Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Hỗ trợ dạy nghề đối với người khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 114 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THANH HẰNG

HỖ TRỢ DẠY NGHỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM BẢO TRỢ - DẠY NGHỀ
VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI TÀN TẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

HÀ NỘI - 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THANH HẰNG

HỖ TRỢ DẠY NGHỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM BẢO TRỢ - DẠY NGHỀ
VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI TÀN TẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60.90.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ

HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Phạm Hữu Nghị.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này
trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình làm luận văn, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các
thần cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Phạm Hữu Nghị là người đã trực
tiếp hướng dẫn, và truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm quý báu để
tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Ban Chủ nhiệm và tất cả các thầy, cô
trong Khoa Công tác xã hội - Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, các giáo viên
Học viện Xã hội Châu Á đã trang bị kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong thời gian học tập và thực hiện luận văn tại Học viện.
Tôi trân trọng cảm ơn lãnh đạo, cán bộ quản lý, giáo viên dạy nghề cùng các
học viên khuyết tật của Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người
tàn tật thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn
thành việc thu thập số liệu phục vụ luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn !



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ DẠY NGHỀ ĐỐI
VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT ................................................................................... 9
1.1. Người khuyết tật, dạy nghề đối với người khuyết tật: Khái niệm, đặc điểm và
nhu cầu ........................................................................................................................ 9
1.2. Khái niệm, nhu cầu và nguyên tắc hỗ trợ dạy nghề đối với người khuyết tật ... 21
1.3. Nội dung hỗ trợ dạy nghề đối với người khuyết tật .......................................... 23
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hỗ trợ dạy nghề đối với người khuyết tật . 31
1.5. Chính sách pháp luật về hỗ trợ dạy nghề đối với người khuyết tật ................... 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HỖ TRỢ DẠY NGHỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI
KHUYẾT TẬT TẠI TRUNG TÂM BẢO TRỢ - DẠY NGHỀ VÀ TẠO VIỆC
LÀM CHO NGƯỜI TÀN TẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................ 38
2.1. Giới thiệu Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật
thành phố Hồ Chí Minh............................................................................................. 38
2.2. Thực trạng người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm
cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh ................................................................ 42
2.3. Thực trạng hỗ trợ dạy nghề đối với người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh ..................... 45
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HỖ TRỢ DẠY NGHỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TẠI
TRUNG TÂM BẢO TRỢ - DẠY NGHỀ VÀ TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI
TÀN TẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH............................................................ 67
3.1. Định hướng và mục tiêu hỗ trợ dạy nghề đối với người khuyết tật ................... 67
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ dạy nghề đối với người khuyết tật tại Trung
tâm Bảo trợ-Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh . 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 81
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CTXH :

Công tác xã hội

NV

:

Nhân viên

NKT

:

Người khuyết tật

HV

:

Học viên

GV

:

Giáo viên


TT

:

Trung tâm


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Biểu 2.1: Kết quả khảo sát đánh giá GV và nhân viên trung tâm
Biểu 2.2: Kết quả khảo sát những khó khăn của học viên
Biểu 2.3: Kết quả đào tạo nghề từ năm 2011-2015
Biểu 2.4: Kết quả đánh giá của học viên về bản thân sau thời gian học nghề
Biểu 2.5: Kết quả đánh giá điều kiện phục vụ HV ở nội trú


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người khuyết tật là vấn đề xã hội, tồn tại như một tất yếu đối với mọi chế độ
xã hội và mọi quốc gia trên thế giới. NKT luôn là vấn đề đáng được quan tâm của
xã hội đặc biệt khi Việt Nam đang trên đường hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Theo kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2009 do Tổng cục Thống kê tiến hành thì
số NKT trên phạm vi cả nước là 6,7 triệu người, chiếm khoảng 8% tổng dân số,
trong đó khoảng 60% NKT trong độ tuổi lao động; 3,6 triệu là nữ và hơn 5 triệu
người sống ở nông thôn; khoảng 1,2 triệu là trẻ em.
Do bị khiếm khuyết nên NKT gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, sinh
hoạt, bị hạn chế về khả năng học tập, lao động và hòa nhập với cộng đồng, phần lớn
NKT đều không có thu nhập, việc làm và chủ yếu sống bằng trợ cấp của xã hội và
gia đình vì vậy các nước đều có chính sách trợ giúp đối với NKT. Việc đảm bảo sự
bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về kinh tế, chính trị, văn hoá,

xã hội đối với NKT là nghĩa vụ của gia đình, xã hội và nhà nước. Là mắt xích quan
trọng trong chính sách an sinh xã hội, với truyền thống nhân đạo của dân tộc, NKT
luôn nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta.
Người khuyết tật từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực
khoa học. Trong y học, sức khỏe cộng đồng, thông tin điện tử, thiết kế kỹ thuật,
NKT được quan tâm dưới góc độ làm giảm bớt ảnh hưởng của dạng tật để cuộc
sống sinh hoạt hàng ngày của họ bớt khó khăn hơn. Trong các ngành xã hội học,
công tác xã hội, NKT được hướng đến như những đối tượng yếu thế trong xã hội
cần được hỗ trợ để hòa nhập cộng đồng. Trong đó, hỗ trợ dạy nghề đối với NKT là
một vấn đề quan trọng.
Dạy nghề là một nội dung quan trọng trong việc bồi dưỡng và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực xã hội nói chung và cũng bảo đảm yêu cầu giải quyết việc
làm cho lao động. Đối với NKT, dạy nghề là tiền đề tạo cơ hội việc làm và xúc tiến
việc làm, góp phần hỗ trợ họ từng bước hoà nhập cộng đồng. Những năm qua, Đảng

1


và Nhà nước ta đã có sự quan tâm đặc biệt trong công tác dạy nghề đối với NKT và
được cụ thể bằng các chương trình đạo tạo nghề và tạo việc làm đối với NKT giúp
họ có công ăn việc làm và tăng thu nhập, giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Tuy nhiên, sau nhiều năm áp dụng các chính sách vào thực tiễn vẫn còn bộc lộ
nhiều bất cập và thiếu tính đồng bộ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vẫn còn hạn chế
khi nhận NKT vào làm mặc dù họ hoàn toàn có thể thực hiện tốt công việc. Hỗ trợ
NKT chỉ mang tính bền vững khi giải quyết được vấn đề việc làm cho họ. Điều này
sẽ đảm bảo được quyền cơ bản của con người, quyền lao động, quyền sống hòa
nhập với cộng đồng và các quyền lợi chính đáng khác của NKT. Chính vì vậy, yêu
cầu đặt ra đối với việc hỗ trợ NKT có được những nghề phù hợp với bản thân họ.
Công việc này trên thực tế khá khó khăn và đòi hỏi phải liên kết, huy động tất cả
các nguồn lực để thực hiện, đồng thời người làm CTXH phải có tấm lòng yêu nghề,

hiểu được nhu cầu, đặc điểm, khả năng của NKT.
Xuất phát từ những điều trình bày trên đây, tôi đã chọn đề tài:“Hỗ trợ dạy
nghề đối với người khuyết tật từ thực tiễn Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo
việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp thạc
sỹ ngành công tác xã hội.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu của đề tài
Người khuyết tật và các vấn đề liên quan đến dạy nghề đối với NKT đã được
nghiên cứu của khá nhiều tác giả trong và ngoài nước, có thể điểm qua một vài
nghiên cứu sau đây:
* Ở Việt Nam, Giáo trình Công tác xã hội với người khuyết tật, do PGS.TS
Nguyễn Thị Kim Hoa chủ biên, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014.
Tác giả đã khái quát các vấn đề cơ bản về NKT, luật pháp, chính sách và các công
cụ hỗ trợ NKT. Bên cạnh đó, tác giả đề cập đến những kỹ năng, nguyên tắc cần
thiết đối với NV CTXH khi làm việc với NKT. Về thực hành, tác giả trình bày các
phương pháp làm việc cá nhân, làm việc nhóm, làm việc với gia đình và các nguồn
lực trợ giúp NKT.

2


Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO, 2011), Báo cáo khảo sát về Đào tạo nghề
và Tạo việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam. Báo cáo này cung cấp một cách
nhìn tổng thể về các tổ chức của NKT, các tổ chức đại diện cho NKT và các dịch vụ
đào tạo nghề, việc làm và phát triển doanh nghiệp cho NKT, đặc biệt tập trung vào
các tổ chức của phụ nữ khuyết tật và các dịch vụ dành riêng cho phụ nữ khuyết tật.
Kết quả phân tích của báo cáo khảo sát này cho thấy tại Việt Nam NKT rất ít được
đào tạo nghề, hướng dẫn về việc làm cũng như về phát triển doanh nghiệp. Chính
phủ, nhiều tổ chức phi chính phủ và chính NKT đều nhận thấy NKT cần có các dịch
vụ đào tạo riêng (ít nhất theo học các lớp đào tạo riêng cho NKT), các dịch vụ bố trí
việc làm riêng và các kế hoạch và hoạt động phát triển kinh doanh riêng cho NKT.

Pháp luật về đào tạo nghề và việc làm của Việt Nam không nêu rõ trong các hoạt
động chủ đạo, và Chính phủ cũng chưa có chính sách khuyến khích đào tạo nghề
hòa nhập riêng ngoài Chính sách Giáo dục hòa nhập. Tuy nhiên, tất cả các TT trước
đây đào tạo riêng cho NKT nay đều mở cửa đối với mọi sinh viên (trên thực tế các
TT này vẫn chủ yếu phục vụ NKT, trẻ mồ côi, cựu chiến binh và những người có
hoàn cảnh không may mắn khác).
Lê Thị Kiều Oanh (2011), Luận văn thạc sỹ:“Giải pháp nâng cao chất lượng
dạy nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ dạy nghề và tạo việc làm cho
người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh”. Tác giả đã trình bày tương đối đầy đủ và hệ
thống được cơ sở lý luận về cách thức đánh giả chất lượng đào tạo, phân tích thực
trạng chất lượng đào tạo và đề xuất các giải pháp giúp nâng cao chất lượng dạy
nghề cho Trung tâm Bảo trợ dạy nghề và tạo việc làm cho người tàn tật thành phố
Hồ Chí Minh.
Lê Anh Đức (2010), Luận văn thạc sỹ: "Đề xuất phương pháp dạy học môđun đồ họa ứng dụng cho người khuyết tật vận động”. Luận văn đã trình khái quát
các lý thuyết về phương pháp dạy học và đặc điểm của NKT vận động. Từ đó, xây
dựng nội dung chương trình và áp dụng phương pháp dạy học thực hành phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý của NKT vận động. Bên cạnh đó, tác giả đã làm rõ về việc
tổ chức, triển khai phương pháp dạy học thực hành và đề xuất phương pháp dạy học

3


mô-đun đồ họa ứng dụng cho NKT vận động nhằm đảm bảo phù hợp đặc điểm nhận
thức của người học.
Nguyễn Thị Nguyên An (2005), Luận văn thạc sỹ:“Nghiên cứu các yếu tố
ảnh hưởng đến khả năng học nghề của thanh thiếu niên khuyết tật trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn đã đạt được mục đích là nghiên cứu, phân tích,
khảo sát các yếu tố bên trong và bên ngoài, gây ảnh hưởng đến việc học nghề của
thanh thiếu niên khuyết tật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
* Ở nước ngoài, cuốn: “Quyền con người và vấn đề người khuyết tật”

(Human Right and Disability) của các tác giả - chủ biên Gerard Quinn và Theresia
Degener, do Liên hợp quốc xuất bản, tại Geneva - Thụy Sĩ (2002). Tác phẩm viết về
việc áp dụng hiện tại và khả năng áp dụng trong tương lai các quy định của các văn
kiện quốc tế về quyền con người. Hay cuốn: “Pháp luật, quyền và vấn đề người
khuyết tật” (Law, Right, and Disability) do Jeremy Cooper làm chủ biên. Công trình
này đề cập đến thực trạng và những nỗ lực trong việc nâng cao vị thế của NKT ở
Anh và trên thế giới. Ngoài việc đề cập về quyền của NKT, tác giả còn đề cập đến
vai trò quan trọng của chính NKT trong việc hiện thực hóa những cam kết toàn cầu
về quyền của NKT. Tác phẩm: “Những quyền của người khuyết tật” (Disability
Right) do Justin Healey làm chủ biên, Úc. Nội dung sách chủ yếu đưa ra các định
nghĩa về NKT; Luật chống phân biệt người khuyết tật và cơ chế khiếu nại vi phạm;
các vấn đề thực tiễn về NKT như: hệ thống chăm sóc cộng đồng; NKT tại nơi làm
việc; doanh nghiệp với vấn đề tuyển dụng NKT; tiếp cận bình đẳng về internet cho
NKT…Từ việc phân tích đó, tác giả đưa ra nhận định cuối cùng rằng, NKT chiếm
một bộ phận đáng kể trong dân số Úc, họ đòi hỏi việc loại bỏ những hình thức phân
biệt đối xử trực tiếp và gián tiếp đối với việc tiếp cận những trợ giúp cơ bản, các
dịch vụ và thừa nhận của xã hội.
Cuốn “Khuyết tật hoà nhập xã hội ở Ireland”, Brenda Gannon and Brian
Nolan, 2011 (Disability and social inclusion in Ireland, Brenda Gannon and Brian
Nolan, 2011). Nghiên cứu đã xem xét NKT có hoàn cảnh khó khăn khi hòa nhập xã
hội, trong nghiên cứu đã thu thập trình độ học vấn, kinh tế và tham gia xã hội...

4


Đồng thời, nghiên cứu cũng chỉ ra mặc cảm tự ti là một trong những yếu tố cản trở
NKT tham gia hoà nhập xã hội và cuộc sống hàng ngày. Tác giả còn chỉ ra sự khác
biệt giữa NKT và người bình thường trong việc tham gia hoà nhập cộng đồng.
Thông qua việc thống kê các số liệu thu thập được để đánh giá mức độ nghèo, sự
tham gia vào giáo dục, y tế, việc làm. của NKT. Nghiên cứu còn nhấn mạnh tới yếu

tố NKT ảnh hưởng tới đời sống của mình, thiết kế nơi làm việc không phù hợp, sự
kỳ thị của cộng đồng, sự tiếp cận các phương tiện đi lại gây khó khăn cho NKT.
Bên cạnh những công trình mang tính chất quy mô về NKT và các vấn đề có
liên quan thì có rất nhiều bài viết phản ánh về những khó khăn thuận lợi của NKT
trên đường hòa nhập cộng đồng; về cuộc sống, sinh hoạt vui chơi, tinh thần vượt khó
vươn lên trong học tập, đạt những thành tựu cao trong công việc khiến nhiều người
phải học hỏi, là tấm gương của nhiều NKT khác noi theo… Tuy nhiên, những bài
viết chỉ dừng lại ở mức độ phản ánh và cung cấp những số liệu cụ thể chứ chưa là
một công trình nghiên cứu, cũng như chưa bàn sâu đến vấn đề hỗ trợ dạy nghề đối
với NKT. Tuy rằng, các tác phẩm và bài viết đã nói về các giải pháp tối ưu cho NKT
nói chung, nhưng cũng chưa có giải pháp cụ thể nào về hỗ trợ dạy nghề đối với NKT.
Mặc dù các công trình nghiên cứu, bài viết trên chưa đề cập trực tiếp đến vấn
đề hỗ trợ dạy nghề đối với NKT, song đó là nguồn tài liệu quý báu để bản thân
nghiên cứu, kế thừa, thiết thực góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của đề tài, nhất là
việc làm rõ các khái niệm, phạm trù cơ bản nhất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ dạy nghề đối với
NKT (thông qua đánh giá thực trạng hỗ trợ dạy nghề đối với NKT tại Trung tâm
Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh), từ
đó đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ dạy nghề đối với NKT trong thời gian
tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cơ bản sau:

5


- Nghiên cứu vấn đề lý luận và chính sách pháp luật về hỗ trợ dạy nghề đối
với NKT.

- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng hỗ trợ dạy nghề đối với NKT tại Trung tâm
Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh.
- Nêu định hướng, mục tiêu và đề xuất giải pháp hỗ trợ dạy nghề đối với
NKT tại Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố
Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là hoạt động hỗ trợ dạy nghề đối với NKT tại Trung
tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Hỗ trợ dạy nghề đối với NKT từ thực tiễn Trung tâm
Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh
- Khách thể nghiên cứu: Tiến hành nghiên cứu trên các khách thể sau: cán bộ
quản lý, giáo viên, học viên và phụ huynh
- Thời gian: Từ tháng 1/2016 đến tháng 4/2016
- Địa điểm: Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật
thành phố Hồ Chí Minh
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập thông tin và số liệu
- Dữ liệu thứ cấp: được thu thập từ tài liệu nghiên cứu, báo cáo của một số
cơ quan, ban, ngành có liên quan, báo cáo của Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo
việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh.
- Dữ liệu sơ cấp: được thu thập từ kết quả phỏng vấn sâu 05 cán bộ quản lý
và 10 GV tại Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành
phố Hồ Chí Minh; phỏng vấn bằng bảng hỏi 50 HV khuyết tật có nhận thức tốt,
khuyết tật nhẹ và 15 phụ huynh có con, em đang theo học nghề tại Trung tâm Bảo
trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh.

6



5.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng
Bảng câu hỏi là công cụ nghiên cứu chính trong việc thu thập các thông số,
chỉ báo, mức độ, tần suất các vấn đề nghiên cứu của đề tài. Phương pháp phỏng vấn
bằng bảng câu hỏi là phương pháp phỏng vấn, viết, được thực hiện cùng một lúc với
nhiều người theo một bảng hỏi in sẵn. Người được hỏi trả lời ý kiến của mình bằng
cách đánh dấu vào các ô tương ứng theo một quy ước nào đó. Qua phương pháp
phỏng vấn bằng bảng hỏi sẽ thu thập được nhiều thông tin theo chủ ý của người
nghiên cứu, thông tin tập trung, có tính định lượng, dễ nhập liệu và xử lý.
Thực hiện bảng hỏi đối với 50 HV khuyết tật nhẹ và có nhận thức tốt, chọn
mẫu ở các lớp nghề đào tạo, 15 phụ huynh (không chọn những phụ huynh có con
em đã được phỏng vấn bảng hỏi) và 45 HV ở nội trú nhằm thu thập thông tin cần
thiết để đánh giá thực trạng hỗ trợ dạy nghề đối với NKT tại TT.
5.3. Phương pháp nghiên cứu định tính
* Phương pháp phỏng vấn sâu
Song song với việc sử dụng phương pháp thu thập thông tin bằng bảng câu
hỏi định lượng, khi nghiên cứu đề tài chúng tôi cũng tiến hành thu thập thông tin
bằng phương pháp phỏng vấn sâu. Phương pháp phỏng vấn sâu là phương pháp thu
thập thông tin xã hội qua đối thoại theo một chủ đề nào đó giữa nhà nghiên cứu với
khách thể nghiên cứu nhằm đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu. Những thông tin
thu được qua phương pháp phỏng vấn sâu sẽ mang tính định hướng cho việc nghiên
cứu đề tài.
Thực hiện phỏng vấn sâu với 05 cán bộ quản lý và 10 GV tại Trung tâm Bảo
trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh. Việc sử
dụng phỏng vấn sâu trong nghiên cứu đề tài nhằm khảo sát sâu hơn những vấn đề
mà phương pháp bảng câu hỏi không thể hướng tới được. Mặt khác, việc phỏng vấn
sâu giúp cho những thông tin mang lại nhiều chiều, cán bộ quản lý và giáo viên sẽ
cởi mở cung cấp thông tin hơn là trả lời những câu hỏi theo khuôn mẫu có sẵn trong
bảng câu hỏi.


7


* Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được tiến hành song song cùng với phương pháp thu
thập thông tin bằng bảng câu hỏi và phương pháp phỏng vấn sâu. Phương pháp
quan sát nhằm mục đích xem xét và nhìn nhận thái độ và hành vi của người trả lời.
Cũng như bằng tri giác của mình thu thập thông tin phục vụ cho đề tài nghiên cứu
thông qua các hoạt động của đối tượng mà chúng tôi tiến hành nghiên cứu.
* Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn
Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài sử dụng phân tích các thông tin có sẵn từ
các cuộc nghiên cứu trước đó có nội dung gần với vấn đề mà đề tài nghiên cứu, các
bài viết đăng trên tạp chí xã hội học, các bài báo, các báo cáo tổng kết của Trung
tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh,
của các cơ quan có liên quan.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích tại các
cơ sở nghiên cứu và đào tạo về vận dụng CTXH trong hỗ trợ dạy nghề đối với NKT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung cấp cơ sở về lý thuyết và thực tiễn cho việc đề ra định hướng,
mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ dạy nghề đối với NKT tại Trung tâm
Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, các phụ lục luận văn gồm có
03 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hỗ trợ dạy nghề đối với người khuyết tật
Chương 2: Thực trạng hỗ trợ dạy nghề đối với người khuyết tật tại Trung tâm
Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Định hướng, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả hỗ trợ dạy

nghề đối với người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ - Dạy nghề và Tạo việc làm
cho người tàn tật thành phố Hồ Chí Minh.

8


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ DẠY NGHỀ
ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Người khuyết tật, dạy nghề đối với người khuyết tật: Khái niệm, đặc
điểm và nhu cầu
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu người khuyết tật
1.1.1.1. Khái niệm người khuyết tật
Theo TS. Margaret Chan – Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (World
Health Orgazination) “Hầu hết mỗi người chúng ta có thể mất khả năng hoạt động
bình thường tạm thời hoặc vĩnh viễn tại một thời điểm nào đó”; như vậy giữa người
bình thường và NKT hầu như không có ranh giới rõ rệt và hết sức mong manh.
Trên thế giới
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), năm 1999 có ba mức độ suy giảm là:
khiếm khuyết (impairment), khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap). Khiếm
khuyết chỉ đến sự mất mát hoặc không bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan
đến tâm lý hoặc/và sinh lý. Khuyết tật chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động,
là hậu quả của sự khiếm khuyết. Tàn tật đề cập đến tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi
của người mang khiếm khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình
trạng khuyết tật của họ.
Theo Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật do Quốc hội
Anh ban hành (Disability Discrimination Act – DDA), khi xét về mặt thời gian tác
động thì khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài mà ít hơn 12 tháng bình
thường không được coi là khuyết tật, trừ phi là bị tái đi tái lại, một số người có
khiếm khuyết kéo dài hơn một năm thì vẫn ở trong diện của DDA, cả khi họ sẽ

được phục hồi hoàn toàn.
Theo Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (Americans with
Disabilities Act of 1990 - ADA), định nghĩa NKT là người có sự suy yếu về thể chất
hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng trong

9


cuộc sống. Cũng theo ADA những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm: khiếm
khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc
và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh
tim, tiểu đường, các bệnh lây và không lây như bệnh lao và bệnh do HIV (có triệu
chứng hoặc không có triệu chứng). Có sự thống nhất tương đối về định nghĩa thế
nào là khuyết tật của hai đạo luật này.
Tại Điều 1 của Công ước Quốc tế về quyền NKT ban hành năm 2006: “NKT
bao gồm những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc
các giác quan mà khi tương tác với các rào cản khác nhau có thể cản trở sự tham gia
đầy đủ và hiệu quả của họ trong xã hội trên nền tảng công bằng như những người
khác trong xã hội”.
Tại Việt Nam
Đối với đa số người Việt Nam, khuyết tật và tàn tật là hai từ để chỉ cùng một
khái niệm, từ năm 2009 trở về trước người ta vẫn dùng song song chúng trên cả
phương tiện truyền thông đại chúng và văn bản pháp quy. Trong các Pháp lệnh
trước đây của Nhà nước Việt Nam, tàn tật là cụm từ được chính thức sử dụng, song
theo dự thảo năm 2009, từ khuyết tật nhiều khả năng sẽ được dùng để thay thế từ
tàn tật trong các Bộ luật. Năm 2010, Quốc hội Việt Nam đã chính thức sử dụng cụm
từ NKT thay cho người tàn tật trong các Bộ luật ban hành có liên quan.
Căn cứ điều 2, Chương I, Luật Người khuyết tật được Quốc hội ban hành
ngày 17 tháng 6 năm 2010: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc
nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật

khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”.
Từ khái niệm trên được tiếp cận bằng các phương pháp định nghĩa khác nhau
song chúng đều chỉ ra những đặc điểm chung của NKT dưới các khía cạnh:
Thứ nhất, đối tượng: So với người bình thường có đầy đủ các bộ phận trên
cơ thể theo cấu tạo sinh học, khả năng nhận thức và điều chỉnh hành vi trong các
quan hệ xã hội thì NKT là những người bị khiếm khuyết (thiếu, không có hoặc bị
mất đi) bộ phận nào đó trên cơ thể, bị suy giảm sức khỏe khó có thể phục hồi, bị

10


hạn chế hoặc không có khả năng nhận thức, tiếp thu các tư tưởng văn hóa và giáo
dục như các chủ thể thông thường khác.
Thứ hai, khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ: Nếu cùng có mặt bằng pháp
lý như nhau, nhìn chung khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của NKT sẽ hạn chế
hơn đối với những người bình thường. Đây là một trong những hệ quả kéo theo của
đặc điểm khiếm khuyết. Do bị khiếm khuyết về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác
quan mà những NKT sẽ khó khăn khi thực hiện các công việc lao động, học tập,
sinh hoạt, vui chơi giải trí, tham gia các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội khác kém
hiệu quả hơn các người bình thường.
Thứ ba, đặc điểm khuyết tật: Cả Công ước về Quyền của NKT năm 2007 và
Luật Người khuyết tật năm 2010 đều chỉ ra những dạng khuyết tật cơ bản. Mặc dù
ngôn ngữ biểu đạt là khác nhau, song theo tinh thần chung, khuyết tật bao gồm:
(1) Khuyết tật vận động;
(2) Khuyết tật về nghe, nói;
(3) Khuyết tật nhìn;
(4) Khuyết tật thần kinh, tâm thần;
(5) Khuyết tật trí tuệ;
(6) Khuyết tật khác.
1.1.1.2. Đặc điểm của người khuyết tật

Người khuyết tật trước hết là con người nên họ mang những đặc điểm chung
về mặt kinh tế – xã hội, đặc điểm tâm sinh lý như mọi người khác trong xã hội. Tuy
nhiên, với những đặc điểm riêng về từng dạng khuyết tật nên nhóm NKT nói chung
lại có những nét đặc thù so với nhóm người không khuyết tật và mỗi nhóm NKT
dạng này lại có nét đặc thù tương đối so với nhóm NKT dạng khác. Về phương diện
pháp lý, làm rõ các đặc điểm của NKT là một trong những cơ sở, căn cứ khoa học
tác động đến việc quy định, ban hành, thực thi, áp dụng pháp luật và chính sách với
NKT. Theo đó, các quy định pháp luật, chính sách của nhà nước phải đảm bảo điều
chỉnh mối quan hệ của cái chung giữa NKT với các công dân bình thường khác
trong xã hội; giữa NKT nói chung với nhau. Đồng thời, phải đảm bảo cái riêng giữa

11


NKT với cộng đồng còn lại của xã hội, cái đặc thù của những NKT với các dạng tật
khác nhau của chính NKT. Nói cách khác, về phương diện triết học điều chỉnh mối
quan hệ giữa NKT với “phần còn lại” của xã hội và giữa NKT với nhau thì “cái
chung” phải bao hàm “cái riêng” nhưng “cái riêng” thì bao giờ cũng phong phú hơn
“cái chung”.
- Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế – xã hội.
Trước hết NKT là nhóm cư dân đặc biệt phải chịu thiệt thòi về mặt kinh tế –
xã hội và nhân khẩu học: Những gia đình có NKT có xu hướng hoặc là thiếu nhân
lực lao động (vì vậy có năng lực sản xuất thấp) hoặc có quá nhiều người sống phụ
thuộc (gánh nặng về kinh tế). Học vấn của các thành viên trong những gia đình
NKT thường không cao (chất lượng lao động thấp). Nhiều chủ hộ gia đình lại chính
là NKT có sức khỏe yếu. Tài sản của gia đình NKT thường nghèo nàn, thu nhập ở
mức thấp. Vì vậy, điều kiện sống và sinh hoạt là không tốt, ảnh hưởng xấu đến cuộc
sống, sức khỏe, phúc lợi của các thành viên trong gia đình. Ngoài ra, NKT từ 15
tuổi trở lên rất khó có việc làm, hầu hết NKT hoặc chưa bao giờ đi làm hoặc đã từng
đi làm nhưng lại bị thất nghiệp. Khuyết tật là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng

thất nghiệp của họ.
Mặt khác, vì tình trạng do khuyết tật gây ra, NKT phải gánh chịu rất nhiều
thiệt thòi trong mọi mặt cuộc sống: Khuyết tật là nguyên nhân chính gây ra nhiều
khó khăn cho NKT trong việc thực hiện các công việc sinh hoạt hàng ngày, trong
giáo dục, việc làm, tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn, sinh con và tham gia các hoạt
động xã hội. Để khắc phục những khó khăn này, NKT chủ yếu dựa vào gia đình,
nguồn giúp đỡ chính đối với họ. Những khó khăn càng trở nên trầm trọng hơn do
thái độ tiêu cực của cộng đồng đối với NKT.
Quan niệm của xã hội về NKT còn tiêu cực, dẫn đến sự kì thị và phân biệt
đối xử: Điều này diễn ra dưới nhiều hình thức, ở nhiều bối cảnh khác nhau (gia
đình, cộng đồng, trường học, bệnh viện, nơi làm việc và các tổ chức ở địa phương).
Trong cộng đồng, nhiều dân cư coi NKT là “đáng thương”, không có cuộc sống
“bình thường”, là “gánh nặng” của xã hội… Về nhận thức pháp luật, nhiều người

12


không hề biết đến quy định của pháp luật về NKT. Từ đó dẫn đến sự kỳ thị, phân
biệt đối xử và nó diễn ra ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực: Gia đình, nơi làm việc, giáo
dục, hôn nhân gia đình, tham gia hoạt động xã hội, thậm chí sự kì thị từ chính NKT
(hầu hết NKT cho rằng mình kém cỏi hơn, mặc cảm, thấy khó hòa nhập cộng đồng).
Hoạt động hỗ trợ cho NKT còn rất hạn chế, thực tế cho thấy có sự khác biệt
lớn giữa nhu cầu của NKT và những giúp đỡ mà họ nhận được. Sự hỗ trợ của nhà
nước và cộng đồng mang tính từ thiện nhiều hơn là phát triển con người. Hầu hết
NKT được hỗ trợ như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, lương thực… nhưng lại ít
được trợ giúp trong việc làm, dạy nghề và tham gia hoạt động xã hội.
- Đặc điểm của NKT dưới góc độ dạng tật và mức độ khuyết tật.
Khuyết tật được phân loại dựa theo các quan điểm khác nhau của các nhà
nghiên cứu nhưng nói chung thường dựa trên tiêu chí của sự khiếm khuyết bộ phận
cơ thể hoặc suy giảm chức năng. Ở Việt Nam, việc phân loại NKT dựa trên quy

định về dạng tật và mức độ khuyết tật. Theo đó các dạng tật bao gồm: Khuyết tật
vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần;
khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác. Mỗi loại khuyết tật này có những đặc điểm nhất
định về tâm, sinh lý qua đó tác động đến các nhu cầu và sự hòa nhập của NKT.
Khuyết tật vận động: Là những người có cơ quan vận động bị tổn thương,
biểu hiện dễ nhận thấy là có khó khăn trong ngồi, nằm, di chuyển, cầm, nắm…Do
đó, NKT vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá nhân, vui chơi, học tập
và lao động. Tuy nhiên, đa số NKT vận động có bộ não phát triển bình thường nên
họ tiếp thu được chương trình học tập, làm được việc có ích cho gia đình, bản thân
và xã hội. NKT về vận động cần được sự hỗ trợ về phương tiện đi lại (xe lăn, gậy
chống…) và đặc biệt là không gian cần thiết, thuận tiện, phù hợp để di chuyển khi
làm việc, đảm bảo các nhu cầu cuộc sống bình thường của con người và tham gia
các hoạt động xã hội.
Khuyết tật nghe, nói (khuyết tật ngôn ngữ): NKT nghe, nói là người có khó
khăn đáng kể về nói và/hoặc về đọc viết làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình giao
tiếp và học tập. Khó khăn về nói, nghe, đọc của NKT ngôn ngữ ảnh hưởng trực tiếp

13


đến giao tiếp từ đó làm hạn chế sự làm việc, học tập, hòa nhập cộng đồng của họ.
Điều này làm họ dễ cảm thấy mất tự chủ, thiếu tự tin trong giao tiếp với người xung
quanh – nếu như khiếm khuyết của họ thay vì nhận được sự cảm thông lại vấp phải
thái độ giễu cợt hoặc thiếu kiên nhẫn của người nghe.
Khiếm thính: Theo quan điểm y tế (lâm sàng) thì người khiếm thính là những
người bị mất hoặc suy giảm về sức nghe kéo theo những hạn chế về phát triển ngôn
ngữ nói cũng như khả năng giao tiếp. Đặc điểm của những người khó khăn về nghe
(khiếm thính) là những người bị phá hủy cơ quan thính giác ở các mức độ khác
nhau dẫn đến việc người khiếm thính không có khả năng tri giác thế giới âm thanh
đặc biệt ngôn ngữ âm thanh. Hỗ trợ cần thiết với họ là phát hiện, chẩn đoán, chữa trị

sớm; cung cấp phương tiện trợ giúp (máy trợ thính); giao tiếp tổng hợp.
Khuyết tật nhìn (khuyết tật thị giác, khiếm thị): Là những người có tật về mắt
như: hỏng mắt, không đủ sức nhận biết thế giới hữu hình bằng mắt hoặc nhìn thấy
không rõ ràng. Tổ chức Y tế Thế giới (1992) còn đưa ra các khái niệm để phân biệt
mức độ khuyết tật nhìn khác nhau: Khiếm thị, nhìn kém, mù (hoàn toàn). NKT nhìn
có trí tuệ phát triển bình thường, có hai cơ quan phân tích thường rất phát triển:
thính giác và xúc giác, nếu được huấn luyện sớm và khoa học hoàn toàn có thể thay
thế cơ quan thị giác bị phá hủy. Ngôn ngữ, tư duy, hành vi, cách ứng xử của những
người này cũng giống người bình thường. Tuy nhiên, cũng có những tồn tại nhất
định như ngôn ngữ thiếu hình ảnh, không thể viết và đọc bằng chữ phẳng. Ít di
chuyển nên thể lực giảm sút, cơ bắp thiếu linh hoạt nên dễ tự ty và thiếu niềm tin ở
bản thân. Môi trường cần thiết với họ là tránh tiếng ồn, đảm bảo đủ ánh sáng, dùng
những màu tương phản, hợp lý trong sinh hoạt và các hoạt động khác, cung cấp
thiết bị phóng đại hình ảnh, công cụ di chuyển hỗ trợ thông minh, lối đi thuận tiện
và dễ nhận biết.
Khuyết tật trí tuệ: Xét về mức độ, đây là nhóm khuyết tật thường chịu nhiều
sự thiệt thòi và khó khăn trong cuộc sống. Khuyết tật về trí tuệ được xác định khi: i)
Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình (chỉ số thông minh đạt gần 70 hoặc thấp hơn
70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá nhân; ii) Bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít

14


nhất là hai trong số những hành vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia
đình, kỹ năng xã hội/cá nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng đồng, tự định hướng,
kỹ năng học đường, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn; iii) Tật xuất hiện trước
18 tuổi. NKT về trí tuệ có nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường
của họ và người thân cả về trí tuệ (phần lớn chỉ dùng ở mức độ tư duy trực quan cụ
thể, mức độ, nhịp độ tư duy của các thành phần không giống nhau); về trí nhớ (gặp
khó khăn về trí nhớ cả ngắn hạn và dài hạn, khó khăn trong việc nhớ những gì mang

tính trừu tượng hay có quan hệ logic, dễ quên những gì gần gũi với cuộc sống và
không gắn với nhu cầu bản thân); về chú ý (phần đông NKT có khó khăn khi phải
tập trung và duy trì sự chú ý vào một công việc nào đó, đặc biệt là chú ý đến lời nói.
Do duy trì chú ý kém nên việc tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin của NKT
thường gặp khó khăn); về kỹ năng giao tiếp xã hội (đa phần NKT trí tuệ yếu kém về
các kỹ năng xã hội, rất ít thậm chí không có nhu cầu giao tiếp); cuối cùng là về hành
vi (NKT trí tuệ thường có những hành vi làm cho họ khó hòa nhập: hành vi tự lạm
dụng, quá hiếu động, quá ù lì…).
Trên đây là những nhóm NKT chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng số NKT. Xét ở
góc độ đặc điểm về tâm sinh lý cho thấy tính đa dạng của khuyết tật và rõ ràng việc
đảm bảo các quyền của họ dưới phương diện pháp lý cũng cần tính đến yếu tố đặc
thù của các dạng khuyết tật khác nhau.
Ngoài các nhóm trên còn có những nhóm NKT như: người bị rối loạn hành
vi cảm xúc, người mắc hội chứng tự kỉ, người bị rối loạn ngôn ngữ, người đa tật…
1.1.1.3. Nhu cầu của người khuyết tật
Nhu cầu của NKT là những đòi hỏi cần được đáp ứng để tồn tại và phát triển.
NKT cũng có những nhu cầu cơ bản như mọi người trong xã hội và nhu cầu là
nguồn gốc thúc đẩy NKT hoạt động vươn tới những mục tiêu cho sự phát triển của
bản thân.
Theo quan điểm của nhà tâm lý học A.Maslow, con người có 5 loại nhu cầu
cơ bản được sắp xếp từ thấp tới cao:
+ Nhu cầu về sinh lý

15


+ Nhu cầu về an toàn
+ Nhu cầu được yêu thương, được kết bạn, được giao tiếp, được tham gia
vào các nhóm gắn bó tình cảm
+ Nhu cầu được tôn trọng

+ Nhu cầu về lao động, thăng tiến, phát triển
NKT thường là đối tượng khó khăn nhất trong bất kỳ xã hội nào và họ có
nhu cầu được sống và làm việc như những người bình thường nhưng do vì họ gặp
phải khuyết tật nên trong sinh hoạt hàng ngày, hoặc trong việc tìm kiếm sinh nhai
họ gặp không ít khó khăn; nhưng họ vẫn là con người vì vậy những nhu cầu của
một con người họ đều có (cụ thể 5 loại nhu cầu cơ bản theo A.Maslow) nhưng việc
đáp ứng các nhu cầu đó thường gặp khó khăn nhất định nên khát vọng của họ lại
càng rất cao.
Thực tế cho thấy, hiện nay một số nhu cầu bậc cao của NKT ít có cơ hội để
hiện thức hóa, NKT cần sự trợ giúp từ phía gia đình, cộng đồng, xã hội để họ có
thêm cơ hội đáp ứng các nhu cầu, giúp họ có cuộc sống bình thường, được phát
triển và hòa nhập. Một vài điểm cần chú ý:
- Sự thiếu hụt về thể chất dẫn tới khả năng hoạt động chức năng của NKT có
thể bị giảm sút, họ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong sinh hoạt, lao động, học
tập…Vì vậy, mà NKT cần được hỗ trợ, ưu tiên đặc biệt về: chăm sóc sức khỏe,
phục hồi chức năng, làm tay chân giả, cung cấp xe lăn, máy trợ thính, thiết bị tiện
nghi, nhà ở,… cần có được các dịch vụ giáo dục đặc biệt dành cho NKT;
- Do bị bệnh tật, khó khăn trong việc đi lại hoặc giao tiếp hạn chế nên hoạt
động lao động, giao lưu khó khăn hơn so với người bình thường nếu không có hỗ
trợ xã hội thì phạm vi quan hệ xã hội ở NKT sẽ bị thu hẹp. Gia đình, cộng đồng và
xã hội cần tạo điều kiện cho NKT hòa nhập vào cuộc sống xã hội của những người
bình thường và môi trường cộng đồng, gia đình cũng cần được thích ứng với hoàn
cảnh của NKT;
- NKT cần được học văn hóa, học nghề phù hợp với dạng tật và có nhu cầu
làm việc để kiếm tiền nuôi sống bản thân và phụ giúp gia đình. Các công việc thủ

16


công đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn có thể phù hợp với họ, việc làm vừa đem lại niềm

vui trong lao động vừa giúp cho họ có thu nhập… điều này giúp họ giảm bớt tâm lý
bị phụ thuộc vào kinh tế, tâm lý bị bỏ đi…;
- Sự thiếu hụt dẫn đến những cản trở trong sinh hoạt, lao động nên NKT
thường bị ức chế dẫn đến bi quan, chán nản, tự ti hay cáu gắt, nóng nảy… họ cần
được chấp nhận, tôn trọng của cộng đồng và xã hội;
- Họ cần được động viên khuyến khích, phát huy những mặt tích cực. Họ là
người rất giàu về nghị lực để vượt qua khó khăn của tật nguyền. Mặt khác, họ là
người có đời sống nội tâm rất nhạy và tế nhị, họ rất thông cảm với những khó khăn
của người khác hơn cả so với người bình thường. Chính vì vậy, họ là những người
hoạt động rất có hiệu quả trong các nhóm tự giúp.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu dạy nghề đối với người khuyết tật
1.1.2.1. Khái niệm dạy nghề/đào tạo nghề đối với người khuyết tật
Trước hết, cần làm rõ các khái niệm “đào tạo” và “nghề”.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: “Đào tạo là quá trình tác động đến một
con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
một cách hệ thống, chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng
nhận một sự phân công nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội,
duy trì phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người”.
Nói cách khác, Đào tạo là sự phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
cho mỗi cá nhân để họ thực hiện một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ thể một cách tốt
nhất. Đào tạo được thực hiện bởi các loại hình tổ chức chuyên ngành nhằm thay đổi
hành vi và thái độ làm việc của con người, tạo cho họ khả năng đáp ứng được tiêu
chuẩn và hiệu quả của công việc chuyên môn.
Nghề được hiểu là một dạng xác định của hoạt động lao động trong hệ thống
phân công lao động xã hội; là tổng hợp của những kiến thức, kỹ năng và thái độ
trong lao động mà con người tiếp thu được (do kết quả của đào tạo chuyên môn và
tích lũy kinh nghiệm trong quá trình làm việc) được chuyển hóa trong hoạt động
nghề nghiệp.

17



Theo Thuật ngữ Đào tạo nghề của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), dạy
nghề/đào tạo nghề là những hoạt động chủ yếu nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng và
thái độ cần cho việc làm trong một nghề, nhóm nghề có liên quan hoặc cho việc thực
hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực nào đó của hoạt động kinh tế. Việc đào tạo ở đây bao
gồm: đào tạo ban đầu, đào tạo lại, đào tạo nâng cao, cập nhật và đào tạo liên quan
đến công việc chuyên môn hóa.
Theo Điều 5, Chương I, Luật Dạy nghề: “Dạy nghề là hoạt động dạy và học
nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học
nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học”.
Như vậy, dạy nghề là một quá trình tác động có mục đích, có ý thức của con
người nhằm phát triển tay nghề (dạy nghề) và đạo đức, văn hóa nghề nghiệp (nhân
cách) của họ (thể hiện trên 2 mặt: kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nghề nghiệp),
phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động và phát triển nguồn lực quốc gia.
Theo Điều 68, Luật Dạy nghề: “Đào tạo nghề cho NKT nhằm giúp họ có năng
lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao động của mình để tự tạo việc làm hoặc
tìm được việc làm ổn định đời sống, hòa nhập cộng đồng”. Luật Dạy nghề chủ yếu đề
cập đến mục đích của hoạt động đào tạo nghề cho NKT, từ đây có thể thấy một số dấu
hiệu sau:
- Hoạt động đào tạo nghề cho NKT diễn ra trong mối quan hệ giữa hoạt động
dạy và hoạt động học;
- Mục đích của hoạt động đào tạo nghề cho NKT là trang bị cho NKT những
điều kiện để họ thực hiện một nghề theo sự phân công lao động xã hội. Đó là hệ thống
các kiến thức nghề nghiệp (gồm kiến thức chung và kiến thức chuyên biệt); các kỹ
năng, kỹ xảo hoạt động nghề nghiệp và thái độ đối với nghề nghiệp (say mê, yêu nghề,
tâm huyết với công việc,…);
- Việc đào tạo nghề cho NKT phải phù hợp với đặc điểm của đối tượng đào
tạo là NKT.
Như vậy, có thể khái quát đầy đủ: Dạy nghề đối với NKT là hoạt động dạy và

học nhằm trang bị cho NKT kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ nghề nghiệp cần

18


×