Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC SÔNG PHAN, ĐOẠN CHẢY QUA TỈNH VĨNH PHÚC 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.08 MB, 80 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG

TRẦN QUỐC VIỆT

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC SÔNG PHAN, ĐOẠN
CHẢY QUA TỈNH VĨNH PHÚC 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2016

HÀ NỘI, 2016


2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG

TRẦN QUỐC VIỆT

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC SÔNG PHAN, ĐOẠN
CHẢY QUA TỈNH VĨNH PHÚC 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2016

Chuyên ngành: Công nghệ kỹ thuật môi trường
Mã ngành:D510406
Người hướng dẫn: TS. TRẦN THỊ TUYẾT THU

Hà Nội, 2016



3

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt chương trình đào tạo, với phương châm học đi đôi với
hành, mỗi sinh viên khi ra trường cần phải chuẩn bị cho mình kiến thức cần thiết,
chuyên môn vững vàng. Đồ án tốt nghiệp có vai trò quan trọng đối với sinh viên nói
chung và sinh viên trường ĐH Tài nguyên và Môi trường Hà Nội nói riêng. Đây là
khoảng thời gian cần thiết để mỗi sinh củng cố lại, đưa kiến thức vào thực tiễn, xây
dựng cách làm việc của một cán bộ môi trường chuyên nghiệp.
Trước thực tế đó, được sự nhất trí của Ban giám hiệu nhà trường, lãnh đạo
khoa Môi trường, Tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá chất lượng nước
sông Phan, đoạn chảy qua tỉnh Vĩnh Phúc 6 tháng đầu năm 2016”.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo cùng toàn thể các cô, chú, anh, chị
làm việc tại Trung tâm Quan trắc Tài nguyên và Môi trường - Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Vĩnh Phúc. Đồng thời, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Ths. Bùi
Thị Thư - Giảng viên khoa Môi trường - Trường Đại Học Tài nguyên và Môi
trường Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, tạo mọi điều kiện để Tôi hoàn thành
báo cáo này.
Do thời gian ngắn, trình độ chuyên môn còn hạn chế, bản thân còn thiếu kinh
nghiệm nên đồ án tốt nghiệp không thể tránh khỏi sai sót. Tôi rất mong nhận được
góp ý và chỉnh sửa của hội đồng để đồ án tốt nghiệp của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày

tháng năm 2016

Sinh viên


Trần Quốc Việt


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BOD

Nhu cầu oxy sinh hóa

BTNMT

Bộ Tài nguyên và môi trường

BVMT

Bảo vệ môi trường

CCN

Cụm công nghiệp


CLN

Chất lượng nước

COD

Nhu cầu oxy hóa học

CTR

Chất thải rắn

DO

Oxy hòa tan

KCN

Khu công nghiệp

LVS

Lưu vực sông

QCVN

Quy chuẩn Việt Nam

QLTNN


Quản lý tài nguyên nước

TCMT

Tổng cục môi trường

TCLVS

Tổ chức lưu vực song

TCVN

Tiêu chuẩn Việt Nam

TNN

Tài nguyên nước

TNMT

Tài nguyên môi trường

TSS

Tổng chất rắn lơ lửng

UBND

Ủy ban nhân dân


WQI

Chỉ số chất lượng nước


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự có mặt của nước là điều kiện đầu tiên để xác định sự tồn tại của sự sống. Với
vai trò đặc biệt quan trọng như vậy, nước được xem như là huyết mạch, nhu cầu cơ bản
của sự sống trên Trái Đất. Đối với sự sống của con người, nước là nền tảng cho tất cả
các hoạt động. Nước cho ta uống, tạo ra thực phẩm, năng lượng, duy trì các dịch vụ
sinh thái và các yếu tố thiết yếu khác của chúng ta.
Trước tình hình phát triển kinh tế - xã hội, dưới tác động của tự nhiên và hoạt
động của con người, môi trường đang nảy sinh hàng loạt vấn đề, đặc biệt là ô nhiễm
nguồn nước. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá chất lượng môi trường là vấn đề bức
xúc, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn.
Vĩnh Phúc là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ. Những năm gần đây, nền kinh tế của tỉnh đã có bước phát triển
nhanh chóng, tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển đó là những nguy cơ tiềm ẩn gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt
tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học.
Vĩnh Phúc có một mạng lưới sông, suối dày đặc với hai hệ thống sông chính
là sông Hồng và sông Cà Lồ. Ngoài ra, Vĩnh Phúc còn có các sông khác như: Sông
Phó Đáy, sông lô, sông Tranh, sông Sau, sông Phan. Trong đó, sông Phan là sông
nội tỉnh có lưu vực rộng nhất.
Sông Phan có vai trò lớn trong cấp thoát nước, ổn định môi trường, duy trì
cảnh quan sinh thái cho các địa phương, cung cấp nước cho sông Cà Lồ và đóng vai
trò quan trọng tác động tới chất lượng nước sông Cầu. Các vùng đất ngập nước, bán
ngập thuộc lưu vực sông có giá trị rất lớn về sinh thái với khoảng gần 250 loài thực
vật thuộc hơn 70 họ và nhiều loại động vật như: Chim muông, bò sát, lưỡng cư...

sinh sống. Tuy nhiên do quá trình đô thị hóa, đặc biệt là tình trạng xả thải, xâm lấn,
chiếm dụng mặt nước để nuôi trồng thủy sản đã làm cho chất lượng nước sông Phan
suy giảm dần.
Nhận thấy vai trò quan trọng của sông Phan đối với sự phát triển kinh tế bền
vững của thành phố Vĩnh Yên và các huyện Tam Đảo, Tam Dương, Vĩnh Tường,
Yên Lạc, cũng như để có cơ sở đề xuất các giải pháp quản lý, giải pháp kỹ thuật
8


nhằm cải thiện chất lượng nước sông Phan, Tôi đã chọn đề tài: “Đánh giá chất
lượng nước sông Phan, đoạn chảy qua tỉnh Vĩnh Phúc 6 tháng đầu năm 2016”
làm đồ án tốt nghiệp. Đề tài này mang tính thực tiễn to lớn, nhằm phục vụ cho việc
kiểm soát, quản lý và bảo vệ môi trường, đảm bảo nhu cầu sử dụng nước của người
dân trong khu vực với mục đích khác nhau.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá được chất lượng nước sông Phan trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 6
tháng đầu năm.
Luận giải được nguyên nhân ô nhiễm.
3. Nội dung nghiên cứu
Thu thập số liệu quan trắc nước sông Phan chảy qua tỉnh Vĩnh Phúc năm
2015
Khảo sát thực tế khu vực nghiên cứu
Để nghiên cứu chất lượng nước sông Phan, tiến hành quan trắc 1 đợt, 8 vị trí
trong đó có 1 vị trí nền
Phân tích mẫu trong phòng thí nghiệm
Đánh giá chất lượng nước sông thông qua chỉ số WQI , so sánh kết quả
nghiên cứu với kết quả quan trắc các năm trước.
Lập bản đồ phân vùng
Luận giải nguyên nhân ô nhiễm


9


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu chung về lưu vực sông Phan
1.1.1. Vị trí địa lý
Sông Phan là sông nội tỉnh lớn của tỉnh Vĩnh Phúc, bắt nguồn từ sườn nam
dãy núi Tam Đảo chảy theo hướng nam qua các xã An Hoà, Hoàng Đan, Duy
Phiên, Hoàng Lâu (huyện Tam Dương); các xã Kim Xá, Yên Bình, Yên Lập, Tân
Tiến, Lũng Hoà (huyện Vĩnh Tường). Từ xã Lũng Hoà (huyện Vĩnh Tường), sông
Phan tiếp tục chảy theo hướng đông nam đến xã Thổ Tang; qua các xã Vĩnh Sơn,
Vũ Di (huyện Vĩnh Tường). Tại Vũ Di, sông Phan chia thành hai nhánh, nhánh
chính chảy theo hướng bắc tới xã Vân Xuân (huyện Vĩnh Tường), một nhánh cụt
khác chảy theo hướng đông nam qua thị trấn Vĩnh Tường và các xã Tứ Trưng, Ngũ
Kiên (huyện Vĩnh Tường). Từ xã Vân Xuân, sông Phan tiếp tục chảy theo hướng
bắc vào các xã Đồng Văn, Tề Lỗ, Trung Nguyên và xã Đồng Cương (huyện Yên
Lạc) và chảy theo hướng nam đến cầu Lạc Ý, phường Đồng Tâm (thành phố Vĩnh
Yên). Tại đây, sông Phan có một nhánh thông với Đầm Vạc. Từ phường Đồng Tâm,
sông Phan chảy qua xã Thanh Trù, thành phố Vĩnh Yên; thị trấn Hương Canh và xã
Sơn Lôi (huyện Bình Xuyên). Tại xã Sơn Lôi, sông chia thành hai nhánh, một nhánh
cụt chảy vào xã Đạo Đức, còn một nhánh chảy tiếp về phía tây, nhận thêm nước của
nhánh sông chảy từ xã Minh Quang (huyện Tam Đảo), sau đó đổ nước vào sông Cà
Lồ ở thôn Đại Lợi, xã Nam Viêm, thị xã Phúc Yên.
Diện tích lưu vực sông Phan chưa có số liệu chính xác, nhưng ước tính
chiếm ít nhất khoảng 60% diện tích tỉnh Vĩnh Phúc, tương đương khoảng 800 km 2.
Tổng diện tích tự nhiên của các xã có sông Phan chảy qua là 157 km 2[8].
Chiều dài dòng chính của sông Phan tính từ cống 3 cửa An Hạ đến cầu
Hương Canh dài 58 km, đến nơi nhập vào sông Cà Lồ (tại thôn Đại Lợi, xã Nam
Viêm, thị xã Phúc Yên) dài 62 km. Bề rộng lòng thay đổi từ 7 − 15 m (tại An Hạ)
và mở rộng dần 30 − 50 m, đến cầu Hương Canh khoảng 80 − 100 m[8].


10


Hình 1.1. Bản đồ sông Phan - tỉnh Vĩnh Phúc
1.1.2. Đặc điểm địa chất, địa mạo
Địa hình lưu vực được phân bố theo ba vùng chủ yếu theo: Vùng núi ở nơi
bắt nguồn sông Phan thuộc huyện Tam Đảo, vùng trung du nằm ở các huyện Tam
Dương, Bình Xuyên, vùng đồng bằng qua các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc và
thành phố Vĩnh Yên.
11


Đặc điểm địa mạo của lưu vực phản ánh các đặc trưng của phần địa hình
tương ứng gồm: Các thành phần địa mạo có nguồn gốc bào mòn (vùng núi), các
thành phần nguồn gốc vừa bào mòn vừa tích tụ (vùng ven chân núi và trung du) và
thành phần tích tụ (vùng đồng bằng).
Tương ứng với địa hình ba vùng núi trên là các loại khoáng sản với nhiều
điểm và mỏ khoáng sản quy mô khác nhau: Ở địa hình núi Tam Đảo đã phát hiện
được các điểm khoáng sản gốc như Fe, Cu (Đồng Bùa, Tam Quan); Au (Minh
Quang). Tại vùng trung du, phát hiện được nhiều điểm và mỏ khoáng sản, bao gồm:
Sa khoáng Sn, Cu, Au, Fe (Khai Quang, Bình Xuyên); than bùn (Đồng Bùa, Tam
Quan, Tam Đảo); cao lanh (Định Trung, Tp. Vĩnh Yên). Vùng đồng bằng có nhiều
điểm sét được khai thác làm vật liệu xây dựng (Đầm Vạc, Tp.Vĩnh Yên; Quất Lưu,
huyện Bình Xuyên)[7].
1.1.3. Khí hậu
Cũng như các tỉnh khác thuộc Bắc bộ, Vĩnh Phúc nằm trong vùng khí hậu
nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, trong năm được chia thành 4 mùa trong đó có 2 mùa rõ
rệt là mùa mưa (tháng 5 – tháng 11), mùa khô (tháng 12 - tháng 4).
Lượng mưa năm của các vùng trong lưu vực thể hiện rõ sự khác biệt. Do địa

hình trong khu vực có dãy núi Tam Đảo án ngữ phía Bắc thượng nguồn sông Phan
chắn gió Đông Nam nên sinh ra vùng có mưa lớn phía thượng nguồn sông, vào
khoảng 1.500 mm đến 2.450 mm. Phần hạ lưu thuộc vùng đồng bằng lượng mưa chỉ
còn 1.500-1.600 mm/năm.
Theo chế độ gió mùa, lượng mưa trong năm, trong lưu vực hình thành 2 mùa
rõ rệt:
Mùa mưa từ tháng V đến tháng XI chiếm 75 - 85% tổng lượng mưa năm.
Tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng VII, VIII với tổng lượng mưa phổ biến xấp
xỉ trên dưới 300 mm. Cá biệt, tại trạm Tam Đảo, lượng mưa các tháng này bình
quân vượt trên 400 mm. Thời gian này ở hạ lưu lưu vực thường bị úng, lụt vì lượng
mưa lớn lại tập trung trong vài ba ngày.
Mùa khô từ tháng XII đến tháng IV năm sau, lượng mưa nhỏ, thường chỉ
chiếm 10 - 15% tổng lượng mưa năm. Tháng mưa nhỏ nhất là tháng XII và tháng I,
nhiều năm lượng mưa bằng 0 mm. Thông thường, lượng mưa chỉ đạt trên dưới
12


20mm, nghĩa là chỉ bằng một nửa khả năng bốc hơi. Do vậy, trong giai đoạn này
khu vực thường bị khô hạn và thiếu nước nghiêm trọng[6].
1.1.4. Chế độ thủy văn
Vĩnh Phúc có một mạng lưới sông, suối khá dày đặc với ba hệ thống sông
chính là sông Hồng, sông Phó Đáy và sông Phan.
Sông Phan (phần hạ lưu chảy vào sông Cà Lồ) bắt nguồn từ dãy núi Tam
Đảo chảy theo hướng Tây Bắc xuống Đông Nam và được bao quanh bởi sông Hồng
và sông Phó Đáy.
Chiều dài dòng chính của sông Phan tính từ cống 3 cửa An Hạ đến cầu
Hương Canh dài 58 km, đến nơi nhập vào sông Cà Lồ (tại thôn Đại Lợi, xã Nam
Viêm, thị xã Phúc Yên) dài 62 km. Bề rộng lòng thay đổi từ 7 ÷ 15 m (tại An Hạ)
và mở rộng dần 30 ÷ 50 m, đến cầu Hương Canh khoảng 80 ÷ 100 m.
Do địa hình thấp lại được bao bọc bởi hệ thống đê điều và hệ thống đường

bộ, kênh mương nên trên các lòng sông nhiều đoạn hình thành các đầm tự nhiên có
tác dụng chứa nước thải và cấp nước vào thời điểm sông cạn kiệt nước.
Toàn tỉnh có 184 hồ chứa nước với tổng dung tích 79,12 triệu m 3; các đầm,
ao, hồ với tổng dung tích nước 65 triệu m 3; trữ lượng các sông, suối, khe, lạch nhỏ
vào khoảng 5,5 triệu m3. Phía Nam tỉnh có các khu chứa nước tự nhiên lớn, phía
Bắc là các khu chứa nước nhân tạo được xây dựng bằng các công trình thuỷ lợi có
hồ chứa nước (bảng 1.1).
Bảng 1.1. Ao, hồ, khu chứa nước chính trong tỉnh
TT

Khu chứa

Vị trí

Mặt nước

1

nước
Đại Lải

Phúc Yên

(ha)
550

2

Vân Trục


Lập Thạch

3

Xạ Hương

4

Dung tích
(triệu m3)

Lưu vực

25,0

sông
Cà Lồ

70

8,12

Phan

Tam Đảo

46,2

12,7


Phan

Bò Lạc

Lập Thạch

18,0

2,6

Phan

5

Suối Sải

Lập Thạch

20,0

3,0

Phan

6

Đầm Vạc

255


8,0

Phan

7

Cà Lồ cụt

TP. Vĩnh Yên
Phúc Yên - Yên

4,0

Cà Lồ

Lạc
13


(Nguồn: Báo cáo tình hình khai thác sử dụng nước tỉnh Vĩnh Phúc
năm 2005)
Nguồn sinh thủy của sông Phan phụ thuộc chủ yếu vào lượng mưa và nước
rò rỉ, hồi quy trong quá trình thực hiện tưới tiêu của các kênh thuỷ lợi. Mực nước về
mùa kiệt thường rất thấp, nhưng khi có mưa lớn thì mực nước dâng lên rất nhanh.
Mùa mưa, lưu lượng nước sông Phan có từ 30 ÷ 80 m3/s; mùa khô thường chỉ còn 5
− 6 m3/s. Nguồn nước này được sử dụng chủ yếu cho các trạm bơm tưới cục bộ đặt
ven sông Phan. Mực nước lũ quan trắc trong một năm điển hình trình bày trong
bảng 1.2:
Bảng 1.2. Mực nước lũ lớn nhất của sông Phan
Đơn vị: m

TT

Vị trí

1971

1978

1980

1

An Hạ

13,25

13,35

14,30

2

Chợ Vàng (xã Kim Xá)

11,20

11,50

12,20


3

Nghĩa Lập (Nghĩa Hưng)

10,94

11,08

11,45

4

Cầu Trắng (cầu Thượng Lập, xã Tân Tiến)

10,67

10,80

10,65

Ở phân hệ sông vùng đồi núi, các nhánh sông khá thẳng và dốc do đó tốc độ
dòng chảy thường cao hơn so với phân hệ sông vùng đồng bằng - nơi các nhánh
sông thường quanh co uốn khúc. Độ quanh co lớn K ≈ 1,8; mô đun dòng chảy
chuẩn: M0 = 210 L/s-km2 [6].
1.1.5. Đặc điểm hệ sinh thái
Về mặt sinh thái, các vùng đất ngập nước thuộc lưu vực sông Phan có giá trị
rất quan trọng, giữ vai trò trao đổi vật chất và điều hòa dòng chảy với sông Phan.
Toàn bộ diện tích đất ngập nước của lưu vực sông Phan được coi là giai đoạn đầu
của loạt diễn thế sinh thái đất ngập nước. Xét về khía cạnh sinh thái học, đây là
những hệ sinh thái còn khá trẻ, có sự bền vững nhất định, nhưng khi bị tác động

mạnh rất khó phục hồi và rất khó định hướng được diễn thế sinh thái của chúng
trong tương lai. Xét về giá trị tài nguyên, chúng là những hệ sinh thái quý giá, ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống con người trong khu vực [8].
14


Hiện nay, sông Phan đã thay đổi nhiều về cảnh quan và chất lượng nước.
Diện tích sông Phan thu hẹp lại, bồi lắng, nông dần, có những đoạn khoảng cách hai
bên bờ sông chỉ còn đến chục mét. Người dân không còn sử dụng nước sông cho
mục đích sinh hoạt, sản lượng thu được từ đánh bắt thủy sản không nhiều và chủng
loại cũng không còn đa dạng. Những bãi rác tự phát mọc lên ven sông, dòng sông
trở thành một nơi tiếp nhận rác thải, đặc biệt ở những đoạn có dân cư sống tập trung
ven sông. Nhiều nơi, hoạt động chăn thả gia cầm ngay trên sông của người dân
đang góp phần gây thêm ô nhiễm.

Hình 1.2. Bản đồ lưu vực sông Phan [8]
1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội lưu vực sông Phan
1.2.1. Dân số và lao động
Năm 2008, dân số toàn tỉnh Vĩnh Phúc là 1.014.488 người với mật độ dân số
trung bình là 824 người/km2 (bảng 1.3) và tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,11%. Lưu
vực sông Phan được xác định là phần diện tích thu nước và tác động đến trữ lượng
15


và chất lượng nước của sông bao gồm các huyện Tam Đảo, Tam Dương, Vĩnh
Tường, Yên Lạc, TP. Vĩnh Yên, huyện Bình Xuyên, TX. Phúc Yên. Trong khuôn
khổ của dự án này, 24 xã có sông Phan chảy qua được tiến hành điều tra, khảo sát
có tổng diện tích tự nhiên là 157,13 km2 , dân số 216.596 người[7].
Dân cư thường phân bố không đều, tập trung ở những nơi có điều kiện phát
triển kinh tế và thuận lợi cho đời sống sinh hoạt. Đặc biệt những nơi gần các nguồn

nước thường là những nơi có mật độ dân cư cao. Sông Phan cũng không phải là một
ngoại lệ do vai trò của nó đối với đời sống của dân cư. Mật độ dân số trung bình của
các xã có sông Phan chảy qua là 1.378 người/km 2, gần gấp 2 lần mật độ trung bình
của toàn tỉnh.
Bảng 1.3. Thống kê dân số tỉnh Vĩnh Phúc năm 2008
STT

Tên huyện, thị xã,

Số

thành phố



Số

Diện

Dân số

phường,

tích

trung bình

2

Mật độ dân số

(người/km2)

thị trấn
(km )
(người)
1
TP. Vĩnh Yên
2
7
50,81
85.231
1.677
2
TX. Phúc Yên
4
6
120,13
88.657
738
3
Huyện Tam Dương
12
1
107,18
96.736
902
4
Huyện Tam Đảo
8
1

235,88
69.315
294
5
Huyện Bình Xuyên
10
3
145,67
108.944
748
6
Huyện Yên Lạc
16
1
106,77
149.387
1.399
7
Huyện Vĩnh Tường
27
2
141,90
198.918
1.402
8
Huyện Sông Lô
16
1
150,31
93.984

625
9
Huyện Lập Thạch
18
2
173,10
123.664
714
Tổng số
113
24
1.231,76
1.014.488
824
Hiện khu vực có 45% dân số trong độ tuổi lao động, trong đó phần lớn lao

động chuyên nông nghiệp, chưa qua đào tạo và không có chứng chỉ chuyên môn
nào (90%), một số nhỏ có trình độ sơ cấp và trung cấp (6%) và rất ít người có trình
độ cao đẳng, đại học.
Một số ít các hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm với quy mô nhỏ lẻ, hầu như
không có trang trại chăn nuôi tập trung. Trừ xã Hoàng Lâu (huyện Tam Dương),
phường Đồng Tâm (TP. Vĩnh Yên) có trại chăn nuôi tập trung với khoảng 100 lợn
nái[4].
1.2.2. Công tác thủy lợi

16


Phần lớn các xã trong địa bàn nghiên cứu là các xã nông nghiệp nên công
tác đê điều, thủy lợi có ý nghĩa rất quan trọng. Chiều dài kênh mương thủy lợi do

các xã trong khu vực nghiên cứu quản lý là 530 km. Chiều dài kênh mương được
kiên cố hoá là 72,5 km (tỷ lệ được kiên cố hóa là 13,7%). Số trạm bơm nước phục
vụ sản xuất nông, lâm, thuỷ sản trên địa bàn các xã là 73 trạm, trong đó trạm bơm
Liễn Sơn có ý nghĩa nhất trong việc cấp nước phục vụ hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Nhìn chung, nước tưới được đảm bảo kịp thời đáp ứng với nhu cầu sinh
trưởng của cây trồng. Bên cạnh đó, các hợp tác xã đã tiến hành nạo vét kênh mương
định kỳ đảm bảo việc tưới tiêu nước được tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất
nông nghiệp.
1.2.3. Vệ sinh môi trường
Có 80% các hộ sử dụng nước sinh hoạt từ nước giếng khoan, trong đó chỉ
có khoảng 20% có sử dụng các hệ thống lọc, sử dụng hóa chất để xử lí trước khi ăn
uống. 93,5% số hộ dân ở Quất Lưu sử dụng nước giếng xây làm nước sinh hoạt
chính trong đó chỉ có 5% qua xử lý. Một bộ phận dân cư tích nước mưa để dùng, và
một bộ phận nhỏ dân cư ở Tam Dương, Vĩnh Tường có sử dụng nước sông, hồ, ao
làm nước sinh hoạt.
Phần lớn các hộ dân trong địa phương (70%) sử dụng hệ thống nhà tiêu hai
ngăn. Số hộ sử dụng nhà tiêu tự hoại vẫn còn ít. Nhiều hộ gia đình thuộc một số xã
sống trong điều kiện không có nhà tắm.
Hiện nay, công tác bảo vệ môi trường ở các xã, địa phương có sông Phan
chảy qua nhìn chung cũng đã được quan tâm. Chính quyền địa phương thường
xuyên vận động nhân dân làm công tác vệ sinh môi trường, khơi thông cống rãnh,
dọn rác thải trong gia đình và ngõ xóm[6].
1.2.4.

Hoạt động công nghiệp
Vĩnh Phúc là 1 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, được thủ tướng
chính phủ phê duyệt xây dựng 20 khu công nghiệp và 41 cụm công nghiệp trong Đề
án quy hoạch phát triển ngành công nghiệp Vĩnh Phúc đến năm 2020 và định hướng
đến năm 2030.
Theo bản đồ quy khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020, diện tích

các khu công nghiệp dự kiến là 9.151 ha, trong đó lưu vực sông Phan có 4.687
17


chiếm 51,22%, tăng lên gần 4 lần so với hiện nay. Trong tương lai công nghiệp tỉnh
tập trung nhiều nhà máy với nhiều loại hình hoạt động khác nhau: Thực phẩm, cơ
khí, luyện kim, chế tạo máy, thiết bị, dệt may, bao bì, hoá chất, chất dẻo, cao su…
Khu vực Khai Quang – Vĩnh Yên chủ yếu là các ngành sản xuất linh kiện điện tử
viễn thông và may mặc; Xuân Hòa – Phúc Yên chủ yếu là cơ khí, lắp ráp, cao su,
vật liệu xây dựng và hóa chất[4].
1.2.5.

Hoạt động sản xuất nông nghiệp
Vĩnh Phúc vốn là một tỉnh nông nghiệp và hiện nay nông nghiệp vẫn đóng
góp một phần quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Nước tưới cho hoạt động
nông nghiệp chủ yếu được cấp từ nguồn nước mặt với tổng lưu lượng khoảng 440
triệu m3/năm. Toàn tỉnh hiện có 549 công trình cấp nước tưới tiêu, trong đó có 184
hồ, đập với tổng dung tích 78 triệu m3. Ngoài ra còn có 195 trạm bơm với tổng công
suất bơm 231 m3/s [6].
Toàn bộ lượng nước tưới phục vụ nông nghiệp được cung cấp từ các con
sông và hệ thống đầm hồ của tỉnh. Trong đó, sông Phan tuy là hệ thống sông nhỏ so
với sông Hồng và sông Lô nhưng được xem như mạch máu của ruộng đồng, làm
nhiệm vụ tưới tiêu quan trọng cho các huyện Tam Dương, Vĩnh Tường, Yên Lạc,
Bình Xuyên… Chỉ tính riêng 5 trạm bơm tưới chính, sông Phan có khả năng cung
cấp nước tưới cho khoảng 17.000 ha diện tích đất nông nghiệp với lưu lượng
53m3/s. Hệ thống sông Phan kết hợp với các tuyến kênh mương chính như kênh
Liễn Sơn, kênh Bến Tre… cung cấp nước tưới cho đồng ruộng và tiêu úng về mùa
mưa.
Bảng 1.4. Hệ thống trạm bơm tưới chính trong lưu vực sông Phan [6]
TT


Tên

Huyện

Diện tích tưới
(ha)

Lưu lượng
(m3/s)

1

Bạch Hạc

Vĩnh Tường

10.000

14

2

Đầm Cả

Bình Xuyên

3.000

12


3

Liễu Trì

Vĩnh Tường

1.200

2

4

Thanh Điềm

Mê Linh

4.700

10

5

Cống 5 cửa Liễn Sơn

Tam Dương

17.000

17


18


Tổng

17.000

53

Trên lưu vực sông Phan, với việc thâm canh và xu hướng chuyển đổi cơ cấu
cây trồng từ chuyên lúa sang hoa màu làm cho đất và nước sẽ phải đối diện với
nguy cơ ô nhiễm. Diện tích canh tác hoa màu đang có xu hướng ngày càng được mở
rộng, đặc biệt là một số loại rau có giá trị kinh tế tăng cao.
1.2.6.

Hoạt động nuôi trồng thủy sản
Toàn tỉnh có trên 3.000 ha mặt nước có khả năng nuôi trồng thuỷ sản, hiện
nay mới đưa vào khai thác sử dụng 2.236 ha nuôi cá, sản lượng đạt 5.660 tấn/năm,
trong đó nuôi trồng là 3.145 tấn. Đến năm 2020, diện tích mặt nước phục vụ nuôi
trồng thủy sản sẽ tăng lên gấp đôi (6.000 ha), bao gồm các loại hình: Nuôi thâm
canh ở các ao hồ, bán thâm canh ở các khu ruộng trũng, chú trọng đưa các con
giống mới có giá trị kinh tế cao vào nuôi trồng. Như vậy, cùng với kế hoạch khai
thác và tận dụng triệt để diện tích mặt nước phục vụ cho việc phát triển nuôi trồng
thủy sản, vấn đề cốt yếu của tỉnh là vừa tăng sản lượng cá đồng thời phát triển bền
vững vùng nuôi trồng [7].
Trên lưu vực sông Phan, nếu diện tích vùng đầm hồ ven sông được tận dụng
triệt để cho khai thác nuôi trồng thủy sản có thể góp phần đáng kể làm tăng sản
lượng thủy sản. Tuy nhiên, vấn đề địa phương sẽ phải đối mặt là suy giảm chất
lượng nước và sự thu hẹp, biến đổi dòng chảy do hoạt động đắp chặn luồng chảy để

làm ao cá.
Khu vực thượng nguồn phụ hệ Nam sông Phan (Hoàng Lâu, Hoàng Đan)
trước đây là phần nối với sông Phó Đáy và hệ thống sông Hồng có diện tích đầm hồ
khá lớn. Đây là điều kiện thuận lợi của địa phương và hiện nay đang được chính
quyền địa phương định hướng đầu tư mở rộng nghề nuôi trồng thủy sản để tăng thu
nhập cho người dân. Sự phát triển nuôi trồng thủy sản ở thượng nguồn cũng có thể
trở thành nguyên nhân gây ô nhiễm cho toàn bộ khu vực trung và hạ lưu sông Phan.
1.3. Nguồn và nguyên nhân gây ô nhiễm nước sông Phan
Hoạt động phát triển kinh tế - xã hội trên lưu vực sông Phan đã tác động rất
lớn đến chất lượng nước sông. Cơ cấu kinh tế có sự khác biệt giữa vùng núi, trung
du và đồng bằng trong lưu vực. Vì vậy mà các nguồn và nguyên nhân gây ô nhiễm
19


chất lượng môi trường nước mặt trên sông Phan cũng có những khác biệt về tính
chất đối với từng khu vực trên lưu vực sông. Tác nhân gây ô nhiễm chủ yếu là nước
thải sinh hoạt, hoạt động nông nghiệp, hoạt động sản xuất công nghiệp, làng nghề
và đô thị.
1.3.1.

Ảnh hưởng quá trình đô thị hóa và tăng dân số
Trong nhiều năm gần đây, tốc độ đô thị hóa trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ngày
càng tăng. Tỷ lệ dân số đô thị toàn tỉnh cũng có xu hướng tăng dần từ nay đến năm
2020 (tỷ lệ tăng dân số bình quân năm 2015 ở thành thị là 102,14%). Không chỉ số
lượng dân đô thị tăng thêm, nhu cầu sử dụng nước của người dân cũng tăng khi điều
kiện sống được cải thiện. Thay vì sử dụng 80-100L mỗi ngày, cư dân thành thị sẽ
tiêu thụ 120 - 150L nước mỗi ngày vào năm 2020. Và người dân nông thôn khi đó
sẽ sử dụng 80 - 100L mỗi ngày thay vì 40 - 60L mỗi ngày như hiện nay. Với mức
tiêu thụ này, có thể ước tính nước cấp cho sinh hoạt năm 2020 của tỉnh có thể lên
đến 49 - 62 triệu m3 mỗi năm. Với tỷ lệ khoảng 80% lượng nước cấp cho sinh hoạt

sẽ trở thành nước thải thì lượng nước thải mỗi năm của tỉnh sẽ đạt 39 - 49 triệu
m3[6]. Sức ép từ nước thải sinh hoạt lên hệ thống sông Phan sẽ ngày càng lớn hơn.
Bên cạnh đó rác thải sinh hoạt cũng tăng lên. Ở nông thôn rác thải sau khi
thu gom thường được đổ ở các điểm tự phát chưa có quy hoạch. Rác thường được
đổ tập trung ở cuối làng, giữa cánh đồng hay ở ngay cạnh bờ sông Phan như ở thôn
Sơn Tang xã Vĩnh Sơn, bãi rác cầu Hương – thị trấn Thổ Tang – huyện Vĩnh Tường
gây ách tắc dòng, mất mỹ quan, ô nhiễm nước.

20


Hình 1.3. Nơi tập kết rác tại thôn Sơn Tang, xã Vĩnh Sơn (Vĩnh Tường)
1.3.2.

Ảnh hưởng hoạt động du lịch
Là tỉnh có tiềm năng du lịch lớn, Vĩnh Phúc chủ trương đầu tư mở rộng khai
thác các điểm du lịch truyền thống, đồng thời xây dựng mới nhiều công trình phục
vụ du lịch. Các dự án đô thị du lịch như: Tam Đảo I và Tam Đảo II, sân golf, trường
đua ngựa…
Bảng 1.5. Chỉ tiêu phát triển du lịch tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2020 [7]
TT
1

2
3

Chỉ tiêu

2015


2020

Khách du lịch (triệu lượt khách)
- Quốc tế

2,0
0,45

2,5
0,7

- Nội địa

1,55

1,8

Cơ sở lưu trú

150

160

Doanh thu (tỷ đồng)
2100
3500
Theo định hướng đó thì hầu hết các địa điểm du lịch của tỉnh đều gắn liền

với dãy Tam Đảo. Những hoạt động du lịch có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng nước các thủy vực trên phụ hệ Bắc sông Phan, nơi mà nguồn nước được

đánh giá là còn khá sạch. Những vấn đề gây suy thoái môi trường nước có thể dự
báo trước là: Sự tăng lên về hàm lượng các hợp chất hữu cơ từ các nhà hàng, khách
sạn; các chất rắn lơ lửng do hoạt động xây dựng, đào bới, san lấp…
Hiện nay, chưa có những nghiên cứu hệ thống về ảnh hưởng của hoạt động
du lịch trên địa bàn tỉnh đến quá trình suy giảm chất lượng nước các thủy vực. Do
đó, việc định lượng các tác động của du lịch đến chất lượng môi trường nước gặp
nhiều khó khăn.
1.3.3. Ảnh hưởng của hoạt động công nghiệp
Hiện nay, có 03 khu công nghiệp (Kim Hoa, Khai Quang và Bình Xuyên) đã
đi vào hoạt động với diện tích là 650 ha với tỷ lệ lấp đầy là 61,4 - 100%. Khu công
nghiệp Bá Thiện đang xây dựng cơ bản và 05 KCN (Bình Xuyên II, Bá Thiện II,
Chấn Hưng, Hội Hợp và Sơn Lôi) đã có chủ trương thành lập.
Lưu lượng nước thải trung bình hàng năm tại các khu công nghiệp là rất lớn.
Hầu hết các khu công nghiệp nằm chủ yếu ở dọc tuyến quốc lộ 2A và tập trung ở
21


một số huyện, thị xã như: Thành phố Vĩnh Yên (KCN Khai Quang), thị xã Phúc
Yên (KCN Kim Hoa - Phúc Thắng và KCN Xuân Hòa), huyện Bình Xuyên (KCN
Bình Xuyên và CCN Hương Canh), nên nguồn thải công nghiệp mang tính cục bộ
cao. Lưu lượng thải ước tính cho toàn bộ các khu công nghiệp này đổ vào sông
Phan là 3.500 m3/ngày. Với đặc trưng tập trung chủ yếu ở hạ lưu sông Phan, nước
thải các khu công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm cục bộ cho đoạn sông này. Một số
chỉ tiêu phân tích các mẫu nước thải từ các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã
vượt QCVN. Chỉ tiêu BOD5 và COD ở một số khu công nghiệp vượt quá tiêu chuẩn
cho phép như khu công nghiệp Khai Quang, cụm công nghiệp Xuân Hòa, cụm công
nghiệp Hợp Thịnh và cụm công nghiệp Tề Lỗ. Một số khu công nghiệp có hàm
lượng TSS vượt quá tiêu chuẩn cho phép như khu công nghiệp Bình Xuyên, khu
công nghiệp Kim Hoa và cụm công nghiệp Hương Canh.
Như vậy, về lượng và về thành phần chất thải công nghiệp sẽ có những thay

đổi nhất định. Tuy nhiên, việc kiểm soát xử lý chất ô nhiễm trước khi thải vào môi
trường của các khu công nghiệp nếu được thực hiện nghiêm ngặt theo quy định thì
sẽ giảm được đáng kể những tác động xấu đến môi trường nói chung, đặc biệt là
môi trường nước sông Phan nói riêng.
1.3.4. Ảnh hưởng của hoạt động nông nghiệp
Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng với lượng và tần suất lớn là
nguyên nhân chính làm nhiễm bẩn môi trường đất và nước tại các khu vực này.
Tương tự như ở các khu thâm canh hoa màu khác, những vấn đề có thể dự báo
trước được ở khu vực này như: Nồng độ dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, tích lũy
các kim loại nặng, rửa trôi nitrat, phát sinh nhiều bệnh dịch, sâu hại mới…Hoạt
động tưới tiêu hay tình trạng ngập úng vào mùa mưa tại sông Phan sẽ góp phần gia
tăng sự phát tán các chất ô nhiễm và gây suy giảm nghiêm trọng chất lượng môi
trường nước của khu vực.
Ngoài ra, tại một số nơi còn diễn ra hoạt động chăn nuôi gia súc ven sông và
nuôi thả gia cầm. Nước thải và chất thải rắn phát sinh từ các hoạt động này đều
không được thu gom, xử lý mà đổ trực tiếp ra sông và gây ảnh hưởng đến chất
lượng nguồn nước. Tổng lượng nước thải từ hoạt động chăn nuôi ước tính có thể lên
đến 12,9 triệu m3/năm[4].
22


Hình 1.4. Hoạt động chăn thả gia cầm trên sông Phan (xã Tề
Lỗ - huyện Yên Lạc)

Hình 1.5. Ảnh chụp tại một mương chứa nước thải trước khi đổ ra sông Phan
1.4. Tổng quan các nghiên cứu về sông Phan
Sông Phan là sông nội tỉnh lớn của tỉnh Vĩnh Phúc. Có vai trò lớn trong cấp
thoát nước, ổn định môi trường, duy trì cảnh quan sinh thái cho các địa phương và
cũng là nguồn cung cấp nước cho sông Cà Lồ, tham gia vào lưu vực chung của sông
Cầu.

Do có tầm quan trọng và ý nghĩa về nhiều mặt đối với tỉnh Vĩnh Phúc nên đã
có nhiều nghiên cứu về hiện trạng chất lượng nước cũng như sinh cảnh của lưu vực
sông Phan như:
23


- Báo cáo đề án tổng thể Cải tạo cảnh quan sinh thái và bảo vệ môi trường
lưu vực sông Phan, năm 2010, của Sở tài nguyên môi trường tỉnh Vĩnh Phúc.
- Báo cáo kết quả chất lượng môi trường phục vụ nhiệm vụ “Quan trắc hiện
trạng môi trường” hàng năm của Trung tâm Quan trắc Tài nguyên và Môi trường
Vĩnh Phúc.
- Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh hàng năm của Sở tài nguyên môi trường
tỉnh Vĩnh Phúc.
Những báo cáo nghiên cứu về hiện trạng chất lượng nước sông Phan phản
ánh được diễn biến chất lượng môi trường nước theo mùa, theo từng năm và mức
độ ô nhiễm dòng sông. Các báo cáo đều cho thấy nước sông Phan được so sánh với
QCVN 08-MT:2015/BTNMT(cột B1). Đây là những tài liệu rất bổ ích và có giá trị
tham khảo cho đề tài nghiên cứu, tuy nhiên chưa có một công trình nào đi sâu,
nghiên cứu về những nguồn tác động tới lưu vực, cũng như diễn biến của chất
lượng nước trong những năm tiếp theo trên một lưu vực cụ thể.

24


CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Sông Phan chảy qua tỉnh Vĩnh Phúc
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt không gian: Sông Phan chảy qua tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Về mặt thời gian: 6 tháng đầu năm 2016.

2.2. Phương pháp nghiêncứu
2.2.1. Phương pháp thu thập, tổng hợp tài liệu
- Thu thập và chọn lọc các tài liệu có liên quan đến phạm vi khu vực nghiên
cứu, các tài liệu về phương pháp tính toán chỉ số chất lượng nước.
- Thu thập và xử lý các kết quả quan trắc chất lượng nước sông Phan các năm gần
đây.
- Tổng hợp và phân tích các tài liệu, số liệu tính toán.
2.2.2. Phương pháp thực nghiệm
a. Phương pháp lấy mẫu:
Mẫu được lấy theo quy định của TCVN 6663-6:2008 và bảo quản mẫu theo
TCVN 6663-3:2008.
Thiết bị, dụng cụ lấy mẫu nước: TCVN 6663-1:2011
Bảo quản mẫu nước: TCVN 6663- 3:2008.
 Chuẩn bị lấy mẫu:

Dụng cụ, thiết bị lấy mẫu:
Dụng cụ đựng mẫu: Các chai chứa mẫu phải được lựa chọn sao cho không có
sự tác động giữa mẫu lấy và vật liệu làm chai.
Lấy mẫu để phân tích các chỉ tiêu vi sinh: Dùng chai thủy tinh tối màu đã
hấp tiệt trùng dung tích 500mL. Lấy mẫu phân tích các chỉ tiêu hóa học: Dùng các
chai polyetylen cổ ngắn dung tích 500 mL hoặc 1000 mL.
Thiết bị lấy mẫu: Có thiết bị lấy mẫu theo chiều ngang, chiều sâu và dụng cụ
lấy mẫu đơn giản.
 Lấy mẫu hiện trường

- Chọn vị trí lấy mẫu: Tiến hành lấy mẫu tại 8 điểm theo kế hoạch quan trắc
25



×