Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (957.39 KB, 101 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

N U ỄN THỊ THU THỦ

QUẢN LÝ CÔN TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI N ƯỜI KHU ẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN
TỈNH PHÚ THỌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔN

HÀ NỘI, 2016

TÁC XÃ HỘI


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

N U ỄN THỊ THU THỦ

QUẢN LÝ CÔN TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI N ƯỜI KHU ẾT TẬT TỪ THỰC TIỄN
TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔN



TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HÀ THỊ THƯ

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc
sĩ Công tác xã hội về “Quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực
tiễn tỉnh Phú Thọ” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài
khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
Chương 1. NHỮN

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔN

TÁC XÃ HỘI

ĐỐI VỚI N ƯỜI KHU ẾT TẬT .................................................................. 11

1.1. Người khuyết tật, khái niệm và đặc điểm.......................................... 11

1.2. Lý luận về quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật ............ 16
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý công tác xã hội đối với người
khuyết tật................................................................................................... 26
1.4. Cơ sở pháp lý về quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật ...... 30
Chương 2. THỰC TRẠN

CÔN

TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI N ƯỜI KHU ẾT

TẬT TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ THỌ ........................................................ 35

2.1. Đặc điểm địa bàn và khách thể nghiên cứu ....................................... 35
2.2. Thực trạng quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực
tiễn tỉnh Phú Thọ ...................................................................................... 41
2.3. Thực trạng yếu tố ảnh hưởng đến quản lý công tác xã hội đối với
người khuyết tật ........................................................................................ 65
Chương 3. MỘT SỐ IẢI PHÁP NÂN CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
CÔN TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI N ƯỜI KHU ẾT TẬT TỪ THỰC
TIỄN TỈNH PHÚ THỌ ................................................................................ 72
3.1. Giải pháp về xây dựng chính sách ..................................................... 72
3.2. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực ............................................. 73
3.3. Giải pháp về nâng cao nhận thức của cộng đồng và cán bộ làm công
tác quản lý ................................................................................................. 75
3.4. Giải pháp về phát triển cơ sở vật chất và tăng cường nguồn lực về tài
chính.......................................................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH

: Công tác xã hội

KT-XH

: Kinh tế - Xã hội

LĐ-TB&XH

: Lao động - Thương binh và Xã hội

NKT

: Người khuyết tật

UBND

: Ủy ban nhân dân

NXB

: Nhà xuất bản


DANH MỤC CÁC BẢN

Bảng 2.1: Cơ cấu người khuyết tật của các địa phương năm 2015 ................ 40
Bảng 2.2: Độ tuổi của cán bộ theo giới tính ................................................... 45

Bảng 2.3 Trình độ học vấn phân theo độ tuổi ................................................. 48
Bảng 2.4: Tỷ lệ khuyết tật phân theo dạng khuyết tật và theo giới ................ 52
Bảng 2.5: Tỷ lệ người khuyết tật phân theo mức độ khuyết tật và theo giới.. 53
Bảng 2.6: Tỷ lệ người khuyết tật theo giới và nguyên nhân ........................... 54
Bảng 2.7: Trình độ học vấn của người khuyết tật ........................................... 56
Bảng 2.8. Mức độ ảnh hưởng của năng lực, trình độ cán bộ quản lý ............. 65
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Cơ cấu dạng khuyết tật toàn tỉnh (thống kê năm 2015) ............. 39
Biểu đồ 2.2: Độ tuổi của cán bộ ..................................................................... 44
Biểu đồ 2.3: Độ tuổi của cán bộ quản lý ......................................................... 45
Biểu đồ 2.4: Độ tuổi của cán bộ làm việc trực tiếp với người khuyết tật ....... 46
Biểu đồ 2.5: Trình độ chuyên môn của cán bộ .............................................. 48
Biểu đồ 2.6: Tỷ lệ người khuyết tật cơ cấu theo giới tính .............................. 50
Biểu đồ 2.7: Độ tuổi người khuyết tật phân theo giới tính ............................. 51
Biểu đồ 2.8: Tỷ lệ người khuyết tật phân theo dạng khuyết tật ...................... 52
Biểu đồ 2.9: Tỷ lệ người khuyết tật phân theo mức độ khuyết tật .................. 53
Biểu đồ 2.10: Tỷ lệ khuyết tật phân theo nguyên nhân .................................. 54


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người khuyết tật là một vấn đề luôn được Đảng, Nhà nước và xã hội
quan tâm. Ngày 13 tháng 12 năm 2006, Liên hợp quốc đã chính thức thông qua
công ước về quyền của người khuyết tật – một công ước đầu tiên về nhân quyền
trong thế kỷ XXI- để bảo vệ và nâng cao quyền cũng như cơ hội của khoảng 650
triệu người khuyết tật trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam, ngày 30 tháng 7 năm 1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh về người tàn tật và đến ngày 17 tháng 6 năm 2010 Luật
Người khuyết tật số 51/2010/QH12 đã được ban hanh thay thế Pháp lệnh về

người tàn tật. Là công dân, thành viên của xã hội, người khuyết tật tuy khiếm
khuyết về thể chất song có quyền được bình đẳng, tham gia tích cực vào các hoạt
động phát triển xã hội. Đồng thời họ có quyền được xã hội quan tâm, trợ giúp và
được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân.
Việt Nam cũng đã cam kết tham gia Chiến lược Incheon nhằm “ Hiện
thực hóa quyền” cho người khuyết tật giai đoạn 2013 – 2022 được Liên Chính
phủ cùng các tổ chức người khuyết tật các nước Châu Á-Thái Bình Dương thông
qua ngày 1/11/2012 tại Incheon, Hàn Quốc.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt các chương trình về trợ giúp người
khuyết tật: Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 05/8/2012 phê duyệt Đề án trợ
giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 – 2020; Quyết định số 1212/QĐ-TTg ngày
22/7/2011 phê duyệt Đề án trợ giúp xã hội và phục hồi chức năng cho người tâm
thần, người rối nhiễu tâm trí dựa vào cộng đồng giai đoạn 2012 – 2020; Quyết
định số 647/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
chăm sóc trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em bị nhiễm
HIV/AIDS, trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học, trẻ em khuyết tật nặng và
trẻ em bị ảnh hưởng bởi thiên tai, thảm họa dựa vào cộng đồng giai đoạn 2013 –
2020. Thông qua việc ban hành các văn bản, chính sách đã tác động mạnh mẽ

1


đến việc cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người khuyết tật,
tạo cơ hội bình đẳng cho người khuyết tật trong mọi hoạt động của xã hội.
Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án phát triển nghề Công tác xã hội giai đoạn 2010-2020). Qua
hơn 5 năm triển khai thực hiện công tác xã hội đã đạt được những kết quả quan
trọng, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Song cùng với sự phát
triển kinh tế, xã hội đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, sự phân hóa giàu
nghèo, phân tầng xã hội, bất bình đẳng về mức sống và cơ hội phát triển, nảy

sinh mối quan hệ xã hội đa chiều về lợi ích cá nhân, nhóm xã hội, tập thể và nhà
nước. Những vần đề nêu trên không chỉ giải quyết bằng luật pháp, bằng hành
chính, kinh tế, bằng tuyên truyền, giáo dục, vận động xã hội, mà nó đòi hỏi phải
có sự can thiệp mang tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, chuyên gia được
đào tạo về công tác xã hội, cách giải quyết mang đầy tính nhân văn, nhân ái,
nhân đạo phù hợp với truyền thống và đạo lý của người Việt Nam. Công tác xã
hội nói chung và công tác xã hội đối với người khuyết tật nói riêng được quan
tâm và triển khai tích cực trong các bộ, ngành, địa phương, qua đó đã tác động
làm chuyển biến nhận thức, hành vi của cá nhân, gia đình, cộng đồng đối với
người khuyết tật, góp phần thực hiện tốt hơn việc hỗ trợ người khuyết tật trong mọi
mặt của đời sống.
Công tác xã hội là một nghề mới ở Việt Nam nên còn thiếu tính chuyên
nghiệp, thiếu kinh nghiệm, hệ thống dịch vụ công tác xã hội thiếu đồng nhất,
việc tổ chức thực hiện các hoạt động công tác xã hội đối với các đối tượng nói
chung và đối với người khuyết tật nói riêng hiệu quả chưa cao. Các dịch vụ công
tác xã hội cho các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, trong đó có nhóm
khuyết tật còn hạn chế về số lượng và chất lượng. Do đó cần tăng cường công
tác quản lý để hoạch định chính sách, xây dựng cơ chế quản lý, điều phối, giám
sát và hướng dẫn thực hiện công tác xã hội một cách có hiệu quả nhằm đáp ứng
nhu cầu của đối tượng kịp thời, phù hợp và có chất lượng góp phần giải quyết
các vấn đề an sinh xã hội tiến tới một xã hội công bằng, văn minh và phát triển.

2


Công tác xã hội là một lĩnh vực mới, các công trình nghiên cứu chưa
nhiều, đặc biệt là các nghiên cứu về quản lý công tác xã hội đối với người khuyết
tật. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Quản lý Công tác xã hội đối với
người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ
của mình..

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chính sách trợ giúp người khuyết tật trong nhiều thập niên
qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, có nhiều chủ trương chính sách và
tăng cường công tác quản lý chỉ đạo tổ chức thực hện nhằm từng bước nâng
cao đời sống cho nhóm đối tượng này. Các nghành các cấp, luôn coi trọng
công tác này và được triển khai song hành, gắn liền với mục tiêu phát triển
toàn diện, bền vững, tiến bộ và bình đẳng của xã hội. Tuy nhiên, trong các
khâu xây dựng, triển khai do đây là lĩnh vực mới nên bước đầu chỉ tập trung vào
tìm hiểu nhu cầu và xây dựng các kế hoạch trợ giúp cụ thể, chưa chú trọng nhiều
đến vấn đề quản lý công tác này.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng đã có một số đề tài, báo cáo khoa
học liên quan đến một vài khía cạnh của lĩnh vực trợ giúp người khuyết tật như:
- Nghiên cứu của Viện nghiên cứu phát triển xã hội về Người khuyết tật ở
Việt Nam từ kết quả điều tra xã hội tại Thái Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng và
Đồng Nai. Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích giúp chúng ta hiểu sâu
hơn những khó khăn đa dạng và nhiều mặt mà người khuyết tật hiện đang gặp
phải. Nghiên cứu cũng cung cấp cơ sở thông tin giúp cho việc hoàn thiện chính
sách cũng như thiết kế các chương trình hỗ trợ hiệu quả [34, tr. 83]
- Đỗ Thị Liên, Công tác xã hội đối với NKT từ thực tiễn thành phố Thanh
Hóa, Luận văn thạc sĩ 2014, Học viện Khoa học xã hội. Luận văn đã đánh giá
thực trạng hỗ trợ NKT tại thành phố Thanh Hóa và đưa những dịch vụ trợ giúp
cho NKT tại đây, đồng thời tác giả cũng đã đưa ra những đề xuất những giải
pháp phù hợp để thực hiện quá trình trợ giúp cho NKT [20, tr. 82]

3


- Nguyễn Ngọc Toản (2009), bài viết về Trợ giúp xã hội cho cá nhân và
hộ gia đình nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho người khuyết tật. Tạp chí Lao
động và Xã hội.Tác giả cho rằng hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam

luôn đảm bảo thực hiện quyền của NKT và luôn nhìn nhận họ là một bộ phận
của nguồn nhân lực, tạo một môi trường bình đẳng và không rào cản tiếp cận cho
NKT; Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc đời sống, giáo dục, y tế, giao
thông, công nghệ thông tin...Cùng với đó là cải cách thủ tục hành chính, tăng
cường hệ thống giám sát, thực thi cũng như xã hội hóa, phân cấp và tăng cường
sự tham gia của NKT [22, tr. 82].
Tuy nhiên, công tác chăm lo cho người khuyết tật cũng còn gặp nhiều khó
khăn. Đó là vẫn tồn tại những định kiến nhất định cản trở sự hòa nhập và đóng
góp cho xã hội của người khuyết tật. Một số phong trào, hoạt động trợ giúp
người khuyết tật còn hình thức, thiếu bền vững. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt
động hỗ trợ người khuyết tật từ trung ương đến địa phương chưa được thường
xuyên, việc điều phối còn chưa kịp thời và kém hiệu quả. Chưa có nhiều cơ
quan, đơn vị, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh thu hút lao động là người
khuyết tật...
Bài viết cũng đưa ra những định hướng cụ thể cho việc trợ giúp xã hội cho
gia đình và cá nhân người khuyết tật trong thời gian tới nhằm đảm bảo an sinh xã
hội cho người khuyết tật.
- Nguyễn Thị Bảo (2007), Hoàn thiện pháp luật về quyền của người
khuyết tật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh [13, tr. 82]
Tác giả đã chỉ rõ từ thực tiễn và quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về
quyền của người khuyết tật ở Việt Nam, bên cạnh những mặt tích cực cũng đã
bộc lộ những hạn chế cản trở người khuyết tật hoà nhập vào cộng đồng. Việc
nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn đảm bảo tính pháp lý lâu dài, ổn
định có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong bối cảnh thay đổi mạnh mẽ về kinh tế-

4


xã hội đất nước, hướng tới để bảo vệ, chăm sóc và tạo các điều kiện tốt hơn cho

người khuyết tật, góp phần phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội toàn
diện, làm cơ sở cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Báo cáo kết quả thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật và đề án trợ giúp
người tàn tật giai đoạn 2006 – 2010 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội,
(2008) [5, tr. 81];
- Báo cáo khảo sát về đào tạo nghề và việc làm cho người khuyết tật tại
Việt Nam (Tổ chức Lao động Quốc tế, năm 2010) [37, tr. 83].
- Báo cáo kết quả thực hiện Luật người khuyết tật và đề án trợ giúp người
khuyết tật giai đoạn 2010 - 2015 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội,
(tháng 9 năm 2015) [8, tr. 81];
Các báo cáo được xây dựng dựa trên quá trình khảo sát, phân tích, đánh
giá một cách kỹ lưỡng, đồng thời lấy ý kiến tham gia của các tổ chức, cá nhân có
liên quan. Đây là một trong những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng trong
việc hoạch định chính sách, xây dựng các chiến lược cho công tác trợ giúp người
khuyết tật trong ngắn hạn và dài hạn.
Qua thực tiễn thi hành Pháp lệnh về người tàn tật và Luật người khuyết tật
có thể thấy xã hội đã có những chuyển biến tích cực về lĩnh vực người khuyết
tật, những chuyển biến này có thể nhận thấy từ những thay đổi về cách nhìn
nhận, quan niệm, nhận thức xã hội về vấn đề người khuyết tật cho đến những
thay đổi trong phương thức, cách thức trợ giúp, hỗ trợ người khuyêt tật. Trợ
giúp, hỗ trợ người khuyết tật không chỉ còn là vấn đề đạo đức xã hội, truyền
thống tốt đẹp của dân tộc như quan điểm phổ biến trước đây mà còn là trách
nhiệm pháp lý của nhà nước, của các cơ quan, tổ chức và công dân trước quốc tế,
trách nhiệm pháp lý đối với cộng đồng người khuyết tật trong nước, khu vực và
thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, những thành tựu đạt được
việc thi hành Luật người khuyết tật còn một số hạn chế, khó khăn, vướng mắc,
bất cập cũng đã bộc lộ, ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác người khuyết tật,

5



trong đó có những vấn đề xuất phát từ những quy định của luật còn bất cập so
với điều kiện thực tế của đất nước.
Những nghiên cứu, đề tài, báo cáo trên chỉ tiếp cận ở khía cạnh ảnh hưởng
và tác động của chính sách an sinh xã hội tại địa phương ảnh hưởng đến đời sống
của người khuyết tật và gia đình họ; tìm hiểu về vấn đề chăm sóc sức khỏe, trợ
giúp xã hội, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, hay đánh giá hiệu quả của việc
thực hiện Luật người khuyết tật dưới góc nhìn của người làm chính sách nói
chung chứ không có đề tài nào đi sâu vào việc nghiên cứu sâu sắc về thực trạng
quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật và các giải pháp nâng hiệu quả
của công tác này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng quản lý công tác xã hội đối với người
khuyết tật tại tỉnh Phú Thọ; trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp đẩy mạnh và
phát huy công tác quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn
tỉnh Phú Thọ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về quản lý, quản lý công tác xã hội đối
với người khuyết tật.
- Tìm hiểu, phân tích đánh giá về thực trạng người khuyết tật
- Phân tích và đánh giá các yếu tố tác động đến công tác quản lý công tác
xã hội đối với người khuyết tật tại tỉnh Phú Thọ
- Đề xuất hoạt động quản lý công tác xã hội với người khuyết tật từ thực
tiễn tỉnh Phú Thọ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật từ thực tiễn của tỉnh Phú Thọ.
4.2. Khách thể nghiên cứu
- Cán bộ lãnh đạo từ cấp phòng trở lên và cán bộ làm việc trực tiếp trong

lĩnh vực công tác xã hội đối với người khuyết tật

6


- Người khuyết tật trên địa bàn tỉnh
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về đối tượng: nghiên cứu hoạt động quản lý công tác xã hội đối
với người khuyết tật, cụ thể là nội dung quản lý về công tác xây dựng chính
sách đối với người khuyết tật; công tác quản lý nhân lực làm việc với người
khuyết tật; quản lý các dịch vụ công tác xã hội cho người khuyết tật và các
chương trình/hoạt động cho người khuyết tật; quản lý về đối tượng người khuyết
tật; quản lý về cơ sở vật chất.
- Số lượng khách thể: nghiên cứu trên tổng số 100 khách thể, trong đó
bao gồm:
Cán bộ quản lý các cấp: 30 cán bộ
Cán bộ làm việc trực tiếp với người khuyết tật: 20 người
Người khuyết tật: 50 người.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp luận nghiên cứu
Nghiên cứu trên cơ sở duy vật biện chứng: từ thực trạng quản lý công tác
xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn rút ra được những lý luận và đưa ra
được những đề xuất về biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý công tác xã hội
đối với người khuyết tật trên địa bàn tỉnh.
Nghiên cứu vấn đề lý luận trong hệ thống: nghiên cứu hệ thống những lý
thuyết có liên quan trực tiếp đến đề tài, hệ thống các yếu tố có liên quan như
công tác xã hội, quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật, hệ thống chính
sách và chương trình trợ giúp người khuyết tật…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu này, phương pháp nghiên cứu chính được sử

dụng là phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp bảng hỏi và phương pháp
quan sát là chủ yếu:

7


Phương pháp phân tích tài liệu
Phân tích thông tin, số liệu từ các báo cáo, ấn phẩm, tài liệu liên quan đến
lĩnh vực trợ giúp người khuyết tật và hoạt động công tác xã hội trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ.
Phương pháp bảng hỏi
Phương pháp nghiên cứu chính của đề tài này là phương pháp nghiên cứu
định lượng dựa trên các khái niệm đã được thao tác hóa. Bảng hỏi là công cụ thu
thập thông tin chủ yếu trong cuộc điều tra này, bao gồm những câu hỏi được xây
dựng xoay quanh vấn đề như: thực hiện quản lý công tác xã hội đối với người
khuyết tật. Thông qua việc thu thập và phân tích các thông tin định lượng giúp
đo lường một cách hệ thống các vấn đề mà cuộc nghiên cứu đặt ra.
Phương pháp phỏng vấn sâu
Để có thông tin sâu hơn về đối tượng nghiên cứu, đề tài cũng tiến hành
các cuộc phỏng vấn sâu đối với người khuyết tật được hỗ trợ và cán bộ công tác
xã hội nhằm khai thác tối đa có chiều sâu hơn các nội dung mà phương pháp
điều tra định lượng không phù hợp hoặc bổ sung cho cách tiếp cận này.
Phương pháp quan sát
Là phương pháp thu thập thông tin của nghiên cứu xã hội học thực
nghiệm thông qua các tri giác như nghe, nhìn để thu thập các thông tin từ thực tế
xã hội nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Ngoài ra đề tài nghiên cứu còn sử dụng thêm các phương pháp như: thống
kê, lịch sử, xã hội học, tâm lý học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn

Đề tài góp phần làm sáng tỏ thêm những lý luận của công tác xã hội khi
ứng dụng vào nghiên cứu một vấn đề cụ thể. Đề tài vận dụng những kiến thức
chuyên ngành về công tác xã hội như hệ thống các lý thuyết, các phương pháp,
kỹ năng, mô hình để tìm hiểu, nghiên cứu một nhóm đối tượng cụ thể.Từ đó, đề

8


tài góp phần làm rõ quản lý công tác xã hội trong các lĩnh vực của đời sống,
khẳng định được tính khoa học, chuyên môn cao của công tác xã hội.
Hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác xã hội đối với
người khuyết tật; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá làm rõ hơn hệ thống quản lý
nhà nước về công tác xã hội đối với người khuyết tật để hoàn thiện khuôn khổ
luật pháp, chính sách, cơ chế, giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác xã
hội đối với người khuyết tật nhằm trợ giúp người khuyết tật đáp ứng các nhu cầu
cơ bản, hòa nhập cộng đồng và có cơ hội phát triển, đồng thời góp phần giảm
thiểu các nguy cơ dẫn đến khuyết tật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu giúp nâng cao nhận thức của các nhà quản lý, cán bộ
làm việc với người khuyết tật về vai trò của quản lý về công tác xã hội cũng như
vai trò của hệ thống cung cấp dịch vụ công tác xã hội trong hoạt động trợ giúp
người khuyết tật. Những phát hiện của nghiên cứu sẽ làm cơ sở khoa học cho các
nhà quản lý trong việc hoạch định cơ chế chính sách và xây dựng các chương
trình, kế hoạch, đề án, chiến lược trợ giúp người khuyết tật, cung cấp các dịch vụ
công tác xã hội chuyên nghiệp cho người khuyết tật tại tỉnh Phú Thọ trong ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn.
Đề tài được vận dụng là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các
nhà quản lý công tác xã hội trong việc xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chính
sách, chương trình có hiệu quả để trợ giúp người khuyết tật. Tác giả cũng hy
vọng đề tài sẽ trở thành một tài liệu tham khảo giúp ích được trong việc học tập,

nghiên cứu của sinh viên ngành công tác xã hội cũng như phục vụ phần nào cho
công tác giảng dạy và học tập các môn chuyên ngành công tác xã hội.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục. Nội
dung luận văn được kết cấu thành 3 chương, cụ thể:

9


Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý công tác xã hội đối với người
khuyết tật
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật từ
thực tiễn tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý công tác xã hội
đối với người khuyết tật từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ.

10


NHỮN

Chương 1
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔN TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI N ƯỜI KHU ẾT TẬT

1.1. Người khuyết tật, khái niệm và đặc điểm
1.1.1. Khái niệm về khuyết tật và người khuyết tật
* Khái niệm khuyết tật
Theo Công ước Quốc tế về quyền của NKT của Liên hiệp quốc: “khuyết
tật là một khái niệm đang phát triển và khuyết tật là kết quả của sự ảnh hưởng

lẫn nhau giữa người bị suy giảm chức năng và những rào cản về quan điểm và
môi trường ngăn cản sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ vào xã hội một cách
bình đẳng với những người khác” [36, tr. 83]
Mặc dù định nghĩa về khuyết tật thay đổi theo thời gian và không gian,
nhưng về cơ bản khuyết tật được xem là một tình trạng, hoặc một chức năng,
được đánh giá là đã bị khiếm khuyết nghiêm trọng so với tình trạng bình thường
của đại đa số dân chúng. Khuyết tật thường được dùng để chỉ những khiếm
khuyết chức năng cá nhân, bao gồm khiếm khuyết về mặt thể chất, khiếm khuyết
về giác quan, khiếm khuyết về nhận thức, khiếm khuyết về trí tuệ hoặc những
vấn đề tâm trí. Nhiều mô hình, khái niệm đã được đưa ra để giải thích khuyết
tật, trong đó hai mô hình quan trọng nhất là mô hình y học và mô hình xã hội về
khuyết tật.
Trong mô hình y học của khuyết tật, khuyết tật là tình trạng thể chất của
một cá nhân làm giảm chất lượng cuộc sống và gây ra những thiệt thòi cho cá
nhân đó. Như vậy chữa trị hoặc kiểm soát khuyết tật đồng nghĩa với việc xác
định, tìm hiểu, kiểm soát cũng như tác động lên khuyết tật. Vì vậy cần đầu tư
cho việc chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ có liên quan để chữa trị các khuyết
tật về mặt y học, giúp những NKT có một cuộc sống bình thường [34, tr. 83].
Ngược lại, mô hình xã hội của khuyết tật cho rằng những rào cản và định
kiến cũng như sự không chấp nhận của xã hội (có chủ ý hoặc không chủ ý) là

11


những yếu tố chính, xác định ai là người khuyết tật. Mô hình này cho rằng, một
số người có những khác biệt về mặt tâm lý, trí tuệ hoặc thể chất so với chuẩn
mực chung, nhưng những khác biệt này sẽ không dẫn đến khuyết tật nếu xã hội
có thể giúp đỡ và coi họ như một bộ phận của cộng đồng [34, tr. 83].
Ngoài hai mô hình khuyết tật nêu trên, còn có một số mô hình ít phổ biến
hơn như: mô hình đạo đức, NKT phải chịu trách nhiệm về mặt đạo đức đối với

khuyết tật của chính họ; mô hình chuyên nghiệp, theo đó nhà cung cấp dịch vụ
tự quyết định cần phải làm gì để điều trị khuyết tật, còn người khuyết tật giữ vai
trò là bệnh nhân thụ động; mô hình từ thiện...
* Các dạng khuyết tật: Khuyết tật vận động; Khuyết tật nghe, nói; Khuyết tật
nhìn; Khuyết tật thần kinh, tâm thần; Khuyết tật trí tuệ; Khuyết tật khác.
* Khái niệm người khuyết tật
Điều 1, Công ước quốc tế về NKT định nghĩa “Người khuyết tật bao gồm
những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác
quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến sự
tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những
người khác” [36, tr. 83].
Theo Pháp lệnh Người tàn tật, năm 1998, tại Điều 1: “Người tàn tật là
người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu hiện
dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao
động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn” [25, tr.82].
Điều 1, Luật Người khuyết tật được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XII thông qua, định nghĩa NKT là người bị khiếm
khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được
biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn
[27, tr.83].
Để phù hợp với tổng thể vấn đề nghiên cứu, tác giả lựa chọn khái niệm về
NKT theo Điều 1 của Luật NKT năm 2009.

12


1.1.2. Những khó khăn người khuyết tật thường gặp
1.1.2.1. Khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ giáo dục, dịch vụ dạy nghề,
các dịch vụ y tế, tiếp cận thông tin và trong tiếp cận và sử dụng các phương tiện
giao thông, các công trình công cộng

* Khó khăn trong tiếp cận dịch vụ giáo dục, dạy nghề: hiện nay còn rất
nhiều trường học chưa được hỗ trợ kinh phí để xây dựng, cải tạo lại điều kiện hạ
tầng để NKT có thể tiếp cận và sử dụng; chưa có sự hỗ trợ dụng cụ dạy học phù
hợp cho trẻ khuyết tật. Công tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật mới chỉ tập
trung nhiều ở cấp mầm non và tiểu học, còn bậc giáo dục từ cấp trung học cơ sở
trở lên thì chưa được quan tâm nhiều, đặc biệt đối với trẻ chậm phát triển trí tuệ.
Việc kỳ thị của cộng đồng trong giáo dục cho trẻ hòa nhập vẫn còn tồn tại, và
đôi khi là sự tự kỳ thị của chính gia đình trẻ khuyết tật là rào cản lớn nhất đối với
công tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy,
công tác đào tạo nghề cho NKT đã và đang gặp một số khó khăn, bởi phần lớn
NKT thường mặc cảm và tự ti nên không yên tâm khi xa gia đình đi học nghề.
Nhiều gia đình NKT là hộ nghèo, ở nông thôn, dân trí thấp nên không khuyến
khích NKT đi học nghề mà muốn giữ ở nhà để trông nhà, làm việc nội trợ... Sự
khác nhau về bệnh tật (khiếm thính, khiếm thị, thiểu năng trí tuệ, khuyết tật vận
động, nhiễm chất độc da cam...) ảnh hưởng rất lớn đến việc dạy nghề, tiếp thu
kiến thức của NKT. Có người học ba năm đã đạt, có người phải mất tới sáu năm
mới có được một nghề... Bên cạnh đó, sự thiếu thốn, nghèo nàn về cơ sở vật chất
phục vụ công tác dạy nghề cho NKT cũng gây ra nhiều trở ngại.
* Khó khăn trong tiếp cận và sử dụng các phương tiện giao thông và các
công trình công cộng (di chuyển lên bậc thang, xe buýt, sử dụng phòng vệ sinh
công cộng; được sử dụng các không gian giải trí…). Khi NKT không tiếp cận
được các dịch vụ giao thông và công trình công cộng có thể dẫn đến kìm hãm sự
nhận thức của họ về vấn đề nào đó; phải đón nhận thái độ tiêu cực của người
khác dành cho mình; hình thành tâm lý mặc cảm, tự ti, ngại đi lại, tiếp xúc ở

13


người khuyết tật; đặc biệt, quyền của NKT không được thực hiện, và đáng lo
ngại hơn là từ hạn chế về nhận thức, kiến thức có thể kéo theo hạn chế cơ hội

phát triển về việc làm và tiếp cận với các dịch vụ xã hội khác của NKT.
* Khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế: Công tác chăm sóc sức
khỏe của NKT ngày càng nhận được sự quan tâm của nhà nước và cộng đồng.
Bộ Y tế đã có công văn cho các địa phương triển khai thực hiện Luật NKT;
thành lập Hội đồng tư vấn Phục hồi chức năng quốc gia; triển khai dự án Phục
hồi chức năng dựa vào cộng đồng cho nạn nhân chất độc da cam/dioxin; hoàn
thiện tài liệu hướng dẫn phát hiện sớm, can thiệp sớm; tổ chức tập huấn cho cán
bộ chủ chốt tuyến tỉnh về phát hiện sớm, can thiệp sớm; xây dựng, hoàn thiện tài
liệu hướng dẫn chẩn đoán một số bệnh, tật, dị dạng do chất độc hoá học/dioxin.
Tuy nhiên, NKT vẫn khó khăn trong tiếp cận với các dịch vụ y tế, nhất là NKT ở
vùng sâu, vùng xa khó khăn, điều kiện đi lại không thuận tiện. Nhiều địa phương
do điều kiện khó khăn nên công tác chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng chưa được
quan tâm thực hiện. Công tác phục hồi chức năng cho NKT tại cộng đồng không
được thực hiện đồng đều ở các khu vực, dụng cụ phục hồi chức năng còn nghèo
nàn hoặc không phù hợp với độ tuổi, dụng cụ thô sơ, tính an toàn không cao.
Hậu quả đối với NKT do không tiến cận được dịch vụ y tế: không được chữa trị,
can thiệp, phục hồi chức năng… điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến sức khỏe thể
chất và tinh thần của họ; Hạn chế sự phát triển tâm lý của NKT, do không được
phục hồi về thể chất kịp thời.
* Khó khăn khi tiếp cận thông tin, một số dạng tật ở NKT ảnh hưởng đến
khả năng tiếp cận mạng lưới viễn thông và công nghệ thông tin cũng như nhiều
hoạt động khác trong cuộc sống như: rối loạn lời nói, khiếm thính, khiếm thị, dị
dạng, thương tật ở các chi hay khuyết tật vận động. Từ đó dẫn đến hậu quả là
NKT không được tiếp nhận những thông tin đầy đủ, dẫn đến hạn chế cơ hội;
nhìn nhận sự vật có thể phiến diện, một chiều; mất đi cơ hội trong cuộc sống và
cơ hội về xây dựng và phát triển quan hệ xã hội; mất đi sự tin và tự chủ khi thực

14



hiện giao tiếp xã hội; có thể dẫn đến bị tự ti, tủi thân, bế tắc khi giải quyết các
vấn đề trong cuộc sống.
1.1.2.2. Khó khăn trong việc tìm việc làm tạo ra thu nhập
Theo quy định của Luật người khuyết tật Việt Nam, Nhà nước bảo đảm
để NKT được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với
điều kiện sức khỏe và dạng khuyết tật. Tuy nhiên, số lượng NKT được dạy nghề
và được tạo việc làm sau đào tạo nghề còn rất ít, chủ yếu là tự tạo nghề cho
mình. Người khuyết tật chủ yếu làm những công việc không ổn định, lao động
thủ công, làm việc trong các cơ sở nhân đạo, từ thiện. Phần lớn bản thân NKT
chưa đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của các cơ quan, doanh nghiệp. Hậu quả
khi NKT không tiếp cận được dịch vụ dạy nghề và việc làm: không có cơ hội
việc làm; không có điều kiện và môi trường phù hợp để đóng góp sức lực và phát
huy khả năng sáng tạo cho xã hội; sự chênh lệch về thu thập giữa NKT và người
không khuyết tật là khá lớn, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của họ; hạn
chế về vấn đề hôn nhân và cuộc sống gia đình; từ đó có thể làm ảnh hưởng đến ý
chí và nghị lực vươn lên của người họ.
1.1.2.3. Khó khăn khi xây dựng tình yêu, hôn nhân, gia đình
Người khuyết tật gặp phải những khó khăn và rào cản không nhỏ trong các
mối quan hệ xã hội. Những rào cản này có thể đến từ chính những khiếm khuyết
của họ dẫn đến khó khăn trong giao tiếp. Trong các mối quan hệ xã hội, NKT
thường phải đối mặt với những định kiến tiêu cực. Họ bị coi là người khác
thường, dị biệt, gắn liền với sự xui rủi hay bất hạnh. Rất nhiều NKT hiện nay
thiếu đi những hiểu biết cơ bản về giới tính và tình dục, NKT thường bị xã hội
xem là những người vô tính (asexual), tức là không có ham muốn tình dục,
không có khả năng tham gia vào các hoạt động tình dục hoặc không có khả năng
kích thích ham muốn tình dục, vì vậy họ không nên kết hôn và sinh con, dẫn đến
nhu cầu cơ bản của con người không được đáp ứng.

15



1.1.2.4. Thái độ kỳ thị, phân biệt đối xử của cộng đồng (đôi khi của chính
gia đình người khuyết tật).
Trên thực tế, thái độ kỳ thị và phân biệt đối xử với NKT ngay trong gia
đình, cộng đồng và xã hội gây ra nhiều trở ngại cho NKT trên các phương diện.
Đã có những nghiên cứu chứng minh quan niệm của cộng đồng về NKT là
những người đáng thương, sống ỉ nại, không thể có cuộc sống bình thường, NKT
bị như vậy là do số phận … từ quan niệm đó dẫn đến thái độ phổ biến là coi
thường NKT, coi là gánh nặng suốt đời, coi là vô dụng, bỏ mặc ít chăm sóc
…Vòng lẩn quẩn của sự phân biệt đối xử vô hình chung đã cô lập người khuyết
tật với cộng đồng đẩy họ vào tình thế là gánh nặng của gia đình và xã hội. Vì
vậy, mặc dù nhiều chính sách mới dành cho NKT đã được thông qua và khuyến
khích họ tham gia vào các hoạt động của xã hội, song đa số NKT vẫn thụ động
nhận các chương trình từ thiện từ các nhà hảo tâm. Một thông điệp của một
trong những người đại diện cho tổ chức Hội NKT chuyển đến mọi người tại diễn
đàn của Hội nghị biểu dương NKT tiêu biểu toàn quốc lần thứ IV “Người khuyết
tật cần sự chia sẻ chứ không cầu lòng thương hại, hãy tạo cơ hội cho họ bình
đẳng như mọi công dân lành lặn khác”.
1.2. Lý luận về quản lý công tác xã hội đối với người khuyết tật
1.2.1. Một số khái niệm
* Khái niệm về quản lý
Quản lý là một hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống con
người. Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quản lý như:
Theo Các Mác, tất cả mọi lao động sản xuất trực tiếp hay lao động chung nào
tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng cần đến 1 sự chỉ đạo để
điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện các chức năng chung phát sinh từ
sự vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất… “Một người độc tấu vĩ cầm tự điều
khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng.”
Như vậy, theo Các Mác : Quản lý là loại lao động sẽ điều khiển mọi quá trình


16


lao động phát triển xã hội. Các nhà quản lý quốc tế như : Fredderich William
Taylor (1856-1915) Mỹ ; Henry Fayol (1841-1925) Pháp ; Max Weber (18641920) Đức… đều khẳng định : “Quản lý là khoa học đồng thời là nghệ thuật thúc
đẩy sự phát triển xã hội”
Quản lý là hoạt động phân bổ và sử dụng nguồn tài nguyên để đạt được
mục tiêu của tổ chức. Nó bao gồm những nhiệm vụ thiết lập và duy trì một môi
trường nội bộ trong đó con người làm việc cùng nhau trong các nhóm có kết quả và
hiệu quả để đạt được mục tiêu nhóm (Koontz, Harold and O‟Donnel, Cyril, 1976).
Theo Aunapuff : “Quản lý là một hệ thống xã hội chủ nghĩa, là một khoa
học và là một nghệ thuật tác động vào hệ thống xã hội chủ yếu là quản lý con
người nhằm đạt được mục tiêu xác định. Hệ thống đó vừa động vừa ổn định bao
gồm nhiều thành phần có tác động qua lại lẫn nhau [35, tr. 83]
Thuật ngữ quản lý (Tiếng Việt gốc Hán) bao gồm 2 quá trình tích hợp
vào nhau. Quá trình “Quản” bao gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái
“ổn định”. Quá trình “lý” bao gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa hệ vào
thế “phát triển”, “ Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý để chỉ
huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con
người nhằm đạt tới mục đích, đúng ý chí nhà quản lý, phù hợp với quy luật
khách quan” [23, tr. 83]
Theo Đại từ điển tiếng Việt : “Quản lý là tổ chức, điều khiển hoạt động
của một đơn vị, tổ chức”. [23, tr. 83]
Theo tác giả Bùi Minh Hiền: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có
định hướng của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề
ra‟‟. [18, tr. 82]
Theo tác giả Trần Quốc Thành thì: “Quản lý là sự tác động có ý thức của
chủ thể quản lý để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi
và hoạt động của con người đạt tới mục đích đúng với ý chí nhà quản lý, phù
hợp với quy luật khách quan”


17


Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ
chức có định hướng của chủ thể (người quản lý, người tổ chức quản lý) lên
khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, xã hội, văn hóa, kinh tế bằng
một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và
biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối
tượng‟‟ [14, tr. 82]
Có tác giả lại quan niệm: “Quản lý là tác động vừa có tính khoa học, vừa
có tính nghệ thuật vào hệ thống con người, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế - xã
hội, quản lý là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức trên các thông
tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận hành của đối
tượng ổn định và phát triển tới mục tiêu đã định”.
Theo tác giả Phan Văn Kha: “Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức,
lãnh đạo và kiểm tra các quá trình tự nhiên, xã hội, khoa học, kỹ thuật và công
nghệ để chúng phát triển hợp quy luật, các nguồn lực (hiện hữu và tiềm năng)
vật chất và tinh thần, hệ thống tổ chức và các thành viên thuộc hệ thống, các hoạt
động để đạt được các mục đích đã định‟‟ [19, tr.82]
Các khái niệm “Quản lý‟‟ tuy có khác nhau nhưng chúng có chung
những điểm chủ yếu sau đây: Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ
chức hay một nhóm xã hội, chúng là những tác động có tính định hướng. Những
tác động đó được phối hợp nỗ lực của cá nhân nhằm thực hiện mục tiêu của tổ
chức.
Tóm lại, có thể hiểu quản lý là một quá trình tác động có tổ chức, có
định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả
nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong
điều kiện biến động của môi trường.
* Khái niệm về quản lý công tác xã hội

Có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý CTXH. Có người cho rằng
quản lý CTXH cũng chính là quản trị CTXH.

18


Rino J. Patti sử dụng 2 thuật ngữ quản trị và quản lý như nhau. Ông ta
lưu ý rằng quản lý được nhân viên xã hội sử dụng ngày càng nhiều để mô tả
công việc mà họ làm. Đã có nhiều cố gắng phân biệt 2 thuật ngữ nhưng khác biệt
này không được chấp nhận hoàn toàn. Về mặt lịch sử trong CTXH và trong các
cơ sở an sinh xã hội phi lợi nhuận, từ quản trị thường được thích sử dụng hơn từ
quản lý bởi vì từ quản lý mang vẻ kiểm soát và nhắm tới lợi nhuận vốn không
được ưa thích trong an sinh xã hội. Quản lý được sử dụng như là một danh từ nói
tới một số ít người nắm giữ các vị trí cao nhất trong hồ sơ tổ chức của cơ sở.
Đặc trưng quan trọng của quản lý là đạt được kết quả thông qua công
việc của những người khác. Quyền hành và quyền hạn là 2 đặc điểm của quản lý.
Nó có mối liên hệ cá nhân cao, trong đó quản lý phải hướng dẫn, đề ra phương
hướng, xây dựng tầm nhìn, hoạch định, phân bổ tài nguyên, giúp con người có
tinh thần trách nhiệm, giải quyết mâu thuẫn, thúc đẩy và khuyến khích. Trong
một số trường hợp, hầu như không có sự khác biệt nào giữa quản lý và quản trị,
2 từ này được xem là đồng nghĩa [39, tr. 83]
Theo Kidneigh, 1950: “Quản trị CTXH là một tiến trình chuyển đổi
chính sách xã hội thành các dịch vụ xã hội… trong một tiến trình 2 chiều : một là
chuyển đổi chính sách thành các dịch vụ cụ thể, và hai là sử dụng kinh nghiệm
để sửa đổi chính sách‟‟
Theo Walter Friedlander, quản trị CTXH là một phương pháp của công
tác xã hội dựa vào các nguyên tắc và kĩ thuật của khoa học quản trị nói chung
nhưng đề cập đến những công việc đặc thù của công tác xã hội là nhận diện và
giải quyết các vấn đề của con người và thỏa mãn các nhu cầu của con người
[40, tr. 83]

Theo quan điểm của Duham, ông mô tả quản trị công tác xã hội là : “một
tiến trình hỗ trợ hay tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động cần thiết và chủ yếu
đối với việc cung cấp trực tiếp dịch vụ của một cơ sở xã hội. Các hoạt động này
bao gồm từ việc xác định chức năng, nhiệm vụ, các chính sách, việc lãnh đạo điều

19


×