VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HOÀNG KHANH
CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ EM
BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHỢ MỚI
TỈNH AN GIANG
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã ngành: 60 90 01 01
UẬN V N THẠC S C NG TÁC XÃ HỘI
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS ĐỖ HẠNH NGA
HÀ NỘI - 2016
ỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo đọ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
ỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cám ơn Ban chủ nhiệm khoa Công tác xã hôi – Học viện
Khoa học xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cũng như
những kiến thức mà quý Thầy, Cô đã truyền đạt cho tôi để tôi hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PSG.TS Đỗ Hạnh Nga – Trưởng khoa
công tác xã hội Trường Đại Học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí
Minh, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn
này.
Xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, Nhân viên Trung tâm Công tác xã hội
Bảo vệ trẻ em tỉnh An Giang, Chính quyền địa phương, Huyện Chợ Mới đã nhiệt
tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các bậc phụ huynh đã nhiệt tình hợp tác với tôi trong
quá trình nghiên cứu trên địa bàn.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ Ý UẬN VỀ C NG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI
TRẺ EM BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC ........................................................................... 11
1.1. Hệ thống các khái niệm ..................................................................................11
1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu ............................................................17
1.3. Một số vấn đề lý luận cơ bản về công tác xã hội đối với trẻ em bị xâm hại
tình dục ..................................................................................................................23
1.4. Vai trò và nhiệm vụ cơ bản của công tác xã hội đối với trẻ bị xâm hại tình dục ...30
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG C NG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN VỚI TRẺ EM BỊ
XÂM HẠI TÌNH DỤC TẠI HUYỆN CHỢ MỚI - TỈNH AN GIANG ............... 34
2.1. Đặc điểm địa bàn khảo sát .............................................................................34
2.2. Thực trạng xâm hại tình dục trẻ em gái trên địa bàn huyện Chợ Mới ...........38
2.3. Nguyên nhân xảy ra tình trạng xâm hại tình dục trẻ em ................................46
2.4. Công tác xã hội cá nhân với trẻ em bị xâm hại tình dục ................................48
2.5. Đánh giá mức độ tiếp cận và kết quả hỗ trợ xã hội cho đối tượng ................58
Chƣơng 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHO VIỆC ĐƢA C NG TÁC XÃ HỘI
VÀO CAN THIỆP HỖ TRỢ TRẺ BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC ............................. 64
3.1. Biện pháp cho đẩy mạnh cung cấp dịch vụ xã hội trong phòng ngừa, can
thiệp, trị liệu cho trẻ bị xâm hại tình dục ..............................................................64
3.2. Các biện pháp can thiệp hỗ tợ trẻ em bị xâm hại tình dục .............................66
DANH MỤC TÀI IỆU THAM KHẢO .................................................................... 72
PHỤ ỤC
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
CTXH
Công tác xã hội
NVCTXH
Nhân viên công tác xã hội
LĐTBXH
Lao động Thương binh Xã hội
BVCSGDTE
Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em
BHYT
Bảo hiểm y tế
UBND-VX
Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Xương
DANH MỤC CÁC BẢNG - BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Những hoàn cảnh cha mẹ giáo dục cho trẻ phòng, tránh bị xâm hại
tình dục ..............................................................................................................52
Biểu đồ 2.1. Trình độ học vấn của cha mẹ trẻ ..................................................50
Biểu đồ 2.2. Hoàn cảnh sống của trẻ em ...........................................................50
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay công tác xã hội (CTXH) không còn là một nghề quá xa lạ tại Việt
Nam. Nghề CTXH đã và đang được đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng và trung
cấp trong nhiều năm nay. Xã hội chúng ta đã dần dần hình thành một đội ngũ người
làm nghề CTXH từ nhiều năm nay. Sở dĩ có đội ngũ người làm nghề CTXH hiện
nay là nhờ có những chính sách đúng đắn của Chính phủ được ban hành tạo điều
kiện cho nghề CTXH phát triển. Ngày 25/03/2010 Thủ tướng chính phủ đã ký quyết
định phê duyệt đề án phát triển nghề CTXH giai đoạn 2010- 2020(QĐ số
32/2010/QĐ-TTg). Điểm nổi bật của Đề án 32 là quyết định đào tạo và đào tạo lại
đội ngũ 60.000 người làm nghề CTXH với mục tiêu chính là hỗ trợ những nhóm
người yếu thế trong xã hội.
Một trong những đối tượng yếu thế đáng quan tâm nhất của CTXH là trẻ em.
Chúng ta có Luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em năm 2004, quy định 10 nhóm trẻ có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn cần được ưu tiên hỗ trợ và trẻ em bị xâm hại tình dục là một
trong mười nhóm trẻ đó. Theo các kết quả nghiên cứu gần đây, trẻ em bị xâm hại
tình dục ngày càng có chiều hướng gia tăng và có dấu hiệu trẻ hóa độ tuổi và ngày
càng phức tạp(theo báo cáo của tổng kết chương trình bảo vệ trẻ em của Bộ
LĐTBXH 2015). Khi một đứa trẻ chẳng may trở thành nạn nhân của nạn xâm hại
tình dục thì đứa trẻ đó gặp rất nhiều khó khăn để vượt qua “tai nạn” xảy ra với
mình. Trong khi đó, phần lớn trẻ em bị xâm hại tình dục đều thiếu những kiến thức
kỹ năng cơ bản cho việc giải quyết vấn đề của bản thân. Những hạn chế này khiến
cho trẻ em bị xâm hại tình dục thường bị tổn thương tâm lý rất nặng, các em thường
rơi vào trạng thái trầm cảm, chán nản, hoang mang, lo sợ và có nhiều em đã tìm đến
cái chết để tự giải quyết vấn đề của mình. Đây là một trong những vấn đề cấp thiết
cần có sự quan tâm của các cấp chính quyền, các ban ngành làm công tác bảo vệ
chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới về Sức khỏe và Bạo lực năm 2002, có
khoảng 20% phụ nữ và 5% nam giới đã từng bị xâm hại tình dục trong thời thơ ấu.
1
Báo cáo của Bộ Lao động Thương binh Xã hội Việt Nam cho biết có hơn 1,5 triệu
trẻ em (dưới 16 tuổi) có hoàn cảnh đặc biệt năm 2015, chiếm 9% tổng số trẻ em cả
nước và trong đó có 900 trẻ em bị xâm hại tình dục.
Các hành vi xâm hại, bạo hành và bóc lột đối với trẻ em là những vấn đề xã
hội cơ bản gây ra những tác động rất lớn, có ảnh hưởng đến đời sống và sự ổn định
lâu dài của xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế những vụ xâm hại tình dục thường không
bị tố cáo, số vụ xâm hại tình dục trẻ em xảy ra trên thực tế nhiều hơn số vụ được
báo cáo, nguyên nhân của tình trạng này là do người bị hại không muốn hoặc không
dám tiết lộ, do đó vẫn còn nhiều thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em không bị xét xử
.Ở tỉnh An Giang, trong những năm qua tình hình xâm hại tình dục trẻ em là vấn đề
rất đáng lo ngại do số vụ xâm hại tình dục trẻ em ngày càng gia tăng. Theo kết quả
báo cáo tình hình trẻ em bị xâm hại của Sở Lao động Thương binh – Xã hội tỉnh An
Giang, từ năm 2012 đến năm 2015 tổng số vụ xâm hại tình dục trẻ em là 194 vụ và
có sự gia tăng liên tục qua từng năm. Từ năm 2012 là 39 vụ, năm 2013 là 47 vụ,
năm 2014 là 65 vụ, năm 2015 là 43 vụ. Trong đó, thành phố Châu Đốc và huyện
Chợ Mới là hai địa phương có tỷ lệ trẻ em bị xâm hại tình dục cao nhất tỉnh, với số
lượng là 14 vụ ở thành phố Châu Đốc và 18 vụ ở huyện Chợ Mới. Theo báo cáo từ
Trung tâm công tác xã hội bảo vệ trẻ em tỉnh An Giang từ năm 2012-2015, những
vụ án xâm hại tình dục trẻ em gần đây xảy ra trên địa bàn tỉnh An Giang thì hầu hết
nạn nhân là trẻ em gái, trẻ em gái có nguy cơ bị xâm hại tình dục cao hơn so với trẻ
em trai đặc biệt là trong độ tuổi từ 6 tuổi đến 16 tuổi, đối tượng xâm hại chủ yếu là
những người thân của trẻ như: cha ruột, cha dượng, anh em họ hàng, hoặc những
người hàng xóm thân quen với trẻ. Tác động của hành vi này là để lại cho trẻ em
những tổn thương về thân thể, tình cảm, tâm lí, từ cảm giác lo lắng, sợ hãi, đến
những biểu hiện bất ổn về tinh thần, hoảng loạn. Những tổn thương này không chỉ
là những tác hại trước mắt mà nó có thể kéo dài đến quãng đời sau này của trẻ. Xâm
hại tình dục trẻ em bởi những người thân trong gia đình là tội loạn luân mà hệ quả
của nó kéo dài và nghiêm trọng về sự phát triển tâm lí của trẻ em.
2
Những vụ xâm hại tình dục đều để lại hậu quả rất nặng nề. Nạn nhân không
chỉ bị tổn thương về thể chất mà còn luôn sống trong sợ hãi và sự ám ảnh. Những
trẻ em này rất khó hòa nhập lại với cộng đồng, sống biệt lập trong một thế giới
riêng. Do đó, vấn đề giáo dục cho trẻ em ý thức cảnh giác, biết phát hiện sớm, tự
phòng ngừa các hoạt động xâm hại tình dục là một biện pháp thiết thực và quan
trọng nhất nhằm góp phần phòng chống việc lạm dụng tình dục trong cuộc sống.
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề giáo dục cho trẻ em những kỹ năng sống để phòng,
tránh nguy cơ bị xâm hại tình dục vẫn chưa được gia đình và cộng đồng ở tỉnh An
Giang nói chung và ở huyện Chợ Mới nói riêng quan tâm thực hiện đúng mức.
Huyện Chợ Mới với đặc điểm là vùng nông thôn nên việc tiếp cận thông tin trong
việc giáo dục trẻ em những kỹ năng trong cuộc sống của gia đình còn nhiều hạn
chế. Phần lớn các vụ xâm hại tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn trong thời gian qua
là do gia đình thiếu sự quan tâm đến trẻ em, không đảm bảo môi trường an toàn cho
cuộc sống của trẻ, sự thiếu cảnh giác của gia đình đối với những đối tượng có thể
gây ra xâm hại tình dục với trẻ. Để giải quyết tình trạng xâm hại tình dục trẻ em gái,
trước hết phải trang bị cho các em kỹ năng biết tự bảo vệ bản thân trước nguy cơ bị
xâm hại, đây là việc làm hết sức cần thiết tránh để những vụ án xâm hại tình dục trẻ
em đáng tiếc xảy ra. Do đó, việc thực hiện đề tài “Công tác xã hội cá nhân đối với
trẻ em bị xâm hại tình dục từ thực tiễn huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang” là hết sức
cần thiết nhằm đánh giá được thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm giảm bớt tình
trạng trẻ em bị xâm hại tình dục.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trẻ em là một trong những nhóm đối tượng nhận được sự quan tâm đặc biệt của
Luật pháp trong việc bảo đảm cho các em có được quyền sống, được học tập và được
phát triển. Có rất nhiều nghiên cứu của các nhà các nhà khoa học trong và ngoài nước
đề cập đến những vấn đề của trẻ em. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của mình, tác
giả lựa chọn và phân tích một số công trình nghiên cứu, các đánh giá, bài viết tiêu
biểu có liên quan dưới đây:
Thứ nhất, công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến trẻ em nói chung:
3
“Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em” do Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em Bộ
LĐTB&XH thực hiện năm 2015. Với mục tiêu đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận
động các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em, từng bước hạn chế tình trạng trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc
biệt và trẻ em bị xâm hại, bị bạo lực, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ em có cơ hội
phát triển một cách toàn diện cả về thể chất, nhân cách và trí tuệ.
“Báo cáo Phân tích tình hình trẻ em ở Việt Nam” do UNICEF thực hiện năm
2010. Báo cáo lấy cách tiếp cận dựa trên quyền con người, xem xét tình hình trẻ em
dựa trên quan điểm các nguyên tắc chính về quyền con người như bình đẳng,
không phân biệt đối xử và trách nhiệm giải trình. Kết quả nghiên cứu đã làm rõ tình
hình trẻ em nam và nữ, nông thôn và thành thị, dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số, trẻ
em giàu và trẻ em nghèo hiện nay ở Việt Nam. Trong đó, nhóm trẻ em thiếu sự
chăm sóc của bố mẹ ở Việt Nam có diễn biến phức tạp. Các cơ sở chăm sóc cả công
lập và dân lập có ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước dưới nhiều hình thức như
chăm sóc tại nhà, chăm sóc tập trung và các hình thức chăm sóc hỗ trợ không chính
thức khác. Tình trạng số lượng cho con nuôi ra nước ngoài cao trong khi đây được
quy định là biện pháp cuối cùng chỉ sử dụng khi không còn cách nào khác. Ngoài
ra, báo cáo cũng chỉ ra rằng Việt Nam còn thiếu các quy định cụ thể cho việc truy tố
những đối tượng hoạt động môi giới cho nhận con nuôi trái pháp luật.
Nghiên cứu “Một số vấn đề cơ bản về trẻ em Việt Nam” của tác giả Đặng Bích
Thủy đã chỉ ra những vấn đề xã hội mang tính gay gắt mà trẻ em đang phải đối mặt như
bất bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội chăm sóc, bảo vệ, lao động sớm, bị xâm hại, bị bỏ
rơi...
“Một số kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với việc phát triển các
dịch vụ công tác xã hội trong công tác bảo vệ trẻ em” của tác giả Đỗ Thị Ngọc Phương
nhận định tại Anh, Mĩ,
c, Philippines, Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc,
việc cung cấp dịch vụ xã hội chủ yếu là trách nhiệm của các bộ và cơ quan ban ngành.
Thứ hai, công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến trẻ em bị xâm hại tình dục.
4
Bài viết “Công tác xã hội với trẻ em bị xâm hại tình dục” Tác giả Đinh Thị
Nga và Đỗ Thị Bắc. Trong đó một trong những nguyên nhân xâm hại tình dục trẻ
em là do liên quan đến văn hóa truyền thống “Văn hóa Việt Nam vẫn còn e dè khi
nhắc đến những cụm từ liên quan đến “tình dục” hay “xâm hại tình dục”…nên việc
dạy con cách thức phòng tránh lạm dụng tình dục vẫn chưa được chú trọng hoặc
còn lúng túng trong các gia đình việt. Một nét văn hóa nữa liên quan đến xâm hại
tình dục trẻ em đó là sự tổn hại đến “danh dự gia đình”. Khi trẻ bị xâm hại tình dục,
nhiều gia đình đã phải làm ngơ vì lo ngại dư luận ảnh hưởng đến danh dự của gia
đình. Đây là một hạn chế khiến cho các cơ quan chức năng khó khăn trong việc thu
thập số liệu, bỏ sót tội phạm hay công tác điều tra của cơ quan đại diện pháp luật”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác xã hội đối với trẻ em bị
xâm hại tình dục. Đề tài đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em thông qua phương pháp của công tác xã hội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa một số lý luận về:công tác xã hội cá nhân, công tác xã hội với
trẻ em, trẻ em bị xâm hại tình dục và công tác xã hội với trẻ em bị xâm hại tình dục.
- Đánh giá thực trạng trẻ em bị xâm hại tình dục trên địa bàn huyện Chợ Mới,
tỉnh An Giang.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm hạn chế tình trạng trẻ em bị xâm hại tình
dục trên địa bàn huyện và nhân rộng cho toàn tỉnh An Giang.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Vai trò của gia đình và cộng đồng trong việc phòng, chống xâm hại tình dục
trẻ em trên địa bàn huyện Chợ Mới tỉnh An Giang.
- Công tác xã hội đối cá nhân với trẻ em bị xâm hại tình dục từ thực tiễn huyện
Chợ Mới tỉnh An Giang.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung làm rõ vai trò của gia đình và xã hội ở một số nội dung
chính:
Vai trò của gia đình:
+ Giáo dục cho trẻ em gái những kỹ năng phòng, tránh bị xâm hại tình dục.
+ Chăm sóc, bảo vệ trẻ em trước những nguy cơ bị xâm hại tình dục.
+ Hỗ trợ trẻ em bị xâm hại tình dục tái hòa nhập cộng đồng.
Vai trò của cộng đồng:
+ Hoạt động của chính quyền địa phương trong công tác truyền thông nâng
cao nhận thức phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em.
- Khách thể nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những hộ gia đình có trẻ
em gái trong độ tuổi từ 5 tuổi đến dưới 16 tuổi và nghiên cứu trẻ em gái trong độ
tuổi từ 5 tuổi đến 16 tuổi.
- Phạm vi về nội dung: Tập trung vào đánh giá thực trạng trẻ em bị xâm hại
tình dục từ thực tiễn huyện Chợ Mới tỉnh An Giang.
- Địa bàn nghiên cứu: Huyện Chợ Mới tỉnh An Giang
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 06 tháng (từ tháng 02/2016 đến 07/ 2016)
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng
5.1.1. Phƣơng pháp thu thập thông tin định lƣợng:
Điều tra bằng bảng hỏi để thu thập thông tin về sự giáo dục kỹ năng cho trẻ
em gái phòng chống bị xâm hại tình dục.
Chọn mẫu
Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên theo cụm:
- Hộ gia đình: đối tượng chọn thực hiện phiếu điều tra là những hộ gia đình có
con gái trong độ tuổi từ 5 tuổi đến dưới 16 tuổi với số lượng là 150 hộ chia đều cho
3 đối tượng nghiên cứu (Phụ lục 1).
+ Hộ gia đình công nhân viên chức (có cha hoặc mẹ là công nhân viên chức
Nhà nước): 50 hộ
6
+ Hộ gia đình nông dân(cha mẹ trẻ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp):50hộ
+ Hộ gia đình kinh doanh (cha mẹ trẻ lao động trong lĩnh vực thương mại,
dịch vụ): 50 hộ
Căn cứ trên danh sách hộ gia đình có con gái trong độ tuổi từ 5 tuổi đến dưới
16 tuổi do địa phương cung cấp, chúng tôi sẽ tiến hành phương pháp bốc thăm ngẫu
nhiên các hộ gia đình để thực hiện điều tra bằng phiếu hỏi.
- Trẻ em: đối tượng được chọn thực hiện phiếu điều tra là trẻ em gái trong độ
tuổi từ 5 tuổi đến 16 tuổi với số lượng 100 trẻ em được chia đều cho 3 địa bàn tiến
hành nghiên cứu (Phụ lục 2).
Địa bàn nghiên cứu:
+ Thị trấn Chợ Mới: đại diện cho vùng thành thị
+ Xã Long Điền B: đại diện cho vùng nông thôn phát triển
+ Xã Hội An: đại diện cho vùng nông thôn kém phát triển
5.1.2. Phương pháp thu thập thông tin định tính: Thực hiện phỏng vấn sâu
các đối tượng:
- Trẻ em gái bị xâm hại tình dục (09 trẻ em – Phụ lục 3)
- Gia đình có trẻ em gái bị xâm hại tình dục (09 gia đình trẻ - Phụ lục 4)
- Cán bộ quản lí địa phương (4 cán bộ - Phụ lục 5)
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, thu thập, xử lý, khái quát hóa những thông tin, những nghiên cứu
thuộc các vấn đề liên quan đến đề tài của các tác giả trong và ngoài nước có liên
quan đến hoạt động can thiệp, hỗ trợ cho trẻ em bị xâm hại tình dục từ các ban
ngành liên quan, cũng như làm sáng tỏ các thuật ngữ có liên quan đến đề tài. Từ đó
phân tích, tổng hợp nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu: Công tác
xã hội đối với trẻ em bị xâm hại tình dục.
5.3. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
- Để tìm hiểu thực trạng các dịch vụ can thiệp, hỗ trợ cho trẻ em bị xâm hại
tình dục trên địa bàn huyện hiệu quả hay chưa? Nhu cầu của gia đình trong việc tư
vấn điều trị cho trẻ ra sao? Phát hiện vấn đề của trẻ sớm hay muộn có ý nghĩa gì?
7
Vai trò của NVCTXH người trực tiếp hỗ trợ cho trẻ có phát huy hay chưa? Tôi
dùng các phương pháp sau:
5.3.1. Điều tra bằng bảng hỏi: Tiến hành phỏng vấn trực tiếp với khách thể
nghiên cứu nhằm thu thập thông tin để làm rõ thực trạng nhu cầu hỗ trợ từ các chính
sách, dịch vụ đối với trẻ em bị xâm hại tình dục.
5.3.2. Quan sát thực tế: Được tận mắt chứng kiến đời sống tâm lý của trẻ em
bị xâm hại tình dục qua các hoạt động thường ngày. Song song với quá trình điều
tra bằng bảng hỏi, các thông tin thu thập được trong quá trình quan sát sẽ làm cơ sở
bổ sung cho các thông tin liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu.
5.3.3. Phỏng vấn trực tiếp (Phỏng vấn sâu): Phương pháp này nhằm thu thập
các thông tin từ ban ngành địa phương và những người hỗ trợ trẻ về khả năng đáp
ứng cũng như tính hiệu quả của các hoạt động trợ giúp trẻ em bị xâm hại tình dục.
Đồng thời cũng nhằm kiểm tra lại mức độ tin cậy của các thông tin liên quan đến
đề tài nghiên cứu thu thập qua điều tra, quan sát.
5.4. Phƣơng pháp thống kê toán học (Xử lý số liệu)
- Điều chỉnh lại phiếu điều tra.
- Phân loại phiếu điều tra (hợp lệ, không hợp lệ).
- Dùng các phương pháp toán thống kê để tính các hệ số tương quan cần thiết:
phần trăm, trung bình, lập bảng số liệu, lập biểu đồ.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ lý luận về trẻ em bị xâm hại
tình dục, về giải pháp đưa công tác xã hội vào can thiệp hỗ trợ cho trẻ em bị xâm hại
tình dục ngày càng hiệu quả hơn. Qua đó có thể giúp mọi người nhìn nhận vấn đề tái
hòa nhập đối với trẻ em bị xâm hại tình dục là điều rất quan trọng, cũng như nhìn
nhận vai trò của các dịch vụ công tác xã hội trong hỗ trợ, can thiệp cũng như điều trị
đối với trẻ em bị xâm hại tình dục.
8
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu cung cấp những thông tin và giải pháp đưa công tác xã hội
vào can thiệp hỗ trợ tái hòa nhập cho trẻ em bị xâm hại tình dục tại gia đình và cộng
đồng. Trên cơ sở đó có thể được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham khảo trong việc
hoàn thiện chính sách, xây dựng những mô hình nhân rộng về phòng ngừa tình trạng
trẻ em bị xâm hại tình dục. Từ đó, các đối tượng liên quan trong đề tài có được những
trợ giúp như:
6.2.1. Đối với trẻ em bị xâm hại tình dục
Giúp trẻ em bị xâm hại tình dục có thể thay đổi những hành vi, tâm lý hiện tại.
Từ đó trẻ sớm vượt qua những biến cố và có thể hòa nhập với cộng đồng đang sống
để phát triển tốt hơn.
6.2.2. Đối với phụ huynh gia đình có trẻ em bị xâm hại tình dục
Giúp cho các bậc phụ huynh có cái nhìn đúng hơn về tình trạng hiện tại của
trẻ, nhìn nhận trẻ em bị xâm hại tình dục không phải là lỗi của trẻ. Giúp cho cha mẹ
có thêm những biện pháp trong kết hợp phục hồi cho trẻ.
6.2.3. Đối với ban ngành làm công tác bảo vệ chăm sóc trẻ em
Góp phần tìm thêm những giải pháp nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ
can thiệp hỗ trợ cho trẻ em trên địa bàn huyện và toàn tỉnh.
6.2.4. Đối với học viên nghiên cứu
Giúp học viên có cái nhìn tổng quan về nhu cầu can thiệp hỗ trợ của trẻ em bị
xâm hại tình dục và khả năng đáp ứng các nhu cầu đó của người làm CTXH. Quá
trình nghiên cứu là cơ hội để học viên có thể áp dụng những kiến thức đã học vào
thực tế, phát huy được những khả năng, sự sáng tạo của mình, từ đó làm phong phú
thêm vốn kiến thức, kỹ năng đã học.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn là nguồn tài liệu tham khảo cho các đề tài
liên quan sau này.
9
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần như: mục lục, danh mục, các bảng, hình vẽ, mở đầu, kết luận,
danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về công tác xã hội đối với trẻ em bị xâm hại tình dục
Chƣơng 2: Thực trạng Công tác xã hội đối với trẻ em bị xâm hại tình dục trên
địa bàn huyện Chợ Mới
Chƣơng 3: Một số giải pháp và kiến nghị cho việc đưa công tác xã hội vào trợ
giúp trẻ em bị xâm hại tình dục ngày càng hiệu quả hơn trên địa bàn huyện Chợ Mới
và toàn tỉnh An Giang.
10
Chƣơng 1
CƠ SỞ Ý UẬN VỀ C NG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN ĐỐI VỚI TRẺ EM
BỊ XÂM HẠI TÌNH DỤC
1.1. Hệ thống các khái niệm
1.1.1. Khái niệm Công tác xã hội
Từ điển Bách khoa ngành Công tác xã hội (1995) có ghi “Công tác xã hội là
một khoa học ứng dụng nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra
những chuyển biến xã hội và đem lại niềm an sinh cho người dân trong xã hội”[15,
tr.34].
Có nhiều khái niệm về công tác xã hội được đưa ra ở các góc độ khác nhau.
Có quan niệm cho rằng, công tác xã hội là một dạng trợ giúp giống như việc đưa ra
bàn tay giúp đỡ cho những người nghèo, cá nhân, gia đình có khó khăn về kinh tế,
về tình cảm, về quan hệ xã hội trong các cơ sở xã hội, y tế hay giáo dục, công tác xã
hội giúp cộng đồng tiếp cận với các dịch vụ để đảm bảo nhu cầu và đảm bảo an sinh
xã hội (A.Skidmore, 1997)
Tại Đại Hội Liên Đoàn công tác xã hội chuyên nghiệp quốc tế ở Canada năm
2004, công tác xã hội được khẳng định là một hoạt động chuyên nghiệp nhằm tạo ra
sự thay đổi, phát triển của xã hội bằng sự tham gia vào quá trình giải quyết các vấn
đề xã hội (vấn đề nảy sinh trong mối quan hệ xã hội), vào quá trình tăng cường
năng lực và giải phóng tiềm năng của cá nhân, gia đình và cộng đồng, công tác xã
hội giúp cho con người phát triển hài hòa và đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi
người dân.
Hội đồng Đào tạo công tác xã hội Mỹ định nghĩa: công tác xã hội là một nghề
nhằm tăng cường các chức năng xã hội của cá nhân, hay nhóm người bằng những
hoạt động tập trung vào can thiệp mối quan hệ xã hội để thiết lập sự tương tác giữa
con người và môi trường có hiệu quả. Hoạt động này bao gồm ba nhóm: phục hồi
năng lực đã bị hạn chế, cung cấp nguồn lực cá nhân và xã hội, và phòng ngừa sự
suy giảm chức năng xã hội [15, tr.39].
11
Công tác xã hội ở Việt Nam được các tác giả xem xét từ những khía cạnh khác
nhau:
Tác giả Nguyễn Thị Oanh cho rằng, công tác xã hội là hoạt động thực tiễn,
mang tính tổng hợp được thực hiện và chi phối bởi các nguyên tắc, phương pháp hỗ
trợ cá nhân, nhóm và cộng đồng giải quyết vấn đề. Công tác xã hội theo đuổi mục
tiêu vì phúc lợi, hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội. Theo quan điểm của Bà,
công tác xã hội là hoạt động thực tiễn bởi nhân viên xã hội luôn làm việc trực tiếp
với các đối tượng, với nhóm người cụ thể. Tuy nhiên Bà cho rằng, công tác xã hội
không phải là hướng tới giải quyết mọi vấn đề xã hội mà chỉ hướng vào giải quyết
những vấn đề thiết yếu trong cuộc sống hằng ngày của con người. Thực hành công
tác xã hội được diễn ra ở những lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các vấn đề
khác nhau như: tệ nạn xã hội, vấn đề người nghèo, vấn đề gia đình, hỗ trợ con người
giải quyết vấn đề đời sống cụ thể nhằm đem lại sự ổn định, hạnh phúc cho mọi
người và phát triển cộng đồng xã hội.
Từ những phân tích trên theo từ điển Bách khoa Xã hội khái niệm về công tác
xã hội như sau:
Theo Từ điển Bách khoa Xã hội, “Công tác xã hội là một khoa học ứng dụng
nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của con người, tạo ra những chuyển biến xã
hội và đem lại nền an sinh cho mọi người trong xã hội”. Công tác xã hội là một
nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng
đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng
thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá
nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần
đảm bảo an sinh xã hội [18. tr.42].
1.1.2.
Khái niệm Công tác xã hội cá nhân
Trong lịch sử phát triển nghề CTXH thế giới, phương pháp đầu tiên được sử
dụng là tiếp xúc trực tiếp để hỗ trợ những cá nhân và gia đình khó khăn về kinh tế.
Với phương pháp này, những người thuộc các hiệp hội/tổ chức trợ giúp người
nghèo tại Mỹ đã trực tiếp đến viếng thăm từng người nghèo tại gia đình của họ, hỗ
12
trợ họ tìm kiếm việc làm, tham vấn và tạo lập cho họ tính tôn trọng bản thân, tự chủ.
Đây chính là sự khởi đầu để hình thành một phương pháp can thiệp chuyên nghiệp
hiện nay, đó là phương pháp CTXH với cá nhân.
CTXH cá nhân trước hết được khẳng định như một phương pháp chuyên
nghiệp, mà các nhân viên xã hội sử dụng để hỗ trợ cá nhân vượt qua khó khăn trong
việc thực hiện các chức năng xã hội của họ. Với phương pháp này nhân viên xã hội
can thiệp giải quyết vấn đề của cá nhân trong mối quan hệ tương tác với môi trường
xã hội của cá nhân đó. Gia đình cũng được coi như một trường hợp (một case) với
các mối quan hệ đặc thù giữa các cá nhân trong gia đình đó, vì thế đã được xếp vào
phương pháp CTXH cá nhân. Như vậy “cá nhân” có thể được hiểu rộng hơn là một
case hay một trường hợp cụ thể, cần sự quan tâm sâu sắc. Vì thế, trong phương
pháp này, nhân viên xã hội có điều kiện nhấn mạnh vào nguyên tắc cá thể hóa sự
giúp đỡ đối với thân chủ là một cá nhân hay đối với trường hợp là cả gia đình.
Mối quan hệ một – một được nhắc đến như là một chìa khóa quan trọng trong
phương pháp CTXH cá nhân, quyết định vai trò và ciệc lựa chọn các kỹ năng tác
nghiệp của người nhân viên xã hội. Với mối quan hệ một - một, nhân viên xã hội là
người tương tác trực tiếp với chủ nhân, để tìm hiểu sâu sắc vấn đề và hoàn cảnh của
một cá nhân đó. Khi tác nghiệp, thân chủ cùng với các mối quan hệ xã hội của thân
chủ là mối quan tâm hàng đầu của nhân viên xã hội. Như vậy vai trò của người
nhân viên xã hội trong phương pháp CTXH cá nhân là người tạo điều kiện, giúp cá
nhân đánh giá, xác định vấn đề, tìm kiếm tài năng, điểm mạnh tiến đến nâng cao
năng lực tự giải quyết vấn đề của bản thân. Bên cạnh đó, nhân viên xã hội khi tương
tác trong mối quan hệ một – một với cá nhân, cũng có thể cùng lúc tham gia với các
vai trò khác như nhà giáo dục, nhà biện hộ, người môi giới. Để thực hiện việc tương
tác trực tiếp đạt hiệu quả cao, nhân viên xã hội cần phải thành thạo các kỹ năng sử
dụng trong đối thoại trực tiếp như: Kỹ năng tạo lập mối quan hệ ban đầu, kỹ năng
lắng nghe, kỹ năng vấn đàm, kỹ năng quan sát.
Mối quan hệ một - một cũng được đề cao khi nhân viên xã hội làm việc với
gia đình. Trong khi làm việc với gia đình, vai trò chủ yếu của nhân viên xã hội
13
chính là người trung gian, giúp cho các cá nhân trong gia đình cùng thấy một quan
điểm chung và giúp họ cùng hiểu quan điểm của nhau. Tuy nhiên, đa số các trường
hợp, nhân viên xã hội ngoài những buổi làm việc chung với cả gia đình, còn làm
việc với từng cá nhân trong gia đình vì nhiều lý do. Có thể tìm hiểu thêm thông tin
mà cá nhân đó không tiện chia sẻ trước các thành viên khác trong gia đình, hoặc
trong trường hợp gia đình không giống nhau, dẫn đến cùng một hành vi trái pháp
luật. Như vậy, sự quan tâm một - một cho phép giúp đỡ sâu sắc từng đứa trẻ có
hành vi làm trái pháp luật, với những bản kế hoạch can thiệp không giống nhau.
Theo đó CTXH cá nhân được khái niệm là “ hệ thống giá trị và phương pháp
được các nhân viên xã hội chuyên nghiệp sử dụng. Trong đó, các khái niệm về tâm
lý xã hội, hành vi và hệ hống được chuyển thành các kỹ năng giúp đỡ cá nhân và
gia đình giải quyết những vấn đề về tâm lý, quan hệ giữa các cá nhân, giữa cá nhân
với đời sống kinh tế - xã hội và môi trường thông qua quan hệ một – một”[6,
tr.32].
1.1.3. Khái niệm công tác xã hội đối với trẻ bị xâm hại tình dục
Theo tôi: Công tác xã hội đối với trẻ bị xâm hại là những hoạt động có kỹ
thuật mà nhân viên xã hội chuyển hóa từ các kỹ năng, các phương pháp trong việc
hỗ trợ cho trẻ tự bị xâm hại một cách có định hướng đạt đến những mục đích rõ
ràng. Nhằm tác động đến đứa trẻ và giúp nó cải thiện hay tăng năng lực về mặt thể
chất và tinh thần, những hoạt động này mang giá trị tích cực và có hiệu quả lâu dài
hơn là những hoạt động trị liệu bằng y học trong thời gian ngắn và không thường
xuyên.
1.1.4. Khái niệm trẻ em
Theo Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc năm 1989: Trẻ em được xác định
là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật quốc gia áp dụng với trẻ em đó
quy định tuổi thành niên sớm hơn
Theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 thì: Trẻ em quy
định trong luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi . Như vậy, trẻ em
Việt Nam là tất cả những ai từ chưa đủ 16 tuổi trở xuống, đó có thể là những trẻ sơ
14
sinh, là những bé thơ trong nhà trẻ, mẫu giáo, là các em học sinh trong các trường
tiểu học, trung học cơ sở hoặc trong trường trung học phổ thông, với một điều kiện
duy nhất là các em chưa đủ 16 tuổi (tính theo tháng).
1.1.5. Khái niệm xâm hại tình dục trẻ em
Có nhiều định nghĩa khác nhau về xâm hại tình dục trẻ em được các tổ chức
quốc tế, các cơ quan trong nước, các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đưa ra.
Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa xâm hại tình dục như sau: “Xâm hại tình dục
trẻ em là việc lôi kéo trẻ em tham gia vào hoạt động tình dục mà trẻ em đó không
hiểu một cách đầy đủ, không có khả năng quyết định ưng thuận một cách có hiểu
biết, hoặc hành động đó là trái luật pháp hoặc trái quy tắt xã hội. Xâm hại tình dục
trẻ em là hành động diễn ra giữa một trẻ em với một người trưởng thành hoặc với
một trẻ em khác mà do độ tuổi và mức độ phát triển, người này có mối quan hệ
trách nhiệm, tin tưởng hoặc quyền hành với trẻ và hành động gây ra nhằm thoả mãn
nhu cầu của người đó”.
Trong trường hợp thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em là một thành viên trong
gia đình hoặc có họ hàng với trẻ, thì việc xâm hại tình dục được coi là loạn luân.
Xâm hại tình dục trẻ em cũng có thể xảy ra dưới hình thức bóc lột thông qua văn
hoá phẩm khiêu dâm hoặc hoạt động mại dâm.
Trong phạm vi nghiên cứu của vấn đề này chúng tôi sử dụng định nghĩa về
xâm hại tình dục đã được tổ chức SIDA nêu lên trong nghiên cứu “Thực trạng xâm
hại tình dục trẻ em đường phố tại thành phố Huế và Hà Nội” do Viện sức khoẻ sinh
sản và gia đình thực hiện. Theo đó, xâm hại tình dục trẻ em được hiểu là: “việc tiếp
xúc hoặc tác động qua lại giữa trẻ và một người lớn tuổi hơn trẻ, có hiểu biết hơn
trẻ hoặc giữa trẻ và một người lớn (người lạ, anh chị em hoặc người có địa vị quyền
lực, ví dụ như là bố mẹ, người chăm sóc hoặc người nào khác) trong tình huống trẻ
bị sử dụng như một vật để thoã mãn nhu cầu tình dục của người lớn hoặc của trẻ.
Những hành vi về xâm hại tình dục bao gồm: phô bày bộ phận sinh dục nơi công
cộng, gọi điện thoại quấy rối, sờ mó bộ phận kín, xem người khác thay quần áo
hoặc đang quan hệ tình dục, xem các ấn phẩm khiêu dâm trẻ em, cố tình xâm phạm,
15
hãm hiếp, loạn luân và bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại (ví dụ như
mại dâm trẻ em, buôn bán trẻ em vì các mục đích tình dục)”.
1.1.6. Khái niệm về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em của gia đình và
cộng đồng
Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng
và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp.
Gia đình với chức năng phòng, chống bạo lực và ngăn ngừa các tệ nạn xã hội xâm
nhập vào gia đình, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Có rất nhiều định nghĩa về gia đình, nhưng nhìn chung các nhà khoa học đều
thống nhất quan điểm “gia đình là một thiết chế xã hội, dựa trên hai mối quan hệ cơ
bản là hôn nhân (vợ - chồng) và huyết thống (cha - mẹ - con)”. Luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam năm 2012 đã nêu lên định nghĩa: “Gia đình là tập hợp những người
gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng,
làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật này”
(Chương 1 - điều 8 - Khoản 10).
Cộng đồng là một nhóm người chung sống trên cùng một lãnh thổ (xóm, ấp,
làng xã) và cùng chia sẻ những lợi ích chung.
Như vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài khái niệm vai trò của gia đình
và cộng đồng trong việc phòng chống xâm hại tình dục trẻ em có thể được hiểu: đó
là những hoạt động của cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ, những người sống cùng
làng, xã, chính quyền địa phương trong việc quản lí, giáo dục, tuyên truyền nhằm
trang bị cho trẻ em những kỹ năng biết tự bảo vệ bản thân trước các hình thức xâm
hại về mặt tình dục. Các hoạt động phòng, chống bao gồm phòng tránh không cho
các hành vi xâm hại tình dục xảy ra với trẻ em và cả việc giải quyết khi vấn đề xảy
ra nhằm đảm bảo cho trẻ em trong xã hội được sống trong môi trường an toàn.
16
1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.2.1. Quyền trẻ em
Trong thực tiễn quyền, theo nghĩa tiếng Việt, là cái mà luật pháp, xã hội, phong
tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành... và khi thiếu được yêu cầu để
có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại. Về khái niệm khoa học, quyền là
nguyên tắc đạo đức xác định và thừa nhận sự tự do hành động của con người trong một
xã hội nhất định. Khái niệm quyền chỉ liên quan đến hành động, mà cụ thể là liên quan
đến tự do hành động, nghĩa là thoát khỏi những cưỡng chế về mặt thể xác, thoát khỏi
tình trạng bị ép buộc hay bị can thiệp bởi/từ những người khác. Đối với mỗi cá nhân,
quyền là sự thừa nhận về mặt đạo đức đối với một sự chọn lựa tích cực, được tự do
hành động theo lý trí, vì các mục tiêu riêng, do sự lựa chọn riêng tự nguyện, không bị
cưỡng ép. Về phần những người xung quanh, các quyền của cá nhân đó không áp đặt
nghĩa vụ nào lên những người xung quanh ngoại trừ một quyền phủ quyết: họ không
được vi phạm các quyền của cá nhân đó.
Một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu
từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người
thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc
tế.
Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc, quyền con người là
những bảo đảm pháp lý phổ quát có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống
lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được
phép và tự do cơ bản của con người.
Ở Việt Nam, chưa có một văn bản pháp lý nào quy định về quyền con người như
một định nghĩa. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm quyền con người được thể hiện
trong những quy định cụ thể Điều 50 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) quy
định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và
được quy định trong Hiến pháp và luật” thì Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung:
17
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Với các cách hiểu về quyền con người, vậy quyền trẻ em được hiểu như thế
nào? Chúng ta có thể nhìn nhận căn bản thì quyền trẻ em là những đặc quyền tự nhiên
mà trẻ em được hưởng, được làm, được tôn trọng và thực hiện nhằm bảo đảm sự sống
còn, tham gia và phát triển toàn diện. Quyền trẻ em chính là biện pháp nhằm bảo đảm
cho trẻ em không những là những người tiếp thu thụ động tình thương hay lòng tốt của
bất cứ ai, mà trở thành chủ thể của quyền.
Hai thuyết nổi tiếng về quyền trẻ em thuộc về Maichael Fretrean (1983) và John
Eekelaar (1986). Theo Fretrean đưa ra 4 loại quyền: Quyền an sinh (là quyền chỉ ra một
loại những đòi hỏi “tuổi thơ hạnh phúc” như đã được định trong Bản tuyên bố Liên
Hiệp Quốc về quyền trẻ em như: quyền được học hành, dinh dưỡng, chăm sóc sức
khỏe và không phân biệt đối xử, Quyền được bảo vệ (bảo vệ trẻ em khỏi sự nguy hại),
Quyền được đối xử như người lớn và Quyền chống lại cha mẹ (được đặt vào vai trò
của người đại diện cho trẻ em). Còn theo John Eekelaar, quyền của trẻ dựa trên việc
suy đoán nhìn lại cái gì đứa trẻ đã từng muốn khi nó đạt tới vị trí trưởng thành, vì thế
ông đưa ra 3 loại quyền lợi làm nền tảng cho quyền, đó là: Quyền được chăm sóc (cha
mẹ - người chăm sóc yêu cầu phòng ngừa để tránh những nguy hại đến sự phát triển
của trẻ), Quyền được phát triển (cha mẹ và nhà nước đảm bảo rằng tất cả mọi trẻ em
đều có cơ hội như nhau để tiếp cận tối đa với những nguồn lực sẵn có) và Quyền độc
lập (sự tự do lựa chọn cách sống, quan hệ xã hội theo khuynh hướng không bị kiểm tỏa
bởi uy quyền của thế giới người lớn).
Việc tiếp cận các vấn đề của trẻ em trên khía cạnh quyền không phải là nội dung
quá mới trên thế giới, nhưng ở Việt Nam việc tiếp cận những vấn đề của trẻ em về
quyền chưa thực sự rõ ràng, nhất là những quyền đó khi triển khai vào thực tiễn đời
sống xã hội còn nhiều bất cập. Khi tiếp cận vấn đề về phòng ngừa tai nạn thương tích
18
đối với trẻ em dựa trên quyền của trẻ em là cách tiếp cận có nội dung thực tế vào đời
sống trẻ em, bởi không chỉ là những vấn đề cá nhân của trẻ em mà còn liên quan đến
những nội dung về thể chế, chính sách. Trong đó nội hàm về quyền của trẻ em được
hiểu khá rộng, theo Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 và có hiệu lực từ ngày 02/9/1990. Việt Nam
là một trong những quốc gia phê chuẩn Công ước từ rất sớm. Đây là văn kiện quan
trọng nhất về quyền con người của trẻ em trong hệ thống pháp luật quốc tế về quyền
con người, bao gồm các điều luật như: Trẻ em có quyền được lắng nghe, được tự do
bày tỏ quan điểm về tất cả các vấn đề có tác động đến trẻ, được tự do phát biểu, suy
nghĩ, hội họp và tiếp cận thông tin, thúc đẩy lợi ích tốt nhất của trẻ và tăng cường sự
phát triển cá nhân; Có quyền tham gia bình đẳng với nhau không phân biệt; Có quyền
được bảo vệ tránh khỏi bị lôi kéo, bạo lực, lạm dụng và bóc lột...Trong quá trình từng
bước làm hài hoà Công ước với hệ thống luật pháp quốc gia, các quyền cơ bản của trẻ
em được xem xét trong việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các luật và bộ luật. Các
quyền này nếu được thực hiện đầy đủ sẽ tạo cơ hội cho trẻ em được thực hiện quyền
chính trị, xã hội của mình, trong mối tương quan với các quyền dân sự, văn hóa, kinh
tế.
Từ những nhóm quyền căn bản như: quyền được sống, quyền được bảo vệ, quyền
được phát triển, quyền được tham gia phải được thực thi khi xây dựng, triển khai các
chính sách về trẻ em, cũng như các chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội. Một số
nghiên cứu chỉ ra rằng, gần như tất cả các chính sách, pháp luật về kinh tế, chính trị, xã
hội đều có những tác động nhất định đến trẻ em. Chính vì vậy việc lồng ghép vấn đề
quyền trẻ em trong xây dụng những chính sách pháp lý cũng phải được bảo đảm thực
hiện. Vậy, trong vấn đề can thiệp hỗ trợ trẻ tự kỷ thì quyền trẻ em được thực hiện như
thế nào? Các chính sách về trẻ tự kỷ có phải là nguyên nhân dẫn đến vấn đề đưa công
tác xã hội vào hỗ trợ trẻ tự kỷ thường gặp khó khăn hay không? Đó chính là những câu
hỏi buộc chúng ta tìm hiểu khi tiếp cận quyền của trẻ em đối với vấn đề Công tác xã
hội đối với trẻ bị xâm hại tình dục .
19