Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Quan hệ việt nam - hàn quốc giai đoạn 1992 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (938.73 KB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
***************

CẤN THỊ LỤA

QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC
GIAI ĐOẠN 1992 - 2010
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:
TS NGUYỄN VĂN DŨNG

HÀ NỘI - 2016


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ CỦA QUAN HỆ VIỆT NAM – HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN ..
1992- 2010 .................................................................................................................7
1.1. NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG GIỮA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC.............7
1.2. LỢI ÍCH CỦA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC KHI THIẾT LẬP MỐI QUAN
HỆ ..............................................................................................................................8
1.2.1 Lợi ích của Việt Nam khi thiết lập quan hệ với Hàn Quốc ..............................8
1.2.2.Lợi ích của Hàn Quốc khi thiết lập quan hệ với Việt Nam ..............................9
1.3.QUAN HỆ VIỆT NAM – HÀN QUỐC TRƯỚC NĂM 1992 – NỀN TẢNG
CHO MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM – HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 1992 - 2010 .....11
1.3.1. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trước 1954 ...................................................11
1.3.2. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1954 - 1975 ................................16
1.3.3.Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc giai đoạn 1975- 1992 ....................................18


1.3.4. Đánh giá mối quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trước năm 1992 ....................23
Chương 2: QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC TỪ 1992 - 2010..................24
2.1. QUAN HỆ VIỆT NAM – HÀN QUỐC 1992 – 2000 ......................................24
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử ...........................................................................................24
2.1.2. Những lĩnh vực chủ yếu trong quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ năm 1992
đến năm 2000 ...........................................................................................................25
2.1.2.1. Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc về chính trị- ngoại giao .............................25
2.2. QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 2000 - 2010 .................42
2.2.1. Hoàn cảnh lịch sử ...........................................................................................43
2.2.2. Những lĩnh vực chủ yếu trong quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ năm 2000
đến năm 2010 ...........................................................................................................43
Chương 3: NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC GIAI
ĐOẠN 1992 – 2010 .................................................................................................58


3.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM .......................................................................................58
3.1.1. Đặc điểm trong quan hệ về chính trị ..............................................................58
3.1.2. Đặc điểm trong quan hệ về kinh tế ................................................................62
3.1.3. Đặc điểm của quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong các lĩnh vực khác .........66
3.2. TÁC ĐỘNG CỦA QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC............................68
3.2.1. Tích cực..........................................................................................................68
3.2.2. Tác động tiêu cực ...........................................................................................72
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................80


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau khi Việt Nam và Hàn Quốc chính thức đặt quan hệ ngoại giao (Tháng
12-1992), hai nước đã cùng chung tay xây dựng mối quan hệ này và gặt hái được

nhiều thành công. Thời kì sau đó chính là thời kì cả hai nước xác lập, thúc đẩy và
nâng cấp quan hệ thành đối tác hợp tác toàn diện.
Là một nước công nghiệp mới (NIC), Hàn Quốc phát triển nhanh, mạnh,
vững chắc, có tiềm lực kinh tế, khoa học kĩ thuật và vị thế ngày càng tăng trên
trường quốc tế. Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, trên thế giới và khu vực có
nhiều biến chuyển tích cực, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trở thành xu thế
chủ đạo. Trên cơ sở có nhiều nét tương đồng về lịch sử và văn hóa, nhận thấy Việt
Nam có tiềm năng hợp tác to lớn trên nhiều lĩnh vực, Hàn Quốc đã tích cực đẩy
mạnh mối quan hệ nhiều mặt với Việt Nam, hi vọng sẽ có sự ảnh hưởng tương
xứng với tiềm năng của mình ở khu vực Đông Á và cân bằng sự có mặt của các
nền kinh tế trong khu vực này. Với Hàn Quốc, Việt Nam là thị trường mới, hấp
dẫn, lực lượng lao động dồi dào, Việt Nam đang chuyển mình trong quá trình đổi
mới, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế vì vậy Việt Nam sẽ là thị trường đầu tư,
một địa chỉ hợp tác đầy hứa hẹn. Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae - Jung (Nhiệm kì
1998- 2003) khẳng định: “Việt Nam là đối tác ưu tiên hàng đầu của Hàn Quốc
trong các nước đang phát triển”. Với tầm nhìn xa, Hàn Quốc đã hợp tác với Việt
Nam để hai quốc gia cùng có những bước tiến phát triển về mọi mặt.
Về phía Việt Nam, trải qua quá trình thống nhất đất nước, đặc biệt sau
công cuộc đổi mới năm 1986 đất nước đã có nhiều bước tiến quan trọng. Thời kì
này Việt Nam cũng tăng cường mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước. Đảng và
chính phủ Việt Nam đã đưa ra quan điểm: “Việt Nam sẵn sàng hợp tác với các
quốc gia, các tổ chức quốc tế và khu vực vì sự thịnh vượng chung của nhân dân
1


Việt Nam và nhân dân các nước”. Với Hàn Quốc, Việt Nam đã có những hành
động thiết thực để đẩy mạnh hợp tác nhiều mặt. Việt Nam khắc phục khó khăn,
vượt qua trở ngại để cho mối quan hệ giữa hai bên đi vào chiều sâu và có hiệu quả.
Mối quan hệ Việt Nam– Hàn Quốc là mối quan hệ từ đối đầu sang đối thoại,
“thù cũ bạn mới”. Mối quan hệ này có lịch sử phát triển từ năm 1975 với chế độ

Việt Nam Cộng hòa nhưng đó chỉ là quan hệ một phần, mang tính khu vực của một
nước Việt Nam chưa thống nhất. Do vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống
những chuyển biến của quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc từ năm 1992 đến năm 2010
có ý nghĩa lí luận và thực tiễn trong quan hệ giữa hai nước nói riêng và trong quan
hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới nói chung.
Hơn nữa, nghiên cứu tổng quan về mối quan hệ này giúp chúng ta thấy rõ
được những thành tựu đạt được, những thuận lợi cũng như những trở ngại trong
mối quan hệ hai nước. Từ đó rút ra được những kinh nghiệm, giải pháp cho việc
hợp tác và phát triển không chỉ với Hàn Quốc mà với tất cả các nước trên thế giới.
Từ những ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên, tôi quyết định chọn đề tài
“Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc giai đoạn 1992- 2010” làm đề tài nghiên cứu với
hi vọng đóng góp một phần nhỏ vào lĩnh vực nghiên cứu này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ quốc tế là một trong những vấn đề cơ bản của mọi thời đại. Đặc biệt
nó có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn lịch sử thế giới cận- hiện đại với xu thế
toàn cầu hóa hiện nay.
Mối quan hệ giữa hai nước Việt Nam- Hàn Quốc từ khi được thiết lập đến nay
đã được một số cá nhân, tập thể nghiên cứu ở những góc độ, khía cạnh khác nhau
trong từng lĩnh vực, chủ yếu về kinh tế thương mại, văn hóa và khoa học công
nghệ.
Nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc từ trước tới nay đã được nhiều
nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước nghiên cứu và tìm hiểu.
2


Cho đến nay đã có nhiều cuốn sách nghiên cứu về mối quan hệ Việt Nam –
Hàn Quốc, tiêu biểu trong số đó là cuốn Tình nghĩa Việt Nam- Hàn Quốc của tác
giả Vương Thị Vân Anh, cuốn Hợp tác kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc trong bối
cảnh hội nhập Đông Á của tác giả Ngô Xuân Bình,cuốn Quan hệ Việt Nam- Hàn
Quốc trong bối cảnh quốc tế mới…

Ngoài ra còn có các tạp chí, các bài báo được đăng tải trên các trang mạng
Internet. Tiêu biểu là tác phẩm : “Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc: Thực trạng và
triển vọng” của Nguyễn Hữu Cát, tạp chí Cộng sản, số 12/2005; “ Triển vọng và
giải pháp phát triển quan hệ thương mại Việt Nam - Hàn Quốc trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế” - tác giả Nguyễn Hồng Nhung và tập thể, Báo cáo tổng hợp
đề tài nghiên cứu cấp bộ của Bộ Thương mại năm 2003.
Đặc điểm chung của các bài viết này là đi sâu vào phân tích mối quan hệ của
Việt Nam - Hàn Quốc trên một lĩnh vực nhất định như chính trị, kinh tế, quân sự
và khoa học kĩ thuật trong một khoảng thời gian nhất định nào đó mà chưa đi sâu
nghiên cứu mối quan hệ của hai nước một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
trong khoảng thời gian dài.
Bên cạnh đó cũng có những tác phẩm viết về mối quan hệ hai nước qua các
giai đoạn khác nhau trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, thương mại và đầu
tư…Như tác phẩm: “Quan hệ kinh tế Việt Nam- Hàn Quốc: 15 năm hợp tác và
phát triển” của Trần Quang Minh, tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số 4 (74),
tháng 4/2007, “Báo cáo xu hướng ODA cho Việt Nam” của Văn phòng KOICA Hà
Nội, tháng 10/2004 (tiếng Hàn Quốc)...
Như vậy, tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về mối quan hệ Việt
Nam - Hàn Quốc, song chỉ mới chỉ dừng lại ở góc độ đi sâu vào nghiên cứu một
lĩnh vực nào đó và trong một thời gian nhất định, chưa có sự tổng hợp toàn diện về
mối quan hệ này.
Trong quá trình thực hiện Khóa luận, tôi đã kế thừa được ít nhiều các công

3


trình trên. Do đó thuận lợi của tôi là có nguồn tài liệu phong phú để thực hiện đề
tài này, nhưng bên cạnh đó còn cái khó trong việc phân tích và khái quát vấn đề để
bài viết thể hiện được cái riêng của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc nhằm phân tích, đánh giá sự
hợp tác của hai quốc gia với hai thể chế chính trị khác nhau trong các lĩnh vực, đặc
biệt là kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo... Từ đó thấy được sự tác động, ảnh
hưởng đối với Việt Nam, Hàn Quốc nói riêng cũng như trong khu vực nói chung.
Đồng thời phản ánh xu hướng hợp tác và triển vọng phát triển quan hệ Việt Nam Hàn Quốc trong tương lai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trước khi thiết lập quan hệ ngoại giao
chính thức (22-12-1992).
- Phân tích mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 - 2010 trên các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, thương mại…Từ đó chỉ ra được những thành tựu
và hạn chế.
- Rút ra nhận xét về đặc điểm và những tác động của mối quan hệ Việt Nam – Hàn
Quốc trong giai đoạn 1992 - 2010.
3.3.Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: Giới hạn từ năm 1992 đến nay: Năm 1992 đánh dấu thiết
lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hàn Quốc và kết thúc là năm 2010, là thời gian
quan hệ hai nước có nhiều biến đổi quan trọng sau chuyến thăm Việt Nam tháng
10 - 2009 của Tổng thống Lee Myung - Bak, hai nước nhất trí nâng cấp quan hệ
Việt Nam - Hàn Quốc lên thành quan hệ “Đối tác hợp tác chiến lược”.

4


- Phạm vi không gian: Giới hạn quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Hàn
Quốc.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Trong quá trình nghiên cứu khóa luận tôi đã sử dụng các nguồn tài liệu:
- Các sách báo có liên quan đến đề tài khóa luận

- Các tạp chí và bài viết trên các trang mạng
- Các bài nghiên cứu khoa học, luận văn có liên quan đến đề tài nghiên cứu
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận, tôi sử dụng các phương pháp chủ
yếu sau:
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp logic
- Bên cạnh đó tôi còn sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp định lượng trong đó
phương pháp lịch sử là chủ yếu.
- Ngoài ra, tôi cũng sử dụng phương pháp liên ngành như: phương pháp
nghiên cứu của quan hệ quốc tế, đó là phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp,
dự báo trong Quan hệ Quốc tế.
5. Những đóng góp của đề tài khóa luận
Đề tài nghiên cứu về quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc từ năm 1992 đến năm
2010 là một đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Thứ nhất, phân tích, phản ánh mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc từ năm
1992 đến năm 2010 trên các lĩnh vực chủ yếu như kinh tế, văn hóa, xuất khẩu lao
động...,và đặc điểm, tác động của mối quan hệ này giúp ta có một cái nhìn toàn
diện, sâu sắc về mối quan hệ hợp tác của hai quốc gia có hai thể chế chính trị khác
nhau nhưng lại có những nét tương đồng về lịch sử và văn hóa.

5


Thứ hai, nghiên cứu đề tài này sẽ giúp cho các bạn sinh viên chuyên ngành
Lịch sử có thêm những tài liệu và kiến thức quan trọng trong lĩnh vực Quan hệ
quốc tế và là hành trang ý nghĩa trước khi ra trường.
7. Bố cục của khóa luận
Cấu trúc của khóa luận được chia thành các phần sau:
- Phần mở đầu.

- Phần nội dung: gồm 3 chương:
+ Chương 1: Cơ sở của quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992- 2010
+ Chương 2: Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 - 2010
+ Chương 3: Nhận xét về quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc giai đoạn 1992 2010

6


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ CỦA QUAN HỆ VIỆT NAM – HÀN QUỐC
GIAI ĐOẠN 1992- 2010
1.1. NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG GIỮA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC
Trên thế giới, hiếm thấy quốc gia nào lại có nhiều nét tương đồng về địa lý,
văn hóa, lịch sử… như Việt Nam và Hàn Quốc. Hai câu thơ trong bài thơ của sứ
thần Hàn Quốc Nam Đình Thuận họa lại thơ của sứ thần Việt Nam Nguyễn Tư
Giản vào năm 1864 tại Bắc Kinh cũng đã đề cập đến:
“Sơn hà ưng hữu dị
Hàn mặc tự tương đồng”
( Non sông [hai nước] tuy có khác nhau
Nhưng văn chương, văn hóa từ xưa vốn tương đồng)
Thử nhìn vào những biến động chính trị làm ví dụ, vào năm 918, ở bán đảo
Hàn, triều Cao Ly được dựng lên thì chẳng bao lâu sau, vào năm 939 Việt Nam
giành lại nền độc lập từ ách thống trị của Trung Quốc sau gần một nghìn năm. Lại
nữa, vào năm 1392, vương triều Triều Tiên diệt Cao Ly thì 36 năm sau, tức là năm
1428, tại Việt Nam, nhà Lê đánh đuổi thế lực nhà Minh lập triều đại mới. Về
phương diện văn hóa cũng vậy, vương triều Cao Ly sùng bái Phật giáo thì cùng
thời kì này, nhà Lý (1009-1225) và triều Trần (1225-1400), ở Việt Nam, ảnh
hưởng của Phật giáo là tuyệt đối. Mặt khác, đồng thời với sự thành lập vương triều
Triều Tiên và triều Lê, Phật giáo suy yếu dần, Nho giáo trở thành hệ ý niệm chi

phối làm tư tưởng chính trị chủ đạo, mà người xưa thường gọi là “đồng văn”.
Việt Nam và Hàn Quốc đều là hai nước châu Á, có vị trí chiến lược quan
trọng ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Cả hai dân tộc đã từng bị ngoại bang đô

7


hộ và cùng cảnh ngộ đất nước bị chia cắt, Việt Nam rất thấu hiểu sự mong mỏi
thống nhất đất nước của nhân dân và Chính phủ Hàn Quốc, nhân dân hai nước dễ
thông cảm và gắn bó với nhau. Cả hai dân tộc đều có truyền thống giữ gìn, kế thừa
nền văn hóa dân tộc trong lịch sử lâu dài hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước và
tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại. Những điều kiện trên đã
từng thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt- Hàn trong quá khứ vẫn tiếp tục là cơ sở vững
chắc cho sự phát triển của quan hệ hai nước trong hiện tại và tương lai.
1.2. LỢI ÍCH CỦA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC KHI THIẾT LẬP MỐI
QUAN HỆ
1.2.1. Lợi ích của Việt Nam khi thiết lập quan hệ với Hàn Quốc
Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia cùng nằm trong khu vực văn hóa
Đông Á có truyền thống lịch sử hàng ngàn năm văn hiến với những đặc điểm là
tinh thần yêu nước, trí thông minh và cần cù lao động. Trong quá khứ, cả hai dân
tộc đều bị các cuộc chiến tranh xâm lược tàn phá khốc liệt và là những thuộc địa có
trình độ sản xuất thấp, ít được thế giới biết đến. Sau khi giành độc lập chính phủ và
nhân dân hai nước đều mong muốn sống trong hòa bình, độc lập, tập trung sức lực
phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả của quá khứ, đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn và lạc hậu, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Đó là những điểm
thuận lợi cho hai nước dễ dàng thông hiểu và hợp tác với nhau hơn so với các nước
khác trong khu vực như Indonesia, Phinipinnes, Malaysia, Thailand…
Bên cạnh đó nền kinh tế của Hàn Quốc trước khi bước vào tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa năm 1962 và của Việt Nam trước công cuộc đổi mới năm
1986 đều mang tính chất nông nghiệp là chủ yếu, trình độ sản xuất thô sơ, dân số

đông, điều kiên thời tiết không thuận hòa, đất đai manh mún không đủ để sản xuất
lớn các ngành công nghiệp địa phương chỉ thỏa mãn nhu cầu nội địa, không đủ khả
năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vì vậy khi hai nước hợp tác với nhau, nhất
là trong lĩnh vực kinh tế, Hàn Quốc có nhiều kinh nhiệm phát triển trong những
8


năm qua và có thể chia sẻ cũng như giúp Việt Nam vượt qua khó khăn trong quá
trình đổi mới đất nước.
Trong quá trình hợp tác, Việt Nam và Hàn Quốc cũng tìm thấy ở nhau những
sự bổ sung đáng quý, Việt Nam có thế mạnh mà Hàn Quốc quan tâm như nguồn
lực dồi dào, tiềm năng thị trường… trong khi Việt Nam cũng tìm thấy ở Hàn Quốc
năng lực về nguồn vốn, công nghệ tiên tiến… Sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc
là một kinh nghiệm cần thiết đối với Việt Nam. Trong khi đó, kinh nghiệm thống
nhất đất nước của Việt Nam cũng hết sức quý báu cho hai miền Triều Tiên, Hàn
Quốc trong tiến trình hòa giải, hòa hợp dân tộc, tiến tới thống nhất đất nước.
Ngoài ra thiết lập quan hệ với Hàn Quốc,Việt Nam tiếp tục có lợi ích lâu dài
trong việc khai thác vai trò của nhân tố Hàn Quốc cho các mục tiêu đối ngoại ở
khu vực và trên trường quốc tế, nhất là việc tăng cường và mở rộng trong quan hệ
với các nước trong khu vực đi vào chiều sâu và bền vững hơn.
1.2.2. Lợi ích của Hàn Quốc khi thiết lập quan hệ với Việt Nam
Trong hai thập niên 70 và 80 của thế kỉ XX, nền kinh tế Hàn Quốc đạt tốc độ
phát triển nhanh và mạnh. Bước sang thập niên 80, Hàn Quốc đã trở thành một
nước công nghiệp hóa mới NIC và được mệnh danh là “con rồng kinh tế Châu Á”.
Hàn Quốc đã lợi dụng được những mặt tích cực của xu thế mới trên thế giới và khu
vực để phát triển kinh tế thành công, nâng cao vị thế trên trường quốc tế.
Từ cuối những năm 80, quá trình dân chủ hóa trong nền chính trị Hàn Quốc
được thúc đẩy mạnh, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời các chính sách mới, phù
hợp với tình hình phát triển của quốc tế và nhằm giải quyết các vấn đề an ninh và
kinh tế của đất nước, tạo cơ sở cho việc thống nhất 2 miền trên bán đảo Triều Tiên.

Một trong những hướng mới trong chính sách ngoại giao của Hàn Quốc ở thời kì
ngay sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc là toàn cầu hóa và đa dạng mối quan hệ.
Tiêu biểu cho sự thay đổi về đường lối đối ngoại trên là Chính sách ngoại giao
phương Bắc ( The Northern Diplomacy Policy) (2-1988). Chính sách này đã thúc
9


đẩy và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước XHCN như Liên Xô, Trung Quốc,
kể cả thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc đã
thu được nhiều thành công với chính sách này, từ chỗ phụ thuộc nhiều về kinh tế
vào Mỹ và Nhật Bản nay chuyển sang quan hệ đa phương với các nước có chế độ
chính trị khác nhau. Điều đó đã tạo điều kiện để Hàn Quốc gia nhập Liên Hợp
Quốc và tăng cường vị thế của Hàn Quốc trên trường quốc tế. Chính sách này giúp
Hàn Quốc phát triển mạnh quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực
Châu Á- Thái Bình Dương cũng như các nước ASEAN. Chính trong bối cảnh này,
Hàn Quốc đã thúc đẩy quá trình thiết lập quan hệ chính thức với Việt Nam. Việc
Hàn Quốc phát triển quan hệ với Việt Nam cũng có nghĩa là Hàn Quốc có nhiều
thuận lợi hơn trong việc xâm nhập vào hai thị trường kinh tế tiềm năng mới là Lào
và Campuchia. Với kinh nghiệm xây dựng và phát triển kinh tế của mình Hàn
Quốc mong muốn công nghệ và vốn của Hàn Quốc khi kết hợp với nguồn tài
nguyên và lao động của Việt Nam chắc chắn sẽ góp phần vào công cuộc phát triển
tốt hơn cho kinh tế của hai nước.
Đối với Hàn Quốc đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam đã
trùng với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hàn Quốc cũng như sẽ có thể phát
huy lợi thế so sánh từ cả hai nước khi hợp tác chặt chẽ với nhau. Việc mở rộng
quan hệ hợp tác với Việt Nam đã góp phần giúp Hàn Quốc khắc phục những khó
khăn về tài nguyên, chi phí lao động và thị trường. Thông qua hợp tác kinh tế, Hàn
Quốc phát triển sản xuất, mở rộng được các kênh tiêu thụ sản phẩm, thu được lợi
nhuận, và dần chuyển giao một số ngành đã mất lợi thế cạnh tranh ở trong nước
sang Việt Nam.

Giới chính trị, các nhà khoa học và doanh nghiệp Hàn Quốc giai đoạn này đều
nhận thấy rằng: Hiện nay đang có một nước Việt Nam mới với một thị trường khá
lớn gần 80 triệu dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú, diện tích lãnh thổ gần gấp
rưỡi diện tích bán đảo Triều Tiên, sức lao động nhiều và rẻ tuy rằng sức mua có
10


khả năng thanh toán chưa cao nhưng chính sách mở cửa và công cuộc cải cách
kinh tế đang tiến triển mạnh, với sự phát triển kinh tế cao, một thị trường đầy tiềm
năng đã thu hút được sự quan tâm của các bạn hàng, các nhà đầu tư lớn không chỉ
của Hàn Quốc mà còn của các nước khác trên thế giới. Vì vậy khi thời cơ thuận lợi
mở ra, điều kiện đã chín muồi. Hàn Quốc nói riêng và nhiều nước khác nói riêng
đã nhanh chóng thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
1.3.QUAN HỆ VIỆT NAM – HÀN QUỐC TRƯỚC NĂM 1992 – NỀN TẢNG
CHO MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM – HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 1992 - 2010
1.3.1. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trước 1954
Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc trong giai đoạn này chủ yếu là những mối quan
hệ mang tính chất cá nhân hoặc được xác lập gián tiếp thông qua nước thứ ba chứ
chưa phải là mối quan hệ bang giao cao cấp nhà nước theo công pháp quốc tế hay
những phương thức ngoại giao phương Tây như đặt đại sứ quán, lãnh sự quán…
Quan hệ hai nước cũng chưa thực sự thường xuyên nhưng tình hữu nghị giữa hai
dân tộc vẫn được duy trì tốt đẹp.
Thời Trung đại, bắt đầu từ thế kỉ XII- XIII, sự kiện hai Hoàng tử họ Lý của
Đại Việt là Lý Dương Côn và Lý Long Tường, do những biến động của lịch sử, đã
lần lượt sang định cư tại Hàn Quốc, lúc bấy giờ là vương quốc Cao Ly (Koryo), tạo
dấu mốc cho mối quan hệ của hai dân tộc.
Trong thời kỳ này công việc ngoại giao của ba nước Việt Nam, Hàn quốc,
Nhật Bản chủ yếu là ngoại giao với Trung Quốc. Thời bấy giờ, mặc dù cả ba nước
đều đã là các nước độc lập, có chủ quyền, quan hệ ngoại giao cấp Quốc gia trực
tiếp giữa nước này với nước kia, đã đặt ra, nhưng không diễn ra thường xuyên. Do

vậy, quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc thời kỳ này, nói chung là
quan hệ gián tiếp, qua nước trung gian là Trung Quốc. Phần lớn các đoàn sứ thần
Việt Nam, theo định kì tuế cống (thường là 3 năm một lần) sang Yên Kinh (tức
Bắc Kinh ngày nay) và đã gặp đoàn sứ thần Hàn Quốc tại đây.
11


Danh sách 11 lần tiếp xúc giữa sứ thần Việt Nam và sứ thần Hàn Quốc thời
trung đại trên đất Trung Quốc [13, tr.125 – 126]:

TT

Năm đi sứ

Sứ thần Đại Việt-

Sứ thân Triều
Tiên - Hàn

Việt Nam

Quốc

Nội dung gặp
gỡ- giao hảo

A. Thời Lê Trung Hưng (1533-1788)
Đinh Dậu 1597 Phùng Khắc Khoan

1


- Lý Toái

- Xướng họa thơ.

Quang.

- Sứ thần họ Lý

- Kim Tiêu Dật

viết Tựa - Hậu

Sĩ.

chí cho tập thơ
họ Phùng.

2

3

Mậu Tuất 1718 Nguyễn Công Hãng

- Dụ Tập Nhất.

- Xướng họa thơ.

- Lý Thế Cận.
Đinh Mão


Nguyễn Tông Quai

- Lý Hiệu Lý

- Xướng họa thơ.

- Mô Tư Gia

1747
Canh Thìn

Trần Huy Mật.

- Hồng Khải Hy. - Xướng họa thơ.

1760

Lê Quý Đôn.

- Triệu Vĩnh

- Sứ thần Hàn

Trịnh Xuân Thụ.

Tiến.

Quốc đề Tựa


- Lý Huy Trung.

sách của Lê Quý

4

Đôn.
5

6

7

Bính Tuất

Nguyễn Huy Oánh

1766

[13, tr. 125 - 126]
Nguyễn Dao

Sứ bộ Hàn Quốc - Tặng thơ sứ
thần Hàn Quốc.
Lý Trí Trung

- Thăm hỏi.
- Kết thân.

Đinh Dậu 1777 Hô Sĩ Đống


- Lý Quang
- Trịnh Vũ Huần

12

- Xướng họa thơ.


- Doãn Hường
Trọng Lễ
B. Thời Tây Sơn (1788- 1802)

8

Canh Tuất

- Phan Huy Ích.

- Hoàng Bỉnh Lễ - Xướng họa thơ.

1790

- Đoàn Nguyễn

- Từ Hạo Tu

Tuấn

- Lý Bách Hanh


Nguyễn Đề

- Từ Hữu Phóng

Ất Mão 1795
9

- Xướng họa thơ.

- Lý Nguyên
Hanh

C. Thời Nguyễn (1802-1945)
Giáp Tý 1864

Nguyễn Tư Giản

-

Nam

Đình - Xướng họa thơ.

Thuân

10

- Triệu Bình Cảo
- Kim Hữu Uyên


11

1912-1913

Nguyễn

Thượng - Kim Bí Thư

- Tặng thơ.

Hiền
Trong 11 lần gặp gỡ giữa sứ thần hai nước Việt Nam- Hàn Quốc vừa kể trên, có

3 lần diễn ra trong điều kiện khá đặc biệt và để lại dấu ấn sâu đậm, đó là:
1. Năm 1597, sứ thần Phùng Khắc Khoan gặp gỡ các sứ thần Lý Toái Quang,
Kim Tiêu Dật Sĩ.
2. Năm 1760, sứ thần Lê Quý Đôn gặp các sứ thần Hồng Khải Hy, Triệu Vĩnh
Tiến, Lý Huy Trung.
3. Năm 1790, sứ thần Phan Huy Ích gặp các sứ thần Hoàng Bình Lễ, Từ Hạo
Tu, Lý Bách Hanh.
Bước vào thời cận, hiện đại từ đầu thế kỉ XX trở đi, khi chủ nghĩa tư bản
phương Tây đã trở thành đế quốc xâm lược các nước phương Đông, thì hai nước
13


Việt - Hàn cũng cùng nhau đứng trong một chiến tuyến để chống kẻ thù chung,
góp phần làm cho phong trào “châu Á thức tỉnh”.
Ở Việt Nam, khi thực dân Pháp đã bình định xong và xác lập ách thống trị tàn
bạo của chúng cũng là lúc phong trào đấu tranh chống xâm lược của nhân dân lên

cao. Bấy giờ, một số sĩ phu yêu nước tiến bộ tìm đường cứu nước mới theo xu
hướng duy tân - cải cách hợp với thời đại mới. Nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu
đã sớm tập hợp, kết liên đồng chí, sáng lập ra Duy Tân Hội (1904), nhằm “đánh
đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập Chính phủ độc lập”. Phan Bội
Châu đã trực tiếp lãnh đạo phong trào Đông Du (1905-1909), tuyển chọn hàng
trăm thanh niên ưu tú, yêu nước xuất dương cầu học tại Nhật Bản thành tài để trở
về nước.
Trong số các chí sĩ cách mạng, thanh niên yêu nước của các nước Á Đông có
người Trung Quốc, Ấn Độ, Miến Điện, Indonesia… cũng có không ít người Việt
Nam và người Hàn Quốc. Tại đây, họ có nhiều cơ hội giao lưu tình cảm, tư tưởng
với nhau, cùng nhau học tập, trao đổi kinh nghiệm vận động cách mạng đấu tranh
giải phóng dân tộc và truyền bá “tư tưởng chống đế quốc - phong kiến” qua các tác
phẩm thơ văn tuyên truyền yêu nước của mỗi nước đối với kẻ thù cướp nước họ.
Như Phan Bội Châu năm 1905, tại Tokyo đã viết tác phẩm “Việt Nam vong quốc
sử”, là một bản án tố cáo tội ác của thực dân Pháp tại Việt Nam. Tác phẩm này
được xuất bản ở Tokyo và ngay lập tức được các bạn Hàn Quốc dịch ra tiếng Hàn
và phổ biến ở Hàn Quốc, đã có tác dụng tuyên truyền tư tưởng yêu nước, căm thù
giặc rõ rệt.
Có điều đặc biệt là cũng năm 1905 tại Nhật Bản, nhà yêu nước Phan Bội
Châu gửi về cho Đông Kinh Nghĩa Thục một tác phẩm có cùng chủ đề gọi là
“Triều Tiên vong quốc sử” (không rõ tác giả là ai, là người Triều Tiên hay cũng
chính là Phan Bội Châu). Nội dung cuốn sách “Triều Tiên vong quốc sử” cũng có
những chương, mục tố cáo đế quốc Nhật Bản và đế quốc Nga hoàng. Đó là “hai
14


con cọp xâu xé nhau… Cao Ly là của chung hai nước Nhật, Nga…nay thì hoàn
toàn là của Nhật Bản. Đấy là lịch sử thống khổ của Cao Ly gần 10 năm lại đây”
[27, tr. 197- 200].
Vào thời điểm chuyển biến cục diện của phong trào cách mạng ở Đông Nam

Á lúc bấy giờ, cũng tại Tokyo, nơi tập trung nhiều nhà yêu nước “đang đi tìm
đường cứu nước” đã hợp nhau thành lập ra Hội Đông Á đồng minh (cũng có tên
gọi là Đông Á hòa thân hội) vào cuối năm 1907. Hội này như chính Phan Bội Châu
đã ghi rõ trong Niên biểu (tự truyện) của mình:
“ Trước hết hãy liên kết các chí sĩ ở toàn châu Á và những dân tộc vong quốc
ở châu Á làm thế nào đoàn kết thành một đảng, sẽ có lúc đồng thời cách mệnh cả.
Một phương diện đã tính như thế, mà còn một phương diện nữa, thì chỉ lấy
cách mệnh tuyên truyền là cách giáo dục ở trong thời kỳ vong quốc” [10, tr. 196].
Hội Đông Á đồng minh có sự tham gia đông đảo của các chí sĩ Trung Quốc, Ấn
Độ, Miến Điện, Việt Nam, Triều Tiên… Trong Điều lệ Hội Đông Á đồng minh có ghi
thêm là ngoài việc đặt “Tổng bộ” tại Tokyo còn đặt “trạm liên lạc” ở Trung Quốc, Ấn
Độ, Triều Tiên, Philippin, An Nam… Mục đích của Hội là: Liên kết các đảng cách
mạng các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, An Nam, Philippin, Miến Điện, Mã Lai,
Triều Tiên, Nhật Bản cho nên cũng có người Triều Tiên đã tham gia Hội này mà
người đứng đầu là Triệu Tố Ngang.
Cũng ở thời điểm này còn có nhóm các thanh niên yêu nước Triều Tiên có
mặt tại Tokyo như Pak Un Sik (Phác Ân Thực)… do học tập, trao đổi kinh nghiệm
với lưu học sinh và nhân sĩ các nước Đông Nam Á, trong đó có lưu học sinh và hội
viên Duy Tân hội Việt Nam của Phan Bội Châu, khi trở về nước đã lãnh đạo phong
trào nhân dân chống đế quốc Nhật Bản và là lãnh tụ của Tân Dân hội. Phong trào
mở mang văn hóa do những trí thức tiêu biểu (phân lớn đã du học ở Nhật Bản) đề
xướng vào khoảng năm 1910 với khẩu hiệu “học tập là sức mạnh”. Phong trào
truyền bá, giáo dục tư tưởng yêu nước trong những cuộc diễn thuyết công khai,
15


trong việc giáo dục ở các trường tư thục và trong hoạt động báo chí. Trong khắp cả
nước lại lập ra những đoàn thể văn hóa như Tây Bắc học hội, Kiến Nam học hội
nhằm phổ biến các học thuyết tiến hóa luận, cạnh tranh sinh tồn, những tư tưởng
dân chủ, dân quyền, bình đẳng… của phương Tây, đã góp phần thúc đẩy phong

trào đấu tranh giải phóng dân tộc [30, tr. 287 – 290].
Không hẹn mà gặp, giống nhau trong chủ trương và hành động, ở Việt Nam,
vào năm 1907, những người du học hoặc có tham quan ở Nhật Bản được ảnh
hưởng trực tiếp bởi tư tưởng Duy tân của Nhật Bản và được giao lưu với các lưu
học sinh các nước (trong đó có lưu học sinh Triều Tiên) đã góp phần sáng lập và
hoạt động tại trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội. Trường này hoạt động
công khai với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” để đạt đến lý
tưởng “hóa dân cường quốc”. Các nhà sáng lập và chỉ đạo “phong trào Nghĩa
Thục” (Đông Kinh Nghĩa Thục từ một trường đã lan rộng thành một phong trào
Nghĩa Thục) đã có những phương pháp truyền bá tư tưởng yêu nước tiến bộ của
thời đại như diễn thuyết, bình văn…
Từ đó, những người chí sĩ yêu nước của hai nước Việt- Hàn vẫn giữ mối quan
hệ hữu hảo với nhau. Họ luôn luôn gắn bó với nhau trong lý tưởng cứu nước, đánh
đuổi kẻ thù dân tộc là bọn thực dân, đế quốc. Sự gắn kết tình nghĩa đó được thể
hiện ở chỗ thư từ qua lại trao đổi tin tức, tâm tình của những người “đồng bệnh”
(cùng bị mất nước).
Tháng 8-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã tạo thời cơ cho nhân
dân hai nước vùng lên giành độc lập.
1.3.2. Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1954 - 1975
1.3.2.1.Giai đoạn 1954-1963
Mối quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc trong giai đoạn Hàn Quốc chưa can dự vào
chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.

16


Việt Nam Cộng hòa và Đại Hàn Dân Quốc là sản phẩm của chiến lược toàn
cầu của Mỹ thời kì chiến tranh Lạnh. Cả Lý Thừa Vãn và Ngô Đình Diệm - những
người sáng lập nên hai nhà nước này, đều là những nhân vật đã sống lưu vọng
nhiều năm trên đất Mỹ, được bồi dưỡng tinh thần chống cộng cực đoan. Quan hệ

giữa Việt Nam Cộng hòa và Đại Hàn Dân Quốc trong những năm 1953-1963 được
đặt trên nền tảng của chủ nghĩa chống cộng.
Về đối nội, quan hệ ấy nhằm củng cố hai chế độ ở Sài Gòn và Seoul trên tất
cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa,… Về đối ngoại, quan hệ này còn muốn
biến Việt Nam Cộng hòa và Đại Hàn Dân quốc thành hai tiền đồn của “Thế giới tự
do” nhằm thực hiện “Chính sách ngăn chặn cộng sản” của Mỹ. Đó là lý do để
thành lập những tổ chức như Liên minh nhân dân châu Á chống cộng. Trung tâm
chống cộng châu Á mà Việt Nam Cộng hòa và Đại Hàn Dân Quốc đều là những
thành viên hết sức tích cực.
1.3.2.2. Giai đoạn 1964- 1975
Hàn Quốc can dự vào chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam (1964-1973) và sau
Hiệp định Pari (1973-1975)
Vào cuối năm 1964, đầu năm 1965, trước sự tấn công của quân và dân miền
Nam, chế độ Việt Nam cộng hòa do Mỹ hậu thuẫn đứng trước nguy cơ sụp đổ. Để
cứu nguy cho chính quyền Sài Gòn, Tổng thống Johnson quyết định tiến hành
chiến tranh ở miền Nam, đồng thời mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc.
Một mặt, Mỹ muốn “Mỹ hóa chiến tranh” ở Việt Nam bằng cách lôi kéo các quốc
gia “đồng minh” cùng tham chiến. Chỉ có 5 nước làm theo lời Mỹ, nhưng hầu hết
cũng chỉ gửi một số quân tượng trưng, ở mức độ vài nghìn quân, thậm chí vài trăm
quân (Ôxtrâylia, Thái Lan, Niu Dilân, Philippin, Hàn Quốc). Trong số đó, Hàn
Quốc lại tỏ ra đồng minh nhiệt tình nhất, bằng cách gửi hàng vạn quân sang tham
chiến một cách tích cực. “Cũng như các quan thầy Mỹ, quân đội Hàn Quốc đã gây
ra nhiều vụ thảm sát thường dân Việt Nam, để lại những trang sử đen tối trong lịch
17


sử quan hệ hai dân tộc. Lý giải cho thái độ tích cực và nhiệt tình đó của Hàn Quốc,
ngoài sự tương đồng của hai chính phủ Sài Gòn và Seoul (cùng chống cộng một
cách cực đoan, cùng dựa vào Mỹ), người ta không thể không tính đến tính chất vụ
lợi: Hàn Quốc kiếm thêm được nhiều quyền lợi về kinh tế - tài chính, nhận được sự

bảo đảm về an ninh và quân sự từ phía Mỹ. Đó là lý do khiến phía kháng chiến
Việt Nam gọi quân đội Hàn Quốc tham chiến ở miền Nam Việt Nam là “lính đánh
thuê” (mercenaries) [16, tr. 32].
Trong những năm Hàn Quốc can dự vào chiến tranh Việt Nam, quan hệ chính
trị, kinh tế… giữa Đại Hàn Dân Quốc với Việt Nam Cộng hòa ngày càng gắn bó.
Những người đứng đầu nhà nước và chính phủ hai bên thường xuyên có những
cuộc thăm viếng lẫn nhau để phối hợp chính sách và hành động nhằm chống lại
cuộc kháng chiến của quân và dân miền Nam. Nhiều hội nghị giữa các giới chức
cao cấp hai nước được tổ chức để tăng cường sự hợp tác trên lĩnh vực kinh tế.
Từ tháng 7 - 1969, Mỹ bắt đầu rút quân về nước. Nhưng theo giới quan sát, vì
những mối lợi như đã kể trên, mãi đến hai năm rưỡi sau, Hàn Quốc mới bắt đầu rút
quân. Vào cuối năm 1972 - tức là một tháng trước khi ký Hiệp định Pari - quân
Hàn Quốc là lực lượng “đồng minh” đông nhất của Mỹ ở miền Nam Việt Nam
(gấp 1,5 lần quân Mỹ, gấp hơn 136 lần quân 4 nước Ôxtrâylia, Thái Lan, Niu Dilân
và Philippin cộng lại). Điều đó cho thấy chính phủ Seoul vẫn còn lần nữa “luyến
tiếc” khi buộc phải rời khỏi chiến trường miền Nam Việt Nam. Quân Hàn Quốc chỉ
rút hết sau khi có Hiệp định Pari. Sau đó, Hàn Quốc vẫn duy trì mối quan hệ chính
trị và kinh tế với Việt Nam Cộng hòa cho đến khi chế độ Sài Gòn hoàn toàn sụp đổ
vào ngày 30 - 4 - 1975.
1.3.3.Quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc giai đoạn 1975- 1992
1.3.3.1. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam
Sau đại thắng mùa xuân 1975, miền Bắc và miền Nam gặp nhiều thuận lợi
nhưng cũng rất nhiều khó khăn: Ở miền Bắc, trải qua 20 năm (1954-1975) tiến hành
18


cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện,
đã xây dựng được những cơ sở vật chất - kĩ thuật ban đầu của xã hội chủ nghĩa, tuy
vậy cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mĩ đã tàn phá nặng
nề, gây hậu quả lâu dài đối với miền Bắc. Ở miền Nam, sau 1975 đã hoàn toàn giải

phóng, chế độ thực dân mới của Mĩ cùng bộ máy chính quyền Sài Gòn ở trung ương
và địa phương bị suy sụp,… nhưng cũng bị chiến tranh tàn phá hoại, lệ thuộc nặng nề
vào viện trợ từ bên ngoài.
Việt Nam thực hiện các kế hoạch 5 năm: 1976-1980, 1981-1985 và đạt được
một số thành tựu nhất định. Từ năm 1975 đến 1979, Việt Nam trải qua hai cuộc
đấu tranh bảo vệ Tổ quốc: Bảo vệ biên giới Tây Nam (1975-1978) chống tập đoàn
Pôn Pốt; bảo vệ biên giới phía Bắc (1979) chống Trung Quốc. Sau đó ta tiếp tục
thực hiện các kế hoạch 5 năm tiếp theo: 1981-1985, 1986-1990. Đặc biệt, đại hội
VI (12-1986) đã mở đầu công cuộc đổi mới: tiếp tục khẳng định con đường cách
mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện 3 chương trình kinh tế: lương thực thực phẩm,
hàng tiêu dùng, hàng tiêu dùng và đặt nông- lâm- ngư nghiệp lên hàng đầu.
13.3.2. Hoàn cảnh lịch sử Hàn Quốc
Trong suốt những năm 80 của thế kỉ XX, Hàn Quốc tiếp tục theo đuổi quan hệ
đối tác hợp tác với tất cả các nước trên mọi lĩnh vực.
Cuối năm 1989, Tổng thống Mỹ G.Bush và Gorbachop gặp nhau tại Malta.
Sau cuộc gặp gỡ này, tình trạng Chiến tranh Lạnh coi như chấm dứt. Tình hình
quốc tế có nhiều biến đổi sâu sắc và rộng khắp từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống
Nam trên mọi phương diện. Từ năm 1989, Mỹ đã đưa Hàn Quốc ra ngoài các đối
tượng được hưởng chế độ ưu đãi chính, nên khả năng xuất khẩu của Hàn Quốc
sang các thị trường truyền thống này giảm xuống và xuất khẩu của Hàn Quốc sang
thị trường các nước Đông Nam Á có xu hướng tăng lên. Mặt khác, cũng từ đầu
những năm 1990, để thực hiện chiến lược “toàn cầu hóa”, Hàn Quốc đã triển khai

19


chính sách “hướng nam”, phát triển mạnh mẽ các quan hệ hợp tác kinh tế với các
nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Về đối ngoại, Hàn Quốc đã đề ra chính sách ngoại giao mới, phù hợp với
tình hình phát triển của quốc tế và khu vực, chính sách ngoại giao mới của Hàn

Quốc đề ra đã mềm dẻo và linh hoạt hơn nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề
an ninh và kinh tế đất nước, tạo cơ sở cho việc thống nhất hai miền Triều Tiên.
Một trong những hướng mới trong chính sách ngoại giao của Hàn Quốc trong
thời kỳ ngay sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc là đa dạng hóa quan hệ. Trước
tiên, Chính phủ Roh Tae Woo (1988-1993) đề ra “Chính sách phương Bắc” chủ
trương “đi đường vòng” bằng cách cải thiện quan hệ với các nước bạn bè của
Cộng hòa nhân dân Triều Tiên. Việc theo đuổi mạnh mẽ quan hệ ngoại giao với
Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên của Hàn Quốc góp phần tăng cường
quan hệ của nước này với các nước xã hội chủ nghĩa. Hàn Quốc lần lượt thiết
lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô (30-9-1990), với Trung Quốc (24-8-1992)
và một số nước xã hội chủ nghĩa khác, để từng bước tạo lập mối quan hệ mới
với Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên nhằm tìm kiếm con đường thống
nhất hai nước trong hòa bình. Như vậy, từ chỗ phụ thuộc nhiều về kinh tế vào
Mỹ và Nhật Bản chuyển sang quan hệ đa phương với các nước có chế độ chính
trị khác nhau. Tháng 9 - 1991, Hàn Quốc và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên đồng thời gia nhập Liên hợp quốc, sự kiện này thể hiện sự thành công của
chính sách ngoại giao với phương Bắc. Ngoài ra, nền tảng cho sự tồn tại hòa
bình giữa hai miền Triều Tiên đã được đặt ra vào tháng 12 - 1991 khi cả hai bên
ký Hiệp định hòa giải, không xâm lược, trao đổi hợp tác (Hiệp định cơ bản Nam
- Bắc) và Tuyên bố chung về bán đảo Triều Tiên không có vũ khí hạt nhân.
Những văn kiện lịch sử này là nền tảng cho nền hòa bình trên bán đảo và khu
vực Đông Bắc Á, thể hiện bước đi đầu tiên quan trọng tiến tới hòa bình, thống
nhất trên bán đảo Triều Tiên.
20


Về mặt kinh tế, trước đây Hàn Quốc có quan hệ thương mại chủ yếu với các
nước tiên tiến như Mỹ, Nhật Bản và Liên minh châu Âu (EU). Điều này thường
gây ra sự mất cân đối trong cán cân thương mại. Vì vậy, Hàn Quốc thực thi “Chính
sách toàn cầu hóa và cải cách cơ cấu kinh tế”.

Tháng 4 - 1991, Hàn Quốc thành lập hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA)
thuộc Bộ Ngoại giao nhằm củng cố sự trợ giúp tới các nước đang phát triển. Cũng
trong năm 1991, Quỹ giao lưu quốc tế Hàn Quốc (Korea Foundation) được thành
lập nhằm phối hợp và hỗ trợ các chương trình trao đổi văn hóa quốc tế.
1.3.3.3. Những nội dung chủ yếu trong quan hệ Việt Nam- Hàn Quốc giai
đoạn 1975- 1992
Sau sự sụp đổ của Việt Nam cộng hòa, hai miền Nam - Bắc Việt Nam thống
nhất (30-4-1975) thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hàn Quốc
không thiết lập mối quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam thống nhất. Tuy quan
hệ Việt- Hàn bị gián đoạn nhưng từ năm 1975 đến năm 1992, giữa hai nước vẫn có
một số quan hệ không chính thức.
Về mặt kinh tế, trong giai đoạn 1975-1982, Hàn Quốc và Việt Nam có quan
hệ buôn bán tư nhân qua trung gian (Hồng Kông, Nhật Bản…). Từ năm 1983, hai
bên bắt đầu có quan hệ buôn bán trực tiếp và một số quan hệ phi chính phủ. Năm
1985, Công ty quốc doanh xuất nhập khẩu tổng hợp (The National Export- Import
Corporation) của miền Trung Việt Nam lần đầu tiên được ra danh mục các mặt
hàng mà Việt Nam muốn xuất khẩu sang Hàn Quốc là nông sản phẩm (đậu nành,
đậu xanh, ngô…) và gỗ sơ chế. “Còn những mặt hàng mà Việt Nam muốn nhập
khẩu từ Hàn Quốc là: xe tải nhỏ, lốp, ruột xe, gia dụng…” [29, tr. 5-6]. Về hình
thức giao dịch, phía Việt Nam đề nghị áp dụng hình thức thương mại hoán vật
(hàng đổi hàng) và xuất khẩu trả dần đối với các mặt hàng nhập khẩu từ Hàn
Quốc. “Còn đối với các mặt hàng xuất khẩu thì vì thiếu đồng tiền mạnh nên Việt
Nam yêu cầu Hàn Quốc thanh toán bằng đồng Phrăng Thụy Sĩ, đồng Mác Đức và

21


đồng Đôla Hồng Kông” [21; tr 138]. Năm 1986, Hàn Quốc đã nhập khẩu từ Việt
Nam khoảng 20 triệu USD than đá và nông sản, còn Việt Nam nhập khẩu từ Hàn
Quốc khoảng 18 triệu USD các mặt hàng tivi đen trắng, thuốc sát trùng, phân

bón…” [18, tr. 138]. Cùng thời gian này, Công ty điện tử Samsung là công ty
Hàn Quốc đầu tiên xây dựng nhà máy tại Việt Nam để lắp ráp tivi trắng đen [17].
Năm 1988, Dong Yang Moolsan đã xuất khẩu máy cày, động cơ điezen trị giá
khoảng 600.000 USD và tiến hành xây dựng nhà máy tại Việt Nam để lắp ráp
những máy móc nông cơ.
“ Trong thập niên 1980, một mặt chính phủ Hàn Quốc quy định nghiêm cấm,
nhưng thực tế họ lại làm ngơ khi các doanh nghiệp xâm nhập thị trường Việt
Nam. Giới doanh nhân Hàn Quốc không bằng lòng với tình trạng “đi đêm” này.
Họ cũng bất mãn trước thái độ nước đôi của các nước ASEAN vừa phản đối việc
bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc lại mở rộng giao dịch với
Việt Nam” [25, tr. 5- 6]. Mặc dù vậy, Chính phủ Hàn Quốc không thể không để ý
đến mối quan hệ với các nước ASEAN, Trung Quốc và Mỹ. Việc giao thương
giữa doanh nhân hai nước vì thế gặp nhiều khó khăn và hạn chế.
Tháng 2 - 1989, nhận lời mời của Chủ tịch tập đoàn Hãng hàng không Korea
Cho Jung Hun, Cố vấn kinh tế của Chính phủ Việt Nam Nguyễn Xuân Oanh đã
sang thăm Seoul. Để đáp lại, tháng 3 - 1989, một phái đoàn kinh tế tư nhân Hàn
Quốc, trong đó có Chủ tịch Cho Jung Hun dự định sang thăm Việt Nam. Nhưng
chuyến viếng thăm này không được Chính phủ Hàn Quốc cho phép và bị hoãn lại
[18, tr. 140].
Tuy nhiên, năm 1988 Việt Nam đã gửi đoàn vận động viên sang Hàn Quốc
tham dự Đại hội thể thao châu Á (AISIAD). Cũng trong năm 1988, Chính phủ Hàn
Quốc cho phép doanh nhân của mình trực tiếp giao dịch với Việt Nam. Năm 1989,
Việt Nam lại tham gia Đại hội thể thao thế giới tổ chức tại Hàn Quốc. Từ năm
1991, Hàn Quốc và Việt Nam cũng bắt đầu bàn đến vấn đề bình thường hóa quan
hệ hai nước thông qua hai đại sứ tại Băng Cốc. Từ ngày 17 đến ngày 23-12-1991,
phái đoàn đàm phán thiết lập quan hệ của Hàn Quốc do Đại sứ Hàn Quốc tại Băng
22



×