Tải bản đầy đủ (.doc) (199 trang)

Chuyển giá trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) kinh nghiệm quốc tế và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 199 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ
HỘI
DƯƠNG VĂN

AN

CHUYỂN GIÁ

TRONG DOANH NGHIỆP

CÓ VỐN ĐẦU

TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
(FDI) KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế

Chính trị Mã số: 62.31.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1. GS.TS. Nguyễn Xuân Tháng
2. TS. Bùi Đại Dũng
HÀ NỘI - 2016


LỜI CÁM ƠN


LỜI CAM ĐOAN


LỜI CÁM ƠN
LỜI CAM ĐOAN

Em xin chân thành cám ơn GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, TS. Bùi Đại
Dũng đã tận tình hướng dẫn khoa học, định hướng và giúp đỡ em hoàn thành
Luận án này.


LỜI CÁM ƠN
LỜI CAM ĐOAN

Xin trân trọng cám ơn những tập thể và cá nhân đã giúp đỡ về tài liệu nghiên cứu.Tôi xin
cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, dẫn chứng nêu trong Luận án là trung thực, có trích dẫn nguồn rõ ràng.

Tác giả Luận án


MỤC LỤC
Dương Văn An


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Error! Bookmark not defined.
MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 11

APA

Phương pháp thỏa thuận trước giá tính
thuế

Advance Pricing Agreement

BOT

Xây dựng - kinh doanh - chuyển giao

Build Operate Transfer

Xây dựng - chuyển giao

Build Transfer

BTO

Xây dựng - chuyển giao - kinh doanh

Build Transfer Operate

CUP

Phương pháp định giá chuyển giao trên cơ
sở giá tự do có thể so sánh được


Comparable Uncontrolled
Price

BT

ĐTNT

Đối tượng nộp thuế

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Foreign Direct Investment

FTA

Hiệp định thương mại tự do

Free trade agreement

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

Gross Domestic Products

MNCs

Tập đoàn đa quốc gia


Multinational Corporations

NSNN

Ngân sách nhà nước

OECD

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

Oganization for Economic
Co-operation and
Development

Phương pháp giá bán lại

Resales Price Method

RPM
SXKD

Sản xuất, kinh doanh

TNCs

Công ty xuyên quốc gia

TNDN


Thu nhập doanh nghiệp

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

USD

Đô la Mỹ

Transnational Companies

United States Dollar


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

VCCI

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam

VND
DANH MỤC CÁC BẢNG:

Việt Nam đồng

Vietnam Chamber of
Commerce and Industry



MỞ ĐẦU

_
r
r _
rr\r
I_
_A.
____,1
*Ạ,____*? ___-* Ạ i > •
1

_!

• A.

r_ __

. Tính cap thiêt của đê tài nghiên cứu

Sau gần 30 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài (có hiệu lực từ năm 1987), nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào Việt Nam tăng đều cả về vốn đăng ký và vốn giải ngân. Tính đến 31/12/2015, Việt Nam có hơn 20 ngàn dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 281,882 tỷ Đô la Mỹ, trong đó vốn thực hiện chiếm gần
50% vốn đăng ký.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam có nguồn gốc xuất xứ và lĩnh vực kinh
doanh khá đa dạng, trong đó có nhiều công ty đa quốc gia lớn trên thế giới. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam như thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa; tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; cải thiện trình độ công nghệ chung thông qua hoạt động
chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị doanh nghiệp cũng như năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động của khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài cũng bộc lộ nhiều hạn chế, ẩn chứa nhiều vấn đề kinh tế phức tạp, trong đó có vấn đề chuyển giá nhằm trốn,
tránh nghĩa vụ thuế của nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc chuyển giá của các doanh nghiệp này
có thể tạo ra hiện tượng “lỗ giả, lãi thật” (thực tế thường xuyên có khoảng 50% doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài hoạt động tại Việt Nam báo lỗ, trong đó có những doanh nghiệp như công ty TNHHMTV Keangnam Vina, công ty
Coca-Cola Việt Nam, Công ty Hualon Corporation. báo lỗ nhiều năm liên tục, số lỗ lũy kế lên đến gần ngàn tỷ đồng/doanh
nghiệp). Hệ quả của hiện tượng trên làm cho Việt Nam thất thu một khoản lớn ngân sách đáng lẽ có được từ nguồn thuế thu
nhập doanh nghiệp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; làm nảy sinh cạnh tranh bất bình đẳng mà lợi
thế thường nghiêng về phía doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, khiến doanh nghiệp “nội địa” mất thị phần,
thậm chí có những doanh nghiệp liên doanh bị thôn tính và trở thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; môi trường đầu
tư của Việt Nam bị phản ánh sai lệch; một số vấn đề chính trị, xã hội nảy sinh... Những nghi án chuyển giá ngày càng nhiều
với quy mô trốn, tránh nghĩa vụ thuế lớn (tính riêng trong hai năm 2014, 2015 qua thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp có
nguy cơ chuyển giá cao, ngành thuế đã giảm lỗ trên 15.400 tỷ đồng, truy thu, truy hoàn và phạt hơn 2.600 tỷ đồng), gây ra
những bức xúc không nhỏ trong xã hội và tạo ra những nghi ngại có cơ sở về hiệu quả đích thực của chính sách thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài mà Việt Nam đang tiến hành.

8
8


Chuyển giá không phải là hiện tượng mới trong đời sống kinh tế thế giới. Bắt nguồn từ cơ chế định giá chuyển giao
nội bộ trong một doanh nghiệp, chuyển giá từ lâu đã được các tập đoàn đa quốc gia sử dụng rộng rãi trong các giao dịch
xuyên quốc gia giữa các công ty thành viên hay giữa chúng với công ty mẹ vì những mục tiêu được tính toán từ trước. Khi
đối diện với các chính sách và thủ tục thuế khác nhau, nhất là sự khác biệt về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giữa
các quốc gia, các công ty đa quốc gia có thể lợi dụng cơ chế định giá chuyển giao để phân bổ lại các khoản thu nhập và chi
phí giữa các công ty thành viên, nhờ đó có thể tối thiểu hóa nghĩa vụ thuế tổng thể trên phạm vi toàn tập đoàn. Cùng với

quá trình toàn cầu hóa, khi vai trò của các công ty đa quốc gia ngày càng gia tăng trong hoạt động thương mại và đầu tư
quốc tế, khi sự phân bổ và di chuyển các nguồn lực kinh tế trên phạm vi toàn cầu ngày càng dễ dàng, hoạt động chuyển giá
quốc tế ngày càng có điều kiện phát triển. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan thuế ở hầu khắp các nước trong
việc thực thi quyền đánh thuế cũng như đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh chung giữa các loại hình doanh nghiệp.
Trong tình hình đó, việc kiểm soát và ứng phó với hành vi chuyển giá trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (gắn liền với hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia) trở thành một trong những vấn đề thuế quốc tế quan trọng nhất
mà các nước đều phải quan tâm. Ở nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, những biện pháp chống chuyển giá với
nhiều công cụ thuế và phi thuế quan khác nhau đã được triển khai ngày càng bài bản và thu được những thành quả rất đáng
chú ý.
Do là nước đi sau, vẫn còn đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập vào nền kinh tế
thế giới, Việt Nam gặp nhiều khó khăn và chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc đối phó với hành vi chuyển giá của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các giải pháp chống chuyển giá gần đây mới được triển khai, song còn
thiếu đồng bộ và hiệu lực thực thi thấp. Tình trạng nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khai lỗ liên tục
nhưng vẫn mở rộng quy mô và doanh thu vẫn tăng đều đều là điều khó hiểu và đôi lúc cơ quan chức năng gần như bất lực
trước tình trạng chuyển giá được cho là ngày càng phổ biến. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu kinh nghiệm chống
chuyển giá đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài từ những nước đi trước nhằm “rút tỉa” ra những bài
học hữu ích, phục vụ cho việc thiết kế và thực thi một chiến lược ứng phó với hành vi chuyển giá hữu hiệu hơn là rất cần
thiết. Xuất phát từ thực tế đó, Nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Chuyển giá trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) - kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam ” làm đề tài Luận án của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
2.1.

Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của Luận án là đúc rút kinh nghiệm quốc tế về chống chuyển giá để đề xuất được các giải
pháp có cơ sở khoa học nhằm nâng cao khả năng ứng phó với hành vi chuyển giá trong doanh nghiệp FDI, hạn chế những
tác động tiêu cực của hiện tượng này đối với Việt Nam.
Để thực hiện được mục đích trên, các mục tiêu cụ thể của Luận án là:

9

9


i) Xây dựng khung lý thuyết về phân tích chuyển giá trong doanh nghiệp FDI, làm rõ bản chất của chuyển giá,
động cơ thúc đẩy doanh nghiệp FDI chuyển giá, các thủ thuật chuyển giá thường được thực hiện và tác động chuyển giá đối
với nước tiếp nhận đầu tư.

ii) Làm rõ những tác động tiêu cực mà hành vi chuyển giá trong doanh nghiệp FDI có thể gây ra cho Việt Nam.
iii) Đúc rút được những kinh nghiệm quốc tế về chống chuyển giá qua đó rút ra những bài học hữu ích có thể vận
dụng được vào thực tiễn Việt Nam.

iv) Đề xuất các giải pháp có cơ sở khoa học để ứng phó với chuyển giá trong doanh nghiệp FDI ở Việt Nam có
hiệu quả hơn.
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu trên, Luận án sẽ tìm câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau:

i) Bản chất của chuyển giá là gì? Trong điều kiện nền kinh tế thế giới hiện đại, tại sao hiện tượng chuyển giá lại
mang tính phổ biến và chống chuyển giá lại là một nhiệm vụ không dễ dàng với cơ quan thuế các quốc gia?

ii) Thực trạng chuyển giá trong doanh nghiệp FDI ở Việt Nam? Lợi ích của Việt Nam bị tác động như thế nào bởi
hành vi chuyển giá trong doanh nghiệp FDI?

iii) Các nước thường ứng phó với chuyển giá của các doanh nghiệp FDI như thế nào? Có thể rút ra những bài học
gì từ kinh nghiệm quốc tế về ứng phó với chuyển giá?

iv) Việt Nam cần phải làm gì để ứng phó với hành vi chuyển giá?
2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

i) Hệ thống hóa các nội dung lý thuyết cơ bản về vấn đề chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI, qua đó làm sáng

tỏ những điều kiện đặc thù hiện nay đang tác động đến hiện tượng kinh tế phức tạp này.

ii) Phân tích và đánh giá thực trạng chuyển giá trong khu vực FDI ở Việt Nam từ năm 2001 - 2015 (tập trung vào
giai đoạn 2010 - 2015), làm rõ hơn những tác động tiêu cực của chuyển giá đối với Việt Nam.

iii) Phân tích các kinh nghiệm trong việc chống chuyển giá của một số nước tiêu biểu, một số nước có tình hình
kinh tế và cấu trúc chính trị - xã hội có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam để rút ra các bài học có giá trị tham khảo đối
với Việt Nam.

Đánh giá thực trạng khả năng ứng phó với chuyển giá trong doanh nghiệp FDI của Việt Nam hiện nay, những kết quả đạt
được và khó khăn, hạn chế; đề xuất một số giải pháp để nâng cao khả năng ứng phó với hành vi chuyển giá trong doanh
nghiệp FDI ở Việt Nam trong thời gian tới

10
10


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án

.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp
FDI và kinh nghiệm ứng phó (kiểm soát, phòng, chống...) với hiện tượng này ở một số quốc
gia; việc áp dụng kinh nghiệm này trong ứng phó với chuyển giá trong các doanh nghiệp
FDI ở Việt Nam.
3.1.

Phạm vi nghiên cứu
về góc độ tiếp cận: Luận án phân tích vấn đề chuyển giá của các doanh nghiệp FDI

dưới góc độ kinh tế chính trị. Điều này thể hiện ở chỗ: hiện tượng chuyển giá chủ yếu được

xem xét, cắt nghĩa như một hiện tượng kinh tế - xã hội, hàm chứa các mối quan hệ lợi ích
giữa các chủ thể kinh tế (các tập đoàn đa quốc gia, các công ty thành viên, nhà nước sở tại)
có liên quan chứ không phải như một vấn đề kinh tế - kỹ thuật; việc luận giải vấn đề chuyển
giá đương đại được gắn với bối cảnh kinh tế chính trị của quá trình toàn cầu hóa và vai trò
của các tập đoàn kinh tế đa quốc gia trong nền kinh tế thế giới hiện nay; việc phân tích kinh
nghiệm quốc tế, đề xuất giải pháp ứng phó với vấn đề chuyển giá đứng từ góc nhìn của một
nước tiếp nhận đầu tư, chịu ảnh hưởng tiêu cực của hoạt động chuyển giá, nghiêng về và
gắn với những khía cạnh thuộc môi trường thể chế, chính sách và vai trò kinh tế của nhà
nước hơn là những khía cạnh quản lý tác nghiệp.
về không gian: Luận án nghiên cứu thực trạng chuyển giá trên thế giới qua các
trường hợp điển hình ở Anh, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga; nghiên cứu kinh nghiệm
chống chuyển giá của OECD, Anh, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, một số nước Asean là Thái
Lan, Malaysia, Indonesia và nghiên cứu các vấn đề liên quan đến chuyển giá ở Việt Nam.

11


Việc chọn đồng thời các nước phát triển và mới nổi để nghiên cứu giúp thấy rõ hơn vấn đề
chuyển giá đã trở thành hiện tượng phổ biến, là vấn đề quốc tế, ngay cả các nước có nhiều
kinh nghiệm cũng phải đối mặt với chuyển giá của các MNCs. Đồng thời, qua đó học hỏi
kinh nghiệm của các nước phát triển như một hình thức “đi tắt” - lợi thế của nước đi sau.
Việc lựa chọn Trung Quốc để nghiên cứu là bởi Trung Quốc vừa là nước có nhu cầu thu hút
đầu tư FDI như Việt Nam đồng thờivừa có văn hóa, thể chế chính trị tương tự Việt Nam, do
đó, những kinh nghiệm của Trung Quốc nếu được đúc rút, áp dụng ở Việt Nam sẽ có nhiều
điểm phù hợp. Tương tự, nghiên cứu kinh nghiệm kiểm soát chuyển giá của một số nước
trong khu vực Asean như Thái Lan, Malaysia, Indonesia bởi vì đây là các quốc gia thuộc
nhóm nước đang phát triển, có bối cảnh kinh tế, xã hội tương tự Việt Nam. Mặt khác, cộng
đồng Asean hình thành mà trong đó Việt Nam là thành viên, tất yếu cần nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước thành viên khác để rút ra bài học cho mình và đồng thời cũng phục vụ
cho quá trình xây dựng cộng đồng Asean.

về thời gian: Đối với kinh nghiệm chống chuyển giá của một số quốc gia trên thế
giới, Luận án tập trung nghiên cứu các kinh nghiệm có được từ trước đến nay trong “lịch
sử” chống chuyển giá của các quốc gia để rút ra các bài học hữu ích cho Việt Nam. Đối với
Việt Nam, Luận án nghiên cứu giai đoạn 2001 - 2015, là thời kỳ thu hút FDI có nhiều
chuyển biến mạnh mẽ và Việt Nam đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời
hiện tượng chuyển giá ngày càng rõ nét trong khu vực doanh nghiệp FDI ở Việt Nam, trong
đó tập trung trọng tâm vào giai đoạn 2010 - 2015.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của Luận án
4.1.

12
12

Phương pháp luận


4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án tiếp cận đối tượng nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng như là phương pháp luận chung. Thông qua cách tiếp cận này, Luận án cố gắng
nhận diện bản chất của hiện tượng chuyển giá cũng như các hình thức biểu hiện của nó, vừa
dưới góc độ chung như một hiện tượng có tính phổ biến trên toàn thế giới, vừa dưới góc độ
đặc thù, gắn với các nền kinh tế đang phát triển như trường hợp Việt Nam. Luận án xem
vấn đề chuyển giá không phải như một sự kiện ngẫu nhiên mà như là một hiện tượng tất
yếu nảy sinh trên cơ sở cơ chế định giá chuyển giao trong nội bộ các tập đoàn đa quốc gia
khi chúng trở thành các thực thể kinh tế xuyên quốc gia. Bằng quan điểm phát triển, lịch sử,
cụ thể, Luận án xem xét tác động của tiến trình toàn cầu hóa hiện nay đối với vấn đề chuyển
giá và “chống” chuyển giá. Các kinh nghiệm ứng phó với hoạt động chuyển giá được phân
tích và khái quát thành một số bài học có giá trị tham khảo đối với Việt Nam. Trên cơ sở
thực tiễn cụ thể của Việt Nam, Luận án cố gắng “chuyển hóa” các bài học đó thành những

kiến nghị giải pháp thích hợp.Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Tác giả Luận án đã
thu thập được tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp, bao gồm các báo cáo tài chính của một số
doanh nghiệp FDI, báo cáo kết quả thanh tra doanh nghiệp FDI chuyển giá của Tổng cục
Thuế và Cục thuế một số địa phương, Kết luận thanh tra một số doanh nghiệp FDI của
Thanh tra Chính phủ, các văn bản quy phạm pháp luật; các báo cáo, đề án của Bộ Tài chính,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Thống kê, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam,
Tổng cục Thuế và cơ quan thuế của một số địa phương; các Đề án, công trình nghiên cứu
cấp Bộ, cấp tỉnh/thành phố; Luận án Tiến sỹ, các bài báo khoa học, các bài báo thời sự
trong nước và nước ngoài... có liên quan đến vấn đề chuyển giá. Các tài liệu này đã được
tác giả Luận án xử lý thông tin để:
+ Hệ thống hóa được những kết quả đã được nghiên cứu trước đây, phát hiện được
những vấn đề đã được đồng thuận, những điểm còn có ý kiến khác nhau, khoảng trống cần
nghiên cứu để đi sâu nghiên cứu, tìm ra điểm mới của vấn đề.
+ Tìm kiếm các căn cứ khoa học và số liệu minh chứng làm cơ sở cho việc hình
thành các luận điểm, luận cứ, luận chứng cả về mặt lý thuyết và thực tiễn;
+ Đưa ra kết luận theo cách tiếp cận riêng.
Phương pháp phân tích được sử dụng để phân tích các số liệu liên quan đến hoạt
động mua bán hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ... của các trường hợp doanh nghiệp FDI có
hành vi chuyển giá được nêu trong Luận án, để làm rõ các thủ thuật chuyển giá của các
doanh nghiệp này; phân tích một số tình hình liên quan đến kinh tế, xã hội Việt Nam giai
đoạn 2010 - 2015 để thấy được những tác động của chuyển giá trong doanh nghiệp FDI đối
với nước tiếp nhận đầu tư.

13


Do chuyển giá là vấn đề nhạy cảm, một số tài liệu mà cơ quan chức năng cung cấp là tài liệu
nội bộ, tài liệu chưa công bố, tài liệu mà thông tin trong đó được xem như tài sản thuộc sở
hữu của doanh nghiệp có giới hạn đối tượng sử dụng, tài liệu ở chế độ “mật”, nên khi sử
dụng các tài liệu này, tác giả Luận án được yêu cầu không công khai rõ nguồn hoặc tên của

doanh nghiệp. Song, đây là tài liệu cónguồn gốc rõ ràng, có độ tin cậy cao, do các cơ quan
chức năng có thẩm quyền cung cấp, tác giả đã sử dụng và dẫn chứng trung thực trong Luận
án.
Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu các quy định trong hệ thống pháp
luật của Việt Nam với các quy định của OECD và một số quốc gia khác về chính sách thuế,
phương pháp định giá chuyển giao, các biện pháp/kinh nghiệm chống chuyển giá và các vấn
đề khác liên quan, từ đó xem xét thực trạng của Việt Nam và nêu đề xuất riêng.
Phương pháp nghiên cứu tình huống/trường hợp (case study) được thực hiện để nhấn
mạnh các trường hợp MNCs, doanh nghiệp FDI điển hình (trên thế giới và ở Việt Nam)
chuyển giá; các quốc gia điển hình trong ứng phó với chuyển giá. Mục đích của phương
pháp này là để làm rõ tình hình chuyển giá hiện nay ở trên thế giới và Việt Nam, các thủ
thuật thực hiện chuyển giá, rút ra những kinh nghiệm về ứng phó với chuyển giá của một số
nước trên thế giới.
Phương pháp chuyên gia được sử dụng để phỏng vấn một số chuyên gia, nhà khoa
học, cán bộ quản lý, viên chức ngành thuế, để hỏi ý kiến, nhận xét và hỗ trợ cho tác giả trong
quá trình thu thập tài liệu, nghiên cứu, xử lý thông tin, viết báo cáo Luận án. Đặc biệt, tác giả
Luận án thường xuyên làm việc, tham khảo ý kiến của đội ngũ cán bộ của Ban cải cách và
hiện đại hóa (Tổng cục Thuế). Trong quá trình thực hiện phương pháp chuyên gia, sau khi
hình thành các kết luận nghiên cứu, tác giả coi trọng việc tiếp tục gửi, xin ý kiến nhận xét,
xác thực của chuyên gia thêm một lần nữa.
Phương pháp điều tra thực tiễn: Tác giả Luận án không trực tiếp thực hiện điều tra
thông qua bảng câu hỏi mà sử dụng kết quả điều tra do một số cơ quan chức năng thực hiện
nhằm làm tăng độ thuyết phục, sự tin cậy cho những luận cứ, kết luận đưa ra trong luận án.
Cụ thể, Luận án đã sử dụng: i) Kết quả điều tra của nhóm nghiên cứu về chỉ số năng lực
cạnh tranh quốc gia Việt Nam 2013, năm 2014 của VCCI và USAID về đo lường chuyển giá
trong doanh nghiệp FDI thông qua phương pháp gọi là “Kỹ thuật đếm bất đối xứng” (UCT),
thường được gọi là bảng câu hỏi LIST; ii) Kết quả điều tra liên quan đến hoạt động của
doanh nghiệp FDI hoạt động ở Việt Nam của VCCI công bố trong các báo cáo thường niên;

14

14


iii) Kết quả điêu tra của Tông cục Thuế.
5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
Với mục đích và nhiệm vụ đặt ra, đê tài dự kiến có những đóng góp sau:

i) Góp phần bô sung, phát triển, hoàn thiện lý thuyết vê chuyển giá trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

ii) Tông hợp, cung cấp nguồn tư liệu có độ tin cậy vê thực trạng chuyển giá ở một
số nước trên thế giới và ở Việt Nam.

iii) Làm rõ những tác động tiêu cực mà hành vi chuyển giá trong doanh nghiệp FDI
có thể gây ra cho Việt Nam.

iv) Đánh giá được hiện trạng chính sách, pháp luật và sự ứng phó của Việt Nam đối
với hành vi chuyển giá trong doanh nghiệp FDI.

v) Hệ thống hóa kinh nghiệm của một số quốc gia vê ứng phó với chuyển giá theo
từng nhóm vấn đê và rút ra một số kết luận có ý nghĩa đúc kết thực tiễn.

vi) Đê xuất các giải pháp dựa trên cơ sở khoa học nhằm tăng cường khả năng ứng
phó của Việt Nam đối với hành vi chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Vê mặt lý luận, Luận án góp phần bô sung, phát triển khung lý thuyết vê vấn đê
chuyển giá nói chung và chuyển giá trong doanh nghiệp FDI nói riêng. Những đóng góp vê
lý luận này tiếp tục củng cố thêm những kết luận của các nhà khoa học trước đây vê bản chất
của chuyển giá, động cơ thúc đẩy doanh nghiệp FDI chuyển giá, các hình thức chuyển giá
trong doanh nghiệp FDI, những tác động của chuyển giá đối với chính doanh nghiệp FDI,

nước xuất khẩu tư bản và nước tiếp nhận đầu tư... Khung lý thuyết mà Luận án bô sung, phát
triển có thể làm cơ sở lý luận để các nghiên cứu khác tham khảo hoặc giúp các nhà quản lý
có góc nhìn toàn diện hơn đối với một hiện tượng kinh tế đang trở nên phô biến trong xu thế
toàn cầu hóa, để thiết kế các giải pháp ứng phó, nhằm hạn chế các tác động tiêu cực do
chuyển giá gây ra.
Về ý nghĩa thực tiễn, Luận án đã làm rõ thực trạng chuyển giá ở trên thế giới và Việt
Nam, đánh giá được tác động của chuyển giá đối với Việt Nam, cung cấp cơ sở thực tiễn để
làm rõ hơn mâu thuẫn về lợi ích giữa thu hút FDI và những thiệt hại do chuyển giá trong

15
15


doanh nghiệp FDI gây ra. Những kinh nghiệm mà một số nước trên thế giới đang thực hiện
để chống lại hành vi chuyển giá của các MNCs mà Luận án đúc rút được, sẽ giúp các cơ
quan chức năng có thêm cơ sở thực tiễn để vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Những đề xuất của Luận án về các giải pháp ứng phó với chuyển giá có ý nghĩa bổ sung,
hoàn thiện về chính sách và thực thi chính sách trong ứng phó với chuyển giá ở Việt Nam
thời gian tới.
Luận án có thể được sử dụng để làm tài liệu tham khảo, phục vụ việc nghiên cứu,
giảng dạy chuyên đề về chuyển giá hoặc các cơ quan chức năng có thể tham khảo để phục
cho “cuộc chiến” chống chuyển giá trong doanh nghiệp FDI.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm có 4
chương, gồm:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chương 2: Một số vấn đề lý thuyết về chuyển giá trong doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Chương 3: Kinh nghiệm thế giới về kiểm soát chuyển giá và một số bài học
rút ra.

Chương 4: Thực trạng chuyển giá trong doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Việt Nam, giải pháp ứng phó với chuyển giá.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐÉN ĐỀ TÀI

Hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp và hoạt động chống chuyển giá của chính
phủ các nước là mâu thuẫn luôn luôn tồn tại, bởi khi một chính phủ có biện pháp kiểm soát
chuyển giá có hiệu quả thì doanh nghiệp nghĩ ra các thủ thuật khác để tiếp tục chuyển giá, vì
mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là lợi nhuận. Hành vi chuyển giá sẽ gây ra nhiều thiệt
hại cho nước nhận đầu tư như gây thất thu ngân sách, tăng nhập siêu, làm méo mó môi
trường đầu tư, cạnh tranh không bình đẳng đối với các doanh nghiệp không thực hiện chuyển
giá, bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp về thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước... Do

16
16


đó, từ góc độ quản lý nhà nước cũng như kinh tế chính trị, chuyển giá đang là vấn đề nóng,
được nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực quan tâm. Chính vì vậy, vấn đề chuyển giá
cũng được nhiều tác giả quan tâm.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề chuyển giá với nhiều cách tiếp cận, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu khác
nhau, bao gồm các vấn đề về lý luận và thực tiễn, nhằm làm rõ khái niệm, bản chất, đặc
điểm, phương thức chuyển giá; những tác động của chuyển giá; các giải pháp (của nước tiếp
nhận đầu tư) kiểm soát hành vi chuyển giá.
Những nghiên cứu nước ngoài xoay quanh câu chuyện các công ty đa quốc gia đã
dựa trên các điều kiện của công ty có quan hệ liên kết và các quyền của công ty mẹ đối với
công ty con hay giữa các thành viên trong cùng một công ty mẹ, để xác định giá chuyển giao
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. một cách có chủ đích, không theo giá thị trường, nhằm điều

phối thu nhập chịu thuế, từ đó tối đa hóa lợi nhuận thông qua việc giảm thiểu nghĩa vụ nộp
thuế. Các nghiên cứu nước ngoài cũng đã cung cấp thực tiễn về việc “chuyển sai giá” (xác
định giá chuyển giao giữa các thành viên có quan hệ liên kết không theo giá thị trường) của
các công ty lớn và hành động của chính phủ trong kiểm soát giá chuyển giao để đảm bảo
quyền đánh thuế, tránh thất thu thuế. Lý thuyết liên quan đến giá chuyển giao và việc định
giá chuyển giao cũng đã được các nghiên cứu nước ngoài đưa ra. Có thể nêu một số tác giả
với các nghiên cứu như: Sanjaya Lall (1973) - “Chuyển giá trong các Công ty đa quốc gia”
(Transfer pricing by multinational firms); Stewart J.C (1977) - “Các công ty đa quốc gia và
chuyển giá” (Multinational companies and tranafer pricing), Lecraw D. (1985) - “Một số
bằng chứng về chuyển giá trong các tập đoàn đa quốc gia” (Some evidence on transfer
pricing Multinational Corporations); Susan C. Borkowski (1997) - “Chuyển giá tại các nước
đã và đang phát triển” (The transfer pricing concerns of Developed and Developing
countries); Pamela L. Kayfetz & Leo B. Helzel (1996) - “Chuyển giá: Công bằng thuế trong
nước đối với giao dịch quốc tế” (Transfer pricing: Achieving fair national taxation of
international transaction); Eric J. Bartelsman & Roel M.W.J. Beetsma (2003) - “Tại sao phải
trả nhiều tiền thuế? Tránh thuế doanh nghiệp bằng hình thức chuyển giá tại các nước thuộc
OECD ” (Why pay more? Corporate tax avoidance through transfer pricing in OECD
countries); Pascalis Raimondos Moller & Kimberley Scharft (2002) - “Quy định về chuyển
giá và sự cạnh tranh với chính phủ” (Trasfer pricing rules and competing governmemt);
Prem Sikka & Hugh Willmott (2010) - “Mặt tối của chuyển giá: Vai trò trong việc tránh
thuế và giữ lại lợi nhuận” (The dark side of transfer pricing: Its role in tax avoidance and

17
17


wealth retentiveness)...
Tổ chức Hợp tác kinh tế OECD và Liên hiệp quốc cũng đã ban hành “Hướng dẫn
chung về phương pháp xác định giá chuyển giao giữa các thành viên liên kết”, như một
“cẩm nang”, một “Luật” chung để làm căn cứ xác định giá thị trường trong các giao dịch của

các bên liên kết, hạn chế chuyển giá để trốn thuế trong các công ty đa quốc gia, đảm bảo sự
công bằng, cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu có giá trị đầu tiên về giá chuyển giao và vấn đề
chuyển giá được thực hiện vào những năm cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Từ năm 2010 đến
nay, tình trạng doanh nghiệp FDI báo lỗ ở diện rộng, đặt ra nghi vấn “lỗ giả, lãi thật”, chuyển
giá để tránh thuế, đã thu hút sự chú ý của xã hội, do vậy nghiên cứu về chuyển giá được
quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu ở cấp độ Tiến sỹ, đề tài khoa học cấp Bộ (và
tương đương) rất ít. Cấp độ Thạc sỹ, có một số học viên cao học đã chọn vấn đề này làm
luận văn tốt nghiệp. Phần nhiều trong nghiên cứu về chuyển giá là các bài báo khoa học, bài
nghiên cứu tham gia hội thảo khoa học. Có thể nêu một số nghiên cứu sau:

- Sách chuyên khảo có: “Định giá chuyển giao và chuyển giá tại các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài ở thành phố Hồ Chí Minh ” (2000) của TS. Nguyễn Ngọc Thanh
(Chủ biên) và tập thể tác giả Viện nghiên cứu Tài chính; “Định giá chuyển giao và thủ thuật
chuyển giá của các công ty đa quốc gia ở Việt Nam” (2001) của TS. Nguyễn Ngọc Thanh,
Ths. Nguyễn Hoàng Dũng; “Các phương pháp định giá công nghệ và giá chuyển giao bên
trong các công ty đa quốc gia” (2008) của TS. Đoàn Văn Trường; “Tăng cường kiểm soát
nhà nước đối với hoạt động chuyển giá trong doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế
ở Việt Nam ” (2014) của PGS.TS Nguyễn Thị Phương Hoa (Chủ biên) và các tác giả TS.
Phạm Đức Bình, PGS.TS Nguyễn Thanh Hà, TS. Bùi Thị Minh Hải, TS. Nguyễn Thị Thu
Liên.

- Đề tài nghiên cứu khoa học có: “Giải pháp hạn chế các thủ thuật chuyển giá trong
điều kiện hiện nay của các công ty đa quốc gia đang hoạt động ở Việt Nam” (2012), đề tài
cấp Bộ do PGS.TS Ngô Thế Chi làm chủ nhiệm; “Chống chuyển giá đối với các doanh
nghiệp trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh xuất khẩu chè trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”
(2012), của Cục Thuế tỉnh Lâm Đồng (Nguyễn Trọng Thoan chủ nhiệm); “Nghiên cứu vấn
đề chuyển giá của các doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh: Thực trạng
và giải pháp” (2014), đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố do TS. Ngô Thị Ngọc
Huyền chủ nhiệm.


18
18


- Luận án Tiến sỹ có: “Hoàn thiện phương pháp định giá chuyển giao trong chính
sách thuế Việt Nam” (2002), của NCS. Phan Hiển Minh; “Các giải pháp hạn chế việc trốn
thuế và tránh thuế của các công ty đa quốc gia hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam” (2009),
của NCS. Nguyễn Thị Lan; “Pháp luật về kiểm soát chuyển giá ở Việt Nam” (2010), của
NCS. Phan Thị Thành Dương; “Kiểm soát nhà nước đối với gian lận chuyển giá tại Việt
Nam ” (2015), của NCS Nguyễn Văn Phượng.

- Các bài báo khoa học khá nhiều, có thể nêu một số nghiên cứu sau: Đoàn Văn
Trường (2005): “Vấn đề chuyển giá của các công ty đa quốc gia”; Phan Thị Thành Dương
(2006): “Chống chuyển giá ở Việt Nam”, “Pháp luật về kiểm soát chuyển giá ở Việt Nam”
(2010); Dương Thị Nhi (2011): “Chống chuyển giá, bài toán khó giải”; Phạm Tiến Đạt
(2011): “Giảipháp chống chuyển giá trong doanh nghiệp FDI”; Phan Văn Tính (2011):
“Kinh nghiệm chống chuyển giá của một số quốc gia”; Lê Xuân Trường (2012): “Chống
chuyển giá ở Việt Nam: Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và các điều kiện thực hiện”;
Nguyễn Quang Tiến (2012): “Quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá, thực trạng và giải
pháp”; Vũ Đình Ánh (2012): “Chống chuyển giá và một số vấn đề tài chính liên quan đến
FDI”; Nguyễn Đình Tài (2013) “Chống chuyển giá đối với các doanh nghiệp FDF... Qua
nghiên cứu các tài liệu, có thể thấy những nội dung trọng tâm, cơ bản được nhiều tác giả
ngoài nước và trong nước quan tâm và đã giải quyết được về lý thuyết cũng như thực tiễn về
vấn đề chuyển giá, như sau:

1.1.

Các quan điểm về khái niệm “'giá chuyển giao” trong công ty có quan hệ
liên kết

Phát hiện đầu tiên đặt nền móng cho nghiên cứu về chuyển giá được Ronald Harry

Coase nêu ra trong nghiên cứu “The nature of the firm” (Bản chất của Hãng) năm 1937. Tác
giả cho rằng, việc hình thành các công ty có lợi hơn so với việc tạo ra một sản phẩm hoàn
toàn thông qua các giao dịch trên thị trường, thậm chí trong những điều kiện cạnh tranh hoàn
hảo. Theo Coase, các công ty có thể định giá nội bộ (giá chuyển giao) cho các sản phẩm và
dịch vụ vì mục đích kế toán cũng như giảm thời gian và công sức để có được thông tin và
đàm phán khi giao dịch ngoài thị trường mở. Đây là một hoạt động căn bản trong kinh doanh
và kế toán [127]. Sau này, Sanjaya Lall (1973) [134], J.C. Stewart (1977) [147], Lecraw, D.
(1985) [135] và nhiều tác giả khác đều chỉ ra rằng, các công ty đa quốc gia khi thực hiện
giao dịch hàng hóa, dịch vụ và tài sản (bao gồm cả hàng hóa hữu hình và các dịch vụ vô
hình) giữa các thành viên trong tập đoàn hoặc là giữa các công ty (con) với công ty mẹ, đều
thực hiện một mức giá nội bộ.

19
19


Các nghiên cứu nước ngoài cho rằng việc định giá nội bộ cho sản phẩm không thông
qua các giao dịch “mua bán ngoài” như vậy không có gì là bất hợp pháp, thiếu đạo đức hay
vô nguyên tắc nếu nó được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật nước sở tại. Hoạt
động này được coi là một phương thức phân chia lợi nhuận được sử dụng để tính toán và
phân bố lãi (hoặc lỗ) thuần trước thuế của các MNC tại các nước mà họ đang hoạt động.
Về nguyên tắc, “giá chuyển giao” nội bộ này phải tương xứng với giá người bán tính
cho khách hàng độc lập bên ngoài hoặc với giá người mua trả cho nhà cung cấp độc lập bên
ngoài. Nghĩa là các bên liên kết trao đổi với nhau như các công ty độc lập, với các điều kiện
về thương mại và tài chính được xác định như thị trường cạnh tranh. Theo đó, việc xác định
“giá chuyển giao” không có gì là tiêu cực và các giao dịch này là các giao dịch hoàn toàn
hợp pháp trong hoạt động bình thường của các công ty đa quốc gia hiện đại.
Các nghiên cứu của Việt Nam cơ bản thống nhất “giá chuyển giao” là một thuật ngữ

quốc tế chung phản ánh về cách tính giá trong các giao dịch kinh tế nội bộ giữa các bên
trong một công ty đa quốc gia. Đó là giá mà các công ty đa quốc gia định ra trong các nghiệp
vụ xuất khẩu và nhập khẩu của các công ty thành viên. Tuy nhiên, trong khi các nhà nghiên
cứu nước ngoài nghiên cứu về giá chuyển giao với tư cách là một khái niệm độc lập thì các
nhà nghiên cứu Việt Nam lại đặt khái niệm “giá chuyển giao” trong mối quan hệ cụ thể với
một hành vi giao dịch. Theo đó, các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng, “giá chuyển giao”
trong các giao dịch liên kết được tính cao hơn hoặc thấp hơn nhằm phục vụ các chủ đích của
doanh nghiệp, đó là giảm thiểu số thuế phải nộp để gia tăng lợi ích cuối cùng. Chính vì vậy,
việc “định giá chuyển giao” được xem là nguyên do dẫn đến vấn đề chuyển giá và từ đó có
tác động tiêu cực đến các lợi ích kinh tế, xã hội của nước tiếp nhận đầu tư.
1.2.

kết

Các quan điểm về khái niệm “chuyển giá” trong công ty có quan hệ liên

Theo nhiều nghiên cứu nước ngoài (như Sanjaya Lall (1973), Stewart J.C. (1977),
Lecraw, D. (1985), Pamela L. Kayfetz & Leo B. Helzel (1996), Susan C. Borkowski (1997)
[120],..), khi các công ty có quan hệ liên kết thực hiện các giao dịch nội bộ mà áp dụng giá
chuyển giao không theo giá thị trường (giá cao hơn hoặc thấp hơn giá thị trường), nhằm điều
chỉnh lãi - lỗ của các thành viên, từ đó điều chỉnh mức thuế phải nộp sao cho tổng nghĩa vụ
thuế giảm so với khi thực hiện giá giao dịch thị trường, thì hành vi đó gọi là chuyển sai giá
(Transfer mispricing..). (Các nghiên cứu ở Việt Nam thường gọi đây là chuyển giá).
Các nghiên cứu nước ngoài đã chỉ ra rằng, mục đích của các công ty khi thực hiện

20
20


chuyển sai giá là nhằm tối đa hóa lợi nhuận thông qua việc giảm thiểu nghĩa vụ thuế thu

nhập doanh nghiệp phải nộp, duy trì mục tiêu đồng dư và/hoặc đánh giá kết quả quản lý
[120]. Nghĩa là các công ty sẽ điều phối thu nhập sao cho lợi nhuận của các công ty con tại
quốc gia có thuế suất cao đạt thấp nhất có thể và tăng tương ứng lợi nhuận sang các quốc gia
có thuế suất thuế thu nhập thấp hoặc thiên đường thuế. Bằng cách này, tổng nghĩa vụ thuế
của công ty sẽ giảm [149].
Kim Berly A. Clausing (1998) thống nhất với quan điểm của Tổ chức hợp tác và phát
triển kinh tế (OECD) cho rằng: "Bằng cách thay đổi giá chuyển giao giữa các loại giao dịch
khác nhau, một công ty đa quốc gia sẽ thể hiện thu nhập của nó dưới nhiều dạng tại một
quốc gia cụ thể nhằm tối thiểu hóa nghĩa vụ nộp thuế tại quốc gia này; và bằng cách thay
đổi giá chuyển giao trong các giao dịch nội bộ, các công ty đa quốc gia có thể chuyển giao
lợi nhuận trước thuế từ một quốc gia này sang một quốc gia khác nhằm tối đa hóa tổng lợi
nhuận sau thuế của nó" [ 125, tr.4].
Từ các lý luận trên, hầu hết các nghiên cứu nước ngoài thống nhất: Chuyển giá là
việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các
thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá trị trường nhằm tối thiểu hóa số tiền
thuế phải nộp trên toàn cầu. Điều này cho thấy các nghiên cứu nước ngoài có cùng quan
điểm rằng, chuyển giá chủ yếu được thực hiện thông qua các giao dịch “qua biên giới”, bởi
có sự chênh lệch thuế giữa các quốc gia. Còn giữa các công ty hoạt động ở cùng một quốc
gia thì việc chuyển giá không có hiệu quả gì, bởi chính sách thuế trong cùng một nước thì
đồng nhất.
Tuy nhiên, cũng có một số tác giả khác mở rộng phạm vi khái niệm chuyển giá. Trên
cơ sở phân tích thực tiễn định giá chuyển giao của các tập đoàn đa quốc gia, Pamela L.
Kayfetz & Leo B. Helzel (1996), Susan C. BorKowski (1997) đã cho rằng hành vi chuyển
giá không chỉ diễn ra trong các công ty đa quốc gia có giao dịch qua biên giới mà còn có
trong các công ty trong cùng một nước, các công ty có quan hệ liên kết khác [120],[140].
Song, các tác giả trên cũng nhận định hành vi chuyển giá của các công ty này không phổ
biến.
Các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý của Việt Nam không có nhiều bổ sung mới
hoặc khác so với các quan điểm của các nhà nghiên cứu quốc tế về khái niệm chuyển giá.


21
21


Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng không phải chỉ các công ty đa quốc gia
và không chỉ các chuyển dịch tài sản, dịch vụ “qua biên giới” mới có hành vi chuyển giá, mà
các công ty trong nước, doanh nghiệp sân sau của các doanh nghiệp nhà nước, các doanh
nghiệp độc lập nhưng chủ của nó có quan hệ thân nhân cũng có thể thực hiện hành vi chuyển
giá [16]. Chẳng hạn theo tác giả Nguyễn Xuân Sơn (2012) và Nguyễn Quang Tiến (2012),
hành vi chuyển giá không chỉ diễn ra tại các công ty đa quốc gia, mà còn diễn ra giữa các
bên liên kết trong nội địa Việt Nam. Đây là trường hợp doanh nghiệp trong nước lợi dụng
những chính sách ưu đãi, thành lập một số công ty con hoạt động trong những lĩnh vực và
địa bàn khác nhau mà ở đó được ưu đãi thuế, từ đó chuyển lợi nhuận giữa các công ty này
sao cho giảm thiểu nghĩa vụ thuế xét về mặt tổng thể [83],[94]. Tương tự, theo tác giả
Nguyễn Thị Thanh Hoài (2012), do các doanh nghiệp liên kết có thể được hình thành trong
cùng một quốc gia hoặc có thể ở nhiều quốc gia khác nhau, từ đó, chuyển giá không chỉ diễn
ra trong các giao dịch quốc tế mà còn có trong những giao dịch quốc nội [50]. Tác giả Nhữ
Trọng Bách (2013) còn cho rằng, “chuyển giá thậm chí diễn ra ở các công ty là các chủ thể
kinh tế độc lập song chủ sở hữu của chúng lại có quan hệ “thân nhân” với nhau” [9, tr. 11].
Ở góc độ khác, trong khi đa số các nhà nghiên cứu Việt Nam tiếp cận khái niệm
chuyển giá ở góc độ “giá” thì tác giả Phan Thị Thành Dương (2010) trên góc độ thuế cho
rằng chuyển giá “là hành vi làm thay đổi nghĩa vụ thuế khi thay đổi giá trong giao dịch hình
thành giữa các bên liên kết” [39, tr. 27].
Nhiều nghiên cứu ở Việt Nam (và cả cơ quan quản lý về kinh tế, tài chính, thuế...)
xem chuyển giá là một hành vi không đúng, có động cơ trốn thuế [1] vi phạm quy luật cạnh
tranh trong kinh tế thị trường [90], cần nghiêm cấm [26] hoặc cần được xử lý. Tuy nhiên,
cũng có một số quan điểm khác, chẳng hạn tác giả Phan Thị Thành Dương (2010) cho rằng
chuyển giá không phải là một hành vi sai phạm, không bị xem là bất hợp pháp, nên chuyển
giá không thể bị xử phạt nếu chưa đến mức bị xem là hành vi vi phạm pháp luật do làm thiệt
hại đến quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể khác [39].

Về cơ sở để thực hiện chuyển giá, các tác giả nước ngoài cũng như tác giả Việt Nam
đều cho rằng, sở dĩ các công ty đa quốc gia có thể xác định giá cả trong những giao dịch như
vậy là do: (i) xuất phát từ quyền tự do định đoạt trong kinh doanh của các công ty đa quốc

22
22


gia, họ hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hóa, dịch vụ với giá họ mong muốn; (ii) xuất
phát từ mối quan hệ gắn bó chung về lợi ích giữa công ty mẹ và công ty con.
Như vậy, giữa các nghiên cứu trong nước và quốc tế, có một số quan điểm khác nhau
về khái niệm chuyển giá và giá chuyển giao, song đều có điểm chung cho rằng bản chất của
chuyển giá nhằm di chuyển lợi nhuận từ nơi có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cao
sang nơi thấp, nhằm mục tiêu tối thiểu hóa số tiền thuế phải nộp trên phạm vi tổng thể, thông
qua giao dịch thương mại nội bộ giữa các công ty có quan hệ liên kết, từ đó tối đa hóa lợi
nhuận tổng thể của doanh nghiệp.
1.3.

Những thảo luận về các hình thức (thủ thuật) chuyển giá của các doanh
nghiệp FDI ở Việt Nam
Từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các nghiên cứu cho thấy có nhiều thủ thuật

chuyển giá trong doanh nghiệp FDI. Tiếp cận ở góc độ loại hình sản phẩm hàng hóa tác giả
Nguyễn Thị Thanh Hoài (2012) cho rằng có 4 hình thức chuyển giá là: (i) chuyển giá thông
qua chuyển giao tài sản hữu hình; (ii) chuyển giá thông qua chuyển giao tài sản vô hình; (iii)
chuyển giá thông qua cung cấp dịch vụ nội bộ tập đoàn; (iv) chuyển giá thông qua hoạt động
vay vốn giữa các công ty thành viên trong một tập đoàn [50, tr. 54-55]. Tác giả Nguyễn
Trọng Cơ (2012) tiếp cận ở góc độ “giá” “chi phí”, “hợp đồng” thì cho rằng có 6 hình thức
chuyển giá là: (i) Chuyển giá thông qua tăng chi phí đầu vào; (ii) chuyển giá thông qua hạ
thấp giá bán sản phẩm; (iii) chuyển giá thông qua nâng khống giá trị tài sản hữu hình và tài

sản vô hình trong quá trình góp vốn liên doanh; (iv) chuyển giá thông qua cơ chế giá nội bộ;
(v) chuyển giá thông qua các hợp đồng độc quyền về nhập khẩu, phân phối hàng hoá hoặc
qua các hợp đồng độc quyền bao tiêu sản phẩm; (vi) chuyển giá thông qua điều chỉnh cơ cấu
trị giá hàng hoá nhập khẩu và dịch vụ đi kèm, theo hướng tăng giá trị tài sản trí tuệ [30, tr
15-16]. Tác giả Phan Duy Minh (2012) chỉ ra 6 thủ thuật chuyển giá mà doanh nghiệp FDI
thường thực hiện là: (i) Chuyển giá thông qua nâng khống trị giá công nghệ, thương hiệu...
(tài sản vô hình); (ii) chuyển giá thông qua nhập khẩu nguyên vật liệu từ công ty mẹ hoặc từ
công ty đối tác với giá cao; (iii) chuyển giá thông qua nâng chi phí các đơn vị hành chính và
quản lý; (iv) chuyển giá thông qua điều tiết giá mua bán hàng hóa xuất nhập khẩu giữa các
công ty trong MNCs; (v) chuyển giá thông qua tài trợ bằng nghiệp vụ vay từ công ty mẹ; (vi)
chuyển giá thông qua các trung tâm tái tạo hóa đơn [69, tr. 24]... Tác giả Ngô Thị Thu Hồng
(2012) thậm chí còn cho rằng doanh nghiệp còn thực hiện chuyển giá thông qua các hình
thức “siêu khuyến mãi”, bán phá giá, nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường [56, tr. 77]. Quan

23
23


điểm này ít thấy lặp lại ở những nghiên cứu khác, song chưa thấy nghiên cứu nào phản biện.
(Theo quan điểm của tác giả Luận án, doanh nghiệp FDI thực hiện “siêu khuyến mãi ” hoặc
bán phá giá không phải là thủ thuật chuyển giá mà là một thủ thuật cạnh tranh thị trường.
Trong nhiều trường hợp, nhờ những lợi ích có được từ chuyển giá, doanh nghiệp “mạnh tay
” trong khuyến mãi). Tác giả Trần Thị Vân Anh (2013) thì “gói” các thủ thuật lại thành 4
hình thức chuyển giá là: (i) chuyển giá thông qua nâng giá trị góp vốn; (ii) chuyển giá thông
qua chuyển giao tài sản vô hình; (iii) chuyển giá thông qua vay vốn từ các bên liên kết; (iv)
chuyển giá thông qua việc gia tăng các chi phí liên quan, các dịch vụ được cung cấp bởi
công ty mẹ hoặc các bên liên kết [6, tr. 45]. Tác giả Ngô Thị Ngọc Huyền (2014) có cách
tiếp cận các thủ thuật chuyển giá theo trình tự thời gian, cụ thể: Ở giai đoạn đầu của quá
trình đầu tư (nâng khống tài sản góp vốn); ở giai đoạn triển khai thực hiện dự án (nhập khẩu
nguyên liệu từ công ty mẹ hoặc các công ty thành viên trong cùng tập đoàn ở nước ngoài;

làm quảng cáo ở nước ngoài với chi phí cao; nâng chi phí hành chính và quản lý; điều tiết
giá mua bán, hàng hóa; tài trợ qua nghiệp vụ vay từ công ty mẹ; lập nhiều công ty ở nước
tiếp nhận đầu tư để điều tiết chi phí giữa các công ty thành viên; hoạt động tài trợ) và các
hình thức khác, như thông qua trung tâm tái tạo hóa đơn, thông qua sử dụng chứng khoán
hỗn hợp [58].
Có thể thấy, mỗi tác giả nêu ra cách tiếp cận khác nhau về các hình thức chuyển giá,
song, tựu chung lại, thủ thuật của các doanh nghiệp FDI vẫn là tính giá cao hoặc thấp tùy
vào từng trường hợp cụ thể đối với hàng hóa, dịch vụ để doanh nghiệp đạt được mục tiêu về
giảm thiểu số thuế phải nộp.
1.4.



Những nghiên cứu về tác động của chuyển giá đối với nước tiếp nhận đầu

Nhìn chung, đa số các nghiên cứu đều cho rằng nước nhận đầu tư sẽ chịu nhiều thiệt
hại khi các doanh nghiệp thực hiện chuyển giá, mức độ thiệt hại càng nhiều khi quy mô
chuyển giá của doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên, phân tích về tác động của chuyển giá
được đề cập theo nhiều góc độ khác nhau. Sanjaya Lall (1973), J.C. Stewart (1977), Susan
C. BorKowski (1997) cho rằng nếu không có biện pháp hiệu quả chống chuyển giá thì nước
nhận đầu tư (nước chủ nhà - host country) phải gánh chịu nhiều hậu quả rất lớn về kinh tế
[120], thậm chí còn chịu nhiều thiệt thòi hơn trước khi thu hút FDI [134],[147]. Những mất
mát đó có thể bị gánh chịu bởi nhiều nhóm khác nhau như: chính phủ (tổn thất thuế), các cổ
đông trong nước (mất cổ phần hợp pháp của lợi nhuận), tổ chức công đoàn (giảm lương),

24
24


người tiêu dùng (mức giá cao hơn, nếu các công ty được phép có thêm bảo trợ), và thậm chí

cả các nhà sản xuất khác (do liên quan tới vấn đề về ngoại hối xấu đi sẽ gây ra mất cân bằng
cán cân thương mại). Và hệ quả này ở các nước kém phát triển sẽ nghiêm trọng hơn ở các
nước phát triển [134].
Đồng tình với quan điểm, các nghiên cứu Việt Nam cũng cho rằng chuyển giá có
nhiều tác động tiêu cực đối với nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư. Theo tác giả Lê Xuân
Trường (2012) thì có hai tác động cơ bản. Đó là (i) nước nhận đầu tư sẽ bị thất thu ngân sách
và (ii) tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể kinh tế [107]. Theo
tác giả Vũ Đình Ánh (2012), chuyển giá làm thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thậm chí cả thuế giá trị gia tăng; làm chỉ số ICOR của khối
doanh nghiệp FDI tăng cao, doanh nghiệp FDI không có động lực nâng cao hiệu quả quản
lý, không tăng lương cho người lao động; tạo ra những khó khăn cho việc kiềm chế lạm
phát, hạn chế khả năng cạnh tranh bình đẳng của doanh nghiệp Việt Nam với các doanh
nghiệp nước ngoài, trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường xuất khẩu [7]. Tác
giả Nguyễn Ngọc Tuyến (2012) cũng cho rằng, ngoài hai ảnh hưởng cơ bản trên, chuyển giá
còn làm “cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc, cản trở quá trình
áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh và đặc biệt là làm thất thu ngân sách
nhà nước” [108, tr. 94]. Tác giả Nguyễn Thị Lan (2012) và một số tác giả khác còn có góc
nhìn “sâu” hơn, khi phát hiện ra việc doanh nghiệp FDI chuyển giá sẽ thu hồi và rút vốn
nhanh ra khỏi Việt Nam, làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán, đặc biệt là dòng vốn FDI
thực vào và chuyển ra khỏi Việt Nam [61]. Tác giả Trần Thị Vân Anh (2011) nhấn mạnh
thêm, hành vi chuyển giá sẽ làm thay đổi cơ cấu vốn của quốc gia tiếp nhận dòng vốn đầu tư,
dẫn tới sự phản ánh sai lệch kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, tạo ra
một bức tranh kinh tế không trung thực [6]. Theo Tác giả Nguyễn Trọng Cơ (2012) ngoài
các tác động trên, chuyển giá còn ảnh hưởng đến chính sách quản lý và điều hành kinh tế của
chính phủ [30], thậm chí tác giả Nguyễn Thị Thanh Hoài (2012) còn nhận thấy “nguy cơ bất
ổn xã hội” bởi chuyển giá khiến doanh nghiệp FDI thua lỗ không chịu tăng lương, cải thiện
môi trường làm việc cũng như các thực hiện các chính sách an sinh khác đối với công nhân,
dẫn đến các cuộc đình công, bãi công [50, tr 56].

1.5.


25
25

Những nghiên cứu về kinh nghiệm chống chuyển giá của các nước trên


×