Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng quỹ đất công ích của một số xã trên địa bàn huyện đức thọ, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.97 KB, 62 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý đất đai là một chủ trương lớn, có tầm chiến lược quan trọng của
mỗi quốc gia. Quản lý đất đai là cơ sở để hình thành một nền kinh tế quan trọng,
tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tạo việc làm, môi trường sống cho dân
cư đồng thời đảm bảo cho việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đô thị
và nông thôn theo đúng quy hoạch và pháp luật.
Đất công ích là một trong những nội dung về quản lý và sử dụng đất đai
trong hệ thống pháp luật đất đai Việt Nam. Đó là đất để xây dựng các công trình
công cộng phục vụ cho lợi ích chung của mọi người trong xã hội. Đất công ích
của xã trước hết phục vụ cho mọi người trong xã (phường, thị trấn). Bên cạnh đó
loại đất này còn được sử dụng để xây dựng các công trình công cộng, xây dựng
nhà tình nghĩa. Sau gần 20 năm thực hiện giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình,
cá nhân theo Nghị định 64/NĐ- CP của Chính phủ, chủ trương này đã góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết được mối quan hệ lợi ích giữa người sản
xuất nông nghiệp và Nhà nước, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống người
nông dân. Tuy nhiên, trên thực tế việc quản lý và sử dụng quỹ đất nông nghiệp
nhất là đất nông nghiệp công ích còn gặp nhiều khó khăn, bất cập.
Xã Tùng Ảnh và xã Đức Thanh là 2 xã đồng bằng thuộc huyện Đức Thọ,
tỉnh Hà Tĩnh, là địa bàn nằm gần trung tâm huyện lỵ, có nhiều điều kiện thuận
lợi cho hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và nâng cao thu nhập cho người
dân. Tuy nhiên, do đa số dân cư ở đây sống bằng nông nghiệp trong khi thu
nhập từ nông nghiệp không cao, từ đó gây áp lực lên việc sử dụng đất đai ngày
càng lớn.
Trong những năm qua, quỹ đất công ích trên địa bàn xã Tùng Ảnh và xã
Đức Thanh đã được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, công tác quản
lý quỹ đất nông nghiệp nói chung và quỹ đất công ích nói riêng vẫn còn nhiều
bất cập và vướng mắc cần được tháo gỡ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử
dụng đất công ích trên toàn huyện Đức Thọ nói chung và 2 xã nói riêng.
Xuất phát từ thực tế đó, được sự đồng ý của khoa Tài nguyên đất và Môi


trường nông nghiệp, cùng sự giúp đỡ và hướng dẫn của Thạc sĩ Trần Trọng Tấn,
tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng
quỹ đất công ích của một số xã trên địa bàn huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh”.
1


1.2. Mục đích của đề tài
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng quỹ đất công ích nhằm
xác định những mặt tích cực, tiêu cực, hạn chế trong việc thực hiện chính sách
pháp luật của Nhà nước đối với đất công ích trên địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất giải pháp, các khuyến nghị phù hợp phục vụ cho việc hoàn thiện
chính sách pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng quỹ đất công ích.
1.3. Yêu cầu, nhiệm vụ
- Nắm được Luật Đất đai 2013 các văn bản dưới Luật liên quan đến công
tác quản lý Nhà nước về đất đai.
- Nắm vững quỹ đất nông nghiệp và quỹ đất công ích trên địa bàn huyện
Đức Thọ.
- Đánh giá đúng công tác quản lý và sử dụng quỹ đất công ích trên địa bàn
huyện Đức Thọ để đưa ra các biện pháp phù hợp trong công tác quản lý và sử
dụng.
- Thu thập các tài liệu, số liệu đầy đủ, đảm bảo độ tin cậy.

2


PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về đất đai
2.1.1. Khái niệm chung về đất đai
Đất đai là một phần diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm các yếu tố

cấu thành môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đất như khí hậu, thổ
nhưỡng, dạng địa hình, địa mạo, nước mặt (hồ, sông, suối, đầm lầy…), các lớp
trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm, tập đoàn động thực vật, trạng thái định
cư của con người, những kết quả hoạt động của con người trong quá khứ và hiện
tại để lại (san nền, xây dựng hồ chứa nước, hệ thống tiêu thoát nước, đường xá,
nhà cửa…vv) [2].
2.1.2. Quản lý và quản lý Nhà nước về đất đai
Hiện nay, có nhiều cách giải thích thuật ngữ quản lý, có quan niệm cho
rằng quản lý là cai trị; cũng có quan niệm cho rằng quản lý là điều hành, điều
khiển, chỉ huy[6]. Quan niệm chung nhất về quản lý được nhiều người chấp
nhận do điều khiển học đưa ra như sau: Quản lý là sự tác động định hướng bất kỳ
lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với
những quy luật nhất định [4].
Từ khái niệm trên ta tìm hiểu đến khái niệm cụ thể hơn là quản lý Nhà
nước hay quản lý hành chính Nhà nước. Quản lý Nhà nước là dạng quản lý xã
hội mang tính quyền lực Nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều
chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi con người. Quản lý hành chính Nhà nước là
hoạt động hành chính của các cơ quan thực thi quyền lực Nhà nước để quản lý,
điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu quản lý Nhà nước về đất đai là một dạng quản lý cụ
thể của quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực của xã hội là đất đai, là nghiên cứu
toàn bộ những đặc trưng có thể của đất đai nhằm nắm chắc về số lượng, chất
lượng từng loại đất của từng vùng, từng địa phương theo đơn vị hành chính ở
mỗi cấp. Từ đó, thống nhất về quy hoạch, kế hoạch sử dụng khai thác có hiệu
quả nguồn tài nguyên đất đai trong cả nước từ trung ương đến cơ sở thành một
hệ thống quản lý đồng bộ, thống nhất, tránh tình trạng phân tán đất, sử dụng đất
không đúng mục đích hoặc bỏ hoang, bỏ hoang hoá làm cho đất xấu đi.
Đối tượng quản lý Nhà nước về đất đai là vốn đất của Nhà nước, đó là toàn
bộ đất đai trong phạm vi ranh giới quốc gia từ biên giới đến hải đảo, vùng trời,
vùng biển, đến từng chủ sử dụng.

3


Quản lý Nhà nước về đất đai phải đảm bảo 4 mục đích sau:
- Bảo vệ quyền sở hữu của Nhà nước đối với đất đai, bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của người sử dụng.
- Bảo đảm sử dụng hợp lý vốn đất của Nhà nước.
- Tăng cường hiệu quả kinh tế sử dụng đất.
- Bảo vệ đất, cải tạo đất và bảo vệ môi trường sống.
Yêu cầu quản lý Nhà nước về đất đai:
- Phải đăng ký thống kê đất đai để Nhà nước nắm chắc được toàn bộ diện
tích, chất lượng đất đai ở mỗi đơn vị hành chính từ cơ sở đến trung ương.
2.1.2.1. Nguyên tắc quản lý Nhà nước về đất đai
Quản lý Nhà nước về đất đai phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Quản lý toàn bộ vốn đất của quốc gia, không quản lý lẻ tẻ từng vùng.
- Số liệu quản lý phải bao hàm cả số lượng, chất lượng, loại, hạng phục vụ
cho mục đích sử dụng nào đó.
- Những quy định, những biểu mẫu phải thống nhất trên toàn quốc và trong
ngành địa chính.
- Quản lý một cách hệ thống và phương pháp phải thống nhất trên toàn quốc.
- Số liệu so sánh không chỉ theo từng đơn vị nhỏ mà phải thống nhất so
sánh trong cả nước.
- Tài liệu trong quản lý phải đơn giản và phổ thông; phải phản ánh được
điều kiện riêng biệt của từng vùng địa phương.
- Quản lý Nhà nước trên cơ sở pháp luật, Luật Đất đai và các văn bản,
biểu mẫu quy định, hướng dẫn của Nhà nước và các cơ quan chuyên môn từ
trung ương đến cơ sở.
- Quản lý đất đai phải khách quan, chính xác, đúng với số liệu nhận được
và đúng mục đích; tài liệu trong quản lý phải đảm bảo tính pháp luật, phải đầy
đủ, đúng thực tế.

- Quản lý đất đai tuân theo nguyên tắc tiết kiệm và mang lại hiệu quả
kinh tế cao.

4


2.1.2.2. Nội dung quản lý Nhà nước về đất đai
Tại Điều 22 Luật Đất đai năm 2013 quy định việc quản lý Nhà nước về đất
đai bao gồm 15 nội dung, đó là:
- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và
tổ chức thực hiện các văn bản đó.
- Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính,
lập bản đồ hành chính.
- Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và
bản đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra đánh giá tài nguyên đất, điều tra xây
dựng giá đất.
- Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
- Quản lý việc giao đất cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng
đất.
- Quản lý về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi bị thu hồi đất.
- Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Thống kê kiểm kê đất đai.
- Xây dựng hệ thống thông tin đất đai.
- Quản lý tài chính về đất đai.
- Quản lý,giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất.
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về đất đai
và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
- Phổ biến, giáo dục phát luật về đất đai.

- Giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm
trong quản lý và sử dụng đất đai.
- Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất đai.

5


2.2 Tổng quan chính sách quản lý, sử dụng đất nông nghiệp, quỹ đất công
và đất công ích qua các thời kỳ
2.2.1. Đất phần trăm - Đất công ích - Đất do Ủy ban nhân dân xã quản lý
2.2.1.1. Đất phần trăm
Cuối những năm 60, sau khi hình thành các hợp tác nông nghiệp, ngày
17/12/1959, Điều lệ mẫu hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp được ban hành quy định
ruộng đất của xã viên phải giao cho hợp tác xã thống nhất sử dụng, nhưng để tăng
nguồn nông sản ổn định kinh tế của mỗi hội gia đình, ngoài đất làm nền nhà, sân,
chuồng lợn... cần để lại cho mỗi gia đình xã viên một ít đất theo mức mỗi nhân khẩu
không quá 5% diện tích bình quân của nhân khẩu trong xã để trồng rau, trồng hoa
quả... Cụm từ "đất phần trăm" còn gọi là đất làm kinh tế gia đình xuất hiện từ đó.
Đây là yêu cầu thực tế, tất yếu khách quan phù hợp với mối tương quan giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp lúc đó. Sau khi
có Luật Đất đai 1988, đất làm kinh tế gia đình được quy định để lại mỗi người không
quá 10% đất nông nghiệp (Khoản 1 - Điều 27).
Đất phần trăm ( đất làm kinh tế gia đình ) tồn tại từ khi có điều lệ hợp tác
xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp ( năm 1959) cho đến khi Chính phủ ban hành
Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 quy định về giao đất nông nghiệp cho hộ
gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp.
Theo Nghị định 64, toàn bộ đất nông nghiệp đang sử dụng được giao hết cho hộ
gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp, trừ đất giao cho các tổ chức, đất dùng
cho nhu cầu công ích của xã theo quy định của Nghị định này.
2.2.1.2. Đất công ích

Ở nước ta, từ xưa tới nay có 2 loại đất được mang tên: "đất công làng xã"
và "đất công ích của xã", 2 loại đất này tuy rất khác nhau về mục đích sử dụng
nhưng đều có chung một đặc điểm là nó được gắn với địa bàn cơ sở.
* Đất công làng xã: Đất công làng xã có từ thời phong kiến, đất này được áp
dụng một chế độ thuế nặng hơn đất của tư nhân. Nó được chia cấp cho những
người trong làng xã đó sử dụng theo quy định của Nhà nước trên nguyên tắc
"ruộng làng nào dân làng đó hưởng". Ruộng công làng xã được hình thành từ thời
Lý - Trần (1010 - 1400) và nó tồn tại cho đến năm 1953 và bị xoá bỏ khi có Luật
Cải cách ruộng đất ban hành ngày 04/2/1953. Luật này quy định trưng thu công
điền, công thổ, ruộng xóm, ruộng tư văn, tư vũ, lộc điền..., ruộng của các tôn
giáo sung vào công quỹ để chia cấp cho nông dân.
6


* Đất công ích: Quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của
xã, phường, thị trấn được sử dụng để xây dựng hoặc bồi thường khi sử dụng đất
khác để xây dựng các công trình công cộng của địa phương; cho hộ gia đình, cá
nhân tại địa phương thuê để sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và được
sử dụng vào các mục đích khác theo quy định của Chính phủ. Đất công ích của
xã thì trước hết phục vụ cho mọi người trong xã (phường, thị trấn). Nhà nước
quy định cụ thể về đất công ích tại Điều 45 - Luật Đất đai 1993, Điều 14 -Nghị
định 64 ngày 27/9/1993, Điều 132 Luật Đất đai 2013 đã cụ thể hoá chính sách
quản lý, sử dụng đất công ích như: Căn cứ vào quỹ đất, đặc điểm và nhu cầu của
địa phương, mỗi xã, phường, thị trấn được lập quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào
mục đích công ích không quá 5% tổng diện tích đất trồng cây hàng năm, đất
trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản để phục vụ cho các nhu cầu công ích
của địa phương. Đất nông nghiệp do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trả lại hoặc tặng
cho quyền sử dụng cho Nhà nước, đất khai hoang, đất nông nghiệp thu hồi là
nguồn để hình thành hoặc bổ sung cho quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích
công ích của xã, phường, thị trấn. Đối với những nơi đã để lại quỹ đất nông

nghiệp sử dụng vào mục đích công ích vượt quá 5% thì diện tích ngoài mức 5%
được sử dụng để xây dựng hoặc bồi thường khi sử dụng đất khác để xây dựng
các công trình công cộng của địa phương; giao cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp
sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản tại địa phương chưa được giao đất
hoặc thiếu đất sản xuất.
Xét về đặc điểm của các loại đất có chung mục đích sử dụng cho nhu cầu
công cộng, công ích trước đây và hiện nay thì đất 5% và đất công ích có những
điểm giống và khác nhau như sau: Đất làm kinh tế phụ gia đình và đất công ích
được pháp luật quy định chung một tỷ lệ là 5% - Nguồn của đất 5% và đất công
ích đều được trích từ quỹ đất nông nghiệp của cấp xã ở các địa phương - Đều
giao cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng. Có thể nhận thấy rõ sự khác nhau giữa 2
cụm từ “đất 5% làm kinh tế phụ gia đình” và “đất công ích” về mục đích sử dụng.
2.2.1.3. Đất công
Quỹ đất được gọi là đất công do Uỷ ban nhân dân xã, phường và thị trấn
quản lý hiện nay khác với loại đất công làng xã trước đây, nếu như thời kỳ phong
kiến, đất công làng xã được chia cấp cho những người trong làng xã đó sử dụng
theo quy định của Nhà nước thì đất công hiện nay là loại đất được Nhà nước giao
cho chính quyền cấp xã quản lý, sử dụng. Luật Đất đai 2013 được ban hành, loại
đất công do cấp xã quản lý được đưa vào nhóm đất phi nông nghiệp nhưng không
thành loại đất riêng mà được hàm chứa trong các loại đất (ngoài các công trình
7


công cộng khác theo quy định của Chính phủ) như: Đất xây dựng trụ sở cơ quan,
xây dựng công trình sự nghiệp (Điểm b - Khoản 2 - Điều 10); đất xây dựng công
trình sự nghiệp bao gồm đất xây dựng trụ sở của tổ chức sự nghiệp; đất xây dựng
cơ sở văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục đào tạo, thể dục thể thao, khoa học và công
nghệ, ngoại giao và công trình sự nghiệp khác (Điểm d – Khoản 2 – Điều 10)...
2.2.2. Tổng quan chính sách quản lý, sử dụng đất nông nghiệp, đất công ích
2.2.2.1. Thời kỳ phong kiến

a. Chính sách ruộng đất của Nhà nước phong kiến từ cuối thế kỷ 9 đến
thế kỷ 14
Quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã nhận định: Quan niệm sở hữu
công cộng về đất đai xuất phát từ quan niệm chung của thời đại nguyên thuỷ và
nó được chuyển thành sở hữu làng xã từ khi làng xã hình thành, ruộng đất thuộc
sở hữu công được gọi là công điền, công thổ hay quan điền, quan điền bản xã…
b. Chính sách ruộng đất của Nhà nước dưới triều Lê - Sơ từ thế kỷ 15
đến thế kỷ 17
Dưới triều đại Lê - Sơ, Bộ luật Hồng Đức ra đời đã phân định rõ tính chất
giai cấp và quyền lực của Nhà nước trong xã hội, nhiều điều luật quy định chi
tiết quyền sở hữu ruộng đất, nguyên tắc mua bán, cầm cố ruộng đất [1].
c. Chính sách ruộng đất từ thế kỷ 18 đến nửa trước thế kỷ 20
Giai đoạn này, sở hữu đất đai tồn tại chủ yếu dưới 2 hình thức chính là sở
hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân, chính sách sở hữu Nhà nước được duy trì theo
các triều đại trước; sang thế kỷ 18, ruộng đất tập trung hầu hết vào giai cấp địa
chủ - Năm 1815, Nguyễn Ánh lên ngôi, Bộ luật Gia Long ra đời thể hiện ý đồ bảo
vệ tuyệt đối ruộng đất của nhà Vua và tầng lớp quan lại [1].
Nhận xét:
- Nền kinh tế chủ đạo thời kỳ phong kiến là sản xuất nông nghiệp và sự tồn
tại của nó chủ yếu dựa vào nguồn thu từ thuế nông nghiệp. Vì thế các vương
triều khác nhau đều lấy chính sách ruộng đất và thuế điền thổ làm Quốc sách.
- Nhà nước phong kiến Việt Nam ở các triều đại khác nhau đều có chính
sách thân dân và khuyến khích sản xuất nông nghiệp.
- Đất công làng xã xuất hiện từ thời phong kiến, đất này được áp dụng một
chế độ thuế nặng hơn đất của tư nhân.

8


- Mặc dù, vai trò của loại ruộng đất công trong xã hội đương thời không

lớn nhưng nó thể hiện một cách rõ nét tính cộng đồng làng xã của ông cha ta đã
có từ ngàn xưa và các chính sách điền địa thời bấy giờ.
- Ruộng công làng xã được hình thành từ thời Lý - Trần (1010 - 1400), ở
mỗi giai đoạn, loại ruộng đất này khi còn, khi mất tuỳ thuộc vào chính sách của
các triều đại Vua chúa nhưng nó luôn được lịch sử tôn trọng và chấp nhận, vì thế
nó tồn tại cho đến 1953 [1].
2.2.2.2. Thời kỳ Pháp thuộc
Cuối thế kỷ 19, với hoà ước Patơnốt (06/06/1884), Nhà Nguyễn bán rẻ
nước ta, công nhận cho Pháp quyền sở hữu ruộng đất ở Việt Nam. Để quản
ruộng đất chặt chẽ, Pháp chia nước ta thành 3 kỳ gồm Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam
kỳ. Giai đoạn này tuy công điền của các làng xã chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ nhưng có
vai trò quan trọng đối với các địa phương. Chính sách khai thác và sử dụng đất của
thực dân Pháp ở nước ta thời kỳ này chủ yếu là bóc lột về kinh tế nhằm đáp ứng
yêu cầu lợi nhuận cho bọn tư bản thực dân và địa chủ bản xứ.
2.2.2.3. Thời kỳ Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
a. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng 8/1945 đến năm 1954
Thời kỳ này Đảng và Nhà nước chủ trương thúc đẩy sản xuất, phát triển
nông nghiệp, cải thiện đời sống cho nhân dân mà trước hết là nông dân. Chủ
trương này thể hiện qua các nội dung:
- Khai hoang vỡ hoá, tận dụng diện tích đất đai để sản xuất nhằm chấn
hưng nông nghiệp và đưa ruộng đất vắng chủ vào sản xuất nông nghiệp.
- Chính sách ruộng đất chuyên chính mạnh mẽ với thực dân Pháp và bọn bù
nhìn, việt gian phản bội Tổ quốc dành lại ruộng đất cho nông dân để phát triển
sản xuất nông nghiệp.
- Hạn chế sự bóc lột và chiếm hữu ruộng đất đi đến xoá bỏ toàn bộ việc chiếm
hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến đem lại ruộng đất cho dân cày.
- Chiếm hữu ruộng đất phải gắn liền với việc sử dụng ruộng đất
Chính sách nông nghiệp và ruộng đất có quan hệ chặt chẽ với nhau, thực chất
nó là hai mặt của một vấn đề là tạo động lực cho cách mạng trên các phương

diện chính trị, kinh tế, xã hội, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành cuộc
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Việc ban hành những chính sách về đất
9


đai, thuế, tài chính tiền tệ giai đoạn này đã có tác dụng tích cực kích thích sản
xuất phát triển, tạo nguồn thu ngân sách của Nhà nước hàng năm.
b) Giai đoạn từ 1954 đến 1975
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ 5/1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết, nước ta bị
chia cắt làm 2 miền, miền Bắc tiến hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội, miền Nam
tiếp tục công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Hiến pháp 1960 quy
định sự tồn tại của các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu chủ yếu là: Sở
hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của những người lao động riêng lẻ và tư
sản dân tộc. Chính sách đất đai giai đoạn này nhằm phục vụ cho những nhiệm vụ
thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội [1], thể hiện qua các nhiệm vụ sau:
- Xác lập, củng cố và phát triển hình thức sở hữu Nhà nước về đất đai.
- Xác lập chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất gắn liền với tổ chức lao động
tập thể trong các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp ở miền Bắc.
- Đất 5% cho phát triển kinh tế phụ gia đình.
Cuối những năm 1960, theo Điều lệ, ngoài một số loại đất đã được giao,
Nhà nước cho mỗi gia đình xã viên mỗi nhân khẩu không quá 5% diện tích đất
bình quân để xã viên trồng rau màu, trồng vườn, đối với miền núi, đất để lại cho
xã viên có thể nhiều hơn. Cụm từ "đất phần trăm" còn gọi là đất làm kinh tế phụ
gia đình xuất hiện từ giai đoạn này.
- Đất cho phần trăm phát triển chăn nuôi của hợp tác xã.
Ngày 19/05/1978 Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư 291/TTg quy định
mỗi hợp tác xã sản xuất nông nghiệp được dành từ 10 - 15% đất nông nghiệp để
trồng trọt hoa màu, các loại cây lương thực phục vụ cho việc chế biến sản xuất thức
ăn phát triển chăn nuôi của hợp tác xã (chủ yếu là chăn nuôi tập thể), đây là cơ sở
để phân biệt sự khác nhau về tính chất và mục đích sử dụng của đất 10 - 15 %

với đất 5% dành cho xã viên hợp tác xã làm kinh tế phụ gia đình.
c) Giai đoạn từ năm 1975 đến 1992
Sau giải phóng miền Nam ( năm 1975), Đảng và Nhà nước đưa ra một số
chủ trương chính sách quản lý, sử dụng đất đai và chính sách nông nghiệp
như sau:
- Xoá bỏ bóc lột ruộng đất và cải tạo nông nghiệp.
Triệt để xoá bỏ tàn dư bóc lột của giai cấp địa chủ, phong kiến, phản động,
nợ máu; thực hiện chia đất cho các hộ nông dân không có ruộng hoặc thiếu
10


ruộng, điều chỉnh ruộng đất trong nội bộ nông dân theo tinh thần Chỉ thị 57 của
Bộ Chính trị ( tháng 01/1978) gắn với cải tạo nông nghiệp theo hình thức tập thể
hoá. Do sản xuất nông nghiệp giai đoạn này bị suy thoái, tình trạng tập thể quản
lý và sử dụng 95% diện tích ruộng đất nhưng chỉ đáp ứng được dưới 50% thu
nhập của các hộ xã viên, còn trên 50% thu nhập của họ phải dựa vào mảnh đất
làm kinh tế phụ gia đình, vì vậy mảnh đất 5% trở thành "mảnh đất thần kỳ" đối với
các hộ nông dân. Như vậy, trong những thời điểm nhất định, mặc dù đất 5% được
coi là diện tích đất để làm kinh tế phụ nhưng nó đã khẳng định được vai trò, ý
nghĩa của nó đối với cuộc sống của người nông dân.
- Đổi mới quan hệ sở hữu đất đai: Hiến pháp 1980 quy định đất đai thuộc
sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, Luật Đất đai 1988 được Quốc
hội thông qua ngày 29/12/1987 quy định chính sách đất đai, phân đất đai thành 5
loại, giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài trong
đó có đề cập đến đất làm kinh tế gia đình. Điều 27 - Luật Đất đai 1988 phân cấp
cho Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và quy định cụ
thể hạn mức giao đất 10% cho các vùng, miền trong cả nước.
- Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng: Do chủ trương tập thể hoá
triệt để ruộng đất, giai đoạn này sản xuất nông nghiệp lâm vào tình trạng khủng
hoảng, hình thức "khoán chui" xuất hiện phổ biến, là sự bắt đầu đổ vỡ có tính

quy luật khi mô hình sản xuất tập thể hoá không còn phù hợp. Ngày 13/01/1981,
Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm đến
nhóm và người lao động (khoán 100) trao quyền làm chủ một số khâu trong quy
trình sản xuất nông nghiệp gắn với sản phẩm cuối cùng, kết quả đạt được là từng
bước xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp trong nông nghiệp, sản lượng lương thực
tăng, đời sống kinh tế của người nông dân được cải thiện.
- Đổi mới chính sách ruộng đất: Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đánh dấu
bước chuyển trong chính sách đất đai, chấn chỉnh tổ chức và đổi mới hợp tác xã,
thực hiện giao khoán ruộng đất sử dụng ổn định, lâu dài trong thời gian từ 10 15 năm, xoá bỏ hạch toán và phân phối theo công điểm, người nông dân chỉ phải
nộp thuế cho Nhà nước. Đây cũng là tiền đề, cơ sở cho việc ban hành Luật Đất
đai 1993.
d) Giai đoạn từ khi có Luật Đất đai 1993, Luật Đất đai 2003 đến nay
Luật Đất đai 1993 được ban hành với những chính sách đổi mới quan trọng
nhằm đáp ứng mục tiêu cơ bản của Nhà nước có quy định cụ thể về quỹ đất
công ích tại điều 45 để xây dựng hoặc bù lại đất xây dựng các công trình công
11


cộng phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng trong xã, phường, thị trấn, quỹ
đất này được tách riêng trong diện tích đất do Uỷ ban nhân dân xã quản lý. Cụ
thể hoá điều 45 - Luật Đất đai 1993, điều 14 - Nghị định 64 ngày 27/9/1993 của
Chính phủ quy định tỷ lệ đất công ích được giữ lại từ đất nông nghiệp và đất
khác; cấp có thẩm quyền quyết định để lại diện tích đất công ích; xử lý diện tích
đất công ích để vượt quá quy định. Nghị định 85 đã quy định và sửa đổi Điều 15
- Nghị định 64 một số nội dung như phân cấp. Luật Đất đai 2013 ban hành, chế
độ quản lý, sử dụng quỹ đất công ích được quy định tại điều 132 - Luật Đất đai
2013 và Nghị định 43/2014/NĐ - CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ về thi
hành Luật Đất đai 2013.
2.2.3. Cơ chế quản lý, sử dụng đất công ích
Hiện nay, trên thực tế đang tồn tại 2 quan điểm về quỹ đất công ích cho

rằng để lại 5% quỹ đất công ích là phù hợp, quan điểm khác cho rằng chỉ nên để
lại 2 - 3% nhằm tiết kiệm đất nông nghiệp. Thực tế, cơ chế quản lý đất công ích
là cơ chế "lưỡng tính".
2.3. Cơ sở thực tiễn về quản lý và sử dụng đất
* Khái quát tình hình quản lý và sử dụng đất ở Việt Nam
Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013 và có
hiệu lực thi hành ngày 01/07/2014. Nghị định số 43 và các văn bản dưới luật là
cơ sở pháp lý quan trọng thể hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta,
đã thu hút sự quan tâm sâu sắc của các tầng lớp nhân dân và được các ngành,
các cấp tích cực tổ chức thực hiện. Việc tổ chức thực hiện các nội dung quản lý
Nhà nước về đất đai đã góp phần làm cho xã hội phát triển một cách ổn định
hơn, tạo môi trường thông thoáng cho các nhà đầu tư, làm cho kinh tế phát triển
mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, trước sự phát triển của xã hội, mà tâm điểm là quá
trình đô thị hóa đang diễn ra từng ngày từng giờ cũng đã gây rất nhiều khó khăn
cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai, gây ra nhiều mâu thuẫn và bất cập
trong quản lý.
Trong những năm qua, hoạt động quản lý Nhà nước về đất đai đã đạt được
những thành tựu sau:
- Đại bộ phận đất nông nghiệp đã được giao đến cho từng hộ nông dân cụ
thể, việc xác định các nông hộ là từng đơn vị kinh tế cụ thể đã góp phần giải
quyết được các mâu thuẫn trong mối quan hệ đất đai với phát triển kinh tế - xã
hội trong thời đại mới, góp phần làm giảm các tiêu cực trong xã hội, tạo điều
kiện để nền kinh tế phát triển mạnh mẽ hơn.
12


- Tại nhiều địa phương trên cả nước đã tích cực thực hiện dồn điền đổi
thửa, từ đó khắc phục tình trạng đất đai manh mún nhằm chuyển hướng nền kinh
tế theo hướng sản xuất hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ
trọng nông lâm ngư nghiệp và tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nhằm

đưa Việt Nam cơ bản là nước công nghiệp vào năm 2020.
- Việc ban hành và thực hiện nhiều văn bản thi hành Luật Đất đai đang
từng bước làm cho đất đai, nhà ở tiếp cận với thị trường bất động sản, tăng
nguồn thu từ đất, góp phần tăng năng lực đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng.
- Kết quả của việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã bước đầu xác lập
được một số cơ chế điều tiết việc phân bố đất đai vào mục đích sử dụng theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng cơ sở hạ tầng ở đô thị
theo hướng hiện đại và bảo vệ cảnh quan, môi trường.
- Ngành địa chính đã được tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng, được
hình thành đồng bộ từ trung ương đến cơ sở. Công nghệ về quản lý đất đai, đo
đạc bản đồ đã được đầu tư đáng kể, tiếp cận với công nghệ hiện đại tiên tiến trên
thế giới.
Mặc dù vậy, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, quản
lý Nhà nước về đất đai còn bộc lộ một số hạn chế và những vấn đề mới nảy
sinh như sau:
- Việc quản lý tổ chức thị trường đất đai vẫn còn lỏng lẽo, vừa bị chồng
chéo về chức năng, nhiệm vụ thiếu sự quản lý, thống nhất. Vấn đề mua bán nhà
đất trong thị trường ngầm sang tay, nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước gây
thất thoát ngân sách trong các nguồn thu từ đất đai.
- Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn chậm và triển khai chưa
được nhiều. Tuy đã ban hành quy trình cấp giấy mới cũng như thay đổi loại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng công tác cấp giấy vẫn còn khá nhiều phức
tạp còn chưa giải quyết được.
- Công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đã được chú trọng, tuy nhiên
đa số các địa phương chưa có sự gắn kết giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
với quy hoạch xây dựng đô thị. Việc công khai quy hoạch, kế hoạch dụng đất đã
được phê duyệt còn chậm và mang tính hình thức.
- Nhiều vi phạm trong quá trình quản lý và sử dụng đất chưa được phát
hiện và xử lý kịp thời hoặc phát hiện nhưng chưa xử lý kịp thời. Việc chuyển

dịch đất đai không đúng pháp luật lại được hợp thức hoá. Hiện tượng người
13


không được giao quyền sử dụng đất cũng bán đất đang xảy ra.
Thực tế hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần đổi mới chính sách,
pháp luật đất đai cho phù hợp với yêu cầu của phát triển kinh tế. Đặc biệt, Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XI) “Về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp
luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại” đã thể hiện những bước tiến quan trọng trong đổi mới nhận thức, phát triển
tư duy và thể chế hóa thành hành động thực tiễn của Đảng và Nhà nước đối với
sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai theo hướng từng bước phù hợp với kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế [4].
2.4. Căn cứ pháp lý để đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất
Đối với công tác quản lý Nhà nước về đất đai, luật pháp là công cụ quản lý
không thể thiếu được. Hệ thống luật pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến lĩnh vực quản lý đất đai có
rất nhiều loại khác nhau như Hiến pháp, Luật về đất đai, Pháp lệnh về đất đai,
các Nghị định, Thông tư, Chỉ thị của Nhà nước Trung ương và của các chính
quyền địa phương, của các bộ ngành có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến
đất đai. Một số hệ thống văn bản thống nhất sẽ đảm bảo trật tự, kỷ cương trong
quản lý và sử dụng đất.
Một số văn bản có liên quan đến đất gồm:
- Hiến pháp năm 1992.
- Luật Đất đai 1993.
- Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Đất đai 1998.
- Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật Đất đai 2001.
- Luật Đất đai năm 2003.
- Luật Đất đai năm 2013

- Nghị định 43/2014/NĐ - CP của Chính phủ ra ngày 15/05/2014 hướng
dẫn thi hành Luật Đất đai.
- Nghị định 44/2014/NĐ - CP của Chính phủ ra ngày 01/07/2014 quy định
về giá đất.
- Nghị định 182/2004/NĐ - CP của Chính phủ ra ngày 29/10/2004 về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
14


- Nghị định 47/2014/NĐ - CP của Chính phủ ra ngày 01/07/2014 quy định
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
- Nghị định 46/2014/NĐ - CP của Chính phủ ra ngày 01/07/2014 về thu
tiền thuê đất, thuê mặt nước.
- Nghị định 45/2014/NĐ - CP của Chính phủ ra ngày 01/07/2014 về thu
tiền sử dụng đất.
- Thông tư 23/2014/TT – BTNMT ngày 05/07/2014 của Bộ Tài nguyên và
môi trường về Giấy chính nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữa nhà và tài sản
khác gắn liền trên đất.
- Thông tư 24/2014/TT – BTNMT ngày 05/07/2014 của Bộ Tài nguyên và
môi trường về hồ sơ địa chính.
- Thông tư 25/2014/TT – BTNMT ngày 05/07/2014 của Bộ Tài nguyên và
môi trường về bản đồ địa chính.
- Chỉ thị số 05/2006/CT-TTg ra ngày 22/02/2006 của Thủ tường Chính phủ
về khắc phục yếu kém, sai phạm tiếp tục đẩy mạnh tổ chức thi hành Luật Đất
đai.
-Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính.

15



PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Toàn bộ quỹ đất công ích của 2 xã: Tùng Ảnh, Đức Thanh thuộc
huyện Đức Thọ.
- Các văn bản pháp luật, tài liệu liên quan đến công tác quản lý đất đai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: xã Tùng Ảnh và xã Đức Thanh, huyện Đức Thọ.
- Phạm vi thời gian: Đề tài được thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày
05 tháng 01 năm 2015 đến ngày 08 tháng 05 năm 2015.
- Phạm vi thời gian thu thập số liệu: từ năm 2010 đến năm 2014.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội xã Tùng Ảnh, xã Đức
Thanh.
- Hiện trạng sử dụng đất năm 2014 trên địa bàn 2 xã Tùng Ảnh và Đức
Thanh.
- Khái quát tình hình quản lý và sử dụng đất trên địa bàn xã Tùng Ảnh,
xã Đức Thanh.
- Quỹ đất công ích trên địa bàn nghiên cứu.
- Đánh giá thực trạng sử dụng đất công ích trên địa bàn 2 xã: Tùng Ảnh,
Đức Thanh.
- Thực trạng quản lý đất công ích tại 2 xã Tùng Ảnh và Đức Thanh.
- Các giải pháp nâng cao năng lực quản lý Nhà nước và hiệu quả sử
dụng quỹ đất công ích tại địa bàn 2 xã Tùng Ảnh và Đức Thanh.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp điều tra, thu thập số liệu
Việc thu thập tài liệu thông tin bao gồm việc sưu tầm và thu thập những tài
liệu, số liệu liên quan đã được công bố và những tài liệu, số liệu mới tại địa bàn

nghiên cứu.
16


a. Tài liệu thứ cấp
- Các sách, báo, tạp chí, các kết quả nghiên cứu đã được công bố của các cơ
quan nghiên cứu, của các nhà khoa học trong và ngoài nước, các tài liệu trên
internet…
- Điều tra, thu thập số liệu, tài liệu thứ cấp về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, tình hình quản lý Nhà nước về đất công ích, hiện trạng sử dụng đất công
ích trên địa bàn xã Tùng Ảnh và xã Đức Thanh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
b. Tài liệu sơ cấp
- Tài liệu sơ cấp là những số liệu phục vụ cho nội dung nghiên cứu đề tài,
số liệu này có được từ việc áp dụng phương pháp điều tra, phỏng vấn người sử
dụng đất công ích qua bảng hỏi, phiếu điều tra.
- Tiến hành phỏng vấn 30 hộ gia đình, cá nhân và cán bộ địa chính
cấp xã.
+ Mỗi xã phỏng vấn 15 hộ gia đình, được chọn theo danh sách các hộ
đấu thầu đất của xã.
3.4.2. Phương pháp xử lý, phân tích, tổng hợp số liệu
Dựa trên những số liệu, tài liệu thu thập được để từ đó xử lý, phân tích, sử
dụng phần mềm Excel tổng hợp nhằm đưa ra các thông tin như các bảng biểu, sơ
đồ, biểu đồ,… để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
3.4.3.Phương pháp so sánh, đánh giá, đề xuất giải pháp
Từ những số liệu đã được xử lý, phân tích tiến hành so sánh giữa 2 xã để
tìm điểm giống và khác nhau trong công tác quản lý, sử dụng đất đai. Đánh giá
sự khác nhau, đồng thời đánh giá những điểm riêng nổi bật của từng xã trong
quá trình quản lý đất đai từ đó rút ra những đề xuất giải pháp.
3.4.4.Phương pháp tham vấn người am hiểu chuyên môn.
`Thu thập, xử lý những đánh giá, dự báo bằng cách tập hợp và hỏi ý kiến
của người có chuyên môn, bao gồm cán bộ địa chính các cấp, chủ nhiệm hợp

tác xã.
Cán bộ địa chính các cấp là người thấy rõ nhất những mâu thuẫn và những
vấn đề tồn tại trong quản lý, am hiểu tình hình địa phương nên luôn có các kiến
nghị giải trên những hiểu biết sâu sắc đó.
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên
17


4.1.1. Vị trí địa lý
a. Xã Tùng Ảnh
Xã Tùng Ảnh nằm về phía Tây Bắc của huyện Đức Thọ, giáp với thị trấn
Đức Thọ và có toạ độ địa lý như sau:
- Từ 105o32’08’’ đến 105o33’50’’ Kinh độ Đông
- Từ 18o30’14’’ đến 18o32’40’’ Vĩ độ Bắc
Ranh giới hành chính xã như sau:
- Phía Bắc giáp: Xã Trường Sơn
- Phía Nam giáp: Xã Đức Hòa, xã Đức Long
- Phía Đông giáp: Xã Đức Yên và Thị trấn Đức Thọ
- Phía Tây giáp: Xã Sơn Long, huyện Hương Sơn[7].

Điểm
nghiên
cứu

Hình 4.1. Sơ đồ địa bàn nghiên cứu – xã Tùng Ảnh

b. Xã Đức Thanh
Đức Thanh là một xã đồng bằng thuộc huyện Đức Thọ, nằm cách trung tâm

huyện lỵ 10km về phía Đông Nam và có vị trí địa lý như sau:
- Từ 105o38’15’’ đến 105o39’54’' Kinh độ Đông
18


- Từ 180o28’58’’ đến 180o30’58’’ Vĩ độ Bắc
Ranh giới hành chính xã như sau:
- Phía Bắc giáp xã Thái Yên;
- Phía Nam giáp xã Nga Lộc huyện Can Lộc;
- Phía Đông giáp xã Kim Lộc huyện Can Lộc;
- Phía Tây giáp thị xã Đức Dũng và xã Đức Thủy [11].

Điểm nghiên
cứu

Hình 4.2. Sơ đồ địa bàn nghiên cứu – xã Đức Thanh

19


4.1.2. Địa hình
a. Xã Tùng Ảnh
Có 2 dạng địa hình chính:
- Dạng địa hình núi cao nằm về phía Tây Nam của xã, ngăn cách với vùng
đồng bằng bởi kênh Linh Cảm, có độ cao 50 – 100m.
- Dạng địa hình đồng bằng có độ cao trung bình 2 – 3m so với mực nước
biển [7].
b. Xã Đức Thanh
- Xã có địa hình tương đối bằng phẳng, với điểm cao nhất 2,8m; thấp nhất
1,1m so với mặt nước biển, theo hướng dốc từ Tây sang Đông [11].

4.1.3. Khí hậu
a. Xã Tùng Ảnh
Xã Tùng Ảnh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, thời tiết trong năm chia
thành 2 mùa rõ rệt: mùa mưa, mùa khô
* Nhiệt độ:
- Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23,9oC
- Mùa nóng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8, nhiệt độ trung bình khoảng 33,8oC
- Mùa lạnh kéo dài từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau, nhiệt độ trung bình khoảng
o

18 C
* Lượng mưa:
- Lượng mưa trung bình năm khoảng 2.100mm, số ngày mưa trong năm
khoảng 150 – 160 ngày/năm, có khi lên tới 180 – 190 ngày/năm.
- Lượng mưa phân bố không đều trong năm, chủ yếu tập trung ở các tháng
hè. Tổng lượng mưa 5 tháng mùa đông chỉ chiếm 26% cả năm.
* Độ ẩm không khí:
Độ ẩm không khí hàng năm trên địa bàn xã khá cao, trong những tháng khô
hạn của mùa hè độ ẩm hàng tháng vẫn trên 70%. Thời kỳ có độ ẩm cao nhất vẫn
là những tháng cuối mùa Đông (tháng 2,3), thời kỳ có độ ẩm thấp nhất vào
tháng 6,7.

20


* Nắng:
Nắng ở Tùng Ảnh có cường độ tương đối cao, trung bình các tháng mùa
Đông có từ 70 – 80 giờ nắng/tháng, các tháng mùa hè có từ 180 – 190 giờ nắng/
tháng. Số giờ nắng trung bình 1500 – 1700 giờ nắng/năm.
* Bão lụt:

Nằm trong khi vực miền Trung nên Tùng Ảnh chịu nhiều ảnh hưởng của
bão lụt . Trung bình năm có từ 1 – 1,6 cơn bão đi qua, thời gian xuất hiện bão
trong khoảng tháng 9 đến tháng 11.
* Gió:
- Gió mùa Đông Bắc thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau,
thường gây hậu quả xấu tới quá trình sinh trưởng phát triển của cây trồng, nhất
lạ thời kỳ sinh trưởng của mạ non và lúa nước.
- Gió Tây Nam (gió Lào) xuất hiện vào tháng 4, kết thúc vào tháng 9 và có
cao điểm vào tháng 7. Thời gian gió Tây Nam thổi từ 30 – 50 ngày, thường gây
khô hạn kéo dài không chỉ làm cho cây trồng thiếu nước mà còn gây tích lũy sắt
làm thoái hóa đất.
* Thủy văn:
Sông La chạy dọc ranh giới xã Trường Sơn và huyện Hương Sơn với chiều
dài 4km, với diện tích vực là 92km2 [7].
b. Xã Đức Thanh
Xã Đức Thanh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu trong năm được
chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa khô từ
tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
* Nhiệt độ:
- Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23,5oC.
- Nhiệt độ trung bình trong các tháng mùa khô đạt 33,8oC
- Nhiệt độ trung bình trong các tháng mùa mưa đạt 18oC.
* Lượng mưa:
- Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2000mm. Số ngày mưa trong
năm từ 150 - 160 ngày/năm, có khi lên đến 180 - 190 ngày/năm.
- Mưa tập trung từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa đạt 74% tổng lượng
21


mưa cả năm. Trong các tháng mùa khô, lượng mưa chỉ chiếm 26% lượng mưa

cả năm.
* Độ ẩm không khí:
Độ ẩm không khí bình quân năm đạt khoảng 75 đến 80%. Ẩm độ cao nhất
thường vào các tháng 2,3; độ ẩm không khí thấp nhất vào các tháng 6, 7.
* Nắng:
Số giờ nắng trung bình năm từ 1500 - 1700 giờ nắng/năm. Nắng ở Đức
Thanh có cường độ tương đối cao, trung bình các tháng mùa đông có từ 70 - 80
giờ nắng/tháng, các tháng mùa hè có từ 180 - 190 giờ nắng/tháng.
* Bão lụt:
Cũng giống như những xã khác ở miền Trung, Đức Thanh thường xuyên
chịu ảnh hưởng của bão lụt. Bình quân hàng năm có khoảng 1 – 1,6 cơn bão đi
qua. Thời kỳ xuất hiện bão thường từ tháng 9 đến tháng 11
* Gió:
Trên địa bàn xã chịu ảnh hưởng của 2 loại gió:
- Gió mùa Đông Bắc thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau,
thường gây hậu quả xấu tới quá trình sinh trưởng phát triển của cây trồng, nhất
lạ thời kỳ sinh trưởng của mạ non và lúa nước.
- Gió Tây Nam (gió Lào) xuất hiện vào tháng 4, kết thúc vào tháng 9 và có
cao điểm vào tháng 7. Thời gian gió Tây Nam thổi từ 30 – 50 ngày, thường gây
khô hạn kéo dài không chỉ làm cho cây trồng thiếu nước mà còn gây tích lũy sắt
làm thoái hóa đất.
* Thủy văn:
Xã Đức Thanh có kênh chợ Giấy chảy về phía Tây với chiều dài 1,8km, và
kênh 19/5 chảy qua xã với chiều dài khoảng 2,1km. Ngoài ra trong khu dân cư
có nhiều ao hồ phần nào ảnh hưởng tích cực đến việc điều hòa khí hậu và môi
trường sinh thái ở đây. Kênh đào 19/5 được sử dụng cung cấp nước sản xuất
nông nghiệp cho toàn xã. Nước sinh hoạt của dân trong xã chủ yếu lấy từ nước
trời và các mạch nước ngầm [11].

22



4.1.4. Các nguồn tài nguyên
a. Xã Tùng Ảnh
* Tài nguyên đất
Tính chất đất trên địa bàn xã khá đa dạng với các loại đất chủ yếu như sau
(không tính diện tích các loại đất: đất chuyên dùng, đất ở, mặt nước và sông suối):
- Đất phù sa Glây (Pg): có 404,50 ha; chiếm 45,95% diện tích đất tự nhiên
của xã. Loại đất này phân bố trên địa hình Vàn, Vàn cao và Vàn thấp. Đất có
thành phần cơ giới thịt nhẹ và thịt nặng, độ dày tầng đất mịn > 100cm.
- Đất phù sa được bồi hàng năm (Pb): có 34,67 ha; chiếm 3,94% diện tích
đất tự nhiên của xã, loại đất này được phân bố trên ngoài đê, trên địa hình Vàn.
Đất có thành phần cơ giới cát pha, độ dày tầng mịn >100cm.
- Đất phù sa không được bồi hàng năm (P): có 34,67 ha; chiếm 3,94% diện
tích đất tự nhiên của xã, loại đất này được phân bố trên ngoài đê, trên địa hình
Vàn. Đất có thành phần cơ giới thịt nhẹ, độ dày tầng mịn >100cm
- Đất phù sa có tầng loang lổ (Pf): 26,00 ha; chiếm 2,95% diện tích đất tự
nhiên của xã; phân bố ven khu vực quốc lộ 8A, 8B giáp với xã Đức Yên. Đất có
thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nặng, độ dày tầng đất mịn >100cm.
- Đất thung lũng do ảnh hưởng của đất tụ (D): 26,00 ha; chiếm 2,95% diện
tích tự nhiên của xã; phân bố ven khu vực quốc lộ 8A giáp với xã Đức Hòa trên
địa hình đất Vàn cao. Đất có thành phần cơ giới thịt trung bình, độ dày tầng đất
mịn >100cm.
- Đất xói mòn trơ sỏi đá (F): có 50,02 ha; chiếm 5,91% diện tích đất tự
nhiên của xã.
* Tài nguyên nước:
- Nước mặt: có trữ lượng tương đối dồi dào do nằm gần sông La và hệ
thống thủy lợi Linh Cảm. Nguồn nước này đủ đáp ứng cho sản xuất và sinh hoạt
của người dân trong xã.
- Nước ngầm: thường được khai thác ở độ sâu 4 - 6m, ở vùng đồi núi khai

thác ở độ sâu 7 – 8m. Trữ lượng nước tương đối dồi dào đủ đáp ứng cho sản
xuất và sinh hoạt của người dân trong suốt năm.

23


* Tài nguyên nhân văn:
Tùng Ảnh là vùng quê hiếu học đầy truyền thống đấu tranh, xây dựng và
bảo vệ đất nước, đồng thời là quê hương của đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư
đầu tiên của Đảng. Truyền thống trên luôn được người dân trong xã trân trọng
giữ gìn và phát huy [7].
b. Xã Đức Thanh
* Tài nguyên đất
- Đất phù sa được bồi có thành phần cơ giới thịt nặng, ký hiệu Pgx 5/9.
Diện tích khoảng 392,52 ha được phân bố ở trung tâm xã.
- Đất phù sa không được bồi , chưa có thành phần cơ giới thịt nặng, kết
vốn từ 10-30% ở độ sâu 0cm đến 40cm, ký hiệu: Px 5/9II. Với diện tích khỏang
100 ha, được phân bố ở phía Nam của xã.
- Đất phù sa Glây mạnh, úng nước. Thành phần cơ giới thịt nặng, ký
hiệu: Pjx5/9. Diện tích khoảng 96,16 ha, được phân bố ở phía Tây nam của xã.
* Tài nguyên nước
- Nguồn nước mặt: Nguồn nước mặt khá dồi dào, bao gồm kênh chợ
Giấy với chiều dài 1,8km và kênh 19/5 với chiều dài 2,1km chảy bao quanh. Do
vị trí địa lý và địa hình cho nên mùa mưa bão thường bị ngập lụt. Nhìn chung,
nguồn nước mặt khá dồi dào, đáp ứng đủ nhu cầu về nước cho sinh hoạt và sản
xuất nông nghiệp, tuy nhiên chất lượng nguồn nước chưa được đảm bảo.
- Nguồn nước ngầm: Trên địa bàn xã, chưa có khảo sát, nghiên cứu đầy đủ về
trữ lượng và chất lượng nước ngầm. Tuy nhiên, qua đánh giá sơ bộ của một số hộ
gia đình hiện đang khai thác sử dụng thông qua hình thức giếng khơi, có thể thấy
trữ lượng nước ngầm của xã tương đối lớn, chất lượng tương đối tốt [11].

4.1.5. Thực trạng môi trường
a. Xã Tùng Ảnh
- Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sinh hoạt đảm bảo vệ sinh theo tiêu chuẩn
quốc gia: 100%
- Hiện trạng nước sinh hoạt:
+ Số hộ sử dụng nước máy/ tổng số hộ: 411/2.174 chiếm tỷ lệ : 18,9%.
+ Số hộ sử dụng nước từ các nguồn (nước mưa, giếng đào, giếng
khoan) đảm bảo vệ sinh: 1763 hộ, chiếm tỷ lệ: 81,1 %.
24


- Số cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường: 8
- Số cơ sở sản xuất kinh doanh gây ô nhiễm môi trường: 7
- Số lượng/năm các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch đẹp: 2
- Số lượng các tổ thu gom, xử lý chất thải: 1 tổ, số lượng người tham gia: 6;
đáp ứng: 70 % so với yêu cầu.
- Tỉ lệ hộ có công trình chăn nuôi hợp vệ sinh: 65%
- Hiện trạng nghĩa trang:
+ Số lượng nghĩa trang được xây dựng theo quy hoạch: 9
Hiện tại mọi hoạt động sản xuất trên địa bàn xã chưa gây ảnh hưởng lớn
đến môi trường song bên cạnh đó vẫn có một số hộ chăn nuôi chưa có công trình
chăn nuôi hợp vệ sinh, các hoạt động bảo vệ thực vật không đúng quy trình, ý
thức của một số bộ phận nhân dân trong việc thu gom và xử lý rác thảu chưa tốt
đã làm ảnh hưởng xấu đến môi trường [7].
b. Xã Đức Thanh
Phần lớn, ô nhiễm gây mất cảnh quan do ý thức của người dân trong việc
sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, phân bón trong nông nghiệp không đúng
quy trình, tập quán hệ thống chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm chưa đảm
bảo đã gây nên ô nhiễm môi trường nước và không khí. Vấn đề rác thải cũng
cần được quan tâm, hiện tại xã chưa có bãi rác nên rác hữu cơ chủ yếu tự đốt,

rác công nghiệp như ni lông, nhựa chưa được xử lý, chưa được thu gom tập
trung nên cũng ảnh hưởng nhiều đến môi trường.
4.2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội
4.2.1. Tăng trưởng kinh tế và dịch chuyển cơ cấu kinh tế
a. Xã Tùng Ảnh
- Tổng giá trị thu nhập năm 2011 là 131 tỉ đồng, trong đó: Nông nghiệp 40 tỉ
đồng, TTCN 24 tỉ đồng, DVTM 15 tỉ đồng, thu khác 52 tỉ đồng.
- Cơ cấu kinh tế:
Nông nghiệp chiếm: 30,5%
Công nghiệp, TTCN chiếm: 18,5%
DVTM chiếm 11,0%
Thu nhập khác chiếm 40%
25


×