Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm sử 7 một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn lịch sử lớp 7 tại trường thcs lạc hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.37 KB, 8 trang )

Trường THCS Lạc Hòa

Sáng Kiến kinh nghiệm

MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ ……………………………………… 2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ …………………….. …3
1. Kể chuyện lịch sử trong giờ dạy………………………… 3
2. Sử dụng hình ảnh minh họa ……………………………. 8
3. Cung cấp tư liệu cho HS ………………………………... 13
4. Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề …. ………………………… 21

III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ……………………...

24
1. Kết quả …………………………………………………... 25
2. Bài học kinh nghiệm ……………………………………. 25

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng

Trang 2


Trường THCS Lạc Hòa

Sáng Kiến kinh nghiệm

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Môn lịch sử trong nhà trường phổ thông nói chung ở lớp 7 nói riêng có


chức năng và nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ
Không chỉ ở nước ta mà ở các nước tiên tiến trên thế giới cũng chú trọng
việc dạy môn lịch sử vì nó đào tạo con người có bản sắc dân tộc.
Đảng và Nhà nước, Bộ giáo dục coi trọng việc dạy và học bộ môn lịch sử.
Đúng như Hồ Chí Minh đã khẳng định trong hai câu thơ mở đầu trong cuốn lịch
sử nước ta:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Nhưng trong thực tế cũng không ít người cho rằng, môn lịch sử là bộ môn học
thuộc nặng về ghi nhớ những sự kiện năm tháng dài lê thê và xếp vào môn phụ,
vì vậy ảnh hưởng không tốt vào mục tiêu đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ.
Trong quá trình giảng dạy và kết quả học tập của học sinh, tôi đã xác định
lịch sử là một bộ môn khoa học có ưu thế hình thành nhân sinh quan cho học
sinh, rèn tư duy sáng tạo cho các em, đặc biệt giúp cho học sinh từ hiểu biết lịch
sử mà rút ra kinh nghiệm quý giá để xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Để đạt được kết quả trên thì việc áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy vào
tiết học lịch sử là rất quan trọng. Trong quá trình giảng dạy, ngoài các phương
pháp thường dùng tôi chú trọng vào việc sử dụng câu hỏi nêu vấn đề, kể chuyện
lịch sử, sử dụng kênh hình, liên hệ với thực tế để giáo dục tư tưởng cho HS, …
Qua một thời gian áp dụng tôi thấy rất có hiệu quả. Trên cơ sở đó tôi tổng
hợp thành Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn
lịch sử lớp 7 tại trường THCS Lạc Hòa”
Các câu chuyện lịch sử, tranh ảnh,… không chỉ có tác dụng làm nổi bật nội
dung, mà còn là nguồn tri thức không thể thiếu đựợc trong bài học. Nếu những
câu chuyện lịch sử, tranh ảnh được sử dụng tốt, sẽ huy động được sự tham gia
của nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe,
mắt thấy, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được mối liên hệ thần
kinh tạm thời khá phong phú, phát huy đựơc năng lực chú ý quan sát, hứng thú
của học sinh.


Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng

Trang 3


Trường THCS Lạc Hòa

Sáng Kiến kinh nghiệm

II. GIẢI QUYÊT VẤN ĐỀ (Cách làm mới)

1. Kể chuyện lịch sử trong giờ dạy.
Có thể nói rằng, bất cứ nơi nào, ở đâu những câu chuyện kể luôn luôn
mang lại hiệu quả. Đặc biệt là tính giáo dục của các câu chuyện, môn lịch sử
cũng không là ngoại lệ. Điếu quan trọng là ta phải biết sử dụng đúng lúc, đúng
chỗ để nó phát huy giá trị và không làm mất thời gian của tiết học.
Khi sử dụng giáo viên phải biết chắt lọc, kể gọn và sau mỗi câu chuyện
phải biết đặt những câu hỏi hoặc gợi ý cho học sinh nêu lên suy nghĩ của mình, từ
đó giáo dục tư tưởng cho HS.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 9 – Nước Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê, ở mục I 2

giáo viên có thể kể về thái hậu Dương Vân Nga:

Khi đề cao võ công văn trị của Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, những vị anh
hùng của công cuộc thống nhất đất nước không thể không nhắc đến công lao cua
Dương Vân Nga đối với đất nước. Cỏ thể xem Dương Vâm Nga là cái cầu nối
giữa Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, người làm cho côg cuộc thống nhất đất nứơc do
Đinh Bộ Lĩnh khởi xưởng được Lê Hoàn hoàn tất. Sự nghiệp chính trị của người
phụ nữ ấykhông được sử cũ chú ý đến mà lại cứ tập trung vào thân phận làm vợ

của bà. Vốn là con của ông Dương Thế Hiển quê ở vùng Nho Quan, Ninh Bình
rồi trở thành vợ của Đinh Bộ Lĩnh, nên sau khi chồng bị ám hại, để lại đứa con 6
tuổi kế nghiệp Hoàng đế, Dương Vân Nga đã phải cáng đáng những khó khăn
vượt quá sức mình. Sự nghiệp thống nhất đất nước vừa mới hoàn thành thì bị đe
doạ từ nhiều phía. Bên ngoài phong kiến phương bắc sửa soạn đại binh xâm
lược. Bên trong, các triều thần phân biệt tranh chấp ngay gắt có nguy cơ xảy ra
nội chiến lớn. Là người có tầm nhìn xa thấy rộng, Dương Vân Nga nhận thấy chỉ
có Thập đạo tướng quân Lê Hoàn là người có khả năng giải quyết tình hình
nghiêm trọng ấy. Nếu Dương Vân Nga không biết đặt lợi ích của đất nước lên
trên lợi ích của dòng họ, bà có thể dựa vào một quyền thần để chống lại một
quyền thần khác, ngoan cố bảo vệ ngai vàng cho đứa con nhỏ của mình, sẽ gây
ra nạn bè đảng tranh chấp, đẩy đất nước vào thảm cảnh rối loạn. Vậy mà chỉ vì
Dương Vân Nga lây chiếc áo bào choàng lên vai Lê Hoàn, về sau lại tở thành vợ
của Lê Hoàn mà sử sách phong kiến đã xoá sạch công lao của bà. Ngược lại với
cách nhìn nhận trên, nhân dân ta có thái độ rộng lượng và đúng đắn. Sử cũ chép:
“Tục dân lập đền thờ tô ba pho tượng Tiên Hoàng, Đại Hành và Dương Vân Nga
cùng ngồi”. Vùng Hoa Lư còn lưu nhiều truyền thuyết đẹp về Dương Vân Nga
nằm ghi nhận công lao của bà. Đến thời Lê Mạt, An phủ sứ Lê Thúc Hiển ra lệnh
cấm thờ chung ba nhân vật của sự nghiệp thống nhất hồi cuối thế kỉ thứ 10 thì dư
luận dân gian đã phê phán quyết liệt. Truyền thuyết ở Hoa Lư còn kể rằng: sau
khi Lê Thúc Hiển làm cái việc buộc lụa trắng vào cổ tay bức tượng Dương Vân
Nga, dong tượng bà từ đền thờ Đinh Bộ Lĩnh về đền thờ Lê Hoàn, thì trở về kinh,
viên quan họ Lê ấy đã lăn ra chết vì đứt ruột.
( Theo Các triều đại Việt Nam)
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng

Trang 4


Trường THCS Lạc Hòa


Sáng Kiến kinh nghiệm

Kể chuyện này giáo viên chú ý bỏ qua những đoạn đánh giá nhận xét mà
tập trung vào đoạn Dương Vân Nga lấy áo bào khoác lên người Lê Hoàn, cách
đối xử của mọi người đối với bà. Từ đó đặt câu hỏi để HS thể hiện ý kiến của
mình đối với thái hậu Dương Vân Nga, qua đó giáo dục tư tưởng cho HS.
Ví dụ 2. Khi dạy bài 14 – Ba lần kháng chiến chống quan xâm lược Mông –
Nguyên, ở mục IV – Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử, có thể kể về Trần
Hưng Đạo, Trần Nhật Duật, …

HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN
Hơn bảy trăm năm trước, cả Á – Âu đang trong cơn kinh hoàng, khiếp đảm
về cái hoạ Tác – ta (giặc Mông ), khi chúng lướt trên vó ngựa viễn chinh tàn phá
hết nước này sang nước khác. Từ Thái Bình Dương sang tận bên bờ Địa Trung
Hải, khắp Á – Âu chưa có một danh tướng nào ngăn cản được. Giáo hoàng La
Mã sợ hãi đến nỗi “… tuỷ khô, thân gầy, sức kiệt”. Người Đức hàng ngày cầu
nguyện: “ Xin chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ Tác – ta !”, vó ngựa
của chúng đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó. Vậy mà ở miền Đông Nam
châu Á, lũ giặc Tác – ta phải kinh hồn, lạc phách trước ý chí chiến đấu và tài
nghệ quân sự tuyệt vời của quân dân Đại Việt dưới sự chỉ huy thiên tài của Quốc
Công Tiết chế, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Công lao to lớn của Người, ba lần tổng chỉ huy quân dân Đại Việt cả phá
quân Nguyên – Mông hung bạo, đánh cho chúng thất điên bát đảo, Trấn Nam
Vương Thoát Hoan chui vào ống đồng có người kéo qua biên ải mới thoát chết.
Với tài thao lược, trí dũng song toàn, luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên
hết, Trần Hưng Đạo không chỉ sống mãi trong lòng mọi người dân đất Việt mà
còn vang danh khắp năm châu bốn biển. Trần Quốc Tuấn (1228 – 1300) là một
anh hùng kiệt xuất của dân tộc ta đồng thời là danh nhân quân sự cổ kim của thế
giới.

Người sinh ngày 10-12-1228 (Mậu tý), là con của An sinh vương Trần Liễu
(anh ruột Trần Thái Tông – Trần Cảnh).
Người dung mạo hùng vĩ, thông minh hơn người, đủ tài văn võ, chuyên tâm
nghiên cứu lục tam thao lược của người xưa và dành cả tâm huyết, hiểu biết của
mình để viết: Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ để dạy các tướng cầm quân đánh
giặc, khích lệ lòng yêu nước của quân dân Đại Việt.
Trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai, thấy rõ nếu để
ngành trưởng và ngành thứ xích mích, nghi kị lẫn nhau thì chỉ có lợi cho kẻ thù.
Người đã chủ động giao lưu hoà hiếu với Trần Quang Khải, tạo nên sự đoàn kết
nhất trí trong Vương triều, bảo đám đánh thắng quân thù .
Chuyện kể rằng: Một hôm Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ở bến
Bình Than sai người mời Trần Quang Khải sang thuyền mình trò chuyện, chơi cờ
rồi sai người nấu nước thơm tự mình tắm rửa với Trần Quang Khải, từ đó vĩnh
viễn xoá bỏ hiềm khích giữa hai chi họ (Quốc Tuấn là con của Trần Liễu ngành
trưởng , Quang Khải con của Trần Cảnh ngành thứ ). Lần khác, Quốc Tuấn đem
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng

Trang 5


Trường THCS Lạc Hòa

Sáng Kiến kinh nghiệm

việc xích mích hỏi các con, Trần Quốc Tảng có ý khích ông nến cướp ngôi của
chi thứ.
Ông nổi giận rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. May nhờ các con và
những người tâm phúc van xin, ông mới bớt giận dừng gươm nhưng bảo rằng :
- Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không nhìn thằng nghịch tử, phản
thầy này nữa.

Trong kháng chiến ông luôn hộ giá bên vua, tay chống gậy bịt sắt .dư luận xì
xào sợ ông giết vua. Ong liền bỏ luôn phần bịt sắt, chỉ chống gậy để tránh hiềm
nghi, làm yêu lòng dân quân.
Ba lần chống giặc Nguyên – Mông , các vua Trần đều giao cho ông chức Tiết
chế(tổng tư lệnh quân đội ), vì ông biết dùng người tài, thương yêu binh lính vì
vậy tướng sĩ hết lòng thương yêu ông. Đạo quân cha con ấy trở thành đạo quân
bách chiến bách thắng.
Trần Quốc Tuấn là vị tướng trụ cột của triều đình. Ông đã soạn hai bộ
binh thư :Binh thư yếu lược và Vạn Khiếp tổng bí truỵền thư để răn dạy các
tướng cầm quân đánh giặc.khi giặc Nguyên lộ rõ ý đồ xâm lược, ông viết “ Hịch
tướng sĩ”, truyền lệnh cho các tướng, dạy bảo họ lẽ thắng bại, tiến lui. Hịch
tướng sĩ rất hùng hồn, thống thiết, khẳng định văn chương của một bậc đại bút .
Trần Quốc Tuấn là một bậc đại tướng gồm đủ đức và tài. Là tướng nhân
oâng thương dân như quân, chỉ cho họ con đường sáng. Là tướng nghĩa, ông coi
việc phải hơn điều nghĩa. Là tướng trí, ông xông pha vào nơi nguy hiểm để đánh
giặc, tạo nên những trận Bạch Đằng oanh liệt nghìn đời. Là tướng tín, ông bày tỏ
trước quân lính theo ông sẽ được gì, trái lời ông sẽ gặp hoạ. Cho nên cả ba lần
đánh giặc Nguyên, ông đều được giao trọg trách điều sát binh mã và đều la[65
được công lớn.
Hai tháng trước khi mất, vua Anh tông đến thăm và hỏi :
- Nếu chẳng may khanh mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế
sách làm sao ?
Ông đã trăng trối những lới tâm huyết ,sâu sắc, đúng cho mọi thời đại :
- Thời bình phải khoan thứ sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng
sách giữ nước.
Mùa thu tháng tám, ngày 20 năm Canh tý (1300) “Bình Bắc đại nguyên
soái” Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn qua đời. Theo lới ông dặn, thi hài
ông được hoả tảng thu vào bình đồngvà chôn trong vườn An Lạc, gần cánh rừng
An Sinh, không xây lăng mộ, đất san phẳng , trồng cây như cũ. Vua gia phong
cho ông chức Hưng Đạo đại vương. Triều đình lập đền thờ ông tại Vạn Kiếp, Chí

Linh, ấp phong của ông lúc sinh thời.
( Theo Các triều đại Việt Nam )
Trong đó tập trung vào những việc làm của Trấn Quốc Tuấn để làm rõ việc
ông chủ động giải quyết các bất hòa trong nội bộ: bỏ bịt sắt ở cây gậy của mình,
đích thân tắm cho Trần Quang Khải, hỏi ý kiến của các con về việc giành ngôi.
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng

Trang 6


Trường THCS Lạc Hòa

Sáng Kiến kinh nghiệm

Từ đó giáo dục cho HS về tinh thần đoàn kết là sức mạnh vô địch, sự vĩ đại của
Trần Hưng Đạo, …
Hay chuyện về Trần Nhật Duật:

CHIÊU VĂN ĐẠI VƯƠNG TRẦN NHẬT DUẬT
Trần Nhật Duật (1253 – 1330 )con trai thứ tư của Trần Thái Tông, người có
công lớn trong việc chỉ huy quân Trần đánh thắng giặc Nguyên, từng được
phong Thái uý quốc công với Chiêu Văn Đại vương, từ bé đã nổi tiếng là ông
hoàng hiếu học và sớm ‘bộc lộ thiên tri”, ham thích hiểu biết về các tiến nói và
các giống người. Có thể nói, tuổi trẻ của Trần Nhật Duật là nhubg74 bgày tháng
rèn luyện miệt mài để thành tài. Vì vậy, ông nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng. Uy tín
của vị tướng còn vang dội ra cả nước ngoài do sự hiểu biết sâu rộng về các nước
láng giềng. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm Thành, Nhật Duật chẳng những sử
dụng thành thạo các ngôn những nước ấy mà còn am hiểu nhiều mặt của các
nước đó, kể cả phong tục, tập quán của họ. Ong không những hiểu tiếng mà còn
hiểu về người.

Mới ngoài 20 tuổi, Nhật Duật đã được triều đình nhà Trầngiao d9ặc cách
những công việc về các dân tộc có liên quan. Vua Nhân Tông thán phục, thường
nói đùa: “Chiêu Văn vương có lẽ không phải người nước Việt mà là hậu thân
của giống Phiên, Man”. Tiếp xúc với các sứ thần triều Nguyên, có lần Nhật Duật
đã vui vẻ, tự nhiên trò chuyện suốt cả một ngày, khiến cho sứ nhà Nguyên khăng
khăng cho rằng Nhật Duật là người Hán ở chân Định ( gần Bắc Kinh)sang làm
quan bên Đại Việt. Hiển nhiên, Nhật Duật phải khổ học công phu và phải hết sức
kiên trì mới đạt đựơc kết quả như vậy. Câu chuyện sau đây chứng tỏ Nhật Duật
chẳng những giỏi các thứ tiếng mà còn là nhà dân tộc học lỗi lạc.
Ngày ấy, vua quan triều Trần được tin chúa đạo Đà Giang (thuộc miền Tây
Bắc ngày nay)Trịnh Giác Mật tụ họp phe đảng nổi lên cự lại triều đình. Tin dữ
trong nước đến cùng lúc nhà Nguyên đang sửa soạn đại binh đánh Đại Việt. Cần
dẹp ngay mỗi bất hoà trong nước. Người đảm đang trọng trách này kông ai khác
hơn Nhật Duật. Thế là vị tướng trẻ 27 tuổi dưới cờ hiệu “ Trấn thủ Đà Giang”
làm lễ ra quân lên đường .
Hay tin, chúa Đà Giang họp đám đầu mục bàn kế cự chiến. Trịnh Giác Mật
định ám hại vị tướng trẻ triều Trần nên đưa thư dụ Nhật Duật: “ Giác Mật không
giám chống lại triều đình. Nếu ân chủ một mình một ngựa đến, Giác Mật xin ra
hàng ngay”. Muốn thu phục được Giác Mật, Nhật Duật mặc các tướng can ngăn,
một mình một ngựa đến trại Giác Mật, chỉ mang theo mấy tiểu đồng đi theo hầu.
Thản nhiên giữa lớp lớp gươm giáo và đám lính an mặc kì dị cố ý phô trương để
uy hiếp của Giác Mật. Nhật Duật nói với chúa đạo bằng chính ngôn ngữ và theo
đúng phong tụccủa dân tộc Đà Giang.
- Lũ tiểu đồng của ta khi đi đường thì nóng tai trái, vào đây thì nóng tai
phải.
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng

Trang 7



Trường THCS Lạc Hòa

Sáng Kiến kinh nghiệm

Từ Giác Mật đến các đầu mục đều sửng sờ kinh ngạc trước sự am hiểu tiếng nói
và tục lệcủa Nhật Duật. Rồi mâm rượu được bưng lên. Chúa đạo nheo mắt thách
thức, đưa tay mời. Chỉ có quả bầu cắt đôi sóng sánh rượu và dĩa thịt nai muối.
Nhật Duật không chút ngần ngại cầm thịt ăn rồi vừa nhai vừa ngửa mặt cầm gáo
rượu bầu từ từ dốc vào mũi hết sức thành thạo.
Trịnh Giác Mật thốt lên: “ Chiêu Văn Vương là anh em với ta”.
Nhật Duật từ tốn: “ Chúng ta xưa nay đã là anh em rồi”. Rồi sau đấy theo,
lệnh Nhật Duật, tiểu đồng mở tráp lấy ra những chiếc vòng bạc sáng loá trao cho
từng đầu mục Đà Giang. Những người cầm đầu đạo Đà Giang chỉ còn biết đón
lấy tặng phẩm kết nghĩa theo đúng tục lệ của họ từ tay viên tướng triều đình mà
họ vừa nhận là anh em. Chúa đạo Đà Giang đã quy thuận. Sức mạnh của dân tộc
như được nhân lên.
( Theo Các triều đại Việt Nam)

Ở truyện này chủ yếu là cho HS thấy được rằng nhà Trần có nhiều nhân
tài, bổ sung thêm về sự chuẩn bị chu đáo của nhà Trần.
Ví dụ 3. Khi dạy bài 16 – Sự suy sụp của nhà Trần cuối thế kỉ XIV, ở mục II
có thể kể về Hồ Nguyên Trừng cho HS thấy được tài năng của ông, từ đó tăng thêm
lòng tự hào dân tộc:

HỒ NGUYÊN TRỪNG
Hồ Nguyên Trừng, con cả của Hồ Quý Ly không chỉ làvị tướng có tài mà
còn là một công trình sư lỗi lạc được coi ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt
Nam. Việc ông lập một phòng tuyến chống giặc bắt đầu bằng cứ điểm then chốt
Đa Bang (Ba Vì, Hà Tây ) kéo dài theo bờ Nam sông Đà cho đến sông Ninh (Hà
Nam) rồi lại tiếp tục theo bờ sông Luộc, sông Thái Bình đến Bình Than dài trên

400 km, đã tỏ ra ông là một nhà quân sự kiệt xuất. Hồ Nguyên Trừng cũng sáng
tạo ra cách đánh độc đáo: ông cho đúc nhiều cây xích lớn chăng qua những khúc
sông hiểm trở, kết hợp với quân mai phụctrang bị hoả lực mạnh, từng khiến cho
thuỷ quân giặc nhiều phen khiếp đảm. Tuy vậy nói đến Hồ Nguyên Trừng người
ta thuờng nhắc đến công sáng chế súng thần cơ của ông.
Thời ấy, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị
cho các thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải gấp tổ chức những
xưởng đúc súng lớn. Nhờ thông minh tuyệt vời cùng khả năng suy nghĩ phi
thường, ông đã đúc kết những kinh nghiệm cổ truyền trên cơ sở đó, phát minh,
chế tạo ra những loại súng có sức công phá khủng khiếp. Từ việc cải tiến súng,
chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của đạn, Nguyên trừng phát minh ra phương pháp
đúc súng mới gọi là súng “thần cơ”. Súng thần cơ của ông có đầy đủ các bộ phận
của loại súng thần công sau này. Nòng súng là một ống được đúc bằng sắt hoặc
đồng. Phía đuôi súng được đúc kín có bộ hận ngòi cháy nổ ở chỗ nhồi thuốc nổ.
Đạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn, người ta nhồi thuốc súng phía đáy rồi
đặt mũi tên vào giữa và nhồi loại đạn bằng sắt và chì. Súng thần cơ có nhiều loại:
loại nhỏ dùng cho bộ binh bắn xa áng chừng 700 mét. Hồ Nguyên Trừng đặc biệt
cho đúc nhiều súng thần cơ cỡ lớn, gọi là “thần cơ pháo”. Thần cơ pháo thực
Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng

Trang 8


Trường THCS Lạc Hòa

Sáng Kiến kinh nghiệm

chất là thấn cơ cỡ lớn được đặt trên thành hoặc trên xe kéo cơ động. Quân minh
bao phen kinh hoàng về loại sùng này mà không hiểu nổi. Nhưng cuộc kháng
chiến của nhà Hồ thất bại vì không được nhân dân ủng hộ, trong lúc quân giặc

dương cao cờ “phù Trần diệt Hồ”. Giặc Minh bắt được nhiều súng thần cơ, bắt
được cả nhà sáng chế ra nó. Trong “Vân Đài loạn ngữ”, Lê Quý Đôn nhắc đến
một chi tiết: “quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng”.
Nếu nhớ lại rằng vào thời Hồ Nguyên Trừng, thế giới đang thai nghén về
súng đại bác thì chúng ta càng tự hào về những sáng chế của ông.
(Theo Các triều đại Việt Nam)

Lúc kể những câu chuyện lịch sử chính là lúc HS tập trung chú ý lắng
nghe, đó là cơ hội tốt để giáo dục tư tưởng cho HS, làm cho HS càng thêm yêu
dân tộc mình, biết thêm những điều mà trong SGK chưa cung cấp nhưng lại rất
cần thiết trong cuộc sống, trong quá trình học tập của mỗi con người.
Có một điều chắc chắn rằng HS sẽ nhớ nội dung của mỗi bài nhiều hơn
nhờ những câu chuyện này. Đặc biệt HS sẽ biết nhiều hơn về mỗi triều đại, biết
nhiều nhân vật lịch sử hơn. Từ đó môn lịch sử có giá trị cao hơn trong lòng các
em. Điều này có thể được chứng thực ở lớp 7A1, 7A4, 7A6.
Nguyên tắc khi kể chuyện trong giờ học lịch sử là không kể tràn lan và
phải thông qua câu chuyện để làm nổi bật nội dung bài, giáo dục tư tưởng cho
HS,

2. Sử dụng hình ảnh minh họa.
Hình ảnh minh họa rất có giá trị trong học tập. Nó giúp HS có thể hình
dung vấn đề rõ hơn, từ đó để lại ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ HS. Giúp HS có
thể nhớ được lâu hơn. Đồng thời giúp HS không bị lạc lõng khi bắt gặp một hình
ảnh nào đó mang tính lịch sử.
Trong thời địa bùng nổ của công nghệ thông tin, giáo viên ngoài việc tận
dụng kênh hình trong SGK thì có thể tận dụng mạng internet để có được những
hình ảnh rất đẹp phục vụ cho việc dạy lịch sử.
Trước hết giáo viên tìm hình mà mình cần rồi sau đó in ra giấy A4 . Tùy
điều kiện mà giáo viên có thể in hình màu hay đen trắng. Nếu là hình màu thì HS
dễ quan sát và thu hút HS nhiều hơn. Trong lúc sử dụng cần đặt các câu hỏi để

HS suy nghĩ tìm ra các vấn đề liên quan đến hình ảnh chứ không để cho HS nhìn
hình chỉ vì nó lạ, đẹp.
Đối với các nhân vật lịch sử có thể đặt dạng câu hỏi như: Ông là ai? Sống
dưới triều đại nào? Ông có công lao gì? Ta có thể học được gì nơi ông? … Đối
với các hình là những chùa chiền có thể hỏi: tên của chùa là gì? Nó liên quan đến
triều đại nào, sự kiện lịch sử nào? Qua hình đó thể hiện điều gì (liên quan đến bài
học)?… và giáo dục tư tưởng cho HS.

Người thực hiện: Nguyễn Đức Dũng

Trang 9



×