Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

Đánh giá hiệu quả của công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn xã Đông Quang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 100 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi: Khoa Quản lý đất đai – Trường Đại học Tài nguyên và môi trường Hà Nội
Hội đồng chấm đồ án tốt nghiệp
Tên em là: Đặng Thị Thanh Hảo - Sinh viên nghành quản lý đất đai Trường Đại
học Tài nguyên và môi trường Hà Nội
Em xin cam đoan đã thực hiện quá trình làm đồ

án

một cách khoa

học,

chính xác và trung thực.
Các kết quả, số liệu nêu trong đồ án đều có thật, thu được trong quá trình nghiên
cứu và chưa từng được công bố trong bất kỳ một tài liệu khoa học nào.
Hà Nội , ngày 06 tháng 06 năm 2016
Sinh viên

Đặng Thị Thanh Hảo

1


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực tập và làm đồ án, em đã nhận được sự giúp đỡ,
những ý kiến đóng góp, chỉ bảo quý báu của các thầy giáo, cô giáo Khoa Quản Lý
Đất Đai trường Đại Học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội.
Để có được kết quả nghiên cứu này, ngoài sự cố gắng và nỗ lực của bản thân,
em còn nhận được sự hướng dẫn chu đáo, tận tình của Th.s Nguyễn Thị Huệ khoa
Quản Lý Đất Đai là người đã hướng dẫn cho em thực hiện những định hướng và


hoàn thiện đồ án này.
Trong thời gian thực tập, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ
địa chính xã Đông Quang huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình .
Em cũng nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện của UBND xã Đông Quang, các
phòng ban và nhân dân xã; sự động viên, tạo mọi điều kiện về vật chất, tinh thần
của gia đình và người thân.
Với tấm lòng biết ơn, em xin chân thành cảm ơn mọi sự giúp đỡ quý báu đó!
Sinh Viên

Đặng Thị Thanh Hảo

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH ẢNH
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

3


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC HÌNH

DANH MỤC BIỂU ĐỒ


4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
BCHTƯ

Chú giải
: Ban chấp hành Trung Ương



: Bản đồ

BĐS

: Bất động sản

BVTV

: Bảo vệ thực vật

CCRĐ

: Cải cách ruộng đất

CN
CNH - HĐH

: Công nghiệp

: Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CSVN

: Cộng sản Việt Nam

CHXHCN
DĐĐT
GCNQSDĐ

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
: Dồn điền đổi thửa
: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

GTTL

: Giao thồn thủy lợi

HTX

: Hợp tác xã

HTXDVNN
KCN

: Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp

: Khu công nghiệp

K1

: Kênh mương cấp 1

K2

: Kênh mương cấp 2

LUT

: Loại hình sử dụng đất

THCS

: Trung học cơ sở

TMDV

: Thương mại dịch vụ

TTCN

: Tiểu thủ công nghiệp


UBND

: Trung Ương

: Ủy ban nhân dân

UBQ

: Ủy ban nhân dân quản lý

UBS

: Ủy ban nhân dân sử dụng

5


MỞ ĐẦU

1.1 . Tính cấp thiết của đề tài

Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc
biệt và không thể thay thế, là cơ sở của sản xuất nông nghiệp, là đối tượng lao động
độc đáo đồng thời cũng là môi trường sản xuất ra lương thực, thực phẩm với giá
thành thấp nhất, là một nhân tố quan trọng của môi trường sống và trong nhiều
trường hợp lại chi phối sự phát triển hay huỷ diệt các nhân tố khác của môi
trường. Đất đai vô cùng quý giá nhưng không phải là vô tận vì đất đai là hữu hạn
nên chúng ta cần phải sử dụng một cách hợp lý, khoa học mang lại hiệu quả tốt nhất
nhưng vẫn phải bảo vệ được môi trường tự nhiên, sinh thái. Việt Nam là quốc gia
đất chật người đông, đại bộ phận dân số sống bằng nông nghiệp vì vậy đất đai càng
trở nên quý giá và việc sử dụng đất đai một cách hiệu quả và hợp lý mang một ý
nghĩa vô cùng to lớn. Đảng và nhà nước ta đã ý thức được điều này nên đã có nhiều
chính sách đổi mới trong việc sử dụng đất nông nghiệp. Năm 1993 chính phủ đã
ban hành Nghị định 64/ ND-CP ngày 27/9/1993 về việc giao đất cho hộ gia đình cá

nhân sử dụng sản xuất nông nghiệp.
Thái Bình là một tỉnh nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, sau khi thực hiện
Nghị định 64/NĐ - CP ngày 27/9/1993 về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia
đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông nghiệp, ngành nông
nghiệp đã có bước nhảy vọt về năng suất, chất lượng, thu nhập và đời sống của
nông dân tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình theo
phương châm “có gần, có xa, có tốt, có xấu” bộc lộ một số hạn chế: ruộng đất được
giao manh mún, nhiều hộ gia đình có 15 - 16 mảnh đất nằm rải rác ở nhiều xứ đồng
(có nơi các xứ đồng cách nhau 1 - 2km); quy mô thửa đất nhỏ, có mảnh chỉ trên
dưới 100m2; Ruộng đất manh mún, đã gây trở ngại cho cơ giới hóa, khó áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật, không thể sản xuất tập trung … dẫn tới nông sản có giá thành
cao, khó huy động được một khối lượng sản phẩm lớn có chất lượng đồng đều đáp
ứng nhu cầu của thị trường.
Từ hạn chế trên Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 10/1998/ CT - TTg ngày 20
tháng 2 năm 1998 và Chỉ thị số 18/1999 /CT- TTg ngày 01 tháng 7 năm 1999,
khuyến khích nông dân, chính quyền địa phương các cấp xây dựng phương án
chuyển đổi ruộng đất từ thửa nhỏ manh mún dồn thành những thửa lớn thuận tiện
cho việc sản xuất nông nghiệp. Thực hiện Chỉ thị trên, tỉnh Thái Bình nói chung và
6


UBND huyện Đông Hưng nói riêng đã ban hành các nghị quyết, thông tư, hướng
dẫn về thực hiện việc dồn điền đổi thửa và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nông nghiệp. Với mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng Công
nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Để xác định mục đích, yêu cầu của công tác "Dồn điền đổi thửa đất nông
nghiệp" mang lại cho hộ gia đình cá nhân sử dụng đất những gì, mặt tích cực và
những hạn chế, về phát triển kinh tế hộ gia đình, cá nhân nói riêng, phát triển kinh
tế - xã hội nói chung đã đáp ứng được như thế nào. Để xác định những vấn đề nêu
trên tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài: "Đánh giá hiệu quả của công tác dồn

điền đổi thửa trên địa bàn xã Đông Quang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình"
1.2 Mục đích, yêu cầu của đề tài
1.2.1 Mục đích của đề tài
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã Đông Quang,
huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
- Đánh giá ảnh hưởng của kết quả quá trình “Dồn điền đổi thửa” đến hiệu quả
sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và công tác quản lý Nhà nước đối
với đất nông nghiệp trên địa bàn xã Đông Quang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái
Bình.
- Đưa ra những ưu điểm và tồn tại của công tác dồn điền đổi thửa ở xã Đông
Quang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
1.2.2 Yêu cầu của đề tài
- Thu thập đầy đủ tài liệu, số liệu về các vấn đề liên quan.
- Nguồn số liệu điều tra thu thập được phải có độ tin cây, chính xác, khách
quan, phản ánh đúng quá trình thực hiện công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn xã
- Nắm vững các kiến thức cơ bản đã học để đánh giá, phân tích số liệu đã thu
thập được một cách trung thực, khác quan, khoa học.
- Kiến nghị và đề xuất phải có tính khả thi, phù hợp với thực trạng của xã.

7


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.
1.1.1

Cơ sở lý luận
Manh mún ruộng đất

1.1.1.1. Các khái niệm cơ bản
Thửa đất là phần diện tích đất được giới hạn bởi ranh giới xác định trên thực
địa hoặc được mô tả trên hồ sơ.[1]
Manh mún ruộng đất (hay phân mảnh đất đai) là tình trạng mà đất đai bị chia
cắt thành những mảnh, những phần nhỏ và rời rạc. Ở đây ta có thể thấy được 2 kiểu
manh mún phổ biến: một là sự manh mún về mặt ô thửa, trong đó một đơn vị sản
xuất (thường là nông hộ) có quá nhiều mảnh ruộng với kích thước quá nhỏ và bị
phân tán ở nhiều xứ đồng. Hai là sự manh mún thể hiện trên quy mô đất đai của các
đơn vị sản xuất, số lượng ruộng đất quá nhỏ không tương thích với số lượng lao
động và các yếu tố sản xuất khác[10]. Đất đai manh mún là một trong những vấn đề
lớn của các nước đang phát triển trên toàn thế giới, sự gia tăng dân số nông thôn
một cách nhanh chóng đi kèm với chính sách thừa kế hiện tại làm đất đai ngày càng
bị chia nhỏ.
Để giảm tình trạng manh mún đất đai, có hai phương pháp phổ biển: tích tụ
đất đai và tập trung đất đai. Theo FAO (2003), tích tụ và tập trung đất đai sẽ tạo ra
một khu vực cạnh tranh trong nông nghiệp bằng cách tận dụng các lợi thế của sản
xuất trên quy mô lớn và khắc phục hạn chế do manh mún đất đai. Thêm vào đó, tích
tụ và tập trung đất đai khuyến khích hình thành vùng chuyên môn hóa sản xuất và
dễ dàng thực hiện các chính sách cho ngành nông nghiệp.
1.1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng manh mún ruộng đất
Thứ nhất, do mật độ dân số. Với diện tích đất sản xuất nông nghiệp nhất định
phải chia đều cho một lượng người quá lớn sẽ làm cho diện tích canh tác bình quân
đầu người thấp. Ở Việt Nam, bình quân đất sản xuất trên đầu người cũng có sự phân
hóa rất rõ: vùng có mật độ dân số thấp thì diện tích đất canh tác sẽ cao và ngược lại.
Thứ hai, do chính sách đất đai và định hướng xã hội. Mục tiêu của xã hội Việt
Nam hướng tới công bằng cho tất cả mọi người. Trong việc phân đất nông nghiệp
cho nông dân cũng cần đảm bảo nguyên tắc công bằng chung đó. Với một địa bàn
nhất định, độ màu mỡ của đất sản xuất là không giống nhau, khoảng cách với khu
8



dân cư cũng có sự khác biệt. Do đó, sẽ là không công bằng nếu cá nhân này được
canh tác trên thửa ruộng có độ màu mỡ hơn cá nhân khác, hoặc canh tác ở địa điểm
gần khu dân cư hơn người khác. Vì vậy, mỗi hộ nông dân sẽ nhận được nhiều mảnh
ruộng để có thể đảm bảo tương đối về độ màu mỡ, khoảng cách của các thửa ruộng.
Thứ ba, do yếu tố văn hóa. Người Việt Nam có tâm lý muốn chuyển giao toàn
bộ tài sản của cha mẹ cho các con khi về già, trong đó có vấn đề ruộng đất. Thêm
vào đó là đặc điểm điển hình của các hộ nông dân là đông con sẽ làm cho đất đai
ngày càng bị phân tán.[7]
1.1.1.3. Khó khăn do tình trạng manh mún ruộng đất đem lại
Hạn chế khả năng áp dụng cơ giới hoá nông nghiệp, không giảm được chi phí
lao động đầu vào.
Thửa ruộng quá nhỏ khiến nông dân ít khi nghĩ đến việc đầu tư tiến bộ kỹ
thuật để tăng năng suất. Đầu tư có thể giúp tăng năng suất nhưng trên diện tích quá
nhỏ thì sản lượng tăng không đáng kể.
Thửa ruộng đã nhỏ, nhiều thửa lại phân tán làm tăng rất nhiều công thăm
đồng, vận chuyển phân bón và thu hoạch, mặt khác nông dân không muốn trồng cây
hàng hoá do phải tăng công bảo vệ.
Quy mô ruộng đất nhỏ làm giảm lợi thế cạnh tranh của một số sản phẩm nông
nghiệp trong bối cảnh giá nông sản luôn có sự biến động bất ổn định.
Nhiều thửa ruộng dẫn tới lãng phí đất canh tác do phải làm nhiều bờ ngăn.
Nhà nước cũng tốn kém một khoản tiền khá lớn cho quá trình lập hồ sơ ruộng
đất.[10]
1.1.2. Dồn điền đổi thửa
1.1.2.1. Khái niệm
Khái niệm của dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp
“`Khái niệm DĐĐT (Group of land, trong tiếng Anh và Remenbrement des
teres, trong tiếng Pháp) là việc tập hợp, dồn đổi các thửa ruộng nhỏ thành thửa
ruộng lớn, trái ngược với việc chia các mảnh ruộng to thành các mảnh ruộng nhỏ.
Có 2 cơ chế chủ yếu để thực hiên DĐĐT, một là để cho thị trường ruộng đất và các

nhân tố phi tập trung tham gia vào, Nhà nước chỉ hỗ trợ sao cho cơ chế này vận
hành tốt hơn. Hai là thực hiện các biện pháp can thiệp hành chính, tổ chức phân
chia lại ruộng đất, thực hiện các quy hoạch có chủ định. Theo cách này, các địa
9


phương đều xác định là DĐĐT sẽ không làm thay đổi các quyền của nông hộ đối
với ruộng đất đã được quy định trong pháp luật. Tuy nhiên, việc thực hiện quá trình
này có thể làm thay đổi khả năng tiếp cận ruộng đất của các nhóm nông dân hưởng
lợi khác nhau dẫn đến thay đổi bình quân ruộng đất ở các nhóm xã hội khác nhau”.
[8]
Theo đó, dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp ở nước ta là việc chuyển đổi
ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành lớn giữa các hộ nông dân, đẩy mạnh quá trình tích tụ
ruộng đất để đưa nền nông nghiệp nhỏ lẻ phát triển thành sản xuất hàng hóa quy mô
lớn dưới sự chỉ đạo thống nhất của các cán bộ Đảng viên từ cấp Trung ương đến địa
phương.
1.1.2.2. Quy trình, trình tự chung thực hiện dồn điền đổi thửa
1. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp tự thỏa thuận với nhau bằng
văn bản về việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã lập phương án chuyển đổi quyền sử dụng đất nông
nghiệp chung cho toàn xã, phường, thị trấn (bao gồm cả tiến độ thời gian thực hiện
chuyển đổi) và gửi phương án đến Phòng Tài nguyên và Môi trường.
3. Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm thẩm tra phương án trình
Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt và chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức
cho các hộ gia đình, cá nhân chuyển đổi ruộng đất theo phương án được duyệt.
4. Sở Tài nguyên và Môi trường chỉ đạo thực hiện việc đo đạc, lập, chỉnh lý
bản đồ địa chính.
5. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nộp hồ sơ cấp đổi Giấy chứng nhận.
6. Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây:
a) Kiểm tra hồ sơ, xác nhận nội dung thay đổi vào đơn đề nghị cấp đổi Giấy

chứng nhận;
b) Lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho người sử dụng
đất;
c) Lập hoặc cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa chính, cơ sở dữ liệu đất đai; tổ chức
trao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất cho người sử dụng đất tại xã, phường, thị trấn nơi có đất.

10


Trường hợp người sử dụng đất đang thế chấp quyền sử dụng đất tại tổ chức tín
dụng thì Văn phòng đăng ký đất đai thực hiện trao Giấy chứng nhận theo quy định
tại Khoản 5 Điều 76 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP.[2]
Căn cứ vào quy định trên, việc dồn điền đổi thửa sẽ do sự thỏa thuận giữa các
hộ gia đình với nhau. Cơ quan nhà nước tại địa phương không có nghĩa vụ và thẩm
quyền thu hồi lại toàn bộ phần diện tích đất ruộng sau đó đem chia lại để thực hiện
việc dồn điền đổi thửa mà chỉ có nhiệm vụ lập phương án chuyển đổi quyền sử
dụng đất nông nghiệp cho toàn địa phương.
1.1.2.3. Sự cần thiết và vai trò của dồn điền đổi thửa
Với những khó khăn nêu trên, việc chuyển đổi ruộng đất để tạo ô thửa lớn là
việc làm cần thiết tạo tiền đề thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá, nhằm thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Vai trò của công tác dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp: dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp khắc phục tình trạng
đất nhỏ lẻ, phân tán. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp của các hộ gia đình, cá
nhân đã liền khoảnh, liền khu, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ cải tạo ruộng đồng,
thâm canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tiết kiệm chi phí sản xuất và tạo điều kiện
tốt hơn cho cơ giới hoá. Giảm bớt thời gian đi lại vận chuyển, thu hoạch cho các hộ
nông dân. Tăng thêm diện tích canh tác do giảm bớt diện tích đất để làm bờ ruộng.

Tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh cũng như thuận
lợi cho việc áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào sản xuất góp phần thực hiện
mục tiêu cánh đồng có thu nhập cao cho các địa phương.
Dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp là cơ hội để qui hoạch và phát triển hệ
thống giao thông thuỷ lợi, tạo điều kiện phát triển đa dạng hoá nông nghiệp.
Quá trình dồn điền, đổi thửa cho phép khắc phục tình trạng nhỏ lẻ ruộng đất,
làm cho qui mô diện tích các mảnh ruộng tăng lên. Nhưng theo đó là sự tăng nhu
cầu dịch vụ sản xuất, đặc biệt là nhu cầu đảm bảo tưới tiêu, vận chuyển sản phẩm và
cơ giới hoá sản xuất trong tương lai. Vì vậy trong triển khai dồn điền, đổi thửa đất
nông nghiệp việc mở rộng đường giao thông, thuỷ lợi, bê tông hoá kênh mương
thuỷ lợi, cũng như giảm chi phí cứng hóa, bê tông hoá kênh mương là rất quan
trọng.
Dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp tạo cơ sở cho viêc cải thiện công tác quản
lý đất đai thông qua quá trình điều tra đất đai cập nhật quĩ đất, trao đổi và giao lại
đất có sự tham gia tích cực của các hộ nông dân của địa phương.
11


Những khó khăn, tồn tại liên quan đến tình trạng tranh chấp, lấn chiếm đất đai,
giao đất chưa công bằng trước đây được giải quyết, tạo không khí phấn khởi, đoàn
kết trong xóm làng.[8]
1.2.

Cơ sở pháp lý.
- Hiến pháp 2013;
- Luật đất đai 2003;
- Luật đất đai 2013;
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ
về thi hành Luật Đất đai 2003;
- Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ về

thi hành Luật Đất đai 2013;
- Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương
khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
- Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7
của Ban Chấp Hành Trung ương ( khóa X ) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
- Nghị định 64/ ND-CP ngày 27/9/1993 về việc giao đất cho hộ gia đình cá
nhân sử dụng sản xuất nông nghiệp;
- Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ về
thi hành Luật Đất đai 2013;
- Chỉ thị số 10/1998/ CT - TTg ngày 20 tháng 2 năm 1998 và Chỉ thị số
18/1999 /CT- TTg ngày 01 tháng 7 năm 1999, khuyến khích nông dân, Chính
quyền địa phương các cấp xây dựng phương án chuyển đổi ruộng đất từ thửa nhỏ
manh mún dồn thành những thửa lớn thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp;
- Thông báo số 2183/BNN-KTHT ngày 24/7/2009 của Bộ Nông Nghiệp và Phát
Triển Nông Thôn về việc thực hiện chủ trương xây dựng nông thôn mới;
- Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường Quy định về bản đồ địa chính;
- Thông tư 28/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 02
tháng 6 năm 2014 về thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng
đất;
12


- Thông tư 29/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày
02/06/2014 Quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất;
1.3. Cơ sở thực tiễn.
1.3.1. Những kinh nghiệm về dồn điền đổi thửa ở một số quốc gia.
-


Trung Quốc :
Đất sản xuất nông nghiệp của Trung Quốc đã giảm nhanh từ 130,04 triệu ha
năm 1996 xuống còn 121,72 triệu ha năm 2008, do tác động của quá trình đô thị
hóa nhanh và thiên tai. Đến năm 2010, diện tích đất trồng trọt ở Trung Quốc vào
khoảng 0,092 ha/người, chỉ bằng 40% mức trung bình của thế giới. Miếng đất để
nuôi 5 khẩu nay chỉ đủ nuôi 2 khẩu. Ruộng đất ở Trung Quốc rất manh mún, bình
quân 0,67 ha/hộ gia đình, bằng 1/4 bình quân thế giới vậy nên việc sản xuất thực sự
không hiệu quả, gây mất an toàn cho an ninh lương thực, khiến cán cân thu nhập
lệch hẳn về các đô thị. Trong bối cảnh dân số ngày càng gia tăng, tình trạng thiếu
đất trồng trọt và nước tưới ngày càng trầm trọng như hiện nay, nhằm bảo vệ đầy đủ
quyền lợi của nông dân cũng như đảm bảo an ninh lương thực cho quốc gia đông
dân nhất thế giới này, mới đây Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc
khóa XVII đã chính thức thông qua kế hoạch cải cách ruộng đất đầy táo bạo. Trung
Quốc sẽ thực thi chế độ bảo hộ ruộng đất, bảo hộ quyền tự chủ kinh doanh của nông
dân, bồi thường thích đáng cho các trường hợp người dân bị chiếm dụng ruộng đất.
Tiền chuyển nhượng ruộng đất phải thuộc về nông dân. Ruộng đất là sở hữu tập thể,
nhưng quyền sản xuất kinh doanh nằm trong tay nông dân và quyền của họ được
bảo đảm, không thay đổi. Trung Quốc đã quyết định đưa ra một thay đổi cơ bản.
Trước hết là nâng thời hạn quyền sử dụng đất lên 70 năm nhằm đảm bảo quyền lợi
cho người nông dân đầy đủ hơn. Bên cạnh đó, họ sẽ được phép chuyển nhượng, cho
thuê và cầm cố quyền sử dụng mảnh đất của mình để thu lợi nhuận trên thị trường
giao dịch ruộng đất. Đối tượng được chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng ruộng đất
có thể là cá nhân hoặc công ty … Nếu chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phải đúng
với chiến lược lâu dài của vùng đó và phải nằm trong chỉ giới đỏ, đảm bảo cả nước
luôn duy trì 1,8 tỷ mẫu đất nông nghiệp trở lên. Hiện ở Trung Quốc, nhiều địa
phương thu hồi đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp đã phải trả lại cho nông
dân sản xuất nông nghiệp. Ngoài ra, Trung Quốc đặc biệt coi trọng việc bảo vệ đất
canh tác, đặc biệt là “đất ruộng cơ bản” đã được chính quyền xác định dùng vào sản
xuất lương thực, bông, dầu ăn, rau, hoặc đã có công trình thuỷ lợi tốt. Luật còn quy
định cụ thể đất ruộng cơ bản phải chiếm 80% trở lên đất canh tác của mỗi tỉnh.

Nguyên tắc bảo vệ đất canh tác là “chiếm bao nhiêu, khẩn bấy nhiêu”, nếu không có
13


điều kiện thì nộp phí khai khẩn cho cấp tỉnh dùng để khai hoang. Cấm không được
chiếm dụng đất canh tác để xây lò gạch, mồ mả hoặc tự ý xây nhà, đào lấy đất cát,
khai thác đá, quặng … [11]
-

Nhật Bản :
Hiện tại, Nhật Bản là đất nước công nghiệp hàng đầu thế giới, với sự phát
triển tiên tiến của công nghệ và ứng dụng khoa học kỹ thuật, Nhật Bản cũng là nước
có nền nông nghiệp rất phát triển.
Do điều kiện tự nhiên của đất đai ở Nhật hoàn toàn khác so với ở phương Tây,
chỉ áp dụng cách trồng cấy với kỹ thuật của nước ngoài thì không hiệu quả. Do vậy
người ta thay đổi trọng tâm, trở lại coi gạo là sản phẩm chính và phát triển những
phương pháp thâm canh. Nhà nước lập các trung tâm thử nghiệm để tiến hành lai
ghép những loại cây nông nghiệp quan trọng.
Cuộc cải cách ruộng đất năm 1946 là thành công nhất trong việc tạo ra những
thay đổi cơ bản và rộng khắp ở Nhật Bản. Việc phân phối lại đất đai một cách mạnh
mẽ đã gần như chấm dứt tình trạng thuê đất vào năm 1949 và kết quả là khoảng
90% đất canh tác do chính người sở hữu tự trồng cấy.
Chính phủ giúp đỡ nhà nông bằng cách lập các chương trình hỗ trợ giá, nhất là
đối với gạo. Chính phủ cũng dành sự ủng hộ mạnh mẽ cho các trường kỹ thuật nông
nghiệp, các trung tâm thử nghiệm và các chương trình mở rộng. Các hợp tác xã
nông nghiệp đẩy mạnh những hoạt động tích cực kể trên của chính phủ bằng cách
cho vay với lãi xuất thấp và tiến hành tiếp thị theo nhóm ở cấp độ làng xã.
Tuy nhiên, các số liệu thống kê năm 2005 cho thấy có 380.000 ha đất nông
nghiệp ở Nhật Bản bị bỏ hoang, chiếm 8% trong tổng diện tích đất nông nghiệp của
nước này và tăng mạnh so với con số khoảng 130.000 ha trong giai đoạn 19751985.Tình trạng thiếu lao động và hiện tượng “già hóa” lao động trong ngành nông

nghiệp là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới sự gia tăng diện tích đất
hoang hóa. Vì vậy, tháng 7/2014, Bộ Nông-Lâm-Ngư nghiệp Nhật Bản công bố
chiến lược cải cách nông nghiệp. Việc phá bờ để tạo nên thửa ruộng to hơn đang
được tiến hành. Mục tiêu quan trọng nhất là tăng hiệu quả sử dụng đất và tập trung
đất đai vào các nhà sản xuất lớn, để giảm chi phí sản xuất, qua đó giảm giá thành,
đồng thời để tận dụng tối đa khả năng vận hành của máy móc.

14


-

Mỹ :
Nước Mỹ có ngành nông nghiệp tân tiến, hiện đại nhất thế giới. Lao đông
nông nghiệp chiếm khoảng 1% trong tổng dân số 322 triệu người. Đất khả canh
chiếm 18,1%. Năm 2012, tổng số nông trại ở Mỹ có 2,109,363 cái, trung bình mỗi
trại có diện tích 434acres (1 acre = 0.4015 ha). Tổng giá trị nông phẩm đạt $394.6
tỷ, trong đó thu về các sản phẩm trồng trọt $219.6 tỷ, sản phẩm chăn nuôi đạt
$171.7 tỷ.
Khi giành được độc lập từ tay nước Anh vào năm 1783, những người sáng lập
nước Mỹ thấy cần phải xây dựng một hệ thống phân phối đất đai mới. Họ thống
nhất rằng tất cả đất đai chưa có người sở hữu sẽ thuộc quyền của chính phủ liên
bang. Đạo luật về đất đai năm 1862, đã mở ra những vùng đất đai rộng lớn miền
Tây cho việc định cư dễ dàng, đất đai được trao không mất tiền cho những người
định cư nếu họ vẫn sống và làm việc trên đó. Một luật nữa cũng được thông qua
cùng năm đó, giành riêng một phần đất đai liên bang để tạo ra thu nhập dùng vào
việc xây dựng các trường đại học, còn gọi là các trường đại học được ban đất, ở các
bang khác nhau. Việc cấp vốn cho các trường đại học thông qua Đạo luật Morrill
tạo ra những cơ hội mới về giáo dục và đào tạo trong các lĩnh vực kỹ thuật thực
hành, bao gồm cả kỹ thuật canh tác.

Trước cuộc Nội chiến (1861-1865), những đồn điền lớn với diện tích hàng
trăm hecta, nếu không muốn nói là hàng nghìn hecta, được thiết lập để sản xuất
thuốc lá, gạo và bông với quy mô lớn. Các trang trại này được kiểm soát chặt chẽ
bởi một số ít gia đình giàu có. Hầu hết người lao động ở trang trại là nô lệ. Với việc
xóa bỏ chế độ nô lệ sau Nội chiến, nhiều nô lệ trước đây ở lại trên vùng đất đó như
các nông dân làm thuê (còn gọi là người cấy rẽ) theo các thỏa thuận với những chủ
cũ của họ.
Việc cung cấp rất nhiều lương thực thực phẩm cho công nhân trong nhà máy,
công xưởng và các cửa hàng là yếu tố thiết yếu cho tiến trình công nghiệp hóa ban
đầu của nước Mỹ. Hệ thống đường thủy và đường bộ phát triển đã mở ra khả năng
vận chuyển nông phẩm trên các tuyến đường dài. Các sáng kiến mới như máy cày
rẽ bằng thép (cần thiết cho các vùng đất cứng ở miền Trung Tây), máy gặt (một loại
máy thu hoạch lúa hạt) và máy liên hoàn (một loại máy cắt, đập và quạt lúa) đã cho
phép các trang trại nâng cao năng suất. Vào năm 1860, hai triệu nông trại của quốc
gia đã sản xuất dư thừa hàng hoá. Trên thực tế, các sản phẩm nông nghiệp chiếm

15


82% hàng hóa xuất khẩu của đất nước trong năm 1860. Với một ý nghĩa rất thực tế,
ngành nông nghiệp đã tạo ra sức mạnh cho sự phát triển kinh tế Mỹ.[6]
1.3.2. Chính sách ruộng đất và dồn điền đổi thửa ở Việt Nam
1.3.2.1. Chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám
1945 đến 1986
a. Thời kỳ kháng chiến 1945-1954
- Ngày 20/10/1945 Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô 25%;
- Ngày 26/10/1945 Chính phủ ra Nghị định giảm thuế 20 %;
- Tháng 1/1948 Hội nghị lần thứ 2 BCHTƯ Đảng đã đề ra các chính sách
ruộng đất trong thời kỳ kháng chiến, đã đề ra các định hướng cơ bản của việc tịch
thu ruộng đất của địa chủ để chia cho dân nghèo.

- Tháng 2/1949 Chính phủ ra sắc lệnh tạm cấp ruộng đất của Việt gian và chia
ruộng đất của của thực dân Pháp cho dân cày nghèo.
- Tháng 3/ 1952 Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về sử dụng đất công
điền, công thổ. Đến thời điểm này số ruộng đất công ở 3.035 xã ở miền Bắc đã chia
cho nông dân là 184.871 ha, chiếm 77% diện tích đất công điền, công thổ ở các địa
phương.
- Tháng 11/1953 Hội nghị lần thứ Năm BCHTƯ Đảng khóa II đã thông qua
cương lĩnh ruộng đất.
- Tháng 12/1953 Quốc hội đã thông qua Luật Cải cách ruộng đất.
b. Thời kỳ khôi phục kinh tế 1955-1957 ở miền Bắc
- Tháng 9/1954 Bộ Chính trị ra quyết định thực hiện hoàn thành CCRĐ và Kế
hoạch 3 năm khôi phục kinh tế (1955-1957).
- Tháng 5/1955 Quốc Hội ban hành 8 chính sách khuyến khích sản xuất nông
nghiệp.
Khi chiến tranh kết thúc, 140.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang hóa; 200.000 ha
không có nước tưới. Sau 3 năm phục hồi kinh tế, 85% diện tích ruộng đất bỏ hoang
đã được phục hóa; 3 công trình đại thuỷ nông (sông Cầu, Bái Thượng, Đô Lương),
được khôi phục, 14 công trình trung thủy nông được xây dựng, hệ thống đê sông
Hồng, sông Cầu, sông Đáy được gia cố. Sản xuất nông nghiệp phục hồi (Sản lượng

16


lương thực đạt 3.947.000 tấn so với 2.400.000 tấn năm 1939), đời sống nhân dân
được cải thiện.

17


c. Thời kỳ hợp tác hóa 1958-1960

- Tháng 8/1955 Hội nghị lần thứ 8 BCHTƯ Đảng khóa II đã thông qua chủ
trương xây dựng thí điểm hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.
- Tháng 11/1958 Hội nghị lần thứ 14 BCHTƯ Đảng khóa II đã đề ra kế hoạch
3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế miền Bắc (1958-1960): hợp tác hóa
nông nghiệp là khâu chính trong toàn bộ dây chuyền cải tạo XHCN ở miền Bắc
nước ta. Kết quả đến cuối năm 1960 toàn miền Bắc đã căn bản hoàn thành xây dựng
HTX với 41.400 HTX, thu hút 2,4 triệu hộ nông dân với 85,8 % số hộ và 76% diện
tích ruộng đất tập thể. Đồng thời với xây dựng HTX, trong 2 năm 1957, 1958 Nhà
nước đã thành lập 6 tập đoàn sản xuất nông nghiệp, đến cuối năm 1959 đã thành lập
48 nông trường quốc doanh.
d. Thời kỳ hợp tác hóa – tập thể hóa 1961-1985
Quá trình hợp tác hóa nông nghiệp đã diễn ra nhanh chóng, với sự tập trung
cao độ ruộng đất và các tư liệu sản xuất, lao động, ruộng đất đã được tập thể hóa
triệt để. Trong điều kiện thời chiến HTX nông nghiệp đã góp phần chi viện sức
người, sức của cho giải phóng miền nam thống nhất đất nước.
Cuối năm 1974, đầu năm 1975 chủ trương xây dựng cấp huyện và tổ chức lại
sản xuất nông nghiệp được triển khai mạnh mẽ. Phong trào đã tạo ra “các công
trường thủ công” làm thủy lợi, khai hoang, lập vùng kinh tế mới, di dân, rời làng
với khí thế dời non, lấn biển. Mô hình tập thể hóa nông nghiệp đã đạt đến đỉnh cao,
hoàn chỉnh, phân công lao động trong HTX nông nghiệp theo hướng chuyên môn
hóa. Vào năm 1975 cả nước đã có 17.000 HTX, trong đó 90% là HTX bậc cao, số
hộ xã viên chiếm 95,6% số hộ nông dân miền Bắc, trong đó hộ xã viên HTX bậc
cao chiếm 96,4%; bình quân 1 HTX có diện tích đất canh tác là 115 ha, 199 hộ và
337 lao động trong độ tuổi.
Đại Hội Đảng CSVN lần thứ IV tháng 12 năm 1976 quyết định đường lối xây
dựng CNXH trên phạm vi cả nước. Chủ trương xây dựng cấp huyện, hoàn thiện xây
dựng HTX quy mô toàn xã, tổ chức nông nghiệp sản xuất lớn được tiếp tục khẳng
định: “Tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung, xóa bỏ kiểu tổ chức
sản xuất và ăn chia theo đội. Các HTX phân phối lại ruộng đất cho các đội trên
nguyên tắc tiện canh tiện cư với quy mô lớn, tránh phân tán, chia sẻ ruộng đất manh

mún”.

18


- Ngày 13/1/1980 Ban Bí thư TƯ Đảng đã ban hành Chỉ thị số 100 về “Cải
tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong
HTX nông nghiệp”. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư đã tạo cho xã viên được quyền sử
dụng đất trong khuôn khổ rộng rãi hơn, thiết thực và gắn bó hơn với lợi ích của
người lao động.
- Ngày 18/1/1984 Ban Bí thư TƯ Đảng đã ban hành Chỉ thị 35 về “khuyến
khích phát triển kinh tế gia đình”, về “đất cho phép các hộ gia đình nông dân tận
dụng mọi nguồn đất đai mà HTX, nông lâm trường chưa sử dụng hết để đưa vào sản
xuất”.
Với các chính sách trên, trong giai đoạn từ 1981-1985 sản xuất nông nghiệp đã
có bước phát triển: giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp tăng 6%, thu nhập quốc dân
trong nông nghiệp tăng 5,6%, sản lượng lương thực tăng 27%, năng suất lúa tăng
23,8%; diện tích cây công nghiệp tăng 62,1%, đàn bò tăng 33,2%, đàn lợn tăng
22,1%.[4]
1.3.2.2. Chính sách pháp luật đất đai trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến 2003
a. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
Đường lối Đổi mới, đẩy mạnh Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa đã được xác định tại các
Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VI (1986) đến Khoá X
(2006), trong đó: "Thúc đấy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các
loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các thị trường
quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị
trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ.
Về sản xuất nông nghiệp, ngày 5 tháng 4 năm 1988, Bộ Chính trị ban hành
Nghị quyết 10 về “Đổi mới quản lý nông nghiệp” đã chỉ rõ: "Tiếp tục hoàn thiện cơ

chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và hộ xã viên, đến người lao động ... phải
điều chỉnh diện tích giao khoán, khắc phục tình trạng phân chia ruộng đất manh
mún, bảo đảm cho người nhận khoán canh tác trên diện tích cũ quy mô thích hợp và
ổn định trong khoảng 15 năm".
b. Đổi mới cơ chế quản lý đất đai
Thể chế hoá chủ trương, chính sách đất đai của Đảng, Hiến Pháp CHXHCN
Việt Nam năm 1992, đã quy định: đất đai thuộc sở hữu toàn dân (Điều 17); Nhà
nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật (Điều 18).
19


Luật đất đai 1987, 1993, 1998, 2001, 2003 đã cụ thể hoá các quy định về đất
đai của Hiến pháp. Luật Đất đai đã quy định các nguyên tắc quản lý và sử dụng đất
đai: đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy
hoạch, pháp luật, sử dụng đất đai hợp lý hiệu quả và tiết kiệm, bảo vệ cải tạo bồi
dưỡng đất, bảo vệ môi trường để phát triển bền vững; các quyền của người sử dụng
đất: được cấp GCNQSDD, được hưởng thành quả lao động và kết quả đầu tư trên
đất được giao, được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử
dụng đất, được góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh; nghĩa vụ của
người sử dụng đất: sử dụng đúng mục đích, bảo vệ đất, bảo vệ môi trường, nộp thuế, lệ
phí, tiền sử dụng đất, bồi thường khi được nhà nước giao đất, trả lại đất khi nhà nước
có quyết định thu hồi. Bộ luật dân sự cũng quy định cụ thể các quan hệ dân sự liên
quan đến quyền sử dụng đất.[4]
1.3.2.3. Chính sách pháp luật đất đai từ 2003 đến 2013
Ngoài diện tích của nhà đất bị thu hồi phục vụ yêu cầu quốc phòng, an ninh,
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của Nhà nước, còn phần lớn diện tích đất
nông nghiệp thu hồi của nông dân lại do các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ như
xây dựng khách sạn, nhà hàng, sân gôn, khu vui chơi giải trí cao cấp, kinh doanh
bất động sản, các dự án FDI…thu lợi nhuận với giá cao nhưng chỉ đền bù cho nông
dân bị mất đất với giá thấp, gây thiệt hại cho hộ nông dân. Chính điều đó khiến cho

nội dung về mục đích sử dụng đất của Nhà nước theo Luật đất đai 2003 không đạt
được.
Chính vì vậy, nội dung sửa đổi Luật Đất đai tập trung vào hai vấn đề trọng tâm
là “Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất” và “Tài chính đất đai”, mà chủ yếu là giá
đất và bồi thường giải phóng mặt bằng.
Đối với đất nông nghiệp, những điểm mới quan trọng nhất trong Luật Đất đai
năm 2013 là: nâng thời hạn giao đất nông nghiệp trong hạn mức cho hộ gia đình, cá
nhân từ 20 năm lên 50 năm thống nhất cho các loại đất nông nghiệp (đất trồng cây
hàng năm và cây lâu năm, đất lâm nghiệp); cho phép hộ gia đình, cá nhân tích tụ đất
đai với diện tích lớn hơn nhưng không vượt quá 10 lần hạn mức giao đất nông
nghiệp. Khuyến khích tích tụ đất đai thông qua cơ chế góp vốn bằng giá trị quyền
sử dụng đất, nhận quyền thuê đất để thuận lợi cho ứng dụng khoa học và công nghệ,
cơ giới hóa và phát triển sản xuất hàng hóa.[3]
1.3.3. Tình hình manh mún ruộng đất ở Việt Nam, nguyên nhân và khó khăn mà
nó mang lại.
20


Theo Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn
(1999), 70.36% hộ nông thôn có diện tích canh tác khoảng 0,5 ha trong đó chỉ có
3,46% số hộ có diện tích canh tác lớn hơn 3 ha. Từ năm 2004 đến 2006, tỉ lệ hộ có
diện tích lớn hơn 3,6 ha tăng lên 4.6 lần. Tỉ lệ các hộ có diện tích trung bình thấp
hơn 0,5 ha (94,2% trên khắp khu vực nông thôn) tập trung chủ yếu ở khu vực lưu
vực sông Hồng. Tình trạng manh mún và phân tán đất đai rất phổ biến ở khu vực
này. Hộ gia đình canh tác trên các mảnh đất nhỏ với số lượng trung bình khoảng 4,5
mảnh/hộ. Nếu so sánh với con số 4,9 mảnh/hộ của cả nước thì sự chênh lệch này là
không đáng kể, đây là thách thức cho vùng lưu vực sông Hồng vì khu vực này có
mật độ dân số cao trên cả nước (1332,94 người/km2).[10]
Bảng 1.1. Thực trạng manh mún đất đai của một số tỉnh thành và vùng trên cả
nước năm 2010.

Một số tỉnh và vùng trên cả
nước

Diện tích đất canh tác
(ha)

Số mảnh đất

Tổng khoảng cách đến
các mảnh (m)

(trung bình)

Hà Tây

0.24

5.3

4,066

Lào Cai

1.06

5.1

6,499

Phú Thọ


0.51

6.2

4,084

Thái Bình

0.19

3,6

3,467

Lai Châu

0.95

5.3

9,655

Điện Biên

1.19

6.1

12,196


Nghệ An

0.68

4.8

3,871

Quảng Nam

0.36

4.5

3,180

Khánh Hòa

1.00

3.5

4,242

Đắk Lắk

1.47

3.9


5,754

Đắk Nông

2.61

3.1

7,188

Lâm Đồng

1.37

2.9

5,036

Long An

1.52

3.0

2,298

Đồng bằng phía Bắc

0.41


5.5

4,034

Miền núi phía Bắc

1.06

5.5

9,602

Tây Nguyên

1.83

3.4

6,066

Đồng bằng phía Nam

0.94

3.7

2,828

Nguồn : Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.

Với diện tích đất nông nghiệp trên 96.000 ha, Thái Bình là một trong những
tỉnh có bình quân đất nông nghiệp/ hộ vào diện thấp nhất cả nước, chỉ có gần 2.000
m2. Trung bình đất canh tác là 500 m 2/người. Với một tỉnh nông nghiệp như Thái
21


Bình mà diện tích đất nông nghiệp bình quân lại thấp như thế, thì việc làm giàu và
phát triển kinh tế của người nông dân xem ra vô cùng khó khăn. Nó dẫn tới thực
trạng bình quân số thửa ruộng trên một hộ còn cao và manh mún, trung bình là 3,58
thửa/hộ. Thậm chí, có những gia đình chỉ có mấy sào ruộng nhưng sở hữu tới 4 đến
5 mảnh khác nhau. Tỷ lệ số hộ có 4 thửa trở lên còn chiếm 43%.
1.3.4. Những kết quả ban đầu đạt được của một số tỉnh thành trong cả nước.


Nam Định
Đến hết năm 2011, có 57 xã, thị trấn đã hoàn thành giao đất ngoài thực địa;
Đến 21/12/2012 đã có 75 xã, thị trấn hoàn thành giao đất ngoài thực địa, 33
xã, thị trấn đang tập trung hoàn thành công trình giao thông thủy lợi nội đồng, bốc
thăm vị trí và chuẩn bị giao đất ngoài thực địa.
Nhìn chung kết quả DĐĐT ở các xã, thị trấn đã giao đất tại thực địa cơ bản đạt
yêu cầu: đã kết hợp DĐĐT với chỉnh trang, kiến thiết đồng ruộng, làm giao thông
và thủy lợi nội đồng; hình thành các vùng sản xuất tập trung; cơ bản quy gọn được
quỹ đất công; giảm số thửa bình quân (từ 3,27 xuống còn 1,5 - 2,5 thửa/hộ, nhiều xã
75 – 80% số hộ chỉ còn 1 thửa/hộ); đặc biệt sau 2 năm đã vận động các hộ nông dân
góp được trên 1.000 ha đất, đắp được được gần 2.000 km đường giao thông nội
đồng.
Các huyện chỉ đạo, triển khai tốt, cơ bản hoàn thành công tác DĐĐT trong
năm 2012 là: Giao Thủy, Xuân Trường, Nghĩa Hưng, Trực Ninh.




Hà Giang
Sau một thời gian thực hiện, đến cuối năm 2005 công tác dồn điền đổi thửa
trên địa bàn toàn tỉnh đã thu được một số kết quả nhất định. Năm 2006 đã có 9/11
huyện, thị triển khai công tác dồn điền đổi thửa ở 109 thôn bản của 30 xã, với 3.
468 hộ tham gia.
Đã có 11.642 thửa, với diện tích 619,32 ha được bà con thống nhất đổi cho
nhau, bình quân mỗi hộ tham gia đổi từ 1-3 thửa. Điều đáng nói là, số diện tích
được dồn điền đổi thửa nhờ giảm bớt khá nhiều bờ bao phân chia khoảnh, thửa nên
đã tăng diện tích lên 36,02 ha. Đi đôi với việc dồn điền đổi thửa, một số nơi có điều
kiện đã thiết kế quy hoạch, cải tạo lại đồng ruộng; đồng thời tiến hành tu sửa, làm
mới kênh mương và đường giao thông nội đồng phục vụ sản xuất. Tổng số đã làm
được 69.255 m kênh mương, tu sửa và làm mới được 170.763 m đường nội đồng

22


(có chiều rộng mặt đường từ 2,5 - 4 m) để thuận tiện cho việc đưa cơ giới vào đồng
ruộng và phục vụ sản xuất.


Nghệ An
Đến hết năm 2015, toàn tỉnh có 314/314 xã có khả năng dồn điền đổi thửa đã
hoàn thành dồn điền đổi thửa tại thực địa. Có 276.925 hộ tham gia thực hiện dồn
điền, đổi thửa, 77.877,1 ha đất sản xuất nông nghiệp đủ điều kiện dồn điền, đổi thửa
đã thực hiện dồn điền, đổi thửa. Quy mô bình quân thửa đất sau dồn điền đổi thửa là
1.214,19 m2. Đất công ích đã được quy về vùng tập trung để thuận tiện cho việc quy
hoạch các công trình. Kết quả xây dựng hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng:
khối lượng đào đắp là 10.833.493 m3.
Toàn tỉnh đã xây dựng được trên 720 mô hình sản xuất có hiệu quả như: sản

xuất rau an toàn, lúa, ngô, lạc, dưa hấu, bí xanh, chuối, khoai lang, gấc, ớt xuất
khẩu, mía đường, cá - lúa, măng tây xanh, chăn nuôi lợn, gà ác,... có năng suất, chất
lượng cao.
Đến hết năm 2015, các địa phương đã triển khai được 54 mô hình cánh đồng
mẫu. Kết quả thực hiện dồn điền, đổi thửa tại thực địa cơ bản phù hợp với mục tiêu,
tiến độ của đề án dồn điền đổi thửa được duyệt.
• Thái Bình
Đất nông nghiệp ở Thái Bình còn manh mún, bình quân số thửa ruộng/hộ còn
cao (3,58 thửa/hộ) đã ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất. Từ thực tế này,
Thái Bình đang tập trung dồn điền đổi thửa, phấn đấu mỗi hộ chỉ có 1 thửa để tạo
vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp tập trung và quy hoạch xây dựng nông thôn
mới.
Thực hiện từ đầu năm 2009, đến nay, các xã làm điểm nông thôn mới trong
tỉnh là xã Thanh Tân (huyện Kiến Xương), xã Quỳnh Minh (Quỳnh Phụ), Trọng
Quan (Đông Hưng) và 2 xóm của xã Nguyên Xá (Vũ Thư) đã hoàn thành việc dồn
điền đổi thửa; các xã khác như: Hồng Minh (Hưng Hà), An Ninh (Tiền Hải), Thụy
Trình (Thái Thụy), Tự Tân, Vĩ Đoài, Vũ Tiến, Tân Phong (Vũ Thư), Bình Định
(Kiến Xương) và Vũ Phúc (thành phố Thái Bình) đang triển khai thực hiện, dự kiến
sẽ hoàn thành trong năm 2010. Kết quả dồn điền đổi thửa ở các xã cho thấy đã giảm
trên 20% số thửa ruộng như: Thanh Tân giảm gần 38%, Quỳnh Minh giảm 20,3%,
Trọng Quan giảm 34%; có trên 70% số hộ còn không quá 2 thửa ruộng, trong đó xã
Nguyên Xá mỗi hộ chỉ còn 1 thửa thuộc vùng quy hoạch đất lúa chất lượng cao và
cây vụ đông. Tại các xã hoàn thành việc dồn điền đổi thửa đã hình thành các vùng
sản xuất theo quy hoạch nông thôn mới và cơ bản dồn chuyển diện tích đất 5% công
ích vào các điểm quy hoạch xây dựng các công trình phục lợi công cộng của xã, của
23


thôn; các hộ nông dân còn tự nguyện góp đất, góp công lao động đào đắp hoàn thiện
được hệ thống đường giao thông, thuỷ lợi nội đồng theo quy hoạch nông thôn mới.

Hiện nay, nhiều hộ đã đầu tư cải tạo đồng ruộng, đưa cơ giới hoá và ứng dụng tiến
bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi
làm tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích, tạo động lực mới trong sản xuất nông
nghiệp.

24


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG, VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng
Kết quả quá trình dồn điền đổi thửa trên địa bàn xã Đông Quang, huyện Đông
Hưng, tỉnh Thái Bình.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá hiệu quả công tác
dồn điền đổi thửa trên địa bàn xã Đông Quang huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình.
- Phạm vi thời gian: Từ khi thực hiện chính sách dồn điền đổi thửa năm 2011
đến năm 2015.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội xã Đông Quang.
- Thực trạng và quá trình tiến hành dồn điền đổi thửa xã Đông Quang.
- Ảnh hưởng của công tác DĐĐT đến sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trên
địa bàn nghiên cứu.
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sau khi thực hiện chính sách DĐĐT trên cơ
sở các chỉ tiêu về kinh tế, xã hội và môi trường.
- Đề xuất các giải pháp.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp thu thập thông tin
Điều tra, thu thập thông tin số liệu thứ cấp: đó là những thông tin, số liệu có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình nghiên cứu của đề tài đã được công

bố chính thức ở các cấp, ngành. Các thông tin đó chủ yếu gồm: số liệu về điều kiện
tự nhiên, kinh tế xã hội; hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp qua các năm; bản đồ
hiện trạng sử dụng đất; các văn bản về chính sách đất đai, các chính sách về khuyến
khích đầu tư sản xuất và các thông tin, số liệu khác.
Thu thập thông tin số liệu sơ cấp: đó là các thông tin chưa được công bố chính
thức trong từng nông hộ, nó phản ánh đời sống kinh tế, văn hoá xã hội, đặc biệt là
các vấn đề về sử dụng đất và các vấn đề khác có liên quan.
25


×