VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH TÂM
HỖ TRỢ HỌC NGHỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN KHẮC BÌNH
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn của mình được thực hiện dựa vào hiểu biết và
quá trình tìm tòi, cố gắng thực hiện của bản thân cùng sự hướng dẫn của
PGS.TS Nguyễn Khắc Bình. Công trình nghiên cứu của tôi không sao chép
của bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Và các thông tin
trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tôi xin chịu trách nhiệm
về nghiên cứu của mình.
Học viên thực hiện
Nguyễn Thị Thanh Tâm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ HỌC NGHỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI
KHUYẾT TẬT .................................................................................................. 8
1.1. Một số khái niệm ........................................................................................ 8
1.2. Đặc điểm và quan điểm hỗ trợ người khuyết tật ...................................... 12
1.3. Nguyên tắc hỗ trợ học nghề đối với người khuyết tật ............................. 17
1.4. Lý thuyết áp dụng..................................................................................... 18
1.5. Vai trò của nhân viên công tác xã hội ...................................................... 20
1.6. Một số chính sách hỗ trợ học nghề đối với người khuyết tật ở Việt Nam
...................................................................................................................... 22
1.7. Một số chương trình dạy nghề có người khuyết tật tham gia .................. 24
Chương 2: THỰC TRẠNG HỖ TRỢ HỌC NGHỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI
KHUYẾT TẬT TẠI HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI............... 27
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu .............................................................. 27
2.2. Thực trạng hỗ trợ học nghề đối với người khuyết tật .............................. 28
2.3. Đánh giá chung tình hình hỗ trợ học nghề đối với người khuyết tật ....... 45
Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP HỖ TRỢ HỌC NGHỀ ĐỐI VỚINGƯỜI
KHUYẾT TẬT TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................ 50
3.1. Nguyên tắc xây dựng các biện pháp ........................................................ 50
3.2. Các biện pháp ........................................................................................... 51
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 60
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NKT
: Người khuyết tật
CTXH : Công tác xã hội
LĐXH : Lao động xã hội
UBND : Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thông tin chung về NKT
Bảng 2.2. Mức độ truyền tải thông tin về chương trình học nghề đến NKT
Bảng 2.3. Danh mục nghề tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
Bảng 2.4. Nhận thức của cán bộ LĐXH về thực hiện chương trình hỗ trợ học
nghề đối với NKT
Bảng 2.5. Đánh giá mức hỗ trợ tài chính khi NKT tham gia học nghề
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Thông tin về chương trình học nghề đối với NKT
Biểu đồ 2.2. Tư vấn lựa chọn nghề nghiệp đối với NKT
Biểu đồ 2.3. Chính sách hỗ trợ học nghề đối với NKT
Biều đồ 2.4. Các hình thức học nghề đối với NKT
Biểu đổ 2.5. Hình thức sở hữu của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đối với
NKT
Biểu đồ 2.6. Nhu cầu học nghề của NKT
Biểu đổ 2.7. Đánh giá thời gian tổ chức học nghề đối với NKT
Biểu đổ 2.8. Đội ngũ giáo viên dạy nghề với NKT
DANH MỤC CÁC HỘP
Hộp 2.1. Ý kiến của NKT đối với các thông tin về chương trình học nghề
Hộp 2.2. Ý kiến của NKT về hỗ trợ tư vấn lựa chọn nghề nghiệp
Hộp 2.3. Tình hình thực hiện các hình thức dạy nghề đối với NKT
Hộp 2.4. Ý kiến của chủ cơ sở sản xuất kinh doanh về chương trình hỗ trợ học
nghề đối với NKT
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, Việt Nam có khoảng 7 triệu NKT ở độ tuổi từ 5 tuổi trở lên
chiếm 7,8% dân số, NKT đặc biệt nặng và nặng chiếm khoảng 28,9%, khoảng
58% là nữ, 28,3% là trẻ em, 10,2% là người cao tuổi, 10% NKT thuộc hộ
nghèo. NKT do nhiều nguyên nhân khác nhau như hậu quả chiến tranh, tai
nạn, bẩm sinh, môi trường...Tỷ lệ NKT sống ở nông thôn chiếm 87,27% phần
lớn họ thuộc diện nghèo và cận nghèo. Số NKT còn trong độ tuổi lao động là
61%, trong đó 40% còn khả năng học nghề và lao động. Tuy nhiên trong số
này chỉ có 30% đang tham gia làm việc tạo thu nhập cho bản thân và gia đình,
còn số lượng lớn NKT không tham gia học nghề, tìm kiếm việc làm để hòa
nhập cộng đồng.
Hỗ trợ học nghề đối với NKT là hợp phần quan trọng hỗ trợ tạo dựng và
phát triển chiến lược sinh kế bền vững nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống của
NKT. Năm 2007, Chính phủ Việt Nam đã ký Công ước của Liên hiệp quốc về
quyền của NKT, ngày 28/11/2014 Quốc hội đã phê chuẩn Công ước Liên hiệp
quốc về quyền của NKT và ngày 21/6/2016 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về quyền của NKT. Việc
phê chuẩn Công ước một lần nữa khẳng định Việt Nam tôn trọng các quyền
và bảo đảm không phân biệt đối xử đối với NKT, trong đó có lĩnh vực học
nghề, việc làm.
Xác định được tầm quan trọng của vấn đề này, những năm qua Nhà
nước đã ban hành và triển khai thực hiện nhiều chương trình, đề án riêng biệt
cũng như lồng ghép: Đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2011 2020 (Đề án 1956), Đề án hỗ trợ học nghề cho thanh niên giai đoạn 2008 2015 (Đề án 103), Đề án hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm giai đoạn 20102015 (Đề án 295)... Đặc biệt, ngày 05 tháng 8 năm 2012 Thủ tướng Chính
1
phủ ký Quyết định số 1019/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án trợ giúp NKT
giai đoạn 2012 – 2020 và Thông tư liên tịch số 48/TTLT- BTC- BLĐTBXH
ngày 26 tháng 4 năm 2013 Qui định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Đề
án trợ giúp NKT giai đoạn 2012 -2020 tại Điều 4 khoản 3.2. Dạy nghề, tạo
việc làm đã qui định nâng mức hỗ trợ học nghề đối với NKT từ 3.000.000
đ/người/khóa thành 6.000.000đ/người/khóa và mở rộng các hình thức học
nghề từ học nghề tại trường lớp, trung tâm công lập đến học nghề theo hình
thức truyền nghề, vừa học vừa làm, cầm tay chỉ việc... Ngày 21 tháng 10 năm
2014 Tổng Cục dạy nghề đã ban hành Công văn số 3930/LĐTBXH- TCDN
về việc thực hiện công tác dạy nghề tạo việc làm cho NKT và Công văn số
4830/BTC-HCSN ngày 14 tháng 4 năm 2015 Bộ Tài chính về việc ban hành
định mức chi phí đào tạo nghề đối với NKT gửi UBND và Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội tại 63 tỉnh/thành phố. Có thể nói, đây là bước tiến rất
lớn về cơ chế chính sách của Nhà nước đối với hoạt động này đồng thời đang
từng bước nâng cao vị thế của NKT trong xã hội.
Tuy nhiên, số lượng NKT tham gia học nghề còn rất thấp, NKT cũng
như gia đình NKT còn chưa biết/chưa tiếp cận được đến các chính sách hỗ trợ
khi họ tham gia học nghề như kinh phí học nghề, kinh phí đi lại, tư vấn lựa
chọn nghề, kết nối giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp... hoặc học nghề
mang tính chất hình thức, học cho có nên chất lượng không cao, nhiều người
học nghề xong không có việc làm. Vậy cần làm như thế nào để NKT có thể
học nghề, có việc làm và tự tin hòa nhập xã hội? Đây là một câu hỏi lớn, vấn
đề khó và cần phải có sự chung tay góp sức của toàn xã hội để đảm bảo thực
hiện được nhu cầu chính đáng và cũng là một trong những quyền cơ bản nhất
của con người nói chung và NKT nói riêng.
Xuất phát từ những thuận lợi, thách thức và trải nghiệm thực tế khi
thực hiện hoạt động hỗ trợ học nghề đối với NKT, tôi nhận thấy được ở họ sự
2
kiên trì bền bỉ, sự cố gắng học hỏi và nghị lực vươn lên trong cuộc sống với
phương châm “xương rồng vẫn nở hoa”. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Hỗ trợ
học nghề đối với NKT từ thực tiễn Thành phố Hà Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Hiện nay, ở Việt Nam nghiên cứu về hỗ trợ học nghề đối với NKT vẫn
còn rất ít, chủ yếu lồng ghép trong các nghiên cứu, báo cáo về dạy nghề - việc
làm cho lao động nông thôn. Tuy nhiên, một số nghiên cứu về lĩnh vực
CTXH cũng đề cập đến vấn đề hỗ trợ học nghề đối với NKT. Trong luận án
tiến sĩ: “Tài chính vi mô hỗ trợ xóa đói giảm nghèo tại tỉnh Đồng Nai đến năm
2020” của tác giả Lê Kiên Cương (2013). Tác giả cho rằng: tài chính vi mô là
một hướng quan trọng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo của Tỉnh; Phát
triển tài chính vi mô hỗ trợ xóa đói giảm nghèo là trách nhiệm của các cấp, các
ngành, đoàn thể và toàn dân tỉnh Đồng Nai; Phát triển tài chính vi mô cần phải
có trọng điểm, phát triển dần từ nhỏ đến lớn, phù hợp với điều kiện mỗi vùng;
Phát triển tài chính vi mô tập trung trước tiên tại những cộng đồng còn gặp
nhiều khó khăn về kinh tế. Phát triển tài chính vi mô hỗ trợ xóa đói giảm nghèo
hướng tới mục tiêu kinh tế và xã hội; Góp phần vào tăng trưởng kinh tế; Tạo
thêm công ăn việc làm; Nâng cao thu nhập của người nghèo; Đảm bảo an sinh
xã hội, trợ giúp người nghèo có thể vươn lên bằng chính sức lực của mình. Tác
giả đưa ra một số giải pháp thực hiện: Xây dựng các tổ chức tài chính vi mô
bán chính thức; Khuyến khích sự mở rộng các chi nhánh tài chính vi mô của
tỉnh bạn; Phát triển tổ chức tài chính vi mô chính thức: Liên doanh với một số
ngân hàng Tài chính vi mô quốc tế. Cuối của nghiên nghiên cứu này, tác giả
cũng đã đề cập đến vấn đề không chỉ hỗ trợ tài chính cho NKT, người nghèo
mà phải quan tâm đến giải pháp hỗ trợ học nghề cho NKT, người nghèo mới
giải quyết vấn đề này có tính bền vững.
3
Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB) với tên gọi “Đánh giá nghèo
đói và chiến lược” (2010) nghiên cứu này đã đánh giá thực trạng đói nghèo của
Việt Nam, bước đầu đưa ra các giải pháp và các chính sách trực tiếp tác động
tới giảm nghèo ở Việt Nam. Nghiên cứu khẳng định để tiến hành xóa đói giảm
nghèo có hiệu quả không chỉ thực hiện bởi các chính sách thúc đẩy tang trưởng
kinh tế mà phải có các chính sách tác động trực tiếp đến người nghèo trong đó
bao gồm các chính sách về đất đai, cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục. Trong phần
nói về chính sách giáo dục trong xóa đói giảm nghèo, báo cáo đã đề cập đến
một số giải pháp hỗ trợ người nghèo, NKT trong đó giải pháp hỗ trợ học nghề
cho các đối tượng này nhằm xóa đói giảm nghèo bền vững.
Phạm Thái Hưng và các tác giả “Nghèo đói của dân tộc thiểu số ở Việt
Nam thực trạng và thách thức tại các xã đặc biệt khó khăn” đã đề cập đến các
khía cạnh quan trọng về mức sống ở đồng bào dân tộc thiểu số. Nghiên cứu
mô tả một cách toàn diện về tình trạng vấn đề nghèo đói và mức sống của
nhóm dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn, mô tả tập chung ở các khía cạnh
nghèo về thu nhập và các khía cạnh phi kinh tế như tiếp cận giáo dục, dịch vụ
y tế, phát huy tính chủ động. Đồng thời nghiên cứu về các yếu tố quyết định
giữa nhóm đa số và nhóm dân tộc thiểu số khác nhau bằng cách phân tích thu
nhập về các đặc điểm và nguồn lực giữa các nhóm dân tộc. Hai là những khác
biệt về thu nhập từ các đặc điểm và nguồn lực. Ba là tìm hiểu các dân tộc
thiểu số nghèo được hưởng các chính sách và các chương trình hiện tại như
thế nào. Sau cùng là tác giả có những kiến nghị cho các chính sách và chương
trình trong tương lai. Trong nghiên cứu đó, tác giả cũng nêu lên một số giải
pháp hỗ trợ người dân tộc thiểu số trong đó có NKT tham gia các khóa học
nghề nhằm đưa ra những hỗ trợ hiệu quả trong việc nâng cao mức sống cho
các dân tộc thiểu số.
4
Trong Báo cáo đánh giá hệ thống trợ giúp xã hội dành cho NKT trong
lĩnh vực Lao động - Xã hội do Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội phối hợp với Hội trợ giúp NKT Việt Nam ( Tổ chức VNAH)
thực hiện năm 2012, Báo cáo đánh giá cuối kỳ Chương trình phục hồi chức
năng lao động cho NKT do Tổ chức VNAH phối hợp với Trung tâm dịch vụ
việc làm Hà Nội thực hiện năm 2014, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
phối hợp với Tổ chức Lao động quốc tế thực hiện năm 2015 cũng đã đề cập
đến vấn đề hỗ trợ NKT trong học nghề để giúp họ phấn đấu vươn lên; góp
phần thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn mới.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên nền tảng lý luận về hỗ trợ học nghề đối với NKT và thực trạng
công tác hỗ trợ NKT ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội trong thời gian qua
để đề xuất những biện pháp hỗ trợ NKT trong hỗ trợ học nghề; góp phần thực
hiện chính sách an sinh xã hội ở Hà Nội và cả nước trong giai đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, đề tài phải giải quyết các
nhiệm vụ sau đây:
- Xác lập lý luận về hỗ trợ học nghề đối với NKT.
- Đánh giá thực trạng hỗ trợ học nghề đối với NKT ở địa bàn Hà Nội
trong những năm vừa qua.
- Đề xuất một số biện pháp hỗ trợ học nghề đối với NKT trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp hỗ trợ học nghề đối với NKT trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5
4.2. Khách thể nghiên cứu
Công tác hỗ trợ học nghề với NKT tại thành phố Hà Nội
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: huyện Gia Lâm – thành phố Hà Nội
Phạm vi thời gian: Từ tháng 1/2016 đến tháng 6/2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích tài liệu sẵn có
Các văn bản luật, chính sách của Đảng và Nhà nước về hỗ trợ học nghề
đối với NKT.
Nghiên cứu các tài liệu, các báo cáo về tình hình trợ giúp NKT trong
những năm qua, đặc biệt là trợ giúp NKT trong lĩnh vực học nghề.
Song song với đó, kết hợp với các nguồn thông tin thu thập được từ sách,
báo, internet...
5.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Là phương pháp được thực hiện với nhiều người theo một bảng hỏi in
sẵn với 2 dạng câu hỏi chính là: câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Người được hỏi
trả lời ý kiến của mình bằng cách đánh dấu vào các ô tương ứng hoặc trả lời
câu hỏi theo một quy ước mặc định sẵn.
5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu là những cuộc đối thoại được lặp đi lặp lại giữa nhà
nghiên cứu và người cung cấp thông tin nhằm tìm hiểu cuộc sống, kinh
nghiệm và nhận thức của người cung cấp thông tin thông qua chính ngôn ngữ
của người ấy.
5.4. Phương pháp quan sát
Là phương pháp thu thập thông tin qua các tri giác như nghe, nhìn...để
thu thập toàn bộ thông tin có liên quan đến đối tượng nghiên cứu. Phương
pháp này được sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu.
6
5.5. Phương pháp xử lý số liệu
+ Phương pháp xử lý số liệu thống kê: dùng phần mềm SPSS (đối với
các số liệu định lượng ).
+ Tổng hợp phân tích kết quả điều tra định tính (phỏng vấn sâu, phỏng vấn ,
họp nhóm và thu thập tin từ người cung cấp thông tin...).
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Thông qua đề tài này, có thể nhìn nhận công tác hỗ trợ học nghề đối với
NKT từ góc độ khoa học, mô tả và đánh giá vấn đề bằng các lý thuyết. Đồng
thời, bằng những kiến thức thực tiễn được bổ sung làm rõ hơn về công tác hỗ
trợ học nghề đối với NKT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Xuất phát từ việc triển khai trên địa bàn thành phố Hà Nội có thể đánh
giá một cách tổng quan nhất nhu cầu học nghề của NKT.
Đồng thời, đánh giá việc kết nối và thực hiện dạy nghề của đội ngũ cán
bộ LĐXH, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp (tư lập, công lập, nước ngoài... ).
Thông qua đó, đề xuất các khuyến nghị để hoạt động này được thực hiện hiệu
quả hơn trong cuộc sống.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu, phụ lục, luận văn gồm
3 chương sau đây:
Chương 1: Lý luận về hỗ trợ học nghề đối với người khuyết tật.
Chương 2: Thực trạng hỗ trợ học nghề đối với người khuyết tật tại
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Chương 3. Một số biện pháp hỗ trợ học nghề đối với NKT tại thành phố
Hà Nội.
7
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ HỌC NGHỀ ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1. 1. Một số khái niệm
1.1.1. Người khuyết tật
Có nhiều khái niệm khác nhau về NKT tùy theo từng giai đoạn, từng
thời kỳ và tùy từng cách tiếp cận.
* Trên thế giới
Cơ sở pháp lý để công nhận ai là NKT và từ đó đượcbảo vệ bởi hệ thống
pháp luật liên quan, phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu mà luật hoặc chính sách
cụ thể theo đuổi. Do vậy, không có một khái niệm chung về NKT áp dụng
chung cho tất cả các nước trên thế giới.
Những định nghĩa khác nhau về NKT theo quy định pháp luật của các
nước trên thế giới, có thể kể đến như sau:
(1) Định nghĩa theo quan điểm y tế thường tập trung vào sự khiếm
khuyết về thể trạng, tinh thần, thính giác, thị giác và sức khỏe tâm thần…Có
một số định nghĩa theo quan niệm này như sau:
- Trung Quốc: Luật của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về bảo vệ
NKT ban hành năm 1990, Điều 2 quy định: “NKT là một trong những người
bị bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lý
hay sinh lý, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ
hoặc một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thường.
“NKT” là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc khuyết tật về
thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật nhiều
và/hoặc khuyết tật khác”.
- Ấn Độ: Luật về NKT ban hành năm 1995 (về cơ hội bình đẳng, bảo vệ
quyền và đảm bảo cho NKT tham gia mọi hoạt động xã hội) định nghĩa
8
khuyết tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, bệnh phong; thị lực
kém; suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và mắc bệnh về tâm
thần. Trong khi đó định nghĩa về NKT lại được nêu “một người bị bất kỳ một
khuyết tật nào không dưới 40% theo xác nhận của cơ quan y tế có thẩm
quyền”.
- Theo đạo luật số 7277 với tên gọi là “Đạo luật tạo nên sự phục hồi
chức năng, tự phát triển và tự tin cho NKT và hòa nhập NKT vào xã hội và
các mục đích khác” được thông qua bởi Quốc hội Phillipines vào ngày
12/7/1991 quy định: “NKT là người có sự khác biệt về khả năng và hạn chế
do khiếm khuyết về giác quan, vận động, và tâm thần để thực hiện một hoạt
động được coi là bình thường”.
Cùng với khái niệm về NKT, đạo luật số 7277 của Philipines còn giải
thích một số thuật ngữ khác có liên quan đến NKT, cụ thể như sau:
+ Khuyết tật có nghĩa là sự khiếm khuyết về vận động hay trí não mà có
ảnh hưởng đáng kể một hoặc nhiều chức năng vận động, tâm thần của một cá
nhân hay các hoạt động của cá nhân, hoặc được coi là có khiếm khuyết.
+ Sự khiếm khuyết là sự mất, giảm hay rối loạn về chức năng, hay cấu
trúc cơ thể, tâm lý và hành vi.
(2) Định nghĩa NKT theo quan điểm xã hội là sự kết hợp giữa sự
khiếm khuyết, các yếu tố môi trường và tiếp cận dưới góc độ quyền của NKT.
Sau đây là một số định nghĩa theo quan điểm này:
- Công ước số 159 của ILO về phục hồi chức năng lao động và việc làm
của NKT (1983), khoản 1, Điều 1 quy định: “NKT dùng để chỉ một cá nhân
mà khả năng có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc đó và thăng
tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của một khiếm khuyết về thể chất
và tâm thần được thừa nhận”.
- Công ước về Quyền của NKT của Liên hiệp quốc (2006), Điều 1 quy
9
định: “NKT bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ
hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt
những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của NKT vào xã
hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”.
- Ở Đức, sách số 9 của Bộ Luật xã hội định nghĩa: “NKT là người có các
chức năng về thể lực, trí lực hoặc tâm lý tiến triển không bình thường so với
người có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường
này là nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã
hội”.
- Luật bình đẳng về việc làm của Nam Phi định nghĩa NKT là “người bị
suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài hoặc tiếp
diễn nhiều lần, khiến người đó bị hạn chế đáng kể về khả năng tham gia hoặc
phát triển nghề nghiệp”.
- Đạo luật về NKT của Hoa Kỳ (1990) (ADA - Americans with
Disabilities Act of 1990) định nghĩa “NKT là người có sự suy yếu về thể chất
hay tinh thần gây ảnh hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan
trọng trong cuộc sống”. Cũng theo ADA những ví dụ cụ thể về khuyết tật bao
gồm: khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, chậm phát triển tinh
thần, bệnh cảm xúc và những khiếm khuyết cụ thể về học tập, bại não, động
kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường, các bệnh lây và không lây
như bệnh lao và bệnh do HIV (có triệu chứng hoặc không có triệu chứng).
* Ở Việt Nam
"Khuyết tật" và "tàn tật" là hai từ để chỉ cùng một khái niệm, từ năm
2009 trở về trước vẫn được dùng song song trên cả phương tiện truyền thông
đại chúng và văn bản pháp quy. Trong Pháp lệnh trước đâycủa nước ta "tàn
tật" là cụm từ được chính thức sử dụng.
Từ "khuyết tật" được cho là mang sắc thái tình cảm, ý nghĩa tốt hơn là từ
10
"tàn tật". Người ta cho rằng từ “tàn” trong cụm từ "tàn tật" gợi đến hình ảnh
tiêu cực, tạo cảm giác không còn khả năng làm gì, không còn tương lai và
điều đó ảnh hưởng không tốt đến nỗ lực phấn đấu vượt khó khăn. Từ
“khuyết” mang nghĩa suy giảm chức năng nhưng vẫn có khả năng phục hồi,
vẫn còn hy vọng.
Ngày 17/6/2010, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Người khuyết
tật và có hiệu lực từ 01/01/2011 đã chính thức sử dụng khái niệm “người
khuyết tật” thay cho khái niệm “người tàn tật”. Đây là khái niệm phù hợp với
xu hướng nhìn nhận của thế giới về vấn đề khuyết tật. Tại khoản 1, Điều 2
của Luật này quy định “NKT là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ
phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến
cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn (điều 2, chương I)[10]”.
Theo cách hiểu này thì NKT bao gồm cả những người bị khuyết tật
bẩm sinh, người bị khiếm khuyết do tai nạn, thương binh, bệnh binh..Như
vậy, Luật Người khuyết tật Việt Nam đã đưa ra khái niệm NKT dựa vào mô
hình xã hội.
1.1.2. Học nghề và hỗ trợ học nghề
Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng (2005) của tác giả Trần Công Tùng
và Cộng sự: Học là bắt chước, là làm theo lời thạy dạy hay sách dạy; nghề là
một việc làm có tính ổn định, đem lại thu nhập để duy trì và phát triển cuộc
sống cho mỗi người[28].
Điều 3 Luật Giáo dục nghề nghiệp (2014) không qui định cụ thể về học
nghề, tuy nhiên có thể hiểu đây là hoạt động nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng
và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm
hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ
nghề nghiệp.
Hỗ trợ học nghề đối với NKT có thể hiểu là trang bị cho NKT những
11
kiến thức chuyên môn, những kỹ năng cơ bản để có thể tự tạo việc làm hoặc
xin việc làm phù hợp với năng lực và trình độ của mình. Bên cạnh đó, khơi
gợi và khuyến khích tinh thần lao động bền bỉ, kiên trì và sáng tạo, khả năng
làm việc độc lập, làm việc theo nhóm, có ý thức kỷ luật và trách nhiệm của họ
đối với công việc đang làm.
Dưới góc độ CTXH hỗ trợ học nghề đối với NKT chính sự hỗ trợ về các
mặt:
- Tiếp cận các thông tin, các chính sách về hỗ trợ học nghề đối với NKT.
- Tiếp cận các hình thức dạy nghề đối với NKT, hình thức nào là phù
hợp, hình thức nào cần sửa đổi.
- Cở sở giáo dục nghề nghiệp, đội ngũ giáo viên, cán bộ làm công tác hỗ
trợ học nghề đối với NKT.
- Tiếp cận nguồn kinh phí hỗ trợ NKT học nghề: kinh phí của các cấp,
các ngành, kinh phí của các tổ chức quốc tế, kinh phí hỗ trợ từ các doanh
nghiệp.
1.2. Đặc điểm và quan điểm hỗ trợ người khuyết tật
NKT trước hết là “con người” nên họ mang những đặc điểm chung về
mặt kinh tế - xã hội, tâm sinh lý như mọi người khác trong xã hội. Tuy nhiên,
với những đặc điểm riêng về từng dạng khuyết tật nên nhóm NKT nói chung
lại có những nét đặc thù riêng so với nhóm người không khuyết tật và mỗi
nhóm NKT dạng này lại có nét đặc thù tương đối so với nhóm NKT dạng
khác.
Về phương diện pháp lý, làm rõ các đặc điểm của NKT là một trong
những cơ sở, căn cứ khoa học tác động đến việc quy định, ban hành, thực thi,
áp dụng các chính sách với NKT. Theo đó, các chính sách của nhà nước phải
đảm bảo điều chỉnh mối quan hệ của cái chung giữa NKT với các công dân
bình thường khác; giữa những NKT với nhau. Đồng thời, phải đảm bảo cái
12
riêng giữa NKT với cộng đồng còn lại của xã hội, cái đặc thù của những NKT
với các dạng tật khác nhau của chính NKT.
1.2.1. Đặc điểm và quan điểm hỗ trợ người khuyết tật dưới góc độ kinh
tế - xã hội
Trước hết NKT là nhóm cư dân đặc biệt phải chịu thiệt thòi về mặt kinh
tế - xã hội và nhân khẩu học: Những gia đình có NKT có xu hướng hoặc là
thiếu nhân lực lao động (vì vậy có năng lực sản xuất thấp) hoặc có quá nhiều
người sống phụ thuộc (gánh nặng về kinh tế). Học vấn của các thành viên
trong những gia đình NKT thường không cao (chất lượng lao động thấp).
Nhiều chủ hộ gia đình lại chính là NKT có sức khỏe yếu. Tài sản của gia đình
NKT thường nghèo nàn, thu nhập ở mức thấp, điều kiện sống và sinh hoạt
không tốt, ảnh hưởng xấu đến cuộc sống, sức khỏe, phúc lợi của các thành
viên trong gia đình. Ngoài ra, NKT từ 15 tuổi trở lên rất khó có việc làm, hầu
hết NKT hoặc chưa bao giờ đi làm hoặc đã từng đi làm nhưng lại bị thất
nghiệp. Khuyết tật là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thất nghiệp của
họ.
Quan niệm của xã hội về NKT còn tiêu cực, dẫn đến sự kì thị và phân
biệt đối xử: Điều này diễn ra dưới nhiều hình thức, ở nhiều bối cảnh, nhiều
lĩnh vực khác nhau: gia đình, cộng đồng, trường học, bệnh viện, nơi làm việc
và các tổ chức ở địa phương,thậm chí sự kì thị từ chính NKT (hầu hết NKT
cho rằng mình kém cỏi hơn, mặc cảm, thấy khó hòa nhập cộng đồng). Do đó,
nhiều cư dân coi NKT là “đáng thương”, không có cuộc sống “bình thường”,
là “gánh nặng” của xã hội…Về nhận thức pháp luật, nhiều người không hề
biết đến quy định của pháp luật về NKT nên họ không quan tâm và vẫn nhìn
NKT với “ánh mắt thương hại”.
Hoạt động hỗ trợ cho NKT còn rất hạn chế, thực tế cho thấy có sự khác
biệt lớn giữa nhu cầu của NKT và những giúp đỡ mà họ nhận được.Sự hỗ trợ
13
của nhà nước và cộng đồng mang tính từ thiện nhiều hơn là phát triển con
người. Hầu hết NKT được hỗ trợ như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, lương
thực… nhưng lại ít được trợ giúp trong việc làm, dạy nghề và tham gia hoạt
động xã hội.
1.2.2. Đặc điểm và quan điểm hỗ trợ người khuyết tật dưới góc độ
dạng tật, mức độ khuyết tật
Khuyết tật được phân loại dựa theo các quan điểm khác nhau của các
nhà nghiên cứu nhưng nói chung thường dựa trên tiêu chí của sự khiếm
khuyết bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng.
Ở Việt Nam, việc phân loại NKT dựa trên quy định về dạng tật và mức
độ khuyết tật[10] theo đó các dạng tật bao gồm: Khuyết tật vận động; khuyết
tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ;
khuyết tật khác. Mỗi loại khuyết tật này có những đặc điểm nhất định về tâm,
sinh lý qua đó tác động đến các nhu cầu và sự hòa nhập của NKT.
- Khuyết tật vận động: Là những người có cơ quan vận động bị tổn
thương, biểu hiện dễ nhận thấy là có khó khăn trong ngồi, nằm, di chuyển,
cầm, nắm…Do đó, NKT vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá
nhân, vui chơi, học tập và lao động. Tuy nhiên, đa số họ lại có bộ não phát
triển bình thường nên họ tiếp thu được chương trình học tập, làm được việc
có ích cho gia đình, bản thân và xã hội. NKT vận động cần được sự hỗ trợ về
phương tiện đi lại (xe lăn, gậy chống…) và đặc biệt là không gian cần thiết,
thuận tiện để di chuyển khi làm việc, đảm bảo các nhu cầu cuộc sống bình
thường của con người và tham gia các hoạt động xã hội.
- Khuyết tật nghe, nói (khuyết tật ngôn ngữ): NKT nghe, nói là người có
khó khăn đáng kể về nói và/hoặc về đọc viết làm ảnh hưởng tiêu cực đến quá
trình giao tiếp và học tập. Khó khăn về nói, nghe, đọc của NKT ảnh hưởng
14
trực tiếp đến giao tiếp do đó làm hạn chế việc học tập, tìm kiếm việc làm để
hòa nhập cộng đồng.
- Khiếm thính: Theo quan điểm y tế (lâm sàng) thì người khiếm thính là
những người bị mất hoặc suy giảm về sức nghe kéo theo những hạn chế về
phát triển ngôn ngữ nói cũng như khả năng giao tiếp. Đặc điểm của những
người khó khăn về nghe (khiếm thính) là những người bị phá hủy cơ quan
thính giác ở các mức độ khác nhau dẫn đến việc người khiếm thính không có
khả năng tri giác thế giới âm thanh đặc biệt ngôn ngữ âm thanh. Hỗ trợ cần
thiết với họ là phát hiện, chẩn đoán, chữa trị sớm; cung cấp phương tiện trợ
giúp (máy trợ thính); giao tiếp tổng hợp.
- Khuyết tật nhìn (khuyết tật thị giác, khiếm thị): Là những người có tật
về mắt như: hỏng mắt, không đủ sức nhận biết thế giới hữu hình bằng mắt
hoặc nhìn thấy không rõ ràng. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (1992) còn đưa ra
các khái niệm để phân biệt mức độ khuyết tật nhìn khác nhau: Khiếm thị, nhìn
kém, mù (hoàn toàn). NKT nhìn có trí tuệ phát triển bình thường, có hai cơ
quan phân tích thường rất phát triển: thính giác và xúc giác, nếu được huấn
luyện sớm và khoa học hoàn toàn có thể thay thế cơ quan thị giác bị phá hủy.
Ngôn ngữ, tư duy, hành vi, cách ứng xử của những người này cũng giống
người bình thường. Tuy nhiên, cũng có những tồn tại nhất định như ngôn ngữ
thiếu hình ảnh, không thể viết và đọc bằng chữ phẳng. Ít di chuyển nên thể
lực giảm sút, cơ bắp thiếu linh hoạt nên dễ tự ty và thiếu niềm tin ở bản thân.
Môi trường cần thiết với họ là tránh tiếng ồn, đảm bảo đủ ánh sáng, dùng
những màu tương phản, hợp lý trong sinh hoạt và các hoạt động khác, cung
cấp thiết bị phóng đại hình ảnh, công cụ di chuyển hỗ trợ thông minh, lối đi
thuận tiện và dễ nhận biết…
- Khuyết tật trí tuệ: Xét về mức độ, đây là nhóm khuyết tật thường chịu
nhiều sự thiệt thòi và khó khăn nhất trong cuộc sống. Khuyết tật về trí tuệ
15
được xác định khi: (i) chức năng trí tuệ dưới mức trung bình (chỉ số thông
minh đạt gần 70 hoặc thấp hơn 70 trên một lần thực hiện trắc nghiệm cá
nhân); (ii) bị thiếu hụt hoặc khiếm khuyết ít nhất là hai trong số những hành
vi thích ứng sau: giao tiếp, tự chăm sóc, sống tại gia đình, kỹ năng xã hội/cá
nhân, sử dụng các tiện ích trong cộng đồng, tự định hướng, kỹ năng học
đường, làm việc, giải trí, sức khỏe và an toàn; (iii) tật xuất hiện trước 18 tuổi.
NKT về trí tuệ có nhiều hạn chế làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường
của họ và người thân cả về trí tuệ (phần lớn chỉ dùng ở mức độ tư duy trực
quan cụ thể, mức độ, nhịp độ tư duy của các thành phần không giống
nhau); về trí nhớ (gặp khó khăn về trí nhớ cả ngắn hạn và dài hạn, khó khăn
trong việcnhớ những gì mang tính trìu tượng hay có quan hệ logic, dễ quên
những gì gần gũi với cuộc sống và không gắn với nhu cầu bản thân); về chú
ý (phần đông NKT có khó khăn khi phải tập trung và duy trì sự chú ý vào một
công việc nào đó, đặc biệt là chú ý đến lời nói. Do duy trì chú ý kém nên việc
tiếp nhận thông tin và xử lý thông tin của NKT thường gặp khó khăn); về kỹ
năng giao tiếp xã hội (đa phần NKT trí tuệ yếu kém về các kỹ năng xã hội, rất
ít thậm chí không có nhu cầu giao tiếp); cuối cùng là về hành vi (NKT trí tuệ
thường có những hành vi làm cho họ khó hòa nhập: hành vi tự lạm dụng, quá
hiếu động, quá ù lì…).
Trên đây là những nhóm NKT chiếm tỷ lệ cao trong cộng đồng NKT.
Xét ở góc độ đặc điểm về tâm, sinh lý cho thấy tính đa dạng của khuyết tật và
rõ ràng việc đảm bảo các quyền của họ dưới phương diện pháp lý cũng cần
tính đến yếu tố đặc thù của các dạng khuyết tật khác nhau.
Ngoài các nhóm trên còn có những nhóm NKT khác như: người bị rối
loạn hành vi cảm xúc, người mắc hội chứng tự kỉ, người bị rối loạn ngôn ngữ,
người đa tật…
16
1.3. Nguyên tắc hỗ trợ học nghề đối với người khuyết tật
1.3.1. Nguyên tắc chấp nhận đối tượng
NKT là một trong những đối tượng yếu thế mà ngành công tác xã hội
hướng tới và hỗ trợ tuy nhiên không được nhìn nhận họ là người sống phụ
thuộc, là gánh nặng của gia đình, của xã hội. Khi NKT tham gia học nghề, có
thể họ tiếp thu bài học chậm hơn, họ thực hành sẽ lâu hơn, họ cần thời gian
học dài hơn...Chấp nhận tất cả các vấn đề này và cùng động viên họ để hoàn
thành tốt việc học tập[19].
Thực hiện nguyên tắc này, nhân viên CTXH tạo được lòng tin với NKT,
qua đó sẽ thiết lập được mối quan hệ cùng chia sẻ hợp tác để đạt được mục
tiêu của các bên.
1.3.2. Nguyên tắc tạo điều kiện để người khuyết tật tham gia giải
quyết vấn đề của mình
Trong hỗ trợ học nghề đối với NKT, việc áp dụng nguyên tắc này có vai
trò rất quan trọng. Bản thân NKT mới có thể hiểu họ đang cần gì, họ muốn gì
và nghề nghiệp họ lựa chọn có đáp ứng được các yêu cầu họ đặt ra hay
không? Là một nhân viên CTXH cần phân tích cho NKT thấy những khó
khăn, thuận lợi, những điểm mạnh và điểm yếu của họ trước khi họ đưa ra các
quyết định của mình.
Khi thực hiện nguyên tắc này, nếu thấy quyết định của thân chủ có thể
gây tổn hại nghiêm trọng cho thân chủ hoặc cho người khác, hoặc thân chủ
không có khả năng thực hiện được cần xem xét và bàn bạc lại[19].
1.3.3. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của người khuyết tật
Tôn trọng quyết định của NKT cũng chính là tôn trọng NKT, không áp
đặt ý kiến cá nhân trong việc lựa chọn giải pháp giải quyết vấn đề thay cho
17
NKT. Trong hoạt động hỗ trợ học nghề, nếu NKT lựa chọn học nghề may
mặc để theo học thì nên tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trường lớp, giáo viên,
nguyên vật liệu...để NKT có thể hoàn thành được việc học của mình.
Bên cạnh đó, việc họ tự đưa ra quyết định của mình sẽ giúp họ có trách
nhiệm hơn với lựa chọn ấy và không lệ thuộc vào nhân viên CTXH[19].
1.4. Lý thuyết áp dụng
1.4.1. Thuyết về quyền con người
Tiếp cận dựa trên quyền là cách tiếp cận mang tính nhân văn, nó không
dừng lại ở các nhu cầu của con người mà còn khẳng định đó là quyền và
nghĩa vụ.
Tiếp cận dựa trên quyền luôn coi con người là trung tâm, luôn nhìn nhận
họ là những người có năng lực, song chưa được phát huy và chưa được sự hỗ
trợ của nguồn lực cộng đồng. Đồng thời, cách tiếp cận này sẽ lôi kéo sự quan
tâm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật chất, đời sống tinh thần
với những đối tượng yếu thế giúp họ tự tin khẳng định mình. Từ đó nhân viên
CTXH sẽ nhìn nhận, khai thác những điểm mạnh và cùng họ đấu tranh để
giành lại cho họ những quyền mà họ được hưởng dù họ là ai, đang ở trong
hoàn cảnh nào.
Và với cách tiếp cận này, nhân viên CTXH là người thực hiện vai trò
biện hộ ngay cả khi đối tượng có hoặc chưa nhận thức được những quyền của
mình [19].
Ứng dụng của lý thuyết trong nghiên cứu
Nhân viên CTXH cần xác định vấn đề hỗ trợ học nghề đối với NKT là
một trong những quyền cơ bản nhất “ Công dân có quyền được đảm bảo an
sinh xã hội (điều 34,chương II)[21]”. Thế nhưng thực tế rất ít NKT tham gia
hoạt động này, phần lớn họ có đời sống khó khăn, nghèo đói phụ thuộc vào
18