cúng, tôn vinh các vị thần linh, các siêu nhân có công với bản,
với quê hương, đất nước, với tổ tiên. Lễ hội cũng là dịp giải trí, vui chơi giao
lưu, củng cố tình làng xóm, từ lễ hội này trai gái được giao duyên, nhiều đôi

nên vợ, chồng. Lễ hội đã góp phần bồi đắp và phát triển ý thức cộng đồng. Ở
đây có những lế hội đặc sắc như lễ hội hoa ban, lễ hội “lồng tồng” (hội xuống
đồng), lễ hội “xên hươn - xên bản - xên mường” (cúng nhà, cúng bản, cúng
mường) cầu cho sức khỏe, làng bản ấm no, mùa màng bội thu, mưa thuận gió
hòa, trâu bò đầy chuồng, thóc lúa đầy nhà...; lễ hội trò chơi, lễ hội ẩm
thực...gắn liền với lễ hội là các trò chơi truyền thống của các dân tộc như kéo
co, ném còn, đánh yến, đu chà... Những trò chơi không chỉ vui, hứng thú mà
còn có ý nghĩa giao duyên, tỏ tình đậm đà.
Mỗi dân tộc ở Mường Lò có một bản sắc văn hóa riêng, độc đáo nhưng
luôn song hành hoặc hòa quyện với nhau tạo nên một vùng đất đậm chất văn
hóa đặc sắc mà ít nơi có được đó là văn hóa Mường Lò.
* Vài nét về lịch sử Mường Lò
Theo các nhà nghiên cứu khoa học về sự thiên di của các ngành Thái
Tây Bắc Việt Nam, về người Thái ở Tây Bắc Việt Nam..., đặc biệt qua hai

16


cuốn sử thi của người Thái đen: “Quắm tố mương” (kể chuyện bản mường)
và “Táy pú xấc” (dõi theo bước đường chinh chiến của cha ông), vào khoảng
thế kỷ XI - XII ngành Thái Đen do Tạo Xuông và Tạo Ngần dẫn đường cư trú
từ Mường Ôm, Mường Ai đến Mường Lò cư trú. Đoàn người đã đặt chân đầu
tiên đến Mường Min (này là xã Gia Hội huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái) rồi
vào vùng lòng chảo Mường Lò rộng lớn. Thuở ấy, Mường Lò còn là vùng đất
mênh mông hoang vắng. Tổ tiên người Thái Đen đã dừng lại đây sinh sống và
cùng nhau khai phá thành ruộng đồng.
Tạo Xuông, Tạo Ngàn xuống dựng Mường Lò Luông. Cùng theo có
các họ Lò, Lường, Quàng, Lèo, Tòng. Những họ này tôn họ Lò làm chủ...
Xây dựng xong Mường Lò, Tạo Ngần về Mường Bò Té. Còn Tạo Xuông ở
lại, lấy vợ sinh con là Tạo Lò. Tạo Lò lấy vợ sinh ra bẩy người con trai là: Ta

Đúc, Ta Đẩu, Lặp Li, Lò Li, Lạng Ngạng, Lạng Quang và Lạng Chượng...Tạo
Lò chia đất cho các con đi làm chúa. Ta Đúc ăn Lò Luông; Ta Đẩu ăn Lò
Cha; Lặp Li ăn Lò Gia; Lò Li ăn Mường Min; Lạng Ngạng ăn Mường Vân,
Mường Vành; Lạng Quang ăn Xí xam bản Lọm...Riêng Lạng Chượng là con
út Tạo Lò không có mường để “ăn”...Chúa Lạng Lượng...triệu tập binh tướng,
dân chúng, kéo nhau đi tìm mường...
Khi người Thái Đen xuất hiện ở Mường Lò, vùng lòng chảo này đã được
chia làm ba vùng: Mường Lò Luông (tức là Mường Lò Lớn là nơi trung tâm
của vùng lòng chảo, cũng là trung tâm của toàn châu mường); Mường Lò Gia
(gọi tắt là Mường Gia) và Mường Lò Cha (gọi tắt là Mường Cha). Và do đó
Mường Lò là Mường Xam Lò (Mường Ba Lò). Ngoài phạm vi vùng lòng chảo,
Mường Lò còn gồm những mường nhỏ khác như Mường Hồng, mường Hằng
(này thuộc huyện Trấn Yên - Yên Bái); mường Nặm, mường Piu (nay là xã
Thượng Bằng là huyện Văn Chấn, tinh Yên Bái, mường Mẻng, mường Pục
(nay thuộc xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái); mương Min (nay là xã
Gia Hội, huyện Văn Chấn; mường Lùng (nay là xã Tú Lệ, huyện Văn Chấn).

17


Trong lịch sử người Thái Đen, Mường Lò là noi sinh quán của Lò Lạng
Chượng - người sau này dẫn dắt người Thái Đen đi chinh phục những vùng
đất mới: vùng Sông Đà, sông Mã và xâm nhập sâu hơn nữa những vùng đất
đai miền Tây Bắc, kết thúc bằng việc dựng mường trung tâm ở cánh đồng
Mường Thanh ngày nay là Điện Biên, biến nơi đây thành nơi thu hút người
Thái từ nhiều miền về hội tụ cư trú. Đến bây giờ người Thái Đen vẫn giữ
được tập tục mỗi khi cha mẹ, ông bà qua đời đều đưa hồn người chết trở lại
quê Mường Lò quê tổ rồi mới tiếp tục về với Đẳm (tổ tiên) ở cõi ừời.
Các tác phẩm của người Việt như “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Đại
Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, “Kiến văn tiêu

lục” của Lê Quý Đôn, “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc Sử quán triều
Nguyễn, hay những tác phẩm về địa dư: Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng
xã Bắc Kỳ; Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ...đều không nhắc tới địa
danh Mường Lò. Nhà nghiên cứu cầm Trọng còn có tên là Văn Chấn. Đinh
Xuân Vịnh lại cho rằng Mường Lò là thổ âm của châu Văn Chấn, tỉnh Hưng
Hóa xưa. Như vậy, Mường Lò có liên quan đến một địa danh hành chính Nhà
nước là Văn Chấn.
Thời Hùng Vương, Văn Chấn thuộc bộ Tân Hưng, đến thời Âu Lạc
thuộc bộ Giao Chỉ. Qua hàng nghìn năm Bắc thuộc và các triều đại Ngô,
Đinh, Tiền, Lê nhiều lần thay đổi phiên hiệu, đến thời Lý Văn Chấn thuộc đất
Châu Đăng. Đời họ Trần gọi là đạo Đà Giang. Năm Quang Thái thứ 10
(1937) đời Trần Thuận Tông lại đổi thành trấn Thiên Hưng. Thời thuộc Minh
thuộc đất hai châu trực lệ là Gia Hưng và Quy hóa. Năm 1469, Lê Thánh
Tông định lại bản đồ cả nước để thống nhất các phủ, huyện và các đạo thừa
tuyên. Lúc này huyện Văn Chấn cùng các huyện Trấn Yên, châu Văn Bàn
nằm trong địa phận phủ Quy Hóa, đạo thừa tuyên Hưng Hóa. Năm 1940, đạo
thừa tuyên Hưng Hóa đổi thành xứ Hưng Hóa. Đến triều Nguyễn, Văn Chấn

18


thuộc vùng Thập Châu tỉnh Hung Hóa, sau đó là vùng Tam tổng Nghĩa Lộ,
thuộc tỉnh Hung Hóa. Thời thuộc Pháp, châu Văn Chấn thuộc hạt Nghĩa Lộ,
tỉnh Lào Cai. Ngày 11 tháng 4 năm 1990 thực dân Pháp đã lấy các hạt Bảo
Hà, Nghĩa Lộ, Yên Bái và châu Lục Yên của tỉnh Tuyên Quang để thảnh lập
tỉnh Yên Bái. Châu Văn Chấn lúc này lại trở thành một huyện của tỉnh Yên
Bái. Qua nhiều làn thay đổi địa dư hành chính, từ tháng 5 năm 1955 đến tháng
8 năm 1991. Văn Chấn chính thức trở thành một trong 7 huyện của tỉnh Yên
Bái. Năm 1995, thị xã Nghĩa Lộ được thành lập thuộc tỉnh Yên Bái trên cơ sở
thị trấn Nghĩa Lộ và một phần thuộc huyện Văn Chấn. Huyện Văn Chấn tách

khỏi thị xã Nghĩa Lộ và xây dựng trung tâm huyện tại khu vực xã Sơn Thịnh.
Đất Mường Lò cổ ngày trước rất rộng trên cả bốn huyện phía Tây của
tỉnh Yên Bái, không riêng ở vùng lòng chảo Mường Lò; bởi vậy mà địa bàn
cư trú của người Thái rất rộng. Cùng với người Thái, các dân tộc anh em khác
cùng cư trú đã tạo ra một vùng văn hóa đa sắc màu, phong phú và đặc sắc.
Mường Lò ngày này không chỉ còn là một vùng đất cổ giàu tiềm năng và phát
triển du lịch sinh thái, du lịch nhân văn và văn hóa tộc người mà còn là vùng
đất lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa cổ truyền mang tính chất nguyên sơ của
văn hóa truiyền thống.
1.2.1.2. Người Thái Đen ở Mường Lò
* Tên gọi, dân sổ và sự phân bổ dân cư
Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái
còn tự gọi mình là “Táy”, “Táy Khao' là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen.
Người Thái ở Yên Bái có khoảng 41.000 người chiếm 6,1% dân số toàn
tỉnh. Riêng ở Mường Lò tập trung khoảng 90% tổng dân số người Thái ở Yên
Bái, một số ít còn lại cư trú ở huyện Trạm Tấu và huyện Mù Cang Chải.
Người Thái Đen sống tập trung tại các bản xung quanh cánh đồng
Mường Lò men theo những con suối, thuộc địa giới hành chính của một số xã

19


vùng trong của huyện Văn Chấn và địa bàn của thị xã Nghĩa Lộ. Người Thái
ở Mường Lò cũng sống xen kẽ với một số dân tộc khác như: H'Möng, Dao,
Hoa, Mường, Khơ Mú, Kinh... do đó cũng chịu sự tác động và ảnh hưởng qua
lại nhất định về văn hóa, kinh tế, xã hội.
Mặt khác một số bộ phận người Thái Đen sinh sống ở khu vực thị xã
Nghĩa Lộ, đặc biệt ở các phường và các khu trung tâm gàn trục đường giao
thông chính, đã ít nhiều bị ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa. Tuy vây, đa số
người Thái Đen noi đây vẫn giữ được những nét văn hóa cơ bản của dân tộc

mình và bảo tồn chứng trong những nếp nhà sàn, trong từng thiết chế thôn bản.
* Lịch sử cư trú
Với những điều kiện về địa hình, đất đai, khí hậu thuận lợi, vùng Văn
Chấn, Nghĩa Lộ từ rất sớm có người cư trú.
Các nhà khảo cổ học đã phát hiện những hóa thạch của một số loại động
vật như lợn rừng, hươu và một số di vật đá cuội, trong đó có một công cụ
thuộc thời kỳ văn hóa Hòa Bình tại hang Thẩm Thoóng (xã Thượng Bằng La,
huyện Văn Chấn.
Theo truyền thuyết và ký ức của những người cao tuổi người Thái Đen
sinh sống nơi đây luôn tự hào về địa bàn cư trú lâu đời của tổ tiên mình. Ngày
nay, các nhà khoa học đã khẳng định người Thái Đen ở Tây Bắc Việt Nam là
kết quả của cuộc thiên di mạnh mẽ vào Tây Bắc khoảng đầu thiên nhiên kỷ
thứ II sau công nguyên. Như nhà nghiên cứu Đặng Nghiêm Vạn đã nhận định
về cuộc thiên di này: “nằm trong cuộc thiên di lớn của tổ tiên người Thái vào
Đông Dương, là một diễn biến lịch sử lớn lao,làm đảo lộn toàn bộ tình hình
phân bố dân cư miền Tây Bắc Việt Nam cũng như ừên bán đảo Đông Dương”.
Trong bối cảnh lịch sử ấy người Thái Đen phải tiếp xúc với nhiều loại
hình ngôn ngữ, văn hóa của các dân tộc khác. Do vậy, họ vừa phải bảo lưu
gìn giữ những yếu tố cơ bản đặc trưng nhất của dân tộc mình và có sự tiếp thu

20


×