Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

1.Trình bày vị trí, nội dung và tác động của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa. Liên hệ việc nhận thức và vận dụng Quy luật này của Đảng và Nhà nước ta? 2.Trình bày về hàng hóa sức lao động. Phân biệt hàng hóa sức lao động với hàng hóa thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.2 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI KHOA
GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP NHÓM
MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN 2

Hà Nội, tháng 3/2016


MỤC LỤC
Trang
Mục lục..........................................................................1
Phần 1.........................................................................2
Phần 2.......................................................................19
Tài liệu tham khảo....................................................24


Phần 1: Trả lời câu hỏi:
• Bộ câu hỏi 2:
1. Trình bày vị trí, nội dung và tác động của quy luật giá trị trong nền sản xuất
hàng hóa. Liên hệ việc nhận thức và vận dụng Quy luật này của Đảng và Nhà
nước ta?
2. Trình bày về hàng hóa sức lao động. Phân biệt hàng hóa sức lao động với
hàng hóa thông thường.
 Với câu hỏi 1 về Quy luật giá trị:
Sản xuất hàng hóa chịu sự tác động của nhiều quy luật kinh tế như: quy luật giá
trị, quy luật cung- cầu, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh… Nhưng vai
trò cơ sở cho sự chi phối nền sản xuất hàng hóa thuộc về quy luật giá trị.
1. Vị trí, nội dung và tác động của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa:
1.1 Vị trí của quy luật giá trị: Là quy luật cơ bản của sản xuất và trao đổi


hàng hóa từ đó yêu cầu quy luật giá trị đặt ra
1.2 Nội dung hay là yêu cầu chung của quy luật giá trị: quy luật giá trị yêu
cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó.
1.3 Nội dung cụ thể:
. Biểu hiện nội dung quy luật giá trị trong sản xuất ta có một số nhận xét như sau:
+ Người thứ nhất có thời gian lao động cá biệt < thời gian lao động xã hội
cần thiết, thực hiện tốt yêu cầu của quy luật giá trị, nên thu được lợi nhuận nhiều
hơn lợi nhuận trung bình.
+ Người thứ hai có thời gian lao động cá biệt = thời gian lao động xã hội cần
thiết, thực hiện đúng yêu cầu của quy luật giá trị, nên họ thu được lợi nhuận trung
bình.
+ Người thứ ba có thời gian lao động cá biệt > thời gian lao động xã hội cần
thiết, vi phạm yêu cầu của quy luật giá trị nên bị thua lỗ
. Đối với tổng hàng hóa:
+ Khi tổng thời gian lao động cá biệt = tổng thời gian lao động xã hội cần
thiết, phù hợp với yêu cầu của quy luật giá trị, nên có tác dụng góp phần cân đối và
ổn định thị trường.


+ Khi tổng thời gian lao động cá biệt > tổng thời gian lao động xã hội cần
thiết, hoặc khi tổng thời gian lao động cá biệt < tổng thời gian lao động xã hội cần
thiết, vi phạm quy luật giá trị nên dẫn đến hiện tượng thừa hoặc thiếu hàng hóa trên
thị trường.
Kết luận: Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải
làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp (≤)với mức hao phí lao
động xã hội cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được.
* Biểu hiện của nội dung quy luật giá trị trong lưu thông
Trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa, quy luật giá trị yêu cầu tất cả các hàng hóa
tham gia lưu thông phải tuân thủ nguyên tắc trao đổi ngang giá.

Cần phải hiểu nguyên tắc ngang giá một cách biện chứng. Ngang giá không có
nghĩa là giá cả cụ thể của từng loại hàng hóa phải luôn luôn ngang bằng với giá trị
của nó. Ngang giá không phải là ngang bằng. Ngang giá hiểu theo nghĩa tổng giá cả
bằng tổng giá trị.
- Quy luật giá trị hoạt động có biểu hiện là giá cả có thể tách rời giá trị của nó,
“biên độ” của sự tách rời này tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu hàng hóa và dịch
vụ.
+ Khi cung > cầu thì giá cả < giá trị
+ Khi cung < cầu thì giá cả > giá trị
+ Khi cung = cầu thì giá cả = giá trị
- Giá cả của một hàng hóa có thể cao hoặc thấp, nhưng bao giờ cũng xoay quanh
trục giá trị hàng hóa.

Sơ đồ minh họa:
Cung< cầu

Giá cả


Giá trị

Cung> cầu

1.4 Tác động của quy luật giá trị:
Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:
Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa .
- Điều tiết sản xuất một cách tự phát:
+ Khi cung > cầu, giá cả sẽ nhỏ hơn giá trị, việc tiếp tục sản xuất sẽ không
tạo ra lợi nhuận nên thu hẹp sản xuất.
+ Khi cung < cầu giá cả sẽ lớn hơn giá trị, việc tiếp tục sản xuất sẽ có lãi nên

mở rộng sản xuất.
+ Khi cung = cầu: Giá cả sẽ bằng với giá trị, thị trường đã bảo hòa tất yếu
xảy ra quá trình chuyển tư liệu sản xuất và sức lao động sang lĩnh vực sản
xuất khác co lợi nhuận cao hơn.
- Điều tiết lưu thông: Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá
trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá
cả cao hơn, và do đó, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân
bằng nhất định.
Thứ hai là kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao
động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
-

Để có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội và thu được nhiều lợi nhuận,
ngoài việc phát huy những điều kiện thuận lợi, thực hiện tiết kiệm trong sản
xuất, cải tiến, tổ chức quản lí, sản xuất phân phối, người sản xuất còn phải cải
tiến kĩ thuật bằng cách đầu tư, mua sắm thiết bị, máy móc, cũng như sử dụng
lao động có tay nghề cao.Từ đó, năng suất lao động cá biệt sẽ tăng lên, năng
suất lao động xã hội cũng tăng theo và lưc lượng sản xuất xã hội sẽ phát triển.

Thứ ba là thực hiện lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành người giàu, người nghèo.


Trong quá trình sản xuất kinh doanh người sản xuất nào có điều kiện thuận lợi,
biết đầu tư đúng chỗ cũng như nỗ lực sản xuất cải tiến kĩ thuật và quản lí, có thể
tạo ra sản phẩm với giá trị cá biệt thấp hơn thì sẽ thành công và trở nên giàu có.
-

Ngược lại, những người sản xuất kinh doanh không có điều kiện thuận lợi,
không đầu tư đúng chỗ cũng như không nỗ lực cải tiến kĩ thuật và quản lí

hoặc gặp rủi ro, tai nạn thì sẽ mất vốn, bị phá sản, phải đi làm thuê cho người
khác. Điều này sẽ phân hóa giàu nghèo, tạo cơ sở hình thành quan hệ chủ thợ và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong sản xuất hàng hoá những người có sản điều kiện sản xuất thuận lợi có
trình độ cao có vốn nhiều tức có lượng lao động hao phí cá biệt kết tinh trong
hàng hoá thấp hơn so với lượng lao động cần thiết của xã hội, thì họ sẽ giàu,
ngược lại những ngưòi không có điều kiện trên hoặc gặp rủi ro dẫn đến phá
sản,tác động này đào thải cái yếu kém kích thích nhân tố tích cực phân hoá
sản xuất thành những ngưòi giàu và nghèo tạo điều kiện cho sự ra đời và phát
triển nền sản xuất lớn hiện đại.
Như vậy , quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực.
Do đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước
cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
nó, đặc biệt trong điều kiện phát huy nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
2. Liên hệ việc nhận thức và vận dụng Quy luật này của Đảng và Nhà nước ta:
• Từ năm 1986 về trước :
Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau , quy luật giá
trị được áp dụng theo nhiều cách khác nhau phù hợp đặc điểm của từng thời
kì. Nhà nước điều khiển nền kinh tế bằng hệ thống pháp lệnh về số lượng ,
về thu nhập ,về nộp ngân sách , về vốn và lãi suất tín dụng … Giá cả do Nhà
nước quyết định .Thực chất cũng là một chỉ tiêu pháp lệnh mà giá cả lại là
biểu hiện của quy luật giá trị. Chính vì vậy có thể nói trong thời kỳ này quy
luật giá trị được áp dụng một cách cứng nhắc, áp đặt vào nền kinh tế thông
qua việc định giá theo những chỉ tiêu có sẵn mà không để ý đến thực trạng
của nền kinh tế Việt Nam . Những năm 1964, ở miền Bắc, hệ thống giá được
sự chỉ đạo của Nhà nước đã được hình thành trên cơ sở lấy giá thóc sản xuất
trong nước làm căn cứ xác định giá chuẩn và tỷ lệ trao đổi hiện vật . Hệ
thống giá này về cơ bản được thực hiện cho đến năm 1980, trong khi điều
kiện sản xuất , lưu thông, thị trường trong nước và quan hệ kinh tế đối ngoại
đã có những thay đổi lớn. Hệ thống giá chỉ đạo của Nhà nước ngày càng thấp



xa so với giá thị trường tự do làm rối loạn phân phối lưu thông , gây khó
khăn cho ngân sách Nhà nước. Việc duy trì hệ thống giá này chủ yếu là sự
viện trợ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước Đông Dương trước đây. Suốt
thời kì Nhà nước chỉ đạo giá cho đến trước cải cách giá năm 1991 , trên thị
trường có hai hệ thống giá : giá chỉ đạo của Nhà nước áp dụng trên thị trường
có tổ chức và giá thị trường tự do biến động theo quan hệ cung cầu. Đặc
điểm của giá chỉ đạo là không chú ý đến quan hệ cung-cầu và gần như bất
biến.
Những năm 1975, sau ngày Miền Nam được giải phóng , cùng với quá trình
thống nhất đất nước về chính trị và quân sự , việc thống nhất về thể chế kinh tế
cũng được xúc tiến. Quá trình thống nhất về thể chế kinh tế trong cả nước , trên
thực tế là sự dập khuôn gần như toàn bộ thể chế kinh tế đã tồn tại trước đó ở miền
Bắc. Như vậy, lịch sử phát triển kinh tế nước ta một lần nữa lại lặp lại thời kỳ trì
trệ, bảo thủ, đáng lẽ phải mở ra một thời kì mới , phát huy cao độ các động lực nền
kinh tế hàng hoá và làm cho chúng trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế
đi lên.
Đất nước thống nhất đã tạo niềm phấn khởi lạc quan cả về chính trị xã hội và
kinh tế. Tuy nhiên những khó khăn mới cũng xuất hiện. Trước hết là sự thiếu hụt
nguồn tài trợ , sự bùng nổ về tiêu dùng, về công ăn việc làm đã bị dồn nén qua
nhiều năm chiến tranh. Các tổ chức kinh tế quốc doanh địa phương mọc lên nhanh
chóng , bộ máy hành chính kinh tế từ trung ương đến tỉnh, huyện , xã đã quá nhiều
tạo ra tình trạng thừa người thiếu việc việc làm nghiêm trọng. Trong kinh tế quốc
doanh và trong bộ máy Nhà nước hình thành hệ thống quan liêu mà cho đến ngày
nay vẫn còn là gánh nặng đối với toàn bộ nền kinh tế. Việc duy trì chính sách tài
chính , tín dụng , chính sách giá cả và tiền lương theo kiểu cấp phát , giao nộp hiện
vật bình quân của nền kinh tế thời chiến gây ra tác hại nghiêm trọng đối với nền
kinh tế.
Trong thời kỳ này đời sống của nông dân , công nhân , viên chức , lực lượng vũ

trang giảm sút nghiêm trọng. Thực trạng kinh tế đó đã làm lung lay các tư tưởng cổ
điển và làm xuất hiện những ý tưởng cải tạo đầu tiên một số lĩnh vực kinh tế nóng
bỏng nhất như chính sách giá cả , cơ chế kế hoạch hoá chính sách tài chính , chính
sách đầu tư và hiệu quả kinh tế quốc dân. Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 6 đã
nâng cao hiệu quả kinh tế và hạn chế một bước cơ chế quản lý hành chính tập
trung, chú ý hơn đến sản xuất công nghiệp nhỏ , sản xuất hàng tiêu dùng và thừa
nhận kinh tế tư nhân và thị trường tự do như một thành phần của nền kinh tế quốc


dân.Tuy nhiên , nền kinh tế quốc doanh vẫn còn khó khăn , trì trệ, sản xuất tiếp tục
giảm sút. Cuối năm 1980, chính phủ đã đưa ra quyết định 96 CP về bãi bỏ chế độ
giao nghĩa vụ nộp nông sản theo giá thấp và chuyển sang thu mua theo hợp đồng
kinh tế hai chiều. Chính sách này chưa phát huy tác dụng ngay trong năm 1980 mà
phải sau đó một năm mới thực sự có tác động tốt .
• Sau năm 1986 đến nay:
* Sự vận hành giá cả thị trường
Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường của hàng hoá
Giá cả thị trường có những chức năng chủ yếu sau đây:
+ Chức năng thông tin: Những thông tin về giá cả thị trường cho người sản xuất
biết được tình hình sản xuất trong các ngành, biết được tương quan cung và cầu,
biết được sự khan hiếm đôí với các loại hàng hoá. Nhờ đó mà đơn vị kinh tế có liên
quan ra được những quyết định thích hợp. Như vậy những thông tin về giá cả điều
chỉnh hướng sản xuất và quy mô sản xuất , từ đó điều chỉnh cơ cấu sản xuất sản
phẩm phù hợp với nhu cầu của xã hội.
+ Chức năng phân bố các nguồn lực kinh tế: Sự biến động của giá cả sẽ dẫn đến sự
biến động trong phân bố các nguồn lực kinh tế. Những người sản xuất sẽ chuyển
vốn từ nơi giá cả thấp, do đó lợi nhuận thấp đến nơi có giá cả hàng hoá cao , do đó
lợi nhuận cao , tức là các nguồn lực sẽ được chuyển đến nơi mà chúng được sử
dụng với hiệu quả cao nhất , cân đối giữa tổng cung và tổng cầu .
+ Chức năng thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật: Để có thể cạnh tranh được về giá cả , buộc

những người sản xuất phải giảm sản phẩm đến mức tối thịêủ bằn cách áp dụng kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến . Do đó thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật , công nghệ và sự
phát triển lực lượng sản xuất . Ngoài ra giá cả còn thực hiện chức năng phân phối
lại .
Do đó việc chuyển sang cơ chế một giá - giá cả thị trường dối với tất cả các loại
hàng hoá , chỉ trừ một số rất ít hàng hoá do nhà nước định giá là bước chuyển có ý
nghĩa quyết định từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường
ở nước ta .
Tuy nhiên giá cả thị trường còn phụ thuộc vào các nhân tố sau :


+ Giá cả thị trường: giá cả thị trường là kết quả của sự cân bằng các giá trị cá biệt
của hàng hoá trong cùn một ngành thông qua cạnh tranh. Cạnh tranh trong nội bộ
ngành dẫn đến hình thành một giá trị xã hội trung bình . Tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển của sức sản xuất của mỗi ngành mà giá trị thị trường có thể ứng với một
trong biến áp trường hợp sau :
. Trường hợp 1: giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá
được sản xuất ra trong điều kiện trung bình quyết định. Đây là trường hợp phổ biến
nhất .
. Trường hợp 2: giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá
được sản xuất ra trong điều kiện xấu quyết định .
. Trường hợp 3 : giá trị thị trường hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá
được sản xuất ra trong điều kiện tốt quyết định .
+ Giá trị (hay sức mua) của tiền : Giá trị thị trường tỷ lệ thuận với giá trị thị trường
của hàng hoá và tỷ lệ nghịch với giá trị hay sức mua của tiền . Bởi vậy, ngay cả khi
giá trị thị trường của hàng hoá không đổi thì giá cả hàng hoá vẫn có thể biến đổi do
giá trị của tiền tăng lên hay giảm xuống . Sự chênh lệch giữa giá cả thị trường và
giá trị thị trường là hiện tượng đương nhiên là vẻ đẹp của cơ chế thị trường , còn sự
phù hợp giữa chúng là sự ngẫu nhiên.
+ Cung và cầu : Trong nền kinh tế thị trường , cung và cầu là những lực lượng hoạt

động trên thị trường . Cầu được biểu hiện là nhu cầu của xã hội về hàng hoá được
biểu hiện trên thị trường ở một mức giá nhất định , nó bị giới hạn bởi khả năng
thanh toán của dân cư . Nói cụ thể hơn , cầu là lượng một mặt hàng mà người mua
muốn mua ở mức giá nhất định. Nhưng nhân tố ảnh hưởng tới cầu là thu nhập trung
bình của người tiêu dùng , quy mô thị trường , giá cả và tình trạng của hàng hoá
khác, khẩu vị hay sở thích , trong đó thu nhập của người tiêu dùng là quan trọng
nhất .
Cung được biểu hiện là toàn bộ hàng hoá có trên thị trường và có thể đưa đến ngay
thị trường ở một mức giá nhất định . Nói cụ thể hơn cung là lượng một mặt hàng
mà người bán muốn ở mức giá nhất định . Nhưng nhân tố ảnh hưởng tới cung là
sản phẩm sản xuất , đây là nhân tố lớn nhất ảnh hưởng tới cung , giá cả và tình
trạng của hàng hoá khác.
Giữa cung và cầu tồn tại một mối quan hệ biện chứng ; sự tác động giữa chúng
hình thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị trường , giá cả đó không thể đạt được


ngay , mà phải trải qua một thời gian dao động quanh vị trí cân bằng . Đó là thực
chất của lý thuyết cung cầu.
Cung cầu có quan hệ tương quan mật thiết với nhau có những chức năng sau đây:
- Tương quan cung và cầu chỉ rõ sản xuất xã hội được phát triển cân đối đến mức
nào . Bất kỳ một sự mất cân đối nào trong sản xuất đều được phản ánh vào trong
tương quan giữa cung và cầu .
- Tương quan cung và cầu điều chỉnh giá cả thị trường , chính xác hơn là điều chỉnh
sự chênh lệch giữa giá cả thị trường với giá trị thị trường . Sự biến đổi của tương
quan cung và cầu sẽ dẫn đến sự lên xuống của giá cả thị trường , ngược lại giá cả
cũng ảnh hưởng trở đối với cung và cầu. Cầu biến đổi ngược chiều vói giá cả thị
trường và cùng chiều với mức thu nhập còn cung biến đổi ngược chiều với giá cả
đầu ra , nhưng cũng biến đổi ngược chiều với giá cả đầu vào .
Khi hướng tới trạng thái cân bằng , cung và cầu tạo khả năng khôi phục nhưng cân
đối đã bị phá hoại trong nền kinh tế.

Tuy nhiên sự cân bằng cung cầu là tạm thời , sự không cân bằng giữa cung và cầu
là thường xuyên. vì cung và cầu vốn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố , mà các
nhân tố này luôn luôn biến đổi , nên cung và cầu thường xuyên là không cân bằng .
Chính điều này đã hình thành quá trình tác động lẫn nhau giữa cung cầu giá cả ;
quá trình này đưa đến sự cân bằng tạm thời giữa cung và cầu.
Như vậy trạng thái cân bằng cung cầu là do quá trình mất cân bằng hình thành.
- Cung và cầu đảm bảo mối liên hệ giữa khâu đầu và khâu cuối của quá trình tái sản
xuất , tức là mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng , đồng thời quan hệ cung và
cầu còn biểu hiện quan hệ về lợi ích gtữa người sản xuất và người tiêu dùng , giữa
người bán và người mua.
+ Cạnh tranh trên thị trường : Cạnh tranh là một khái niệm rộng, không những tồn
tại trong lĩnh vực kinh tế mà còn tồn tại trong lĩnh vực xã hội . Trong kinh tế thị
trường các chủ thể hành vi kinh tế vì lợi ích riêng của bản thân mình mà tiến hành
cạnh tranh với nhau . Cạnh tranh được hiểu là sự đấu tranh giữa các chủ thể hành vi
kinh tế nhằm dành lợi ích tối đa cho mình . Cạnh tranh là yếu tố cơ bản của cơ chế
thị trường . Nó là hiện tượng tự nhiên , tất yếu của kinh tế thị trường , ở đâu có sản
xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có cạnh tranh.


Vai trò của cạnh tranh được hiểu qua các chức năng của nó :
_ Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt sản xuất xã hội và do đó làm cho sự
phân bố các nguồn lực kinh tế của xã hội một cách tối ưu . Mục đích hoật động của
các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa , do đó họ sẽ đầu tư vào nơi có lợi nhuận cao,
tức là các nguồn lực kinh tế của xã hội sẽ được chuyển đến nơi mà chúng được sử
dụng với hiệu quả cao nhất.
- Cạnh tranh kích thích tiến bộ kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất .
Người sản xuất nào và kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến sẽ th được lợi nhuận
siêu ngạch . Do đó cạnh tranh là áp lực đối với người sản xuất buộc họ phải cải tiến
kỹ thuật nhờ đó kỹ thuật và công nghệ của toàn xã hội được phát triển.
- Cạnh tranh góp phần tạo nên cơ sở cho sự phân phối thu nhập lần đầu. Người sản

xuất nào có năng suất , chất lượng hiệu quả cao sẽ có thu nhập cao ; đồng thời
thông qua cạnh tranh nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng .
- Cạnh tranh thường xảy ra mạnh được yếu thua, các chủ thể hành vi kinh tế thích
ứng với thị trường sẽ tồn tại và phát triển , ngược lại , các chủ thể hành vi kinh tế
không thích ứng với thị trường sẽ bị đào thải.
- Cạnh tranh có nhiều loại , tuỳ theo góc độ nghiên cứu mà phân chia cạnh tranh
nội bộ ngành và cạnh tranh gtữa các ngành, cạnh tranh giữa bên mua và bên bán ;
cạnh tranh giá cả và cạnh tranh phi giá cả …Để nghiên cứu hiệu lực của cơ chế thị
trường người ta chú ý đến cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo.
Do đó để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , chúng ta
cũng phải tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế .
Trong những năm 1986,nước ta đã có hàng loạt những cuộc cải cách nhằm đưa
nền kinh tế phát triển theo một hướng mới . Đảng ta đã thẳng thắn nhận biết và phê
phán những sai lầm trong những chính sách kinh tế thời kì trước đây. Việc đổi mới
này đã bắt đầu tạo lập nền móng cho sự chuyển biến từ tư duy giá cả phi thị trường
đến tư duy giá cả thị trường. Nó đã tiến hành điều chỉnh giá để kích thích sản xuất ,
tiến tới cải cách toàn bộ hệ thống giá của Nhà nước theo hướng làm cho giá cả
phản ánh đầy đủ chi phí hợp lý về sản xuất và lưu thông, đảm bảo cho người sản
xuất thu được lợi nhuận thoả đáng. Tiếp tục xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
và đổi mới quản lý kinh tế, nỗ lực phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế ,
vừa cạnh tranh vùa hợp tác bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân. Để thực


hiện được điều đó Đảng ta quyết định khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý
kinh tế quốc doanh , phát triển có hiệu quả và nắm những lĩnh vực , ngành then
chốt để phát huy hiệu quả trong nền kinh tế. Tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế
tập thể theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ , bình đẳng phát huy và kết hợp hài hoà
sức mạnh của tập thể và xã viên.
Bên cạnh đó kinh tế tư nhân vẫn tiếp tục phát triển trong các lĩnh vực sản xuất

theo sự quản lý của Nhà nước. Hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con
đường tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức. Từng bước hình thành, mở rộng
đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ…tiếp tục đổi mới
và hoàn thiện công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu của Nhà nước. Xây dựng các chính
sách tài chính quốc gia và thực hiện cải cách cơ bản tài chính Nhà nước theo hướng
thúc đẩy khai thác tiềm năng tự nhiên của các tầng lớp nhân dân, vừa tích tụ vốn ở
đơn vị kinh tế vừa đảm bảo nguồn vốn tập trung của Nhà nước.
*Sự hình thành giá cả trong điều kiện độc quyền
- Sự hình thành thị trường nhà nước với việc nhà nước chủ động mở rộng thị
trường trong nước bằng việc bao mua sản phẩm của các xí nghiệp độc quyền thông
qua những hợp đồng được kí kết đã giúp tư bản tư nhân khắc phục được một phần
khó khăn trong thời kì khủng hoảng thừa, góp phần bảo đảm cho quá trình tái sản
xuất được diễn ra bình thường. Các hợp đồng kí kết với nhà nước giúp cho các tổ
chức độc quyền tư nhân vừa tiêu thụ được hàng hoá vừa đảm bảo lợi nhuận ổn định
vừa khắc phục được tình trạng thiếu nhiên liệu, nguyên liệu chiến lược.
- Sự tiêu thụ của nhà nước được thực hiện qua những đơn đặt hàng của nhà nước,
quan trọng hơn cả là các đơn đặt hàng quân sự do ngân sách nhà nước chi mỗi ngày
một tăng. Các hợp đồng này đảm bảo cho các độc quyền tư nhân kiếm được khối
lượng lợi nhuận lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi nhuận của việc sản xuất những hàng
hoá đó cao hơn hẳn lợi nhuận thông thường.
Trong cơ chế thị trường giá cả nông phẩm không chỉ ảnh hưởng đến mức thu nhập,
mức sống của người nông dân mà còn ảnh hưởng đến sản lượng nông sản, đến sự
ổn định xã hội . Trong những năm được mùa giá cả nông phẩm thường giảm sút
nghiêm trọng , ảnh hưởng xấu đời sống của nhân dân và quy mô sản xuất trong
những năm tiếp theo. Do đó nhà nước cần quy định giá sàn đối với nông phẩm.Để
giá sàn đựoc thực hiện trên thực tế thì nhà nước cần có hỗ trợ về tài chính cho các
công ty thu mua nông sản.Bên cạnh đó nhà nước cần phải thực hiện áp dụng giá
trần đối với một số loại hàng hoá như giá xăng,giá dầu…nhằm tránh tình trạng một



số doanh nghiệp lợi dụng thị trường độc quyền để nâng cao giá cả,hay hạ thấp giá
cả làm thị trường mất cân đối,ổn định
2.1 Một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn trong thời gian tới
Theo nhóm chúng em, do nước ta vẫn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nên nền kinh tế nước ta vẫn còn mang nặng tính nông nghiệp lạc hậu ,nên để vận
dụng tốt hơn quy luật giá trị vào nền kinh tế thị trường thì Đảng và nhà nước cần
phải thực hiện tốt một số giải pháp sau:
- Đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm tăng lực lượng sản xuất phát triển
giúp cho sản xuất càng phát triển hơn.
- Phải phát triển đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và cán bộ khoa học công nghệ cũng
như công nhân có trình độ cao
- Nâng cao năng lực quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường
- Phải tăng cường liên kết các quan hệ hàng hoá tiền tệ với các quan hệ xã hội
- Đề ra các biện pháp nhằm thực hiện tốt các chính sách như :chính sách ruộng
đất ,chính sách đầu tư,chính sách thuế chính sách giá cả và sản lượn …Nhằm tạo
điều kiện phát huy cao tác dụng của quy luật giá trị trong kinh tế xã hội
- Phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường tiêu dùng,dịch vụ…
- Phải tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế,chỉ thực hiện đọc quyền một số nghành,một số lĩnh vực vì lợi ích của
đất nước,hạn chế độc quyền,đặc lợi lũng đoạn thị trường ,khắc phục tình trạng kinh
doanh trái phép trốn lậu thuế,cần tăng cường kiểm tra,kiểm soát và xử lý nghiêm
các vi phạm làm lành mạnh thị trường.
Như vậy quy luật giá trị là một quy luật kinh tế quan trọng đối với sự hình thành
và phát triển nền kinh tế của nước ta trong htời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội .Đó
là một quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá .Nó có tác dụng
điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá ,đồng thời kích thích cải tiến kỹ thuât ,hợp
lý hoá sản xuất ,tăng năng xuất lao động ,lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh
và thực hiệ sự lựa chọn tự nhiên,phân hoá người sản xuất hàng hoá thành kẻ giàu
người nghèo .Thực tiễn chứng tỏ rằng quy luật giá trị với những biểu hiện của nó



như giá cả,tiền tệ, giá trị hàng hoá…là lĩnh vực tác động rất lớn tới đời sống kinh tế
xã hội.
Đối với nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn mang nặng
tính nông nghiệp lạc hậu,cơ sở vật chất kỹ thuật còn phụ thuộc các nước khác,tuy
nhiên Đảng và nhà nước đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng trong việc đổi
mới xã hội cũng như hiểu rõ vai trò và tác dụng của quy luật giá trị mà từ đó thực
hiện nhiều cuộc cải cách kinh tế… tuân theo nhưng nội dung của quy luật giá trị
nhằm hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa đa dạng và đã
đạt đựơc những hiệu quả thành tựu đáng kể ,tuy nhiên trong thời gian qua sự vận
dụng đó còn chưa quán triệt sâu sắc nhiều khi vẫn còn dập khuôn máy móc,nên
cần phải có những biện pháp khắc phục nhanh chóng những sai lầm.
 Với câu hỏi thứ 2 về hàng hóa sức lao động và so sánh:
1. Trình bày về hàng hóa sức lao động:
Đầu tiên là về khái niệm sức lao động: Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực
tồn tại trong cơ thể con người, nó được vận dụng vào quá trình lao động sản xuất.
Những điều kiện biến sức lao động thành hàng hoá Sức lao động chỉ biến thành
hàng hoá khi có hai điều kiện sau:
-Một là, người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi phối
sức lao động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là
hàng hoá, nếu nó do con người có sức lao động đưa ra bán. Muốn vậy, người có
sức lao động phải có quyền sở hữu năng lực của mình. Việc biến sức lao động
thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô và chế độ phong kiến.
-Hai là, người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất không thể tự tiến hành lao
động sản xuất. Chỉ trong điều kiện ấy, người lao động mới buộc phải bán sức lao
động của mình, vì không còn cách nào khác để sinh sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến chỗ sức lao động biến
thành hàng hoá.
Điều đó đã tạo ra khả năng khách quan cho sự phát triển tự do cá nhân của các

công dân và đánh dấu một trình độ mới trong sự phát triển của văn minh nhân loại.
Sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định sự chuyển hoá
tiền thành tư bản.


Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt. Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng
hoá – sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.
-Giá trị hàng hoá sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động cũng giống như các
hàng hoá khác được quy định bởi số lượng thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Nhưng, sức lao động chỉ tồn tại trong cơ
thể sống của con người. Để sản xuất và tái sản xuất ra năng lực đó, người công
nhân phải tiêu dùng một số lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Như vậy, thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra sức lao động sẽ quy thành thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy, hay nói một cách
khác, số lượng giá trị sức lao động được xác định bằng số lượng giá trị những tư
liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của người có sức lao động ở trạng thái bình
thường. Khác với hàng hoá thông thường, giá trị hàng hoá sức lao động bao hàm cả
yếu tố tinh thần và lịch sử. Điều đó thể hiện ở chỗ: nhu cầu của công nhân không
chỉ có nhu cầu về vật chất mà còn gồm cả những nhu cầu về tinh thần (giải trí, học
hành,…).
-Giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động. Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động
cũng giống như các hàng hoá khác chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao
động, tức là quá trình người công nhân tiến hành lao động sản xuất. Nhưng tính
chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động được thể hiện đó là:
Thứ nhất, sự khác biệt của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động so với giá trị
sử dụng của các hàng hoá khác là ở chỗ, khi tiêu dùng hàng hoá sức lao động, nó
tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của thân giá trị sức lao động. Phần lớn hơn đó
chính là giá trị thặng dư. Như vậy, hàng hoá sức lao động có thuộc tính là nguồn
gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của giá trị sử dụng của hàng hoá sức
lao động so với các hàng hoá khác. Nó là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn của

công thức chung của tư bản. Như vậy, tiền chỉ thành tư bản khi sức lao động trở
thành hàng hoá.
Thứ hai, con người là chủ thể của hàng hoá sức lao động; vì vậy, việc cung ứng sức
lao động phụ thuộc vào những đặc điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của người lao
động.
Tóm lại, sự tồn tại và phát triển của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao
động là một tất yếu khách quan, việc thừa nhận sức lao động là hàng hoá không cản
trở việc xây dựng CNXH mà còn giúp kích thích cả người sở hữu sức lao động lẫn


người sử dụng lao động đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp phát triển chung của
đất nước.
Như vậy sức lao động là hàng hoá đặc biệt. Trong thời gian tới cần phải có những
giải pháp hoàn thiện cơ chế chính sách đi đôi với nâng cao chất lượng nguồn lao
động tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người lao động được tự do bán sức lao động,
tự do di chuyển sức lao động giữa các vùng, các miền khác nhau … nhằm phát huy
hết tiềm năng nguồn lực lao động của nước ta với mục đích xây dựng một thị
trường lao động sôi động, ổn định và có hiệu quả tác động tích cực đến sự phát
triển kinh tế.

2. So sánh giữa hàng hóa Sức lao động và Hàng hóa bình thường:
Để phân biệt giữa hàng hóa SLĐ và Hàng hóa bình thường trước tiên ta phải tìm
hiểu các khái niệm. Đầu tiên là Hàng hóa bình thường:
2.1 Hàng hóa bình thường:
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị.
Về mặt giá trị sử dụng: tức hình thái tự nhiên của hàng hóa, có thể nhận biết
trực tiếp bằng giác quan.
Về mặt giá trị: tức hình thái xã hội của hàng hóa, nó không có một nguyên tử
vật chất nào nên dù cho người ta có lật đi lật lại mãi một hàng hóa, thì cũng không
thể sờ thấy,nhìn thấy giá trị của nó.Giá trị chỉ có một tính hiện thực thuần túy xã

hội, và nó chỉ biểu hiện ra cho người ta thấy được trong hành vi trao đổi, nghĩa là
trong mối quan hệ hàng hóa với nhau.
2.2 Hàng hóa sức lao động :
Sức lao động (năng lực lao động) là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại
trong cơ thể con người đang sống và được người đó sử dụng vào sản xuất hàng hóa
Trong mọi xã hội, sức lao động đều là yếu tố của sx nhưng sức lao động chỉ trở
thành hàng hoá với hai điều kiện sau:
Người lao động được tự do về thân thể, tức là có quyền tự chủ về sức lao động
của mình và chỉ bán sức lao động trong một thời gian nhất định. Người lao động ko
có TLSX, ko có khả năng bán cái gì ngoài sức lao động.


- Hàng hoá SLĐ là một hàng hoá đặc biệt,mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là
nguồn gốc sinh ra giá trị. Nó cũng có 2 thuộc tính giống hàng hóa khác là giá trị và
giá trị sử dụng.
- Giá trị của hàng hoá SLĐ cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết lượng để sản
xuất và tái sản xuất ra SLĐ quyết định. Cho nên giá trị của hàng hoá SLĐ được xác
định gián tiếp qua giá trị những hàng hoá tiêu dùng mà người lao động dùng để tái
sản xuất SLĐ để nuôi sống gia đình và chi phí học tập.
- Giá trị sử dụng của hàng hoá SLĐ là khả năng thực hiện 1 loại lao động cụ thể
nào đó và được thể hiện ra trong quá trình lao động. Giá trị sử dụng của SLĐ phải
phù hợp với yêu cầu của người sử dụng SLĐ.
Từ đó, ta có sự so sánh giữa hàng hóa Sức lao động và Hàng hóa bình thường:
- Giống nhau: + đều là hàng hoá, được đem ra mua bán trên thị trường, chịu sự tác
động của thị trường như: cung, cầu…
+ đều có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng.
- Khác nhau :
Về mặt giá trị:
+ Giá trị hàng hoá SLĐ bao gồm cả yếu tố tinh thần, vật chất và phụ thuộc
vào đk lịch sử, điều kiện sản xuất của mỗi quốc gia…nghĩa là ngoài những nhu cầu

về vật chất,người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hóa…Những
nhu cầu đó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kì, đồng thời
nó còn phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó.
+ Giá trị SLĐ không cố định : tăng lên khi nhu cầu trung bình về hàng hoá,
dịch vụ của con người tăng và yêu cầu kỷ thuật lao động tăng; Giảm khi năng suất
lao động xã hội tăng làm giảm giá trị hàng hoá tiêu dùng.
Về mặt giá trị sử dụng:
Hàng hóa thông thường sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn
giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng
hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó, đồng
thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao
động đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt dẫn đến giá trị sử


dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá
trị, tức nó có thể tao ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Trong quan hệ mua và bán:
Hàng hóa thông thường là những sản phẩm hoàn chỉnh được tạo ra trong quá
trình sản xuất hoặc chu kỳ sản xuất (mùa vụ)
Hàng hóa sức lao động có những đặc điểm sau:
+ Chỉ bán quyền sử dụng chứ không bán quyền sở hữu và bán trong một thời
gian nhất định thông qua các hợp đồng.
+ Mua bán chịu:Giá trị sử dụng thực hiện trước (bắt lao động) ,giá trị thực hiện
sau (trả công sau).
+ Chỉ có phía người bán là công nhân làm thuê và phía người mua là các nhà
tư bản,không có ngược lại.
+ Giá cả của sức lao động (tiền công) luôn thấp hơn so với giá trị sức lao động
bởi vì đối với người công nhân, lao động là phương tiện sinh sống duy nhất vì vậy
phải bán sức lao động trong mọi điều kiện.
Những điểm khác nhau còn được thể hiện qua các tiêu chí sau ở trong bảng dưới

đây:
Tiêu chí so Hàng hóa sức lao động
sánh

Hàng hóa bình thường

Phương thức Gắn liền với con người
tồn tại

Không gắn liền với con người

Giá trị

Chứa đựng cả yếu tố vật chất, Chỉ thuần túy là yếu tố vật chất.
tinh thần, lịch sử. Được đo gián Được đo trực tiếp bằng thời gian
tiếp bằng những tư liệu sinh hoạt LĐ xã hội cần thiết.
cần thiết để tái sản xuất ra SLĐ

Giá cả

Nhỏ hơn giá trị

Có thể tương đương với giá trị

Giá trị sử Giá trị sử dụng đặc biệt: tạo ra Giá trị sử dụng thông thường
dụng
giá trị mới lớn hơn của giá trị
bản thân nó, đó chính là GTTD



QH
giữa Người mua có quyền sử dụng, Người mua và người bán hoàn
người mua- không có quyền sở hữu, người toàn độc lập với nhau
người bán
bán phải phục tùng người mua
Quan
hệ Quan hệ mua bán đặc biệt: mua Ngang giá, mua đứt- bán đứt
mua- bán
bán chịu, thường không ngang
giá và mua bán có thời hạn
Ý nghĩa

Là nguồn gốc của GTTD

Biểu hiện của của cải

=> Là một hàng hóa đặc biệt

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, giáo trình Kinh tế chính trị Mác – LêNin, Nhà xuất bản
chính trị Quốc gia 2002.


2. Bài “Kinh tế Việt Nam thời kỳ cả nước cùng xây dựng xã hội chủ nghĩa 19761995”- sách lịch sử kinh tế quốc dân , NXB giáo dục 1999.
3. Đại học Kinh tế Quốc dân môn lịch sử các học thuyết Kinh tế – Lịch sử các học
thuyết kinh tế – Nhà xuất bản thống kê1999.
4. Trần Hậu Thư – Vai trò quản lý của Nhà nước theo nền kinh tế thị trường nước
ta, NXB chính trị Quốc gia 1994.




×