33
Chuyên đề 2
Tác phẩm: “SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN Ở NGA”
* * *
1. Mô tả chuyên đề:
Đây là chuyên đề nghiên cứu những vấn đề lý luận trong tác phẩm “Sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”. So với bậc học dưới, nội dung có sự phát triển
hơn và bám sát thực tiễn hiện nay. Đây là một trong những chuyên đề trọng tâm
của môn học kinh tế chính trị.
2. Mục đích:
- Nhận thức bản chất của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga làm cơ
sở xem xét các hiện tượng, quá trình kinh tế tư bản chủ nghĩa.
- Phê phán phái dân tuý, đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, các phần
tử cơ hội xét lại, tiếp tục khẳng định tính cách mạng, tính khoa học của lý luận
về chủ nghĩa tư bản của V.I.Lênin, bảo vệ Học thuyết kinh tế Mác nói riêng, chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung.
3. Yêu cầu:
Nghiên cứu vận dụng lý luận được đề cập trong tác phẩm “Sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản ở Nga”, gạt bỏ yếu tố tư bản chủ nghĩa, rút kinh nghiệp và kế
thừa hạt nhân hợp lý vào vào quá trình đổi mới kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
4. Kết cấu chuyên đề: Gồm 3 phần
I. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
II. Nội dung chính của tác phẩm
III. í nghĩa của tỏc phẩm
34
5. Tổ chức, phương pháp nghiên cứu bài giảng:
Giảng viên xây dựng chuyên đề theo hớng bài giảng điện tử hoặc bài giảng
truyền thống. Sử dụng phơng pháp thuyết trình, nêu vấn đề, đối thoại trong quá
trình lên lớp để làm nổi bật nội dung của chuyên đề.
6. Hướng dẫn thu hoạch tiểu luận:
Một số định hướng sau đây, để học viên nghiên cứu lựa chọn:
- Tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga” được ra đời trong
hoàn cảnh như thế nào?
- Nội dung của “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga” là gì?
- Ý nghĩa của tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga” ra sao?
7. Tài liệu tham khảo:
Lênin toàn tập, Tập 3, Nxb Tiến bộ, M.1976
8. Kế hoạch tư vấn, giúp đỡ học viên học tập nghiên cứu
Học viên nghiên cứu kỹ bút ký, đọc tài liệu, ghi chép những vấn đề cốt lõi
trong các trang viết. Đồng thời tìm các tài liệu, tư liệu khác trên mạng có liên
quan đến chuyên đề này để làm phong phú hơn nữa về nội dung.
* * *
NỘI DUNG BÀI GIẢNG
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Đó bị thất bại trong cuộc chiến tranh giữa Nga, Phỏp, Thổ và Nhật lại chịu
sức ộp của những cuộc bạo động của nông dân liên tiếp nổ ra trên khắp nước,
Nga Hoàng buộc phải thực hiện một cuộc cải cách kinh tế vào năm 1861. Đây là
một cuộc cải cách nửa vời, vỡ những tàn tích nặng nề của chế độ nông nô phong
kiến, kể cả những hỡnh thức ỏp bức siờu kinh tế vẫn cũn được duy trỡ và bảo hộ.
Tuy nhiên, cuộc cải cách đó cũng là một cái đà thúc đẩy chủ nghĩa tư bản
phát triển ở Nga một cách nhanh mạnh chưa từng thấy. Công nghiệp, nhất là các
35
ngành công nghiệp then chốt như: than, gang thép, cơ khí, dầu lửa…được sự
khuyến khích của Nga hoàng và với vốn đầu tư khá nhiều của tư bản các nước
châu âu, đó phỏt triển lờn gấp hàng chục lần, kể từ năm 1860 đến những năm cuối
cùng của thế kỷ XIX. Có nhiều xí nghiệp được xây dựng với quy mô lớn và trang
bị hiện đại. Trong nông nghiệp, cũng xuất hiện ngày càng nhiều các vùng chuyên
canh lương thực, cây công nghiệp, các vùng chuyên chăn nuôi và chế biến các sản
phẩm từ sữa. Các thành thị cũ được mở rộng và nhiều thành thị, khu công nghiệp
mới mọc lên. Lưu thông hàng hoá phát triển rất mạnh. Đường giao thông, nhất là
đường sắt, đường thuỷ cũng được tăng lên rất nhanh chóng, gấp hàng chục lần.
Cỏc hóng buụn, ngõn hàng, quỹ tiết kiệm được thành lập ở khắp nơi.
Kinh tế biến đổi dẫn đến những biến đổi về xó hội. Bờn cạnh cỏc giai cấp
đó cú từ trước cải cách là địa chủ và nông dân - nông nô, lúc này đó hỡnh thành
và phỏt triển hai giai cấp mới là là tư sản và vô sản. Trung nông và người làm
thuê thủ công chiếm đại đa số trong dân cư thỡ bị phõn hoỏ nhanh theo hai cực:
Một số ít giầu có trở thành tư sản, số đông trở thành vô sản, số cũn lại ở giữa thỡ
số phận bấp bờnh. Nhiều người trong giai cấp địa chủ cũng chuyển theo kinh
doanh theo lối tư bản chủ nghĩa. Đối với nước Nga sau cải cách, điều có ý nghĩa
to lớn về mặt chính trị - xó hội là sự tập trung ngày càng cao cụng nhõn vào cỏc xớ
nghiệp lớn, cỏc trung tõm cụng nghiệp và sự phỏt triển ngày càng mạnh của phong
trào cụng nhõn. Giai cấp công nhân lại có người “Bạn đồng minh tự nhiên” của
mỡnh là nông dân sẵn sàng ủng hộ họ trong các cuộc đấu tranh chống ách áp bức,
bóc lột của phong kiến, tư sản.
Trong những điều kiện kinh tế và xó hội kể trờn, chủ nghĩa Mỏc đó cú “đất”
để gieo hạt ở Nga và những người mác xít ở nước này đó bắt tay vào việc truyền
bỏ chủ nghĩa Mỏc. Thế nhưng, hồi ấy họ vấp phải một trở ngại lớn là hoạt động
của những người tự xưng là bạn dân hay dân tuý. Đây là những người cách mạng
tiểu tư sản, tiêu biểu cho ý thức hệ của những người sản xuất nhỏ căm ghét chế
36
độ phong kiến, nhưng cũng sợ hói trước sự phát triển ồ ạt của đại công nghiệp tư
bản chủ nghĩa. Họ mơ tưởng xây dựng cái gọi là “Chủ nghĩa xó hội nụng dõn”
và do đó muốn giữ lại, củng cố cụng xó nụng thụn mà họ gọi là “Nền sản xuất
nhân dân” là mầm mống và cơ sở của chủ nghĩa xó hội. Họ khụng hiểu và khụng
thừa nhận vai trũ tiờn phong của giai cấp cụng nhõn và cho rằng lực lượng chủ
yếu của cách mạng là nông dân, cũn vai trũ lónh đạo cách mạng thỡ thuộc về
những người trí thức siêu việt, những nhân vật anh hùng kiệt xuất.
Những người dân tuý mới đầu cũng chủ trương đi sâu vận động nông dân
để tiến tới những cuộc khởi nghĩa nhằm lật đổ chế độ Nga hoàng bằng bạo lực.
Nhưng sau thỡ họ lại đi vào những hoạt động khủng bố cá nhân vào đầu những
năm 80, bị Nga hoàng thẳng tay đàn áp, phong trào của những người dân tuý bị
tan ró hoàn toàn về tổ chức.
Tuy nhiên, những tư tưởng dân tuý vẫn cũn nhiều ảnh hưởng trong thanh
niên và trí thức Nga thời bấy giờ. Họ vẫn cho rằng nước Nga có thể tránh được
con đường phát triển tư bản chủ nghĩa và họ ra sức tuyên truyền cho những chủ
trương cải lương như: Tổ chức các ngân hàng cho nông dân và cho họ vay nhẹ
lói, cải tiến việc quản lý đất công và chuyển sang chế độ canh tác tập thể, sử
dụng những máy móc rẻ tiền với sự giúp đỡ về tài chính của Nhà nước…
Những luận điệu và chủ trương sặc mùi tiểu tư sản của họ gây ảnh hưởng
chính trị xấu trong quần chúng và chống lại hoạt động của những người Mácxít
nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác và thành lập ở Nga một Đảng Mácxít chân chính.
Vỡ vậy, một nhiệm vụ cấp bỏch đặt ra trước những người Mỏcxớt Nga là:
Phải tập tan chủ nghĩa dõn tuý về mặt tư tưởng và lý luận. Phải vạch rừ con
đường phát triển tất yếu của nước Nga là từ cách mạng dân chủ tiến lên làm cỏch
mạng xó hội chủ nghĩa để xoá bỏ mọi hỡnh thức áp bức, bóc lột của địa chủ và
tư bản. Phải xác định được sứ mệnh lịch sử và vai trũ lónh đạo của giai cấp công
nhân và tính tất yếu của liên minh công nông trong cuộc cách mạng mà nước
37
Nga đang hướng tới. Từ tất cả những điều nói trên phải vạch ra cương lĩnh chính
trị, chiến lược và sách lược của một Đảng Mácxít chân chính của giai cấp vô sản
Nga. Tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga” của V.I.Lênin được
viết ra chính là nhằm đáp ứng nhiệm vụ lịch sử kể trên.
Cuốn sách được viết trong khoảng thời gian từ năm 1896 đến năm 1899,
tức là thời gian V.I.Lênin bị chế độ Nga hoàng bắt giam trong ngục tù ở
Pêtơrôgrát rồi sau đó lại đầy đi XiBiRi. Để viết cuốn sách này, V.I.Lênin đó phải
nhờ những người thân trong gia đỡnh và bạn bố tỡm kiếm ở khắp nơi để đưa vào
nơi Người bị giam cầm cho Người đọc và sử dụng hơn 600 cuốn sách và tài liệu
gốc. Với một tinh thần khoa học nghiêm túc, Người chú ý nhiều đến việc đảm
bảo đầy đủ những tài liệu thống kê thực tế, những dẫn chứng cụ thể để làm cơ sở
cho những kết luận lý luận của mỡnh.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẢM
Tác phẩm của V.I.Lênin gồm 8 chương, có thể chia làm 3 phần.
Phần I (chương I) được V.I.Lênin coi như phần mở đầu, trong đó Người
trỡnh bày những nguyờn lý lý luận chủ yếu của khoa kinh tế chớnh trị về vấn đề
thị trường và vạch ra những sai lầm lý luận của phái dân tuý về vấn đề này.
Phần II (Từ chương II đến hết chương VII) là phần chủ yếu của tác phẩm,
trong đó V.I.Lênin trỡnh bày một cỏch cụ thể, lịch sử sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản ở Nga trong nông nghiệp và trong công nghiệp kể từ sau cuộc cải cách
nông nô năm 1861 đến những năm cuối cùng của thế kỷ XIX.
Phần III (Chương VIII) là phần phân tích một cách tổng hợp các mặt và các
quá trỡnh cụ thể của sự phỏt triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga đó được trỡnh bày
trong phần II và phân tích về “Sứ mệnh” lịch sử của nó.
Ba phần của cuốn sách là sự triển khai lô gích một đề tài hết sức rộng lớn
và phức tạp được V.I.Lênin nghiên cứu như một khoa học về kinh tế chính trị,
kết hợp chặt chẽ với khoa học về lịch sử kinh tế của nước Nga sau cải cách nông
38
nô 1861 một cách cụ thể.
Phần I. Chương I: Những sai lầm của các nhà kinh tế học tân…….
Trong phần này V.I.Lênin nờu lờn những nguyờn lý, lý luận chủ yếu sau
đây về vấn đề thị trường:
1. Cú kinh tế hàng hoỏ thỡ mới cú sự hỡnh thành và phỏt triển của thị
trường. Cơ sở của kinh tế hàng hoá là sự phân công lao động xó hội.
2. Quá trỡnh phát triển của kinh tế hàng hoá đó tách một bộ phận ngày càng
đông đảo dân cư ra khỏi nông nghiệp và tăng nhanh dân cư công nghiệp, đó là
quy luật của bất cứ nền sản xuất hàng hoá nào và quy luật đó có ý nghĩa rất lớn
đối với vấn đề phát triển thị trường trong nước, chứ không bị thu hẹp lại như lập
luận của phái dân tuý. Ngược lại, chính là nó tạo ra thị trường trong nước cho
chủ nghĩa tư bản, bởi vỡ:
a. Những tư liệu sản xuất của những người sản xuất nhỏ được “giải phóng”
khỏi những tư liệu đó đều biến thành tư bản trong tay người chủ mới và được đem
dùng vào việc sản xuất hàng hoá, do đó, bản thân chúng cũng trở thành hàng hoá.
b. Những tư lỉệu sinh hoạt của người sản xuất hàng hoỏ nhỏ (Mà trước đây
thường là người ta sản xuất để tự cấp, tự túc) cũng trở thành yếu tố vật chất của
tư bản khả biến, tức là của số tiền mà chủ xí nghiệp (Bất cứ là chủ ruộng, thầu
khoán, người buôn gỗ, chủ xưởng…) bỏ ra để thuê công nhân. Như vậy là bản
thân tư liệu sinh hoạt đó bây giờ cũng biến thành hàng hoá, nghĩa là tạo ra một
thị trường trong nước cho hàng tiêu dùng.
c. Vấn đề thực hiện sản phẩm tư bản chủ nghĩa không như quan niệm của
phái dân tuý về việc thực hiện giỏ trị thặng dư, cũng không chỉ đơn thuần là việc
bán sản phẩm. Mà vấn đề là ở chỗ, như vấn đề lý luận thực hiện của C.Mác đó
chỉ rừ: Phải tỡm được cho mỗi bộ phận của tư bản (C, V, M) dưới hỡnh thức giỏ
trị cũng như dưới hỡnh thức hiện vật một bộ phận khỏc của sản xuất xó hội cú
thể thay thế cho bộ phận đó ở thị trường. Đồng thời tất cả các ngành sản xuất của
39
xó hội lại được phân chia ra thành hai khu vực khác nhau: Khu vực I sản xuất ra
tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất ra tư liệu tiêu dùng. Do đó, tất yếu phải có
sự trao đổi sản phẩm giữa các ngành, các cơ sở thuộc 2 khu vực đó.
d. Sự cần thiết có thị trường ngoài nước của chủ nghĩa tư bản cũng không
phải như phái dân tuý nói là do không thể thực hiện được giá trị thặng dư ở thị
trường trong nước, mà là do:
* Bản thân chủ nghĩa tư bản cũng là kết quả của lưu thông hàng hoá phát
triển rộng, vượt qua biên giới một nước và thực tế không có nước tư bản nào trên
thế giới lại không có ngoại thương.
* Các ngành khác nhau của công nghiệp và nông nghiệp tư bản chủ nghĩa
tạo ra thị trường của nhau, phát triển không đều nhau, ngành này vượt ngành nọ
và ngành phát triển nhất đi tìm thị trường ngoài nước.
* Khác hẳn với các phương thức sản xuất trước đó thường tái sản xuất theo
quy mô như cũ, trên một cơ sở kỹ thuật như cũ. Trái lại, quy luật của sản xuất tư
bản chủ nghĩa là không ngừng cải tạo phương thức sản xuất và mở rộng vô hạn
quy mô sản xuất. Vì vậy, nó đòi hỏi gay gắt những thị trường ngày càng rộng lớn
ngoài cả giới hạn quốc gia. Mặc dù trong thực tế, không một nước tư bản chủ
nghĩa nào lại không có thị trường ngoài nước. Nhưng trong tác phẩm “Sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”, V.I.Lênin muốn nói đến điều khác, đó là chính
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga - nước đã tạo ra thị trường trong nước
cho chủ nghĩa tư bản ở Nga phát triển.
Tóm lại: Không thể có vấn đề hỡnh thành thị trường trong nước của chủ
nghĩa tư bản như một vấn đề riêng biệt không có liên quan gỡ đến sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản. Song, chính là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đó tạo ra
thị trường trong nước và quyết định trỡnh độ phát triển của thị trường. Vỡ vậy,
muốn hiểu sự hỡnh thành của thị trường trong nước thỡ trước hết phải hiểu sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản đó diễn ra như thế nào trong nông nghiệp và
40
trong công nghiệp.
Phần II (Từ chương II đến hết chương VII)
Trong phần này, V.I. Lê Nin dành 3 chương cho sự phát triển của chủ nghĩa
tư bản ở Nga trong nông nghiệp và 3 chương cho công nghiệp.
Trong 3 chương nói về nông nghiệp, V.I. Lê Nin nghiên cứu những đặc
điểm của sự phát triển tư bản chủ nghĩa của nông nghiệp ở Nga từ sau cuộc cải
cách nông nô năm 1861.
Chương II. Nghiên cứu sự phân hoá của nông dân.
V.I.Lênin đó dựa vào rất nhiều tài liệu thống kê của các Hội đồng địa
phương tự năm 1880 đển năm 1890 và việc phân bố ruộng đất, gia súc, công cụ
sản xuất, thu, chi của các tầng lớp nông dân trong 21 huyện thuộc 7 tỉnh bao gồm
558,6 ngàn hộ với 3,5 triệu nhân khẩu để nghiên cứu những đặc điểm cơ bản của
hiện tượng phân hoá đó và rút ra những nhận định hết sức quan trọng như:
a. Môi trường kinh tế và xã hội của nông dân Nga sau cuộc cải cách nông
nô 1862 là kinh tế hàng hóa với tất cả những mâu thuẫn của bất cứ nền kinh tế
hàng hoá nào trong kh uôn khổ của quan hệ sản xuất bất cứ chủ nghĩa tư bản
nào, đó là: Cạnh tranh, chiếm đoạt ruộng đất (mua hoặc cho thuê), đấu tranh
giành độc lập kinh tế, sản xuất tập trung trong tay một thiểu số, đa số bị rơi vào
hàng ngũ giai cấp vô sản, còn thiểu số thì dùng tư bản thương nghiệp và dùng
cách thuê mướn cố nông để bóc lột họ…và không có hiện tượng kinh tế nào lại
không biểu hiện sự đối lập và cuộc đấu tranh giữa các lợi ích. Kết cấu của những
quan hệ kinh tế trong các “Công xã nông thôn” không lý tưởng như phái dân tuý
thường ca ngợi là một chế độ đặc thù, một “Nền sản xuất nhân dân” mà cũng chỉ
là một chế độ tiểu tư sản thông thường. Người nông dân trong “Công xã” như
V.I.Lênin nhận định “Không phải là người đối kháng với chủ nghĩa tư bản”, mà
ngược lại, là cơ sở sâu xa nhất và vững chắc nhất của nó”1.
b. Toàn bộ các mâu thuẫn trong nội bộ nông dân biểu hiện ra ở sự phân hoá
1
V.I. Lê Nin; Toàn tập, tập 3, NXB, Tiến bộ, Mát-xcơ-va, Tr. 205
41
của họ. Đó là quá trỡnh “Phi nông dân hoá - hay là quỏ trỡnh phỏ huỷ tầng lớp
nụng dõn cũ (gắn với kinh tế tự nhiên) và tạo ra những hỡnh loại mới của dõn cư
nông thôn là tư sản và vô sản.
c. Tư sản nông thôn (hay nông dân khá giả) là những người làm cho nông
nghiệp thương phẩm được thực hiện dưới đủ mọi hỡnh thức và là những chủ xớ
nghiệp cụng thương nghiệp hoặc thương nghiệp. Những người này thường kết
hợp nông nghiệp thương phẩm với xí nghiệp công thương nghiệp và các nghề
phụ. Họ cũn thường là những người cho vay nặng lói ở nụng thụn.
d. Vô sản nông thôn, tức là giai cấp công nhân làm thuê có phần ruộng được
chia, loại hình này bao gồm tầng lớp nông dân không có tài sản, kể cả lớp nông
dân hoàn toàn không có ruộng đất, mà điển hình nhất là những cố nông, công
nhân xây dựng, hoặc làm các việc lao động khác thường là những người có phần
ruộng được chia, nhưng ít ỏi đến mức không thể sống nổi nếu không bán sức lao
động cho tư bản.
e. Khâu trung gian giữa 2 hình thức nói trên là trung nông với tình cảnh
rất bấp bênh, tức là thường xuyên bị lấn át và rất dễ bị loại trừ để bổ sung cho
lớp dân cư đã bị phân hoá thành 2 cực, đặc biệt là dễ bị đẩy xuống tầng lớp
dưới (vô sản).
f. Sự phân hoá của nông dân tạo ra thị trường trong nước cho chủ nghĩa tư
bản. Trong loại hộ lớp dưới, đó là thị trường tiêu thụ những vật phẩm tiêu dùng
(thị trường tiêu dùng cá nhân). So với trung nông, thì vô sản nông thôn tiêu dùng
ít hơn nhưng mua nhiều hơn so với trung nông.
h. Sự phân hoá nông dân thường diễn ra một cách nhanh chóng và không
ngừng; phong trào di dân đẩy thêm sự phân hoá ấy và thường là trung nông ra đi
nhiều nhất.
Chương III. Nghiên cứu bước chuyển của địa chủ từ kinh tế diêu dịch sang
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
42
Những đặc điểm cũng là điều kiện tất yếu vốn có của nền kinh tế địa chủ
thời kỳ chế độ nông nô là:
1. Sự thống trị của kinh tế tự nhiên. Trại ấp của địa chủ phải là một chỉnh
thể kinh tế đơn độc, tự túc, rất ít có liên hệ với thế giới bên ngoài.
2. Chế độ kinh tế đó bắt buộc người sản xuất trực tiếp bắt buộc phải có một
ít ruộng đất và công cụ và bị trói chặt vào ruộng đất đó.
3. Sự lệ thuộc về thân thể của người nông dân vào địa chủ, đã làm xuất hiện
tình trạng cưỡng bức siêu kinh tế của địa chủ với nông nô.
4. Điều kiện và cũng là hậu quả của chế độ kinh tế đang bàn tới là trình độ
vô cùng thấp kém và thủ cựu của kỹ thuật canh tác.
“Thực chất của chế độ kinh tế thời kỳ đó là ở chỗ toàn bộ đất đai của mỗi
đơn vị kinh doanh nông nghiệp, tức là của một trại ấp thế tập, đều chia ra thành
đất của địa chủ và đất của nông dân” 2. V.I.Lênin gọi chế độ kinh tế đó là kinh tế
diêu dịch.
Việc xoá bỏ chế độ nông nô đó làm lung lay tất cả những cơ sở chủ yếu đó
của chế độ kinh tế diêu dịch. Kinh tế nông dân tách khỏi kinh tế địa chủ, người
nông nô phải chuộc lại đất đai để được giải phóng thành người dân tự do và để
đất đai thuộc sở hữu hoàn toàn của mỡnh. Cũn địa chủ thỡ phải chuyển sang chế
độ kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nhưng sự chuyển biến này không thể thực hiện
được ngay lập tức vỡ: Lỳc bấy giờ chưa có những điều kiện cần thiết cho nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Phải có một giai cấp những người lao động làm thuê. Phải
thay thế nông cụ của nông dân bằng công cụ của địa chủ. Nông nghiệp phải được
tổ chức như xí nghiệp công thương nghiệp chứ không phải như công việc gia
đỡnh của ụng chủ. Những điều kiện này chỉ có thể có dần dần; Do chế độ kinh tế
diêu dịch mới bị lung lay chứ chưa hoàn toàn bị xoá bỏ. Kinh doanh của nông
dân chưa phải đó hoàn toàn tỏch khỏi kinh doanh của địa chủ và địa chủ cũn
chiếm giữ đại bộ phận phần đất của nông dân được chia, chiếm giữ cả rừng rú,
2
V.I. Lê Nin; Toàn tập, tập 3, NXB, Tiến bộ, Mát-xcơ- va, 1976, Tr.227.
43
đồng cỏ, hồ nước… Cho nên “Chế độ kinh tế duy nhất có thể thực hiện được là
một chế độ quá độ kết hợp những đặc điểm của chế độ diêu dịch và chế độ tư
bản chủ nghĩa”3.
Trong phần lớn các trại ấp, hai chế độ đó gắn liền với nhau, được áp dụng
vào những hoạt động kinh tế khác nhau: Một phần ruộng đất thỡ do địa chủ dùng
nông cụ của mỡnh và thuê mướn công nhân làm, phần cũn lại thỡ giao cho nụng
dõn làm và chia đôi hoa lợi; hoặc nông dân làm mọi việc và đổi lại công đó bằng
được quyền thả súc vật của mỡnh trờn đồng cỏ của địa chủ… Kết hợp hai chế độ
khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, thỡ tất nhiờn nẩy sinh rất nhiều mõu thuẫn,
nhiều xung đột sâu sắc và làm cho nhiều địa chủ phải phá sản. Nhiều khi hai chế
độ đó hợp nhất lại với nhau, không thể biết được chế độ lao dịch kết thúc ở đâu
và chủ nghĩa tư bản bắt đầu từ đâu.
Sự phát triển của sản xuất hàng hoá và của nông nghiệp thương phẩm phá
huỷ những điều kện của chế độ lao dịch, làm cho nó suy sụp.
Trước hết, sự phát triển của kinh tế hàng hoá không thể dung hợp được với
chế độ lao dịch. Vỡ chế độ này xây dựng trên nền kinh tế tự nhiên, trên một kỹ
thuật đỡnh trệ, trờn mối quan hệ khụng thể chia cắt được giữa địa chủ và nông
dân. Sau nữa, kinh tế địa chủ có hai hỡnh thức lao dịch trỏi ngược nhau: Lao dịch
do nụng dõn tiến hành bằng sỳc vật cầy kộo và nụng cụ của chớnh mỡnh; Lao
dịch của người vô sản nông thôn tiến hành bằng công cụ của địa chủ (gặt hái, cắt
cỏ, đập lúa…), loại này là bước quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa tư bản, hoà vào chủ
nghĩa tư bản bằng một loạt các bước quá độ hoàn toàn không nhận thấy được.
Trong quá trỡnh chế độ lao dịch bị chủ nghĩa tư bản lấn át, thỡ sự di chuyển trọng
tõm từ lao dịch hỡnh thức thứ nhất sang lao dịch hỡnh thức thứ hai cú một ý nghĩa
lớn.
Cuối cùng, sự phân hoá nông dân là nguyên nhân chủ yếu nhất của sự suy
sụp của chế độ lao dịch. Phần lớn trung nông phải làm lao dịch. Phú nông có
3
V.I. Lê Nin: Toàn tập, Tập 3, NXB. Tiến bộ, Mát-xcơ- va, 1976, Tr. 231
44
nhiều đất, nhiều tiền, nên không làm lao dịch. Cũn giai cấp vụ sản nụng thụn
khụng bị ràng buộc nhiều vào ruộng đất, nên đi nơi khắc làm thuê lấy tiền công
cao hơn. “Sự phát triển của chế độ lao dịch làm thuê thuần tuý tư bản chủ nghĩa
phá huỷ triệt để chế độ lao dịch”4.
Qua lịch sử kinh doanh của En-Ghen-hác (một địa chủ trong nông nghiệp
thuộc phỏi dõn tuý) V.I.Lờnin vạch rừ từ quỏ trỡnh địa chủ chuyển từ chế độ lao
dịch sang kinh tế tư bản chủ nghĩa, phát triển việc dùng máy móc và lao động làm
thuê trong nông nghiệp như thế nào. Ví dụ về sự tiến triển của việc kinh doanh ấy
là một điển hỡnh thu nhỏ những nột chủ yếu của sự tiến triển của toàn bộ việc
kinh doanh những trại ấp tư nhân ở nước Nga sau cải cách.
Trong lối kinh doanh mới đó, việc cải tiến kỹ thuật nông nghiệp đó đi đôi
với việc chủ nghĩa tư bản lấn át chế độ lao dịch, quá trỡnh này được biểu hiện rừ
nột nhất trong việc ỏp dụng mỏy múc trong nụng nghiệp.
Sau thời kỳ cải cỏch, trong vũng 16 năm (1876 - 1894), máy móc nông
nghiệp được sử dụng tăng lên 3 lần rưỡi, sản xuất tăng hơn 4 lần. Máy cầy, máy
gặt đập, máy gieo hạt, máy đập lanh, động cơ điện. Nhưng điều quan trọng là
hiện tượng đó có ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế xó hội. V.I.Lờnin đó rỳt ra những
nguyờn lý:
- Chủ nghĩa tư bản là nhân tố phát động và mở rộng việc sử dụng máy móc
trong nông nghiệp.
- Việc sử dụng máy móc đó mang tính chất tư bản chủ nghĩa, làm cho
những quan hệ tư bản chủ nghĩa tiếp tục phát triển cùng với những mâu thuẫn
vốn có của nó.
Việc sử dụng các máy móc đó trong nông nghiệp đem lại những hậu quả
kinh tế như trong công nghiệp. Cụ thể là:
- Làm phá sản những người sản xuất nhỏ (trung nông).
- Dẫn đến tập trung sản xuất và áp dụng sự hiệp tác tư bản chủ nghĩa vào
4
V.I. Lê Nin: Toàn tập, Tập 3, NXB. Tiến bộ Mát- xcơ- va. 1976, Tr. 231
45
nông nghiệp (Đũi hỏi vốn lớn, sản phẩm nhiều phải tổ chức chế biến)
- Tạo nên thị trường trong nước cho chủ nghĩa tư bản (Tư liệu sản xuất và
sức lao động).
- Máy móc lấn át công nhân làm thuê (Tạo ra trong nông nghiệp một đạo
quân trù bị tư bản chủ nghĩa).
- Đẩy mạnh việc sử dụng lao động, gây thương tật cho công nhân.
Những hậu quả kinh tế này đề ra: “Đại công nghiệp máy móc trong nông
nghiệp, giống như trong công nghiệp đều yêu cầu cấp thiết phải có sự kiểm soát
xó hội và sự điều chỉnh xó hội đối với sản xuất” 5… Điều đó có nghĩa là việc sử
dụng máy móc đó tạo tiền đề vật chất cho chủ nghĩa xó hội.
Tiếp đó, V.I.Lênin xem xét đến biểu hiện chính từ nông nghiệp tư bản chủ
nghĩa là việc sử dụng lao động làm thuê tự do. Nó biểu hiện rừ ràng nhất là sự di
chuyển hàng loạt của công nhân nông nghiệp làm thuê, từ những vùng dân cư
đông đúc nhất đến những vùng dân cư thưa thớt nhất, từ những miền mà chế độ
nông nô phát triển nhất đến những miền mà chế độ phát triển yếu ớt nhất, từ
những miền mà chế độ lao dịch rất thịnh hành đến những miền mà chế độ đó
kém phát triển mà chủ nghĩa tư bản lại phát triển cao. Như vậy, công nhân lánh
xa chế độ lao động “Nửa tự do” và tỡm đến những chỗ có chế độ lao động tự do,
có được đời sống dễ chịu hơn (được tiền công cao hơn), chứ không chỉ là xu
hướng dân cư tự phân bố cho bỡnh quõn hơn trong một vùng nhất định.
Trỏi với phỏi dõn tuý chỉ trớch việc di chuyển của cụng nhõn và tỏn dương
việc làm phụ tại chỗ. V.I.Lênin khẳng định đó là một hiện tượng tiến bộ. Vỡ:
Cụng nhõn đến những chỗ mà do tiền cụng cao nờn tỡnh cảnh của họ là người
bán sức lao động có được dễ chịu hơn; Việc di chuyển đó sẽ phá huỷ những
hỡnh thức nụ dịch của chế độ làm thuê và chế độ lao dịch; Tạo nên sự lưu thông
của dân cư, một sự phát triển tiến bộ của dân cư. “Dân cư mà không lưu động,
không thể có sự tiến bộ và thật là ngây thơ nếu tưởng rằng một trường học nông
5
V.I. Lê Nin: Toàn tập, tập 3, NXB. Tiến bộ, Mát xcơ va, 1976. Tr.285
46
thôn có thể đem lại được cho nhân dân những kiến thức mà chỉ có sự hiểu biết về
những quan hệ và những chế độ hiện có ở miền Nam và miền Bắc, trong nông
nghiệp và trong công nghiệp, ở thủ đô và ở các tỉnh xa xôi mới đem lại được”6.
Chương IV: Nghiên cứu sự phát triển của nền nông nghiệp thương phẩm.
Sau khi nghiên cứu cơ cấu kinh tế nội tại của kinh tế nông dân và kinh tế
địa chủ, V.I.Lênin chuyển sang nghiên cứu sự phát triển của nền nông nghiệp
thương phẩm.
Đặc điểm của nền kinh tế Nga thời kỳ sau cải cách là nông nghiệp thương
phẩm phát triển mạnh. Số lượng lúa mỡ thu hoạch (trừ giống) tăng lên tính theo
đầu người và số lượng lúa mỡ sản xuất đó bỏn tăng nhanh hơn nhiều so với mức
tăng của tổng sản lượng lúa mỡ sản xuất ra. Số khoai tõy sản xuất cũng tăng lên
nhiều, chứng tỏ kỹ thuật trồng cây có củ được cải tiến và việc chế biến công
nghiệp các nông sản có tiến bộ (nấu rượu, làm bột). Năng suất lao động nông
nghiệp tăng, phõn cụng xó hội phỏt triển (nhân khẩu nông nghiệp và công
nghiệp tăng thêm. Nhân khẩu nông nghiệp phân hoá thành nghiệp chủ nông thôn
và vô sản nông thôn).
Sự phát triển của nông nghiệp thương phẩm biểu hiện ra trong việc chuyên
môn hoá nông nghiệp: Vùng trồng lanh, vùng chăn nuôi, vùng công nghiệp sữa,
vùng khoai tây, cất rượu…
Vùng ngũ cốc thương phẩm (Miền biên khu phía Nam và phía đông phần
nước Nga thuộc châu Âu, các tỉnh thảo nguyên) thu hút vô số người đi doanh
điền, mở rộng nhanh chóng diện tích khai hoang sản xuất nhiều lúa mỡ để bán,
có mối liên hệ kinh tế chặt chẽ với miền trung phần nước Nga công nghiệp đông
dân và với các nước châu Âu thường nhập khẩu lúa mỡ.
Vùng chăn nuôi: Năng suất của súc vật ở đây là nhằm phục vụ công nghiệp
sữa và toàn bộ sản xuất nông nghiệp đều nhằm đạt được thật nhiều sản phẩm
6
V.I. Lê Nin: Toàn tập, Tập 3, NXB, Tiến bộ, Mát- xcơ va,1976, Tr.305.
47
hàng hoá thật quý đó. Cũng có vùng chăn nuôi súc vật với quy mô lớn nhằm mục
đích để mổ thịt, không kể để làm sức kéo để lấy phân bón.
Qua những vùng nông nghiệp thương phẩm nói trên cho thấy: “…sự tiến bộ
kỹ thuật do những đũi hỏi của thị trường mà có, đó được thực hiện nhằm trước
hết vào những công việc để cải tiến hơn cả và quan trọng hơn cả cho thị trường;
Gặt hái, đập lúa, sảy quạt trong việc sản xuất ngũ cốc có tính chất thương phẩm.
Cũn về việc chăn nuôi súc vật thỡ tư bản thấy rằng trong lúc này, cứ để cho
người sản xuất nhỏ làm là có lợi hơn”7.
Việc chuyên canh lanh, cây công nghiệp đứng hàng đầu cũng phát triển
mạnh, chủ yếu nhờ có sự phát triển của hệ thống đường sắt. Trừ những vùng đó
trồng lanh lõu đời có sự nhường chỗ cho những ngành nông nghiệp thương phẩm
khác (Chẳng hạn, trồng cõy cú củ, cũn thỡ người ta mở ra những vùng trồng lanh
mới trên đất bỏ hoang, đất khai phá rừng. Máy đập lanh quay tay hoặc ngựa kéo,
máy tuốt hạt cải tiến, máy ép, phũng sấy được áp dụng rộng rói. Tuy thế, việc
chế biến sợi lanh vẫn đũi hỏi một số nhân công đặc biệt nhiều. “Sự phát triển của
nghề trồng lanh để bán dĩ nhiên đó đưa đến kết quả là có sự trao đổi không
những giữa vùng nông nghiệp và công nghiệp (bỏn lanh và mua cụng nghiệp
phẩm) mà cũn giữa cỏc ngành trồng trọt khỏc nhau của nụng nghiệp thương
phẩm (bỏn lanh và mua lỳa mỡ)” 8. Điều đó chứng tỏ rằng thị trường trong nước
của chủ nghĩa tư bản đó được tạo ra không những vỡ dân cư đó bỏ nghề nụng để
làm công nghiệp, mà cũn vỡ nụng nghiệp thương phẩm đó chuyờn mụn hoỏ.
Sự phỏt triển của cỏc ngành cụng nghiệp chế biến nụng sản cú một ý nghĩa
rất lớn: Nghề cất rượu, nghề làm đường củ cải, nghề làm bột khoai tây, nghề ép
dầu, nghề trồng thuốc lá… tức là các nông sản trước khi đem tiêu dùng đều phải
qua một quá trỡnh chế biến cú tớnh chất kỹ thuật. Những xưởng tiến hành việc
chế biến đó có thể hoặc là một bộ phận của nông trang làm ra nông sản nguyên
7
8
V.I. Lê Nin, Toàn tập, NXB, Tiến bộ, Mát-xcơ va. 1976.Tr. 326.
V.I. Lê Nin, Toàn tập, NXB, Tiến bộ, Mát-xcơ va, 1976, Tr. 349.
48
liệu, hoặc thuộc về những nhà công nghiệp chuyên môn thu mua những nông sản
đó của các xí nghiệp chủ nông thôn để chế biến.
Các ngành này quan trọng ở chỗ:
- Đú là một trong những hỡnh thức phỏt triển của nụng nghiệp thương
phẩm, làm chuyển biến nông nghiệp thành một ngành cụng nghiệp của xó hội tư
bản chủ nghĩa.
- Sự phát triển của việc chế biến có tính chất kỹ thuật của nông sản thường
thường gắn liền với sự biến đổi kỹ thuật trong nông nghiệp. Vỡ bản thõn việc
sản xuất nguyờn liệu để chế biến đũi hỏi phải cải tiến nông nghiệp mới đáp ứng
được yêu cầu, như việc trồng cây có củ, những phế liệu trong khi chế biến
thường đem dùng lại vào nông nghiệp làm tăng sản lượng và khôinphục một
phần sự thăng bằng sinh thái và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nông nghiệp và công
nghiệp.
Ngoài ra, nghề trồng cây ăn quả để bán, nhất là nghề trồng rau đó phỏt triển
mạnh ở cỏc vựng quanh thành phố, quanh cỏc khu cụng nghiệp và dọc theo cỏc
đường sắt. Đây là một nghề cung cấp những sản phẩm tiêu dùng cho quần chúng
vô cùng đông đảo. Không những dân cư công nghiệp cần rau mà cả dân cư nông
nghiệp cũng cần rau. Quân đội cũng cần rau. Việc sản xuất rau, quả bằng phương
pháp kỹ thuật, thành đồ hộp, đồ ướp, theo đó rất phát triển.
Tóm lại, nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp,
V.I.Lênin đó đưa ra những nhận xét quan trọng sau đây:
- Đặc điểm cơ bản của sự tiến triển của ngành nông nghiệp sau cải cách là
nông nghiệp ngày càng mang tính chất thương phẩm, kinh doanh. Nó được biểu
hiện rừ nột nhất ở sự chuyờn mụn hoỏ nụng nghiệp và sự xuất hiện của cỏc vựng
chuyờn canh lỳa mỡ, cõy cụng nghiệp, rau quả và những vựng chuyờn chăn nuôi
để lấy thịt hoặc lấy sữa và chế biến các sản phẩm từ sữa…
- Sự phát triển của nông nghiệp thương phẩm dẫn đến sự thống trị của tư
49
bản ở nông thôn và đẩy nhanh sự phân hoá của nông dân; đẩy nhanh quá trỡnh
rời bỏ nụng nghiệp đi làm công nghiệp hoặc rời bỏ những vùng đất cũ để đi làm
ăn ở những vùng đất mới và quá trỡnh mở rộng cỏc thành phố và hỡnh thành
những trung tõm cụng nghiệp mới.
- Sự phát triển đó cũng làm cho nông nghiệp ngày càng mang tính chất
công thương nghiệp. Nói một cách khác là nó “Cụng nghiệp hoỏ nụng nghiệp”,
tức là biến nụng nghiệp thành một ngành cụng nghiệp hợp lý hoỏ, vừa tự cải tiến
mỡnh về mặt hàng cũng như về kỹ thuật và phương pháp sản xuất, vừa thúc đẩy
sự cải tiến trong các ngành công nghiệp có liên quan trực tiếp.
- Sự phát triển của nông nghiệp thương phẩm tạo ra thị trường trong nước
của chủ nghĩa tư bản:
+ Chuyên môn hoá của nông nghiệp dẫn tới trao đổi giữa các vùng, giữa
các doanh nghiệp, giữa các nông sản.
+ Nông nghiệp càng đi vào lưu thông hàng hoá thỡ dõn cư nông thôn càng
đũi hỏi sản phẩm của cụng nghiệp chế biến cần thiết cho tiờu dựng cỏ nhõn.
+ Yêu cầu về tư liệu sản xuất tăng lên, với những nông cụ cũ kỹ thỡ khụng
ai cú thể tiến hành nụng nghiệp thương phẩm được.
+ Hỡnh thành đạo quân cố nông và những người làm thuê công nhật trong
nông nghiệp.
- Chủ nghĩa tư bản mở rộng và làm sâu sắc những mâu thuẫn trong nội bộ
dân cư nông thôn, những mâu thuẫn mà khụng cú chỳng thỡ núi chung phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể tồn tại được. Tuy vậy, chủ nghĩa tư bản
ở đây, do vai trũ lịch sử của nú, là một lực lượng tiến bộ lớn. Tính chất tiến bộ
của nó biểu hiện ở chỗ:
+ Làm cho sản xuất nông nghiệp có tính chất hàng hoá, biến nông nghiệp
thành một ngành công thương nghiệp, biến địa chủ và nông dân thành những nhà
công nghiệp giống nhưmmọi nghiệp chủ trong xó hội hiện đại.
50
+ Chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp lần đầu tiên đó phỏ huỷ tỡnh trạng
đỡnh trệ ngàn đời của nông nghiệp, đó thỳc đẩy rất nhanh việc cải tiến kỹ thuật
nông nghiệp và phát triển lực lượng sản xuất xó hội. Tớnh thuần khiết của kinh
tế tự nhiờn rập khuụn theo nếp cũ đó nhường chỗ cho tính muôn mầu, muôn vẻ
của những hỡnh thức nụng nghiệp thương phẩm. Những công cụ cổ xưa đó bắt
đầu nhường chỗ cho máy móc và công cụ cải tiến. Tính cố định của những chế
độ canh tác xưa kia đó bị những phương thức canh tác mới đập tan.
+ Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên đó thiết lập nền sản xuất nụng nghiệp quy
mô lớn dựa trên cơ sở sử dụng máy móc và hợp tác rộng rói của cụng nhõn.
+ Chủ nghĩa tư bản nông nghiệp lần đầu tiên đó phỏ vỡ tận gốc chế độ lao
dịch và quan hệ phụ thuộc về thân thể của nông dân.
Tóm tắt những điều nói trên về vai trũ lịch sử tiến bộ của chủ nghĩa tư bản
nông nghiệp là nó đó xó hội hoỏ sản xuất nụng nghiệp, nhấn mạnh vai trũ lịch
sử tiến bộ đó của chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp tuyệt nhiên không quên
tính chất quá độ về mặt lịch sử của chế độ kinh tế ấy do những mâu thuẫn xó hội
sõu sắc cố hữu của nó.
Trong 3 chương dành cho những hỡnh thức và giai đoạn phát triển của chủ
nghĩa tư bản trong công nghiệp, V.I.Lênin đó lần lượt xem xét và phân tích từng
hỡnh thức (hay giai đoạn) của sự phát triển, đó là: Hiệp tác giản đơn tư bản chủ
nghĩa, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí (hay công xưởng).
1. Về hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa
Khác với những người dân tuý chỉ thấy chủ nghĩa tư bản ở trong nền đại
công nghiệp mà chưa thấy nó ở những hỡnh thức thấp hơn. V.I.Lênin vạch ra
rằng, những hỡnh thức tư bản chủ nghĩa đó cú ngay trong cỏc nghề thủ cụng
nhỏ, kể cả của nụng dõn, cỏc nghề này là hỡnh thức cụng nghiệp đầu tiên tách
khỏi nông nghiệp. Chúng vừa là điều kiện cần thiết cho sinh hoạt ở thành thị, lại
cũng phổ biến ở nông thôn như là một bộ phận bổ sung cho kinh tế nông thôn.
Do tiếp xúc với thị trường và được thị trường kích thích, những người làm
51
nghề thủ công dần dần chuyển hẳn sang sản xuất cho thị trường và sản phẩm của
họ dưới hỡnh thức hàng hoỏ, đặt nền tảng cho sự tách hẳn công nghiệp ra khỏi
nông nghiệp và cho sự trao đổi lẫn nhau giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Kết cấu kinh tế của những người làm nghề thủ công về đại thể cũng giống
như của những người tiểu nông, tức là tuỳ theo khối lượng sản xuất mà họ chia
ra thành 3 lớp: Giầu, nghốo, trung bỡnh và theo những quy luật của thị trường,
một số ít người đó giầu càng giầu thờm, trở thành tư sản nhỏ, con số đông thỡ bị
phỏ sản trở thành cụng nhõn làm thuờ. Như vậy, rừ ràng là trong nghề thủ cụng
nhỏ nhất của nụng dõn cũng đó cú những mầm mống của chủ nghĩa tư bản. Hiệp
tác giản đơn tư bản chủ nghĩa dưới hỡnh thức những xưởng tương đối lớn đó
xuất hiện ngay trong cỏc nghề thủ cụng nhỏ, phõn tỏn. Những người thủ công
giầu có, thường đồng thời là người bao mua và cho vay nặng lói, chớnh là những
người giữ địa vị thống trị trong các hỡnh thức hiệp tỏc ấy. Họ thuờ nhõn cụng
làm trong xưởng của họ, đồng thời bao mua sản phẩm và bán nguyên liệu cho
những nhà tiểu công nghiệp độc lập khác và nếu cần thỡ ứng tiền trước cho họ
để chi phối họ. (Như tài liệu về nghề thêu ren ở Mátxcơva đó chỉ rừ).
Từ những nhận định kể trên, có thể thấy rằng nghề thủ công nhỏ không đối
kháng với chủ nghĩa tư bản như phái dân tuý đó khẳng định, mà ngược lại chính
là cơ sở nuôi dưỡg nó, là giai đoạn phát triển đầu tiên của nó trong công nghiệp.
Hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa thay thế cho tỡnh trạng phõn tỏn trước đây
trong sản xuất và cũng làm cho năng suất lao động tăng lên rất nhiều.
2. Về công trường thủ công
Công trường thủ công là hiệp tác trên cơ sở phân công lao động một cách
có hệ thống, nhưng về kỹ thuật vẫn là thủ công và tiến bộ một cách chậm chạp.
Công trường thủ công là khâu trung gian giữa nghề thủ công và tiểu sản xuất
hàng hoá với đạicông nghiệp cơ khí. Lao động làm ở nhà tư bản tồn tại trong tất
cả các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp, nhưng là đặc
trưng nổi bật hơn cả của công trường thủ công. Nhà tư bản thích giao việc cho
52
những người thợ thủ công “Làm ở nhà vỡ tiền cụng sẽ hạ hơn”.
Nếu quy mô sản xuất trong giai đoạn hiệp tác giản đơn cũn nhỏ hẹp và tớnh
chất của sự phỏt triển sản xuất cũn tương đối ổn định trong khuôn khổ của các
thị trường địa phương thỡ đến giai đoạn công trường thủ công, quy mô sản xuất
đó mở rộng hơn dưới hỡnh thức những xưởng lớn và sự phát triển của sản xuất
đó cú tớnh chất khụng ổn định do chịu ảnh hưởng của những thị trường lớn hơn,
có khi là cả nước.
Nếu quan hệ tư bản chủ nghĩa trong hiệp tác giản đơn cũn yếu ớt, nghĩa là
chưa có tư bản lớn và vô sản đông đảo thỡ quan hệ này trong cụng trường thủ
công đó hỡnh thành một cỏch rừ rệt và cỏi vực ngăn cách tư bản với vô sản đó mở
rộng.
Nếu người lao động trong nghề thủ công là người chưa lột được hẳn khỏi
cái xác người nông dân thỡ trong cụng trường thủ công, hai con người này đó
tỏch biệt hẳn nhau và có chăng cũng chỉ là cũn dớnh lớu chỳt ớt mà thụi.
3. Về đại công nghiệp cơ khí
Đại công nghiệp cơ khí là giai đoạn mà nét cơ bản và chủ yếu là việc sử
dụng một hệ thống các máy móc để sản xuất. Công xưởng ở đây khác hẳn với
cách hiểu thông thường là mọi xưởng công nghiệp tương đối lớn và có số lượng
công nhân làm thuê tương đối đông).
Đại công nghiệp cơ khí là “Đỉnh cao nhất của chủ nghĩa tư bản, đỉnh cao
nhất của những “Yếu tố tích cực” và “Tiờu cực của nú”, vỡ nú đánh đấu một cuộc
cách mạng kỹ thuật toàn bộ làm lật đổ kỹ thuật thủ công, phá huỷ kịch liệt những
quan hệ sản xuất xó hội, phõn hoá hoàn toàn những tập đoàn người tham gia sản
xuất, đoạn tuyệt hẳn với truyền thống, tăng thêm và mở rộng tất cả mọi mặt đen
tối của chủ nghĩa tư bản và đồng thời cũng xó hội hoỏ một số lượng lao động rất
lớn.
Sự phát triển của công nghiệp công xưởng làm phá sản hàng loạt các xí
nghiệp nhỏ; làm cho các quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa được phát triển đến tột
53
cùng và sự đối kháng giai cấp giữa tư bản và vô sản trở nên gay gắt. Đội quân dư
bị những người thất nghiệp trong cụng nghiệp cũng hỡnh thành từ đó.
Sự phát triển của công nghiệp công xưởng cũn tạo ra thị trường rộng lớn
trong cả nước và sự tham gia vào thị trường thế giới, biến cả nước và toàn thể
thế giới thành chỉnh thể kinh tế, nhưng cũng vỡ thị trường rộng lớn như vậy và
vỡ tớnh chất cạnh tranh vụ chớnh phủ của sản xuất, nờn chủ nghĩa tư bản tất yếu
phải trải qua những chu kỳ từ phồn vinh đến khủng hoảng.
Phần III. (Chương VIII).
Đây là phần phân tích một cỏch tổng hợp cỏc mặt của quỏ trỡnh phỏt triển
của chủ nghĩa tư bản và cũng là quá trỡnh hỡnh thành thị trường trong nước của
chủ nghĩa tư bản đó được trỡnh bày ở cỏc chương trước.
Trong phần này, ở nước Nga sau cải cách nông nô 1861, trước hết
V.I.Lênin thông qua những số liệu cụ thể về sự phát triển của vận tải đường sắt,
đường sông và của các ngành thương nghiệp, ngân hàng của nước Nga từ những
năm 50, 60 đến những năm 80, 90 của thế kỷ để chứng minh rằng, lưu thông
hàng hoá và tích luỹ tư bản phát triển rất mạnh.
V.I.Lênin cũng nờu lờn tỡnh hỡnh nhõn khẩu cụng thương nghiệp tăng
nhanh (Nhân khẩu thành thị tăng gấp 2 nông thôn) với sự phát triển của các
thành thị và sự hỡnh thành những trung tõm cụng nghiệp mới, sự phỏt triển của
những tiểu khu, những thị trấn công thương nghiệp và công xưởng, của các vùng
ngoại ô thành phố và của những đội ngũ của những người làm nghề phụ phi
nông nghiệp ở ngoài làng. Người nhận xét hiện tượng bỏ nông nghiệp ra thành
phố hoặc đi kiếm ăn cũng là một hiện tượng tiến bộ, vỡ nú “làm cho dân cư ra
khỏi những nơi hang cùng hẻo lánh, lạc hậu của họ, mà lịch sử đó bỏ quờn và lụi
cuốn họ vào trong cơn lốc của cuộc sống xó hội hiện đại”. Nó cũn “Nõng cao
trỡnh độ văn hoá và trỡnh độ giác ngộ của nhân dân, gây cho họ những tập quán
và những nhu cầu văn minh”. Đặc biệt, nó “làm cho người đàn bà ở vào một địa
54
vị độc lập hơn, bỡnh đẳng với đàn ông hơn”9.
Người cũn vạch ra với số liệu cụ thể của cỏc loại cụng nhõn, việc sử
dụng lao động làm thuê ngày càng tăng và sự hỡnh thành của thị trường nhân
công trong nước của chủ nghĩa tư bản do sự song song phát triển nông nghiệp
và công nghiệp.
Từ việc phõn tớch vai trũ của cỏc tỉnh biờn khu của thị trường trong nước,
V.I.Lênin rút ra kết luận: “Xu thế của các công xưởng lớn muốn vượt ra ngoài
giới hạn của các thị trường cũ…” và chủ nghĩa tư bản sẽ “không thể tồn tại và
phát triển, nếu không thường xuyên mở rộng phạm vi thống trị của nó, khụng
khai phá những xứ sở mới và không lôi cuốn các xứ sở cũ không phải tư bản chủ
nghĩa vào cơn lốc kinh tế thế giới” 10. Người cũng nêu lên 2 chiều hướng phát
triển của chủ nghĩa tư bản là:
- Phát triển về bề sâu, nghĩa là nông nghiệp, công nghiệp tư bản chủ nghĩa
lớn lên mói trong một địa hạt nhất định, có giới hạn hẳn hoi và không tiếp xúc
với ngoài.
- Phát triển về bề rộng, nghĩa là mở rộng phạm vi thống trị của chủ nghĩa tư
bản trên những địa hạt mới.
Ở cuối phần III, V.I.Lênin đó phõn tớch “Sứ mệnh” lịch sử của chủ nghĩa tư
bản và những sai lầm của phái dân tuý trong sự “đánh giá” chủ nghĩa tư bản.
Người thừa nhận vai trũ tiến bộ của chủ nghĩa tư bản so với chủ nghĩa
phong kiến là ở chỗ nó đó phỏt triển mạnh mẽ cỏc lực lượng sản xuất của lao
động xó hội và đó xó hội hoỏ lao động.
Đồng thời, V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng chủ nghĩa tư bản có những mặt tiêu
cực và nú vốn cú những mõu thuẫn xó hội rộng lớn và sõu sắc, làm lộ rừ tớnh
chất quỏ độ lịch sử của nó.
Đối với phái dân tuý là những người tuy có phê phán chủ nghĩa tư bản,
nhưng lại phê phán một cách không khoa học và phản động với ý muốn duy trỡ
9
V.I. Lê Nin, Toàn tập, Tập 3, NXB. Tiến bộ, Mát-xcơ va, 1976, Tr.725
V.I. Lê Nin, Toàn tập, Tập 3, NXB. Tiến bộ, Mát-xcơ va, 1976, Tr. 727,751.
10
55
một cỏch vĩnh cửu nền sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công mà họ
ca ngợi là “Nền sản xuất nhân dân”. V.I.Lênin cho rằng, sai lầm nghiờm trọng
của phỏi dõn tuý này là ở chỗ “…họ cố ý khụng muốn biết đến những mâu thuẫn
tư bản chủ nghĩa trong chế độ kinh tế nông dân (Cả trong nụng nghiệp lẫn trong
thủ cụng nghiệp”. Họ cũn khụng thấy sự tồn tại những thiết chế của thời xưa tức là của chế độ phong kiến - “Kỡm hóm sự phỏt triển của chủ nghĩa tư bản và
làm vô cùng trầm trọng thêm tỡnh cảnh của những ngưới sản xuất “Đó khổ vỡ sự
phỏt triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa, lại cũn khổ vỡ sự phỏt triển ấy chưa
được đầy đủ”11.
Cuối cùng, khi phân tích nguyên nhân sâu xa nhất của sự bất đồng với
những người dân tuý, V.I.Lờnin đó cú một nhận xột sõu sắc là người dân
tuý trong khi nghiờn cứu cỏc quỏ trỡnh về kinh tế và xó hội lại thường hay
rút ra những kết luận này hay kết luận khác về mặt đạo đức, chứ không coi
các tập đoàn người tham gia sản xuất như là những người sáng tạo ra những
hỡnh thức sinh hoạt này hay những hỡnh thức sinh hoạt khỏc và họ khụng
cú ý định trỡnh bày toàn bộ cỏc quan hệ kinh tế và xó hội là kết quả của
những mối quan hệ giữa cỏc tập đoàn có lợi ích và vai trũ lịch sử khỏc
nhau.
III. í nghĩa của tỏc phẩm
“Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga” là tác phẩm mác- xít đầu
tiên phân tích một cách toàn diện các quá trình phát triển về kinh tế và xã
hội của nước Nga từ sau cuộc cải cách nông nô năm 1861 đến cuối những
năm 90 của thế kỷ XIX.
Nó chứng minh không thể bác bỏ được rằng nước Nga là một nước tư
bản chủ nghĩa với tất cả những mối liên hệ và mâu thuẫn bên trong của nó
và với những tàn tích còn nặng nề của chế độ nông nô, phong kiến. Rằng ở
nước Nga đó, công xã nông thôn không phải là trở ngại cho sự phát triển
11
V.I. Lê Nin, Toàn tập, Tập 3, NXB, Tiến bộ, Mát- xcơ va, Tr. 758- 759.
56
của chủ nghĩa tư bản ở Nga. “ Một nền sản xuất nhân dân” thuần nhất nào
cả mà chứa đựng những mâu thuẫn, những sự cạnh tranh, chèn ép và loại
trừ lẫn nhau giữa những người sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp cũng
như trong tiểu thủ công nghiệp. Cũng chính vì vậy mà cuốn sách đã giáng
một đòn quyết định vào những luận điểm không tưởng và giả dối của phái
dân tuý. Nó cũng phê phán một cách khoa học chủ nghĩa phong kiến và chủ
nghĩa tư bản. Nói riêng về chủ nghĩa tư bản thì, cuốn sách vừa thừa nhận
những mặt tiến bộ, vừa chỉ ra những mâu thuẫn cố hữu của nó và do đó đã
làm rõ tính chất hạn chế về mặt lịch sử của chủ nghĩa tư bản và sự cần thiết
phải tiến tới xoá bỏ nó bằng một cuộc cách mạng vô sản.
Cuốn sách cũng cho ta thấy sự phát triển ngày càng mạnh mẽ đội ngũ
của giai cấp công nhân và vai trò ngày càng to lớn của nó trong sản xuất và
đời sống xã hội. Nó chỉ cho công nhân và nông dân lao động thấy con
đường để thoát khỏi áp bức, bóc lột và giành lấy một tương lai tươi sáng là
con đường đoàn kết đấu tranh để đập tan mọi chế độ người bóc lột người.
Về mặt phương pháp luận, có thể nói tác phẩm “Sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản ở Nga” của V.I.Lênin là một mẫu mực kinh điển về cách phân
tích, xem xét các quá trình kinh tế - xã hội trong sự ra đời của nền sản xuất
lớn tư bản chủ nghĩa ở một nước như nước Nga. Chúng ta cũng có thể học
được cách phân tích các quá trình kinh tế - xã hội đó để so sánh với sự ra
đời của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước một nước nông nghiệp,
sản xuất nhỏ còn phổ biến như nước ta, và từ đó tìm ra những cái gì giống
nhau, cái gì khác nhau giữa hai quá trình đó.
Quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đương nhiên diễn ra với những đặc điểm và điều
kiện hoàn toàn khác với những điều kiện ra đời của nền sản xuất lớn tư bản
chủ nghĩa. Nếu như quá trình đi lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa đã diễn
ra một cách tự phát với sự bóc lột tàn khốc những người lao động, thì quá
57
trình đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa lại là một quá trình phát triển
mang tính tự giác cao, trong đó vai trò năng động của Đảng, nhà nước
chuyên chính vô sản và đông đảo quần chúng nhân dân.
Song, quá trình xây dựng và phát triển nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa ở nước ta cũng không phải là một quá trình diễn ra theo ý muốn chủ
quan, tuỳ tiện của những người cộng sản. Quá trình đó phải tuân theo
những quy luật khách quan. Tính năng động của Đảng, nhà nước và quần
chúng lao động ở đây là nhận thức được quy luật khách quan, hành động
đúng quy luật khách quan.
V.I.Lênin viết tác phẩm “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga”
trong thời điểm là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa còn yếu ớt, với tình
trạng sản xuất hàng hoá nhỏ còn phổ biến và những tàn dư nặng nề của kinh
tế địa chủ, phong kiến. Mặt khác, những nội dung cơ bản của cuốn sách mà
chúng ta đã lược ghi ở phần trên cũng cho thấy những quá trình chủ yếu của
sự chuyển hoá nền nông nghiệp từ kinh tế tự nhiên thành kinh tế hàng hoá,
từ kinh tế nông dân, kinh tế địa chủ thành kinh tế tư bản chủ nghĩa và
những hình thức hay giai đoạn phát triển chủ yếu của chủ nghĩa tư bản
trong công nghiệp ở Nga.
Nó cũng cho thấy sự phát triển của lưu thông hàng hoá tư bản chủ
nghĩa, những yếu tố tạo ra thị trường trong nước và sự tham gia vào thị
trường thế giới của chủ nghĩa tư bản thế nào?
Vì thế, có thể từ những nội dung cơ bản của tác phẩm mà rút ra những
vấn đề có tính quy luật của quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tư bản
chủ nghĩa để có thể từ đó mà so sánh (tất nhiên là không nên so sánh một
cách máy móc) và suy nghĩ về những vấn đề có tính quy luật của quá trình
từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Chẳng hạn, như vấn đề
xã hội hoá lao động, phát triển phân công lao động trong doanh nghiệp với
phân công lao động xã hội, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào