Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

skkn dạy học ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.25 KB, 41 trang )

DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HUY NĂNG LỰC CỦA
HỌC SINH
NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Giải pháp cũ thường làm
Trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT mà đặc biệt là giảng
dạy những tác phẩm văn học thuộc thể loại thơ trữ tình trước đây, bản thân tôi cùng
các đồng nghiệp vẫn quen sử dụng phương pháp dạy học truyền thống. Dạy học vẫn
nặng về truyền thụ kiến thức lý thuyết và truyền thụ tri thức một chiều vẫn là
phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số giáo viên thường xuyên chủ
động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy học cũng như sử dụng các
phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn
chưa nhiều. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình huống thực
tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được
quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, sử dụng các phương
tiện dạy học chưa được thực hiện rộng rãi và hiệu quả trong các trường trung học
phổ thông. Những giờ dạy học Ngữ văn trước đây tôi thấy dù có thành công mấy đi
chăng nữa thì học sinh mới chỉ dừng lại ở mức độ lĩnh hội, tiếp thu và ghi nhớ tri
thức một cách máy móc mà chưa phát huy hết được năng lực chủ động, sáng tạo
trong quá trình chiếm lĩnh tri thức mới.
Là một giáo viên đứng trên bục giảng tôi luôn băn khoăn suy nghĩ, trăn trở làm
cách nào có thể nâng cao được chất lượng giáo dục học sinh và điều quan trọng hơn
là học sinh qua mỗi bài học các em có thể khám phá được những tri thức mới như
thế nào và có thể ứng dụng được gì vào trong thực tiễn cuộc sống. Chính vì điều đó
tôi muốn cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu để có thể đưa ra được một phương pháp dạy
học phù hợp với thực tiễn dạy học Ngữ văn ngày nay.
2. Giải pháp mới cải tiến
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển năng lực của học
sinh là phương hướng phù hợp với nhịp độ phát triển của thời đại đổi mới của đất
nước. Nắm được phương pháp trên và đưa nó ứng dụng vào giảng dạy, học tập môn



ngữ văn ở trường THPT đối với các nhà quản lý giáo dục và đặc biệt đối với các
giáo viên đứng lớp là điều hết sức quan trọng để có thể góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục trong thời kì hiện đại.
Xuất phát từ chủ trương đổi mới toàn diện giáo dục, trong đó đổi mới phương
pháp giáo dục là một trong những khâu quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục
hiện nay. Đồng thời trên cơ sở gắn bó với nghề và bắt nguồn từ những băn khoăn
trăn trở trong quá trình dạy học môn ngữ văn ở trường THPT là làm thế nào để có
được một giờ học tốt, làm sao để học sinh có thể phát huy được tính tích cực, chủ
động, sáng tạo, vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học vào trong học tập và
ứng dụng vào thực tế cuộc sống, đồng thời phát huy được năng lực vốn có của học
sinh. Điều đó đã thôi thúc tôi suy nghĩ để đưa ra phương pháp phù hợp trong quá
trình giảng dạy một số tác phẩm thơ trong chương trình ngữ văn 11 và có thể đáp
ứng được phần nào định hướng giáo dục là chú trọng phát huy năng lực của học
sinh.
Ở đề tài này tôi cố gắng đi sâu vào phương pháp giảng dạy một tác phẩm cụ
thể trong chương trình ngữ văn 11 đó là bài thơ đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
theo hướng phát huy năng lực của học sinh. Để có thể trao đổi một số kinh nghiệm
và đưa ra hướng giảng dạy phù hợp với phương pháp mới.
Trong quá trình soan giảng tôi luôn cố gắng tìm ra hướng đi mới để có thể
định hướng cho học sinh phát huy được năng lực sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri
thức mới và giúp học sinh có hứng thú hơn trong quá trình học tập.


Phần 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DẠY HỌC NGỮ VĂN THEO ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT HUY NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học Ngữ văn theo định hướng phát
huy năng lực của học sinh
1.1 Cơ sở lí luận của việc dạy học Ngữ văn theo định hướng phát huy năng lực
của học sinh

Đổi mới PPDH môn ngữ văn ở trường THPT là kết quả của một quá trình
nghiên cứu, thực hiện kiên trì và được nghiệm thu. Khâu đột phá về chất lượng đổi
mới phương pháp dạy học Ngữ văn là bồi dưỡng năng lực thực hành nghề nghiệp
của đội ngũ giáo viên. Trước hết đội ngũ giáo viên phải nhận thức việc đổi mới
phương pháp dạy học bộ môn thường xuyên là lẽ sống, là trách nhiệm, lương tâm,
danh dự của người thầy. Thầy giỏi mới đào tạo được trò giỏi. Thầy giỏi ở trường
THPT là người có khả năng tự nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ theo xu thế quốc tế, đáp ứng những đòi hỏi của đất nước trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, biết thường xuyên vận dụng kết quả tự nghiên cứu của
mình vào quá trình dạy học bộ môn.
Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ
quan tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận dụng được cái gì
qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ phương pháp dạy
học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn
luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong
nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan
trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ
năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp
liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.


Đối với giáo viên Trung học, đó là cách hiểu mới về môn học, về bản chất
của khoa học và nghệ thuật của văn chương. Không hiểu văn không thể dạy văn.
Yêu cầu nắm vững kiên thức cơ bản về ngữ văn vẫn là một trong những nhân tố
quan trọng về tiềm năng của người giáo viên trong quá trình thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học.
Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp
dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu bằng
việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao

hiệu quả của các phương pháp dạy học này người giáo viên trước hết cần nắm vững
những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị
cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ thuật đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời
trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương pháp
dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp
dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, có thể
tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo
quan điểm dạy học giải quyết vấn đề.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc dạy học Ngữ văn theo định hướng phát huy năng
lực của học sinh
Việc đổi mới giáo dục Trung học dựa trên những đường lối, quan điểm chỉ
đạo giáo dục của nhà nước, đó là những định hướng quan trọng về chính sách và
quan điểm trong việc phát triển và đổi mới giáo dục Trung học. Việc đổi mới
phương pháp dạy học cần phù hợp với những định hướng đổi mới chung của
chương trình giáo dục trung học.
Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của nhà nước về đổi mới giáo dục nói
chung và giáo dục trung học nói riêng được thể hiện trong nhiều văn bản:
- Luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 quy định: " Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả
năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.


- Nghị quyết hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục và đào tạo: " Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ
năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt, một chiều, ghi nhớ máy móc.
Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực..."

- Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo
quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của thủ tướng chính phủ chỉ rõ: " Tiếp tục
đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lục tự học của người
học."
Những quan điểm, định hướng nêu trên là cơ sở thực tiễn và môi trường pháp
lí thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thông nói chung, đổi mới phương pháp
dạy học theo định hướng năng lục người học nói riêng.
Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý
tích cực hóa học sinh về mặt trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn
đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt
động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong
nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên - học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan
trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ
năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ xung các chủ đề học tập phức
hợp nhằm phát triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Những định hướng chung, tổng quát về đổi mới phương pháp dạy học các
môn học thuộc chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực là:
- Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và
phát triển năng lực tự học (sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép, tìm kiếm thông
tin...), trên cơ sở đó trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo của tư duy.
- Có thể lựa chọn một cách linh hoạt các phương pháp chung và phương pháp
đặc thù của môn học để thực hiện. Tuy nhiên dù sử dụng bất kỳ phương pháp nào


cũng phải đảm bảo được nguyên tắc "Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ nhận
thức với tổ chức, hướng dẫn của giáo viên".
- Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với hình thức dạy học. Tùy
theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ
chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; trong lớp học, ngoài lớp học... Cần

chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bào yêu cầu rèn
luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng thú cho
người học.
- Cần sử dụng đủ, hiệu quả các thiết bị dạy học môn học tối thiếu đã quy
định. Có thể sử dụng các đồ dùng dạy học tự làm nếu xét thấy cần thiết với nội dung
học và phù hợp với đối tượng học sinh. Tích cực vận dụng công nghệ thông tin
trong dạy học.
2. Một số đặc điểm tâm lí của Học sinh THPT
Muốn tìm ra được phương pháp phù hợp để giáo dục học sinh phát triển
theo đúng hướng, đúng với mục tiêu, nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hiểu tâm
lý lứa tuổi học sinh. Tâm lý lứa tuổi học sinh trung học phổ thông có những đặc
trưng khác so với tâm lý lứa tuổi học sinh trung học cơ sở hoặc tiểu học.
2.1. Đặc điểm về sự hình thành thế giới quan
Trong tâm lý của học sinh THPT thì sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu
vì các em sắp bước vào cuộc sống xã hội với bao điều đang đón đợi các em ở phía
trước, các em có nhu cầu tìm hiểu khám phá để có quan điểm về tự nhiên, xã hội, về
các nguyên tắc và quy tắc ứng xử trong cuộc sống, những định hướng giá trị về con
người. Các em quan tâm đến nhiều vấn đề như: thói quen đạo đức, cái xấu cái đẹp,
cái thiện cái ác, quan hệ giữa cá nhân với tập thể, giữa cống hiến với hưởng thụ,
giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm… Tuy nhiên vẫn có em chưa được giáo dục
đầy đủ về thế giới quan, chịu ảnh hưởng của tư tưởng bảo thủ lạc hậu như: có thái
độ coi thường phụ nữ, coi khinh lao động chân tay, ý thức tổ chức kỉ luật kém, thích
có cuộc sống xa hoa, hưởng thụ hoặc sống thụ động…
Ở lứa tuổi học sinh THPT thì các em đã có ý thức xây dựng lý tưởng sống
cho mình, biết xây dựng hình ảnh con người lý tưởng gần với thực tế sinh hoạt hàng


ngày. Các em có thể hiểu sâu sắc và tinh tế những khái niệm, biết xử sự một cách
đúng đắn trong những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau nhưng có khi các em lại thiếu
tin tưởng vào những hành vi đó. Vì vậy, giáo viên phải khéo léo, tế nhị khi phê phán

những hình ảnh lý tưởng còn lệch lạc để giúp các em chọn cho mình một hình ảnh
lý tưởng đúng đắn để phấn đấu vươn lên.
2.2. Đặc điểm về sự phát triển trí tuệ
Lứa tuổi học sinh THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát triển trí tuệ. Do
cơ thể các em đã được hoàn thiện, đặc biệt là hệ thần kinh phát triển mạnh tạo
điều kiện cho sự phát triển các năng lực trí tuệ.
Trí nhớ của học sinh THPT cũng phát triển rõ rệt. Trí nhớ có chủ định giữ vai
trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ. Các em đã biết sắp xếp lại tài liệu học tập theo
một trật tự mới, có biện pháp ghi nhớ một cách khoa học. Có nghĩa là khi học bài
các em đã biết rút ra những ý chính, đánh dấu lại những đoạn quan trọng, những ý
trọng tâm, lập dàn ý tóm tắt, lập bảng đối chiếu, so sánh. Các em cũng hiểu được rất
rõ trường hợp nào phải học thuộc trong từng câu, từng chữ, trường hợp nào càn diễn
đạt bằng ngôn từ của mình và cái gì chỉ cần hiểu thôi, không cần ghi nhớ. Nhưng ở
một số em còn ghi nhớ đại khái chung chung, cũng có những em có thái độ coi
thường việc ghi nhớ máy móc và đánh giá thấp việc ôn lại bài.
Hoạt động tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh. Các em đã có khả
năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập và sáng tạo hơn. Năng lực
phân tích, tổng hợ, so sánh, trừu tượng hóa phát triển cao giúp cho các em có thể
lĩnh hội mọi khái niệm phức tạp và trừu tượng. Các em thích khái quát, thích tìm
hiểu những quy luật và nguyên tắc chung của các hiện tượng hàng ngày, của những
tri thức phải tiếp thu…Năng lực tư duy phát triển đã góp phần nảy sinh hiện tượng
tâm lý mới đó là tính hoài nghi khoa học. Trước một vấn đề các em thường đặt
những câu hỏi nghi vấn hay dùng lối phản đề để nhận thức chân lý một cách sâu sắc
hơn. Thanh niên cũng thích những vấn đề có tính triết lí vì thế các em rất thích nghe
và thích ghi chép những câu triết lý.
Nhìn chung tư duy của học sinh THPT phát triển mạnh, hoạt động trí tuệ linh
hoạt và nhạy bén hơn. Các em có khả năng phán đoán và giải quyết vấn đề một cách


rất nhanh. Tuy nhiên, ở một số học sinh vẫn còn nhược điểm là chưa phát huy hết

năng lực độc lập suy nghĩ của bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Vì vậy
giáo viên cần hướng dẫn, giúp đỡ các em tư duy một cách tích cực độc lập để phân
tích đánh giá sự việc và tự rút ra kết luận cuối cùng. Việc phát triển khả năng nhận
thức của học sinh trong dạy học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người
giáo viên.
2.3. Đặc điểm về hoạt động học tập
Cũng như học sinh Trung học cơ sở hay Tiểu học thì hoạt động học tập vẫn
là hoạt động chủ đạo đối với học sinh THPT nhưng yêu cầu cao hơn nhiều đối với
tính tích cực và độc lập trí tuệ của các em. Muốn lĩnh hội được sâu sắc các môn học,
các em phải có một trình độ phát triển tư duy khái quát cao hơn. Những khó khăn
trở ngại mà các em gặp thường gắn với sự thiếu kĩ năng học tập trong những điều
kiện mới chứ không phải không muốn học như nhiều người nghĩ. Hứng thú học tập
của các em ở lứa tuổi này gắn liền với khuynh hướng nghề nghiệp nên hứng thú
mang tính đa dạng, sâu sắc và bền vững hơn.
Tình cảm và thái độ của các em đối với việc học tập cũng có những chuyển
biến rõ rệt. Học sinh THPT đã lớn, kinh nghiệm của các em đã được khái quát, các
em ý thức được rằng mình đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy thử thách
mà đòi hỏi các em phải tự lập. Thái độ, ý thức đối với việc học tập của các em được
tăng lên mạnh mẽ. Học tập mang ý nghĩa sống còn trực tiếp vì các em đã ý thức rõ
ràng được rằng: vốn tri thức, kĩ năng và kĩ xảo hiện có, được hình thành trong nhà
trường phổ thông là điều kiện cần thiết để tham gia có hiệu quả vào cuộc sống lao
động của xã hội. Điều này đã làm cho học sinh THPT bắt đầu đánh giá hoạt động
chủ yếu theo quan điểm riêng của mình. Các em bắt đầu có thái độ lựa chọn đối với
từng môn học. Rất hiếm xảy ra trường hợp có thái độ như nhau với các môn
học. Do vậy, giáo viên phải làm cho các em học sinh hiểu ý nghĩa và chức năng
giáo dục phổ thông đối với giáo dục nghề nghiệp và đối với sự phát triển nhân cách
toàn diện của học sinh.
Mặt khác,ở lứa tuổi này các hứng thú và khuynh hướng học tập của các em đã
trở nên xác định và được thể hiện rõ ràng hơn. Các em thường bắt đầu có hứng thú



nhất định đối với một khoa học, một lĩnh vực tri thức hay một hoạt động nào đó.
Điều đó đã kích thích nguyện vọng muốn mở rộng và đào sâu các tri thức trong các
lĩnh vực tương ứng. Đó là những khả năng rất thuận lợi cho sự phát triển năng lực
của các em. Nhà trường cần có những hình thức tổ chức đặc biệt đối với hoạt động
của học sinh THPT nhất là học sinh cuối cấp để tạo ra sự thay đổi căn bản về hoạt
động tư duy, về tính chất lao động trí óc của các em.
3. Dạy học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực học sinh
3.1. Xác định các năng lực cần phát triển qua môn Ngữ văn cấp THPT
Xã hội ngày càng phát triển thì việc hình thành các kỹ năng, năng lực để đáp
ứng những yêu cầu phát trển đó càng trở nên quan trọng và cần thiết, nó trở thành
một trong những vấn đề đáng quan tâm của toàn xã hội nói chung và trong hệ thống
giáo dục nước nhà nói riêng.
Trong dự thảo đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ
thông sau 2015 đã nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển chương
trình theo định hướng năng lực. Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách
linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá
nhân...., nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối
cảnh nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng kết hợp nhiều yếu tố (phẩm chất,
kiến thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm
thực hiện một loại công việc nào đó. Năng lực có các yếu tố cơ bản mà mọi người
lao động, mọi công dân đều cần phải có đó là các năng lực chung cốt lõi. Năng lực
cốt lõi bao gồm những năng lực cơ bản: Năng lực giải quết vấn đề, năng lực sáng
tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân, năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng
lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ.
Môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ, nó mang đặc thù riêng của môn
học, do đó năng lực tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ là
những năng lực đóng vai trò quan trọng trong việc xác định các nội dung dạy học
của môn học, ngoài ra các năng lực còn lại đóng vai trò là các năng lực chung.
Quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp học sinh hình thành và phát triển

các năng lực, đáp ứng với các yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn


luyện và phát triển các kỹ năng đọc, viết, nghe, nói. Với đặc trưng của môn học,
môn Ngữ văn triển khai các mạch nội dung bao gồm các phân môn Văn học, Tiếng
Việt, Làm văn, nhằm hướng dẫn học sinh đọc hiểu các văn bản và tạo lập được các
văn bản theo các kiểu loại khác nhau.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh tiếp xúc với văn bản, môn ngữ văn giúp
học sinh từng bước hình thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ
thể là năng lực tiếp nhận văn bản (gồm kĩ năng nghe, đọc) và năng lực tạo lập văn
bản (gồm kỹ năng nói và viết). Năng lực đọc-hiểu văn bản của học sinh thể hiện ở
khả năng vận dụng tổng hợp các kiến thức về Tiếng Việt, về các loại hình văn bản
và kỹ năng, phương pháp đọc, khả năng thu thập các thông tin, cảm thụ cái đẹp và
giá trị của tác phẩm văn chương nghệ thuật.
Năng lực tạo lập văn bản của học sinh thể hiện ở khả năng vận dụng tổng hợp
kiến thức về các kiểu văn bản, với ý thức và tình yêu Tiếng Việt, văn học, văn hóa,
cùng kỹ năng thực hành tạo lập văn bản, theo các phương thức biểu đạt khác nhau,
theo hình thức trình bày miệng hoặc viết. Thông qua các năng lực học tập của bộ
môn để hướng tới các năng lực chung và các năng lực đặc thù của môn học.
3.2. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nhằm hướng tới phát triển
năng lực học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là chuyển những kết quả về đổi mới
phương pháp dạy học của chương trình Ngữ văn hiện hành từ "mặt bên ngoài" vào
"mặt bên trong" để phát huy hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học, đáp ứng mục
tiêu hình thành và phát triển năng lực của học sinh.
Đối với môn Ngữ văn, khi vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh như giải quyết vấn đề, dạy học
khám phá, dạy học theo dự án,...cần chú ý đến sự khác biệt về năng lực và sở thích
của mỗi học sinh trong tiếp nhận văn bản, nhất là các văn bản văn học để có cách tổ
chức dạy học phân hóa phù hợp; đặc biệt chú trọng bồi dưỡng phương pháp tự học,

qua đó hướng dẫn học sinh biết kiến tạo tri thức và nền tảng văn hóa cho bản thân
từ những cảm nhận, suy nghĩ và những trải nghiệm của cá nhân trong cuộc sống.
Tăng cường tính giao tiếp, khả năng hợp tác của học sinh trong giờ học Ngữ văn


qua các hoạt động thực hành, luyện tập, trao đổi, thảo luận,...vận dụng các phương
pháp dạy học theo đặc thù của môn học và các phương pháp dạy học chung một
cách phù hợp nhằm từng bước nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ văn.
3.2.1. Phương pháp tổ chức dạy học nhằm hướng tới phát triển năng lực học sinh.
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự tham
gia tích cực của học sinh trong học tập. Trong thảo luận nhóm, học sinh được tham
gia trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm.
Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được
tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm
bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân, giúp học sinh rèn luyện kĩ năng giải quyết
vấn đề khó khăn.
Phương pháp đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình
bày những suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một "vai giả định". Đây là phương
pháp giảng dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách đứng
từ chỗ đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ thể mà
các em quan sát được từ vai của mình. Trong môn ngữ văn, phương pháp đóng vai
được thực hiện trong một số nội dung học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu
chuyện đã học; chuyển thể một văn bản văn học thành một kịch bản sân khấu, xử lý
một tình huống giao tiếp giả định, trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn
khác nhau...
Phương pháp nghiên cứu tình huống là một phương pháp dạy học, trong đó
trọng tâm của quá trình dạy học là việc phân tích và giải quyết các vấn đề của một
trường hợp(tình huống) được lựa chọn trong thực tiễn. Với phương pháp này, học
sinh tự lực nghiên cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các vấn đề của tình
huống đặt ra, hình thức làm việc chủ yếu là làm việc nhóm. Các tình huống được

đưa ra là những tình huống xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, tình huống đó đã gặp
hoặc có thể gặp hàng ngày. Những tình huống đó chứa đựng vấn đề cần giải quyết.
Để giải quyết các vấn đề đó đòi hỏi có những quyết định dựa trên cơ sở những giải
pháp được đưa ra để giải quyết. Trong nghiên cứu trường hợp, học sinh không phải
ghi nhớ lý thuyết mà quan trọng là vận dụng kiến thức đã học vào việc giải quyết


những tình huống cụ thể. Trong môn học Ngữ văn, nghiên cứu tình huống thường
được thực hiện trong một số nội dung sau: Phân tích một tình huống giao tiếp, tìm
hiểu một văn bản văn học tiêu biểu cho một kiểu loại, tìm hiểu một vấn đề thực tiễn
cuộc sống để tạo lập một văn bản.
Phương pháp dạy học theo dự án là một hình thức dạy học trong đó người học
thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn,
thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao trong toàn
bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện dự
án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện. Dạy học theo dự
án là phương pháp học tập mang tính xây dựng, trong đó học sinh hoàn toàn chủ
động tham gia hoạt động dưới sự hướng dẫn của giáo viên để tạo ra một sản phẩm
hay vận dụng những kiến thức đã học để tìm hiểu, thực hành nghiên cứu một vấn đề
trong học tập hay giải quyết một vấn đề trong cuộc sống. Nói khác, học theo dự án
là một hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho người học tổng hợp kiến thức từ
nhiều lĩnh vực học tập và áp dụng một cách sáng tạo vào thực tế cuộc sống. Quá
trình học theo dự án giúp người học củng cố kiến thức, xây dựng các kỹ năng hợp
tác, giao tiếp và học tập độc lập, chuẩn bị hành trang học tập suốt đời cho người
học, đặc biệt là cho thế hệ trẻ và đối mặt với thử thách trong cuộc sống. Học theo dự
án là hoạt động tìm hiểu sâu về một chủ đề cụ thể với mục tiêu tạo cơ hội để người
học thực hiện nghiên cứu vấn đề thông qua việc kết nối các thông tin, phối hợp
nhiều kỹ năng giá trị và thái độ nhằm xây dựng kiến thức, phát triển khả năng.
3.2.2. Hình thức tổ chức dạy học nhằm hướng tới phát triển năng lực học sinh.
Hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh là một trong những

nhân tố góp phần không nhỏ vào sự thành công trong việc nâng cao hiệu quả của
công tác giáo dục ở trường trung học phổ thông.
Dạy học môn ngữ văn ở trương THPT thường được tổ chức dưới hai hình thức
cơ bản là: hình thức tổ chức dạy học trong lớp và ngoài lớp. Hình thức tổ chức dạy
học trong lớp là hình thức tổ chức dạy học trong các giờ học chính khóa. Trong đó
giáo viên sẽ tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh theo các nội dung học tập.
Hình thức tổ chức dạy học này được thực hiện theo các cách sau: Học theo cá nhân,


học theo nhóm, học theo góc. Hoạt động học theo góc là hình thức tổ chức hoạt
động học tập mà người học thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại vị trí cụ thể trong
không gian lớp học, đáp ứng nhiều phong cách học khác nhau và người học có
quyền lựa chọn các phong cách phù hợp, tạo cơ hội khám phá, thực hành, mở rộng,
phát triển, sáng tạo, đọc hiểu các nhiệm vụ và hướng dẫn bằng văn bản của người
dạy; cơ hội cá nhân tự áp dụng và trải nghiệm. Do vậy học theo góc kích thích
người học tích cực thông qua hoạt động; mở rộng sự tham gia, nâng cao hứng thú
và cảm giác thoải mái, đảm bảo học sâu, hiệu quả bền vững, tương tác mang tính cá
nhân cao giữa thầy và trò, tránh tình trạng người học phải chờ đợi.
Hình thức tổ chức dạy học ngoài lớp học là hình thức quan trọng, gắn các nội
dung học tập với việc vận dụng vào thực tiễn. Hình thức tổ chức này góp phần tạo
ra một không gian học tập mở, giúp học sinh có thêm các cơ hội để thể hiện năng
lực học tập của mình. Có thể tổ chức hoạt động ngoài lớp học dưới dạng các hoạt
động ngoại khóa như: tổ chức câu lạc bộ văn học dân gian, câu lạc bộ thơ; hội thi
sáng văn chương cho học sinh (viết truyện, thơ, kịch bản văn học...), hội thi hùng
biện về chủ đề xã hội hay văn học đang được quan tâm, hoặc tổ chức các cuộc giao
lưu giữa học sinh với các nhà văn, nhà thơ... để khuyến khích tài năng sáng tác văn
học của học sinh, đồng thời qua đó học sinh được trải nghiệm mình ở vị trí người
sáng tác để cảm nhận và hiểu rõ hơn quy luật sáng tạo văn chương chính là quy luật
của tình cảm, cảm xúc.



Phần 2
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT
HUY NĂNG LỰC CỦA HỌC SINH TRONG BÀI DẠY ĐÂY THÔN VĨ DẠ
1. Định hướng thiết kế bài học ngữ văn theo hướng phát triển năng lực của học
sinh
Một giờ dạy học thành công là do sự chi phối của nhiều yếu tố. Chuẩn bị một
giờ dạy học là một trong những yếu tố quan trọng, nó quyết định không nhỏ tới
thành công của một giờ dạy. Có chuẩn bị tốt, chu đáo, kĩ càng thì hiệu quả của một
giờ dạy sẽ được nâng lên một cách rõ ràng.
Một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng lực
hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương pháp tự học,
tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập cho người học.
Để phát triển năng lực của học sinh trong giờ Ngữ văn cấp THPT, cần đổi mới
mạnh mẽ việc thiết kế bài học từ phía giáo viên. Trong thiết kế, giáo viên phải cho
thấy rõ các hoạt động của học sinh chiếm vị trí chủ yếu. Với giáo viên, phương
pháp thuyết trình nên giảm thiểu tới mức tối đa, thay vào đó là tổ chức hoạt động
cho học sinh bằng việc nêu vấn đề, đề xuất các tình huống, dự án.
Để phát huy được vai trò chủ thể tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
THPT trong quá trình học tập cần vận dụng lý thuyết kiến tạo của J. Bruner vào
trong quá trình dạy học. Thuyết kiến tạo của J. Bruner là lý thuyết về sự nhận thức
được bắt nguồn từ tư tưởng của J. Piaget. Đây là một trong những lý thuyết dạy học
vượt trội được sử dụng trong giáo dục hiện nay. Tư tưởng cốt lõi của thuyết kiến tạo
là: con người kiến tạo những sự hiểu biết và tri thức về thế giới thông qua trải
nghiệm và phản ánh...Trong bất cứ trường hợp nào, mỗi người thật sự là nhà kiến
tạo tri thức cho chính bản thân. Để làm điều này, chúng ta phải đưa ra những nghi
vấn, khám phá và đánh giá cái mà chúng ta biết...Trong một lớp học kiến tạo, tâm



điểm là xu hướng thay đổi từ giáo viên làm trung tâm đến học sinh làm trung tâm.
Trong mô hình kiến tạo, học sinh được tạo cơ hội để hoạt động trong tiến trình học
tập của mình. Giáo viên đóng vai trò như là người cố vấn, giúp học sinh phát triển
và đánh giá những hiểu biết và việc học tập của các em. Một trong những công việc
lớn nhất của giáo viên khi vận dụng lý thuyết sáng tạo vào dạy học là biết cách "hỏi
những câu hỏi tốt". Tiến trình dạy học kiến tạo bao gồm 3 bước:
Bước 1: Làm bộc lộ quan niệm của học sinh
Trong bước này, giáo viên giúp học sinh hệ thống, ôn lại những kiến thức cũ có liên
quan đến kiến thức mới bằng cách sử dụng các câu hỏi, các bài tập. Sau đó giáo
viên hoặc học sinh sẽ nêu vấn đề, tạo cơ hội cho học sinh bộc lộ quan niệm của
mình về vấn đề học tập.
Bước 2: Tổ chức điều khiển học sinh tiến hành thảo luận
Giáo viên tổ chức cho học sinh đề xuất các giả thuyết, kiểm tra giả thuyết (thử và
sai) phân tích kết quả và từ đó rút ra kết luận chung cho cả lớp.
Bước 3: Tổ chức cho học sinh vận dụng kiến thức
Giáo viên tổ chức cho học sinh vận dụng kiến thức giải quyết các vấn đề về lý
thuyết cũng như thực tiễn, qua đó giúp học sinh khắc sâu hơn kiến thức mới.
Theo tinh thần trên, thiết kế bài học được biên soạn theo các chủ đề, tổ chức
hoạt động cho học sinh theo 5 bước gồm: hoạt động trải nghiệm, hoạt động hình
thành kiến thức mới, hoạt động thực hành, hoạt động ứng dụng, hoạt động bổ xung.
Trong mỗi chủ đề, các đơn vị kiến thức có mối quan hệ chặt chẽ với nhau thành một
thể thống nhất. Mỗi đơn vị kiến thức được hướng dẫn học theo một cấu trúc thống
nhất gồm các hoạt động, trong đó có hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm; hoạt
động với giáo viên và gia đình. Mỗi hoạt động trong tiến trình học tập được xây
dựng với mục tiêu, nội dung và cách thức cụ thể như sau:
1.1. Hoạt động trải nghiệm
* Mục đích của hoạt động
- Hoạt động trải nghiệm giúp học sinh huy động vốn kiến thức và kỹ năng để
chuẩn bị tiếp nhận kiến thức và kỹ năng mới.
- Giúp học sinh tạo hứng thú để bước vào bài học mới



- Giúp giáo viên tìm hiểu xem học sinh có hiểu biết như thế nào về những vấn
đề trong cuộc sống có liên quan đến nội dung bài học.
* Nội dung, hình thức trải nghiệm
- Câu hỏi, bài tập: có thể là quan sát tranh/ảnh để trao đổi với nhau về một vấn
đề nào đó có liên quan đến bài học; hoặc trực tiếp ôn lại kiến thức đã học ở cấp/lớp
dưới, thiết kế dưới dạng kết nối hoặc những câu hỏi đơn giản, nhẹ nhàng.
- Thi đọc, ngâm thơ, kể chuyện, hát...: một số hoạt động yêu cầu học sinh đọc
diễn cảm, ngâm thơ, kể chuyện hoặc hát về chủ đề liên quan đến bài học. Các hoạt
động này trong một số trường hợp được thiết kế thành các cuộc thi, nhằm tạo ra
không khí sôi nổi, hứng thú trước khi tiến hành học bài mới.
- Trò chơi: một số trò chơi trong hoạt động khởi động giúp tạo ra hứng thú
trước khi vào bài học mới. Các trò chơi này cũng cần có nội dung gắn với mỗi bài
học.
1.2. Hoạt động hình thành kiến thức mới
* Mục đích của hoạt động
Hoạt động này giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua hệ thống
các bài tập/nhiệm vụ.
* Nội dung và hình thức bài tập/nhiệm vụ
Các tri thức ở hoạt động này thuộc các phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập
làm văn trong sách giáo khoa hiện hành được tiến hành theo trình tự sau:
1.2.1. Đọc hiểu văn bản
Bước này yêu cầu học sinh đọc văn bản và chú thích. Giáo viên có thể giao
nhiệm vụ cho học sinh đọc trước ở nhà. Đến lớp chỉ đọc một đoạn hoặc bài ngắn và
một vài lưu ý trong chú thích. Sau đó giáo viên thiết kế những hoạt động hướng dẫn
học sinh tìm hiểu văn bản bằng việc sử dụng một số câu hỏi tập hợp thành một bài
tập/nhiệm vụ lớn hơn; thiết kế các bài tập trắc nghiệm, kết hợp tự luận; thiết kế các
hoạt động kích thích, sáng tạo... Nội dung các bài tập/nhiệm vụ trong mục này nêu
lên các yêu cầu tìm hiểu về đặc điểm thể loại, nội dung, nghệ thuật của văn bản.

1.2.2. Tích hợp kiến thức kỹ năng Tiếng Việt


Tích hợp với nhiệm vụ tìm hiểu văn bản. Giáo viên đưa ra một số bài
tập/nhiệm vụ yêu cầu học sinh tìm hiểu các kiến thức Tiếng Việt.
Các khái niệm thuộc ngôn ngữ học được giảm tải, chuyển hóa thành dạng kỹ
năng, giúp học sinh dễ tiếp nhận hơn.
1.2.3. Tích hợp kiến thức, kỹ năng làm văn
Các kiến thức làm văn cũng được dạy tích hợp với Đọc hiểu và Tiếng Việt.
Cũng như phần kiến thức Tiếng Việt, những nội dung lý thuyết Làm văn được giảm
tải và chuyển hóa thành kỹ năng.
Lưu ý:
- Giáo viên cần dự kiến những trường hợp học sinh không làm được bài
tập/nhiệm vụ để có phương án giải quyết. Có thể kích thích lại hứng thú hoặc ra bài
tập/nhiệm vụ khác, từ những bài tập dễ hơn, phù hợp hơn, rồi từ đó nâng dần hiểu
biết của các em.
- Các hoạt động của học sinh trong mục này gồm: Hoạt động cá nhân, hoạt
động nhóm. Kết thúc hoạt động nhóm, học sinh phải trình bày kết quả và thảo luận
với giáo viên.
1.3. Hoạt động thực hành
* Mục đích của hoạt động
Yêu cầu học sinh phải vận dụng những kiến thức vừa học được ở hoạt động
hình thành kiến thức mới để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể. Thông qua đó giáo
viên xem học sinh đã nắm được kiến thức hay chưa và nắm được ở mức độ nào.
* Nội dung và hình thức các bài tập/nhiệm vụ
- Hoạt động thực hành gồm các bài tập/nhiệm vụ yêu cầu học sinh củng có các
tri thức vừa học và rèn luyện các kỹ năng liên quan.
- Các bài tập/nhiệm vụ trong phần thực hành cũng theo trình tự; Đọc hiểu văn
bản, Tiếng Việt và Tập làm văn.
- Các bài tập/nhiệm vụ trong Hoạt động thực hành tập trung hướng đến việc

hình thành các kỹ năng cho học sinh, khác với bài tập trong Hoạt động hình thành
kiến thức mới chủ yếu hướng tới việc khám phá tri thức. Đây là hoạt động gắn với
thực tiễn bao gồm những nhiệm vụ như: trình bày, viết văn...


Lưu ý:
Học sinh có thể được hướng dẫn hoạt động cá nhân hoặc nhóm để hoàn thành
các câu hỏi, bài tập, bài thực hành...Hoạt động cá nhân để học sinh hiểu và biết
được mình hiểu kiến thức như thế nào, có góp gì vào hoạt động nhóm và xây dựng
các hoạt động của tập thể lớp. Hoạt động nhóm để trao đổi, chia sẻ kết quả mình
làm được, thông qua đó học sinh có thể học tập lẫn nhau, tự sửa lỗi cho nhau, giúp
cho quá trình học tập của học sinh hiệu quả hơn. Kết thúc hoạt động này học sinh sẽ
trao đổi với giáo viên để được bổ xung, uốn nắn những nội dung chưa đúng.
1.4. Hoạt động ứng dụng
* Mục đích của hoạt động
Hoạt động này giúp học sinh sử dụng kiến thức, kỹ năng đã học để giải quyết
các vấn đề, nhiệm vụ trong thực tế. "Thực tế" ở đây được hiểu là thực tế trong nhà
trường, trong gia đình và trong cuộc sống của học sinh. Hoạt động này sẽ khuyến
khích học sinh nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra cái mới theo sự hiểu biết của mình; tìm
phương pháp giải quyết vấn đề và đưa ra những các giải quyết vấn đề khác nhau;
góp phần hình thành năng lực học tập với gia đình và cộng đồng.
* Nội dung và hình thức bài tập/nhiệm vụ
Các bài tập ứng dụng gồm các loại:
- Vận dụng kiến thức đọc hiểu để giải thích, phân tích một hiện tượng văn học,
văn hóa khác tương ứng. Ví dụ: giải thích các câu tục ngữ, phân tích các bài ca dao,
nêu ý kiến về một hiện tượng văn hóa...
- Vận dụng kiến thức, kỹ năng Tiếng Việt để giải quyết một số vấn đề như: giải
nghĩa, từ loại, xác định cấu tạo từ...trong các hiện tượng ngôn ngữ của cuộc sống.
- Tiếp tục rèn luyện kỹ năng làm văn.
Lưu ý:

Hoạt động ứng dụng khác với Hoạt động thực hành. Hoạt động thực hành là
làm các bài tập cụ thể do giáo viên hoặc sách hướng dẫn đặt ra, còn Hoạt động ứng
dụng là hoạt động được triển khai ở nhà, cộng đồng; động viên khuyến khích học
sinh nghiên cứu, sáng tạo; giúp học sinh gần gũi với gia đình, địa phương, tranh thủ
sự hướng dẫn của gia đình, địa phương. Học sinh tự đặt ra yêu cầu cho mình, trao


đổi và thảo luận với gia đình và cộng đồng để cùng giải quyết. Tuy nhiên Hoạt động
ứng dụng vẫn có thể được tổ chức trên lớp nếu giáo viên thấy cần thiết và có thời
gian.
1.5. Hoạt động bổ xung
* Mục đích của hoạt động
Hoạt động này giúp học sinh tiếp tục mở rộng kiến thức, kỹ năng. Hoạt động
này dựa trên lập luận cho rằng, quá trình nhận thức của học sinh là không ngừng,
như vậy cần có sự định hướng để đáp ứng nhu cầu tiếp tục học tập, rèn luyện sau
mỗi bài học cụ thể.
* Nội dung và hình thức bài tập/nhiệm vụ cụ thể
- Đọc thêm các đoạn trích, văn bản có liên quan
- Trao đổi với người thân về nội dung bài học như: kể cho người thân nghe về
câu chuyện vừa học, hỏi về ý nghĩa câu chuyện...
- Tìm đọc sách, báo, mạng in-tơ-nét...một số nội dung theo yêu cầu.
Lưu ý:
- Các nhiệm vụ trong Hoạt động bổ xung được thiết kế cho học sinh tự làm
việc ở nhà.
- Hướng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ theo nhóm, đồng thời yêu cầu học
sinh làm các bài tập đánh giá năng lực.
Thời gian cho mỗi hoạt động cần được xác định sao cho phù hợp với số tiết
học được phân bố cho từng cụm bài/chủ đề, thời khóa biểu lên lớp của giáo viên.
Trong thiết kế bài học Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực cho học
sinh cấp THPT nói trên, giáo viên cần xác định và nêu rõ các cách thức tổ chức hoạt

động cho cá nhân, hoạt động cho cặp đôi, hoạt động nhóm, hoạt động chung cả lớp,
hoạt động với cộng đồng.
+ Hoạt động cá nhân: là hoạt động yêu cầu học sinh thực hiện các bài
tập/nhiệm vụ một cách độc lập. Loại hoạt động này nhằm tăng cường khả năng hoạt
động độc lập của học sinh, diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là đối với các bài
tập/nhiệm vụ có yêu cầu khám phá, sáng tạo, hoặc rèn luyện đặc thù. Giáo viên cần
đặc biệt coi trọng hoạt động cá nhân vì nếu thiếu nó, nhận thức của học sinh sẽ


không đạt tới mức độ sâu sắc và chắc chắn cần thiết, cũng như các kỹ năng sẽ
không được rèn luyện một cách tập trung.
+ Hoạt động cặp đôi và hoạt động nhóm: là những hoạt động nhằm giúp học
sinh phát triển năng lực hợp tác, tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng.
Khi tổ chức hoạt động này, giáo viên cần xác định rõ mục đích, nội dung bài
tập/nhiệm vụ cho phù hợp với hoạt động cặp đôi hay hoạt động nhóm. Thông
thường, hình thức hoạt động cặp đôi được sử dụng trong những trường hợp, những
bài tập cần sự chia sẻ. Ví dụ: kể cho nhau nghe, nói với nhau một nội dung cần chia
sẻ, đổi bài cho nhau để đánh giá chéo,...Hình thức hoạt động nhóm được sử dụng
trong trường hợp cần sự hợp tác.
+ Hoạt động chung cả lớp: là hình thức hoạt động phù hợp với số đông học
sinh. Đây là hình thức nhằm tăng cường tính cộng đồng, giáo dục tinh thần đoàn
kết, sự chia sẻ, tinh thần chung sống hài hòa.
+ Hoạt động cộng đồng: là hình thức hoạt động cue học sinh trong mối tương
tác với xã hội. Hoạt động với cộng đồng bao gồm các hình thức từ đơn giản như:
tham gia bảo vệ môi trường, tìm hiểu các di tích văn hóa, lịch sử ở địa phương....
Định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực của học
sinh cấp THPT trên đây là một hướng đi mới. Đổi mới phương pháp dạy học hiện
nay nên đi theo định hướng thiết kế bài học ngữ văn như trên.
2. Thiết kế bài học Đây thôn Vĩ dạ theo hướng phát triển năng lực của học
sinh

2.1. Hoạt động trải nghiệm
Hoạt động này giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đi thực tế thăm Huế, thăm
thôn Vĩ dạ để học sinh có hứng thú ban đầu khi tiếp nhận tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ
của Hàn Mặc Tử (Giáo viên có thể sắp xếp thời gian hợp lý để tổ chức cho học sinh
đi thực tế trước khi đi vào tìm hiểu tác phẩm)
Trước khi vào bài học Giáo viên tổ chức học sinh khởi động bằng cách đưa ra
bài tập trắc nghiệm liên quan đến bài học, mục đích vừa để kiểm tra lại kiến thức
mà các em đã tích lũy được trong cuộc sống và quá trình học tập trước đó, vừa để


các em bước đầu làm quen và chuẩn bị tâm thế sẵn sàng khám phá tri trức mới của
bài học. Câu hỏi trắc nghiệm như sau:
Nhận xét nào sau đây là đúng về Hàn Mặc Tử?
a. Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới
b. Nhà thơ lạ nhất trong các nhà thơ mới
c. Nhà thơ quen nhất trong các nhà thơ mới
d. Nhà thơ cổ điển nhất trong các nhà thơ mới
2.2. Hoạt động hình thành kiến thức mới
2.2.1. Phần hình thành kiến thức chung về nhà thơ Hàn Mặc Tử
Giáo viên phân chia nhóm, giao nhiệm vụ/bài tập về nhà, yêu cầu học sinh tự
phát huy năng lực sáng tạo và khả năng làm việc nhóm của mình trong quá trình
nghiên cứu bài học trước khi lên lớp.
Trên cơ sở phân chia nhóm và giao bài tập hoạt động nhóm về nhà, HS đã
chuẩn bị bài ở nhà và đã có những hiểu biết nhất định về cách trình bày sơ đồ tư duy
về một tác giả, GV yêu cầu một nhóm cử đại diện trình bày sơ đồ tư duy về tác giả
Hàn Mặc Tử ?
Sau khi học sinh trình bày sản phẩm sơ đồ tư duy về nhà thơ Hàn Mặc Tử, giáo
viên tiến hành nhận xét, bổ sung, sửa chữa, mở rộng vấn đề và chốt lại kiến thức cơ
bản.
2.2.2. Phần hình thành kiến thức mới về văn bản "Đây thôn Vĩ Dạ"

Phần này giáo viên tổ chức học sinh hình thành kiến thức mới bằng cách giao
cho các nhóm các câu hỏi, bài tập, tập hợp thành các câu hỏi theo một hệ thống
logic, có thể kết hợp hệ thống câu hỏi trắc nghiệm và tự luận. Giáo viên định hướng
và kiểm tra học sinh trong quá trình tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Học sinh trên cơ
sở thảo luận đi đến thống nhất trong nhóm và cử đại diện trình bày sản phẩm của
nhóm mình. Sau đó giáo viên sẽ nhận xét phần trình bày của các nhóm và đi đến
thống nhất rồi chốt lại kiến thức cơ bản.
Giáo viên có thể đưa ra các câu hỏi trắc nghiệm kết hợp với câu hỏi tự luận để
các nhóm thảo luận như sau:
* Đối với phần hình thành kiến thức chung về bài thơ đây thôn Vĩ Dạ


- Dòng nào nhận xét đúng về âm điệu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ?
a. Trầm hùng, bi phẫn trang trọng
b. Hào sảng, khoan thai dõng dạc
c. Nhẹ nhàng, da diết, khắc khoải
d. Chậm buồn, ảo não, nghẹn ngào
- Đề tài của bài thơ là:
a. Tình yêu thiên nhiên
b. Tình yêu quê hương đất nước
c. Tình yêu lứa đôi
d. Cả A, B,C
* Đối với việc hình thành kiến thức mới về khổ thơ đầu của bài thơ đây thôn Vĩ Dạ
- Xác định Hình thức? Sắc thái? Chủ thể trữ tình trong câu thơ đầu?
- Bức tranh thôn Vĩ trong hoài niệm của thi nhân hiện lên như thế nào?
- Xác định hình thức nghệ thuật và tác dụng của hình thức nghệ thuật ấy?(từ ngữ,
hình ảnh, biện pháp tu từ)
- Hình ảnh người thôn Vĩ hiện lên qua chi tiết nào? sức gợi của chi tiết đó? Từ bức
tranh ngoại cảnh em hiểu gì về cảm xúc của thi nhân?
2.3. Hoạt động thực hành

Trên cơ sở yêu cầu học sinh thực hiện những thao tác để chiếm lĩnh tri thức
mới từ bài học. Giáo viên rèn luyện kỹ năng trình bày vấn đề trước đám đông cho
học sinh bằng cách yêu cầu học sinh tự chủ trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức
mới trên cơ sở định hướng của giáo viên và trong quá trình làm việc nhóm yêu cầu
các thành viên phải tham gia tích cực vào công việc của nhóm và rèn luyện kỹ năng
làm việc theo nhóm có hiệu quả. Cần phát huy năng lực của từng cá nhân trong
nhóm và thể hiện được sự sáng tạo của các thành viên trong quá trình khám phá tri
thức mới từ bài học.
Học sinh trình bày, đưa ra những ý kiến trong quá trình khám phá tri thức mới
thì giáo viên phải tôn trọng ý kiến của các em, đưa ra các nhận xét kịp thời và định
hướng các em tiếp cận tri thức đúng hướng, đầy đủ. Trong trường hợp ý kiến của
các em chưa đầy đủ hoặc xa trọng tâm của kiến thức cần khám phá thì giáo viên là


người gợi dẫn và định hướng để các em hình thành kĩ năng tiếp cận tri thức mới
đúng hướng, có hiệu quả
2.4. Hoạt động ứng dụng
Vận dụng kiến thức đọc hiểu về bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ để giải thích, phân tích
một hiện tượng văn học, văn hóa khác tương ứng. Ví dụ: nêu ý kiến về một hiện
tượng văn hóa: ở một số nơi trong quá trình đổi mới, hiện đại hóa nhiều vùng theo
năm tháng đã thay đổi, không còn lưu giữ được những giá trị tốt đẹp, những vẻ đẹp
văn hóa truyền thống vốn có của quê hương xứ sở. Ý kiến của anh/chị như thế nào
về vấn đề này?
Sau bài học học sinh có thể về trao đổi thảo luận với gia đình, cộng đồng về
việc gìn giữ vốn văn hóa cổ truyền của dân tộc và nét độc đáo trong những giá trị
văn hóa của thôn quê, vùng miền, biết chân trọng và lưu giữ những giá trị tốt đẹp đó
của quê hương xứ sở đừng để nó phai tàn hoặc bị chôn vùi theo thời gian, năm
tháng.
Vận dụng kiến thức, kỹ năng Tiếng Việt đã được rèn luyện và khám phá qua
bài học Đây thôn Vĩ Dạ để giải quyết một số vấn đề như: giải nghĩa, từ loại, xác

định cấu tạo từ...trong các hiện tượng ngôn ngữ của cuộc sống và trong giao tiếp
hàng ngày.
2.5. Hoạt động bổ xung
Hoạt động này yêu cầu hoc sinh làm ở nhà: giáo viên giao nhiệm vụ/bài tập về
nhà yêu cầu học sinh tìm đọc sách, báo mạng và sưu tầm những tác phẩm văn
chương, đặc biệt là thơ viết về Huế nói chung và thôn Vĩ Dạ nói riêng, từ đó nêu
cảm nhận về giá trị của những tác phẩm đó.


3. Giáo án thực nghiệm

ĐÂY THÔN VĨ DẠ
(Tiết 1)

Hàn Mặc Tử

A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
Giúp học sinh:
Về kiến thức:
- Nắm được những nét cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của Hàn Mặc Tử.
- Cảm nhận được những nét đặc sắc của bài thơ nói chung và của khổ thơ đầu nói
riêng: khổ thơ đầu của bài thơ là bức tranh phong cảnh và cũng là tâm cảnh, thể
hiện nỗi buồn cô đơn của nhà thơ trong một mối tình xa xăm, vô vọng. Hơn thế, đó
còn là tấm lòng thiết tha của nhà thơ với thiên nhiên, cuộc sống trần thế và con
người.
- Nhận biết được sự vận động của tứ thơ, của tâm trạng chủ thể trữ tình và bút pháp
tài hoa, độc đáo của Hàn Mặc Tử.
Về kĩ năng:
- Rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu văn bản thuộc thể loại thơ trữ tình, có thể vận dụng
kĩ năng đó vào trong nhiều văn bản mà các em sẽ gặp sau này

- Rèn luyện kĩ năng cảm thụ thơ trữ tình
Về thái độ, tình cảm:
- Từng bước hình thành lòng yêu mến và trân trọng tài năng thơ ca của Hàn Mặc Tử
- Một nhân cách vượt lên nỗi đau của bệnh tật để không ngừng sáng tạo.
- Có ý thức vươn lên vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống qua tấm gương tràn
đầy nghị lực sống của Hàn Mặc Tử.
B. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
GV tổ cức giờ dạy theo sự kết hợp các phương pháp: đọc tái hiện, nêu vấn đề,
gợi tìm, đàm thoại, trao đổi thảo luận nhóm và diễn gảng thuyết trình


C. THIẾT BỊ DẠY HỌC, HỌC LIỆU
- SGK Ngữ văn 11, tập hai
- SGV Ngữ văn 11, tập hai
- Tư liệu tham khảo
- Thiết kế bài học
- Thiết kế giáo án điện tử bằng ứng dụng Powerpoint để giảng dạy cho HS.
Các tranh ảnh, vedioclip sẽ được chuyển thành file hình ảnh, âm thanh và trình
chiếu trên phần mềm điện tử.
D. TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN
1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ
Nhận xét nào sau đây là đúng về Hàn Mặc Tử?
a. Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới
b. Nhà thơ lạ nhất trong các nhà thơ mới
c. Nhà thơ quen nhất trong các nhà thơ mới
d. Nhà thơ cổ điển nhất trong các nhà thơ mới
3. Nội dung bài mới
Lời vào bài:
Hàn Mặc Tử là một thi sĩ tài hoa của văn học Việt Nam hiện đại nói chung và

của thơ mới nói riêng và cũng là một trong những nhà thơ bất hạnh nhất của nền
văn học Việt Nam hiện đại. Tuy cuộc nhân duyên giữa thi sĩ tài hoa này với Thơ
mới chỉ vỏn vẹn 9 năm nhưng cũng đủ để hồn thơ ấy thăng hoa thành một ngôi sao
sáng trên thi đàn dân tộc. Tiết học hôm nay, thầy trò chúng ta sẽ cùng nhau khám
phá thế giới thơ của Hàn Mặc Tử qua bài Đây thôn Vĩ Dạ
Hoạt động của GV và HS

Nội dung cần đạt


×