Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài tập môn luật an sinh xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.19 KB, 11 trang )

Họ và tên: Lê Bùi Phương Nhung.
Lớp: k54 - KTLĐ
Mã sinh viên: 09065080
Bài tập môn Luật An sinh xã hội
Đề bài:
1. Phân tích các bộ phận cấu thành của an sinh xã hội hiện nay.
2. Anh Hải là kĩ sư xây dựng công ty X Tháng 6 năm 2007 mặc dù đã hết giờ làm
việc nhưng anh và đồng nghiệp tiếp tục ở lại làm việc chuẩn bị cho ngày mai đổ bê
tông công trình. Không may giàn giáo bị sập anh Hải và anh Tuấn công nhân công ty
bị thương phải vào bệnh viện điều trị. Sau 3 tháng điều trị tại bệnh viện anh Hải bị
suy giảm 64% sức lao động. Anh Tuấn bị thương nhẹ nên ra viện sau 15 ngày điều trị
và không phải giám định thương tật. Bảo hiểm xã hội đã không giải quyết chế độ tai
nạn lao động cho anh Hải vì cho rằng đây không phải là tai nạn lao động mà đây là tai
nạn rủi ro ngoài giờ làm việc.
I. Tai nạn của anh Hải có phải là tai nạn lao động không? Vì sao?
II. Anh Hải có thể gửi đơn đến cơ quan tổ chức nào để yêu cầu bảo vệ quyền lợi cho
mình.
III. Hãy giải quyết quyền lợi cho anh Hải theo quy định của pháp luật hiện hành.
Bài làm
Câu 1: Các bộ phận cấu thành của an sinh xã hội hiện nay.
Về thuật ngữ “an sinh xã hội” mỗi nước lại sử dụng thành những từ khác nhau, mặc
dù nội dung đều hiểu như nhau nhưng do được dịch từ nhiều ngôn ngữ khác nhau
(tiếng Anh: Social Security; tiếng Pháp: Securite Sociale) nên có tài liệu dùng tên gọi
là: Bảo đảm xã hội, An toàn xã hội, Bảo trợ xã hội hoặc An sinh xã hội. Để tránh lẫn
với cụm từ “Trật tự an toàn xã hội”, mà ở nước ta hay dùng với một ý nghĩa khác.
Theo nghĩa chung nhất Social Security là sự đảm bảo thực hiện các quyền của con
người được sống trong hoà bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu
chính kiến trong khuôn khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật;
được học tập, được có việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những
nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già... Theo nghĩa này thì tầm
“bao” của Social Security rất lớn và vì vậy khi dịch sang tiếng Việt có nhiều nghĩa




như trên cũng là điều dễ hiểu. Theo nghĩa hẹp, Social Security được hiểu là sự bảo
đảm thu nhập và một số điều kiện sinh sống thiết yếu khác cho người lao động và gia
đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm; cho những người già cả, cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những
người nghèo đói và những người bị thiên tai, địch hoạ.... Theo quan điểm của hệ
thống pháp luật Việt Nam, an sinh xã hội (ASXH) thường được hiểu theo nghĩa của
từ social security.
Theo quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), trong công ước số 102 thì an
sinh xã hội “...là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua hàng
loạt các biện pháp công cộng nhằm chống lại tình cảnh khốn khổ về kinh tế và xã hội
gây ra bởi tình trạng bị ngừng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản,
thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử vong, sự cung cấp về chăm
sóc y tế và cả sự cung cấp các khoản tiền trợ cấp cho các gia đình đông con” [7]. Như
vậy, về mặt bản chất, an sinh xã hội là góp phần bảo đảm đời sống và thu nhập cho
mọi người trong xã hội. Phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công
cộng. Mục đích là tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên trong xã hội và vì vậy mang
tính xã hội và tính nhân văn sâu sắc.
Còn theo đạo luật năm 1935 về an sinh xã hội của Mỹ thì an sinh xã hội “... là sự bảo
đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng những giá trị cá nhân đồng thời tạo lập cho mỗi
con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ”.
Tại Hội nghị trù bị về “an sinh xã hội ASEAN” tháng 6/2001 ở Singapore, các nhà
khoa học đã đưa ra một khái niệm tương đối rộng về an sinh xã hội. Hệ thống an sinh
xã hội bao gồm: Bảo hiểm xã hội và tiết kiệm; Bảo hiểm tai nạn công nghiệp, y tế,
người già, thất nghiệp. Đó là hệ thống có sự tham gia đóng góp của các bên tạo nguồn
dự trữ để sử dụng cho các trường hợp lúc tuổi già, ốm đau, thai sản, chết, tàn tật,
thương tật, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp; Trợ giúp xã hội và những dịch vụ xã hội
(trợ cấp). Đó là loại phúc lợi xã hội trích từ thuế và các nhà tài trợ và chính sách thị
trường lao động (bao gồm cả thị trường lao động tích cực và thụ động); tạo cơ hội

việc làm, hình thành nguồn nhân lực, phát triển kỹ năng nghề nghiệp, tìm kiếm việc
làm (thông tin, giới thiệu việc làm; đào tạo lại; hỗ trợ việc làm).
Qua các khái niệm trên, có thể thấy, an sinh xã hội có đối tượng áp dụng rộng lớn,
bao gồm toàn bộ thành viên xã hội. Nội dung là sự bảo vệ của xã hội được thực hiện
thông qua một loạt các biện pháp công cộng tiến hành bởi Nhà nước, tổ chức, cá
nhân... dưới hình thức tương trợ bằng tiền, hiện vật, phương tiện... nhằm mục đích
chống lại những túng quẫn về kinh tế, những khó khăn về mặt xã hội của người dân
khi gặp phải những biến cố, rủi ro góp phần đảm bảo cuộc sống con người và cao hơn
thế là đảm bảo an toàn chung cho toàn xã hội.


Ở Việt Nam, thuật ngữ “An sinh xã hội” đã xuất hiện vào những năm 70 trong
một số cuốn sách nghiên cứu về pháp luật của một số học giả Sài Gòn. Sau năm
1975, thuật ngữ này được dùng nhiều và đặc biệt là từ năm 1995 trở lại đây nó
được dùng khá rộng rãi hơn. Thuật ngữ “an sinh xã hội” thường được các nhà
quản lý, các nhà nghiên cứu và những người làm công tác xã hội nhắc đến nhiều
trong các cuộc hội thảo về chính sách xã hội, trên hệ thống thông tin đại chúng
cũng như trong các tài liệu, văn bản dịch. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều quan
niệm khác nhau về an sinh xã hội. Có quan niệm thì coi an sinh xã hội như là
“bảo đảm xã hội”, “bảo trợ xã hội”,
“an toàn xã hội” hoặc là “bảo hiểm xã hội” nhưng có quan niệm khác lại cho rằng:
“an sinh xã hội” là bao trùm các vấn đề nêu trên. Chúng ta có thể xem xét một số cách
hiểu như sau:
- Trong cuốn “Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam” tập I cũng đã thống nhất khái
niệm về an sinh xã hội (Social Security) là: “Sự bảo vệ của xã hội đối với công dân
thông qua các biện pháp công cộng nhằm giúp họ khắc phục những khó khăn về kinh
tế và xã hôi; đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông
con...”
- Theo PGS. TS Đỗ Minh Cương thì an sinh xã hội (bảo đảm xã hội): “... là sự bảo vệ
của xã hội đối với những thành viên của mình, trước hết là trong những trường hợp

túng thiếu về kinh tế và xã hội, bị mất hoặc giảm sút thu nhập đáng kể do gặp những
rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất
người nuôi dưỡng, nghỉ do thai sản, về già, trong các trường hợp thiệt hại do thiên tai,
địch hoạ, hoả hoạn. Đồng thời xã hội cũng ưu đãi những thành viên của mình đã xả
thân vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho cách mạng, xây dựng và bảo vệ
tổ quốc. Mặt khác cũng cứu vớt những thành viên lầm lỗi mắc vào tệ nạn xã hội nhằm
phối hợp chặt chẽ với các chính sách xã hội khác đạt tới mục đích dân giàu, nước
mạnh, xã hội văn minh”.
- Theo PGS Tương Lai thì: “Bảo đảm xã hội (an sinh xã hội) là một lĩnh vực rộng
lớn, không chỉ bao hàm sự bảo vệ của xã hội đối với mọi người khi gặp phải thiếu
thốn về kinh tế, mà còn bảo đảm về môi trường thuận lợi để giúp mọi người phát triển
về giáo dục, văn hoá nhằm nâng cao trình độ dân trí, học vấn...”
Như vậy, có thể thấy rằng an sinh xã hội là một lĩnh vực rộng lớn, phức tạp khó có
thể đưa ra một định nghĩa đáp ứng được tất cả các nội dung trong điều kiện kinh tế,
xã hội , chính trị, truyền thống dân tộc, tôn giáo ở mỗi nước khác nhau hoặc trong các
giai đoạn lịch sử ở từng nước.
Theo cách hiểu phổ biến, ASXH là sự bảo vệ, trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng
đối với những người “yếu thế” trong xã hội bằng các biện pháp khác nhau nhằm hỗ
trợ cho các đối tượng khi họ bị suy giảm khả năng lao động, giảm sút thu nhập hoặc
gặp rủi ro, bất hạnh, rơi vào tình trạng nghèo đói, hoặc là ốm đau, thai sản, tai nạn lao


động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, mất sức lao động, già yếu...động viên, khuyến
khích tự lực vươn lên giải quyết vấn đề của chính họ.
Khi xem xét về cấu trúc của hệ thống ASXH Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng có
nhiều quan điểm chưa thống nhất.
Theo TS Bùi Sỹ Lợi Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội thì
hiện tại hệ thống ASXH ở Việt Nam được cấu thành gồm hai bộ phận chính là: Bảo
hiểm xã hội và Cứu trợ xã hội. Theo một nghiên cứu của UNDP thì ở Việt Nam, an
sinh xã hội “chỉ hệ thống bảo hiểm xã hội do Bảo hiểm xã hội Việt Nam”… Còn theo

tác giả Mạc Văn Tiến hệ thống ASXH Việt Nam được cấu thành từ 3 bộ phận chính
là bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội và ưu đãi xã hội.
Qua các tài liệu nghiên cứu của ILO thì ASXH được biết đến với những bộ phận như
sau: Bảo hiểm xã hội/ Cứu trợ xã hội (Trợ giúp xã hội)/ Trợ cấp từ quĩ công cộng/
Trợ cấp gia đình/ Chế độ bảo vệ của chủ sử dụng lao động/ Các dịch vụ xã hội (dịch
vụ y tế, dự phòng y tế, dự phòng tai nạn, dịch vụ đặc biệt đối với người tàn tật, người
già yếu, bảo vệ trẻ em,.../ Quỹ dự phòng. Một số tài liệu của ILO cũng gộp những nội
dung trên thành ba cơ chế chính, đó là: 1). Bảo hiểm xã hội; 2). Trợ giúp xã hội (cứu
trợ xã hội) và 3). Cơ chế tuỳ nghi (bao gồm các nội dung còn lại).
Quan điểm của cá nhân em, dựa trên quan điểm cách thức phân loại của ILO và một
số tác giả em đồng ý với quan điểm của PGS.TS Mạc Văn Tiến: hệ thống ASXH Việt
Nam cấu thành từ 3 bộ phận chính là bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội và ưu đãi xã
hội.
* Bảo hiểm xã hội.
Điểm nổi bật nhất trong hệ thống ASXH Việt Nam chính là BHXH Việt Nam, được
hiểu “là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi
họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã
hội” (Luật BHXH 2006, Điều 3).
Bảo hiểm xã hội là bộ phận quan trọng nhất, có ý nghĩa là trụ cột trong hệ thống
ASXH ở Việt Nam, bao gồm các khoản trợ cấp dài hạn, trợ cấp ngắn hạn, bảo hiểm
thất nghiệp và bảo hiểm y tế. Hiện nay bảo hiểm xã hội Việt Nam đã được cải cách và
ngày càng phát huy vai trò của mình đối với đời sống người lao động. Đối tượng bảo
hiểm xã hội đã được mở rộng tới mọi người lao động với hai hình thức tham gia bắt
buộc và tự nguyện. Tính đến hết năm 2009, tổng số người đang thụ hưởng chính sách
BHXH là: 2.041.538 người, số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là: 9.101.039
người, số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là: 34.669 người; tổng số đối tượng
tham gia BHYT: 53,3 triệu người; tổng số đối tượng được hưởng trợ cấp xã hôị



thường xuyên hàng tháng là: 1.253.000 người và hàng năm Chính phủ cứu trợ đột
xuất cho hàng triệu lượt người, góp phần bảo đảm an sinh xã hội cho toàn dân.
Theo báo cáo của UNDP thì Bảo hiểm xã hội “bắt đầu được thực hiện ở Việt Nam từ
năm 1947 và được mở rộng năm 1993, từ phạm vi ban đầu là khu vực nhà nước sang
khu vực doanh nghiệp tư nhân và công ty liên doanh. Chương trình BHXH thực hiện
bằng nguồn đóng góp bao gồm trả lương hưu trí, trợ cấp thương tật, trợ cấp thai sản
và đến năm 2002 thì bổ sung thêm trợ cấp thất nghiệp (Martin Evans và các tác giả,
2006: 2). BHXH Việt Nam khi mới bắt đầu thực hiện được áp dụng cho đối tượng
công nhân viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang, nguồn tài chính cho BHXH chủ
yếu từ ngân sách nhà nước. Cùng với sự đổi mới trong quản lý kinh tế - xã hội,
BHXH dần dần được mở rộng, nguồn tài chính cho BHXH được xây dựng dựa trên
nguyên tắc có sự tham gia của nhà nước, của người sử dụng lao động và người lao
động để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Các chương trình BHXH Việt Nam hiện gồm hai hình thức: trợ cấp ngắn hạn và trợ
cấp dài hạn. Trợ cấp ngắn hạn gồm có trợ cấp thai sản, trợ cấp ốm đau, trợ cấp
4thương tật và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp thất nghiệp và mất việc làm do thừa lao
động. Trợ cấp dài hạn gồm lương hưu và tử tuất.
Nếu như năm 2000 ở Việt Nam mới chỉ có 4,1 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội
thì 10 năm sau đó số lượng này đã tăng hơn gấp đôi với 9,4 triệu người tham gia.
* Cứu trợ xã hội.
Được thực hiện chủ yếu theo hai chế độ: cứu trợ thường xuyên và cứu trợ đột xuất.
Cứu trợ thường xuyên áp dụng với các đối tượng người già cô đơn, trẻ em mồ côi,
người tàn tật nặng... với các hình thức bằng tiền, hiện vật để giúp đỡ các đối tượng
này ổn định cuộc sống. Cứu trợ xã hội đột xuất áp dụng với các đối tượng gặp rủi ro,
hoạn nạn, thiên tai hạn hán, hoả hoạn..., có tính chất tức thời giúp đỡ con người vượt
qua hoạn nạn, khó khăn.Nếu xem xét ở phạm vi rộng thì ASXH ở Việt Nam còn bao
gồm cả các nội dung khác như: chính sách Ưu đãi xã hội, chương trình xoá đói giảm
nghèo, chương trình trợ giúp các địa phương đặc biệt khó khăn.. và gồm cả các loại
quỹ tiết kiệm và các loại bảo hiểm khác.
Cứu trợ xã hội là một công tác trọng tâm trong chính sách xã hội ở nước ta Trong

những năm qua đi cùng với quá trình đổi mới đất nước, xây dựng kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa… chúng ta đã thu được những thành quả lớn về
kinh tế, văn hoá, xã hội. Tuy nhiên, nước ta là nước nghèo, chịu hậu quả nặng nề của
chiến tranh, thiên tai (bão lụt, hạn hán…) thường xuyên xảy ra gây thiệt hại không
nhỏ về người và tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân và điều kiện phát
triển kinh tế-văn hoá-xã hội. Mặt trái của kinh tế thị trường: phân hoá giàu nghèo,
chạy theo lối sống thực dụng suy giảm đạo đức, lối sống, thất nghiệp… đang là những


nguyên nhân làm tăng đối tượng xã hội: Người già cô đơn, người lang thang, người
tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tệ nạn xã hội… Đây là nhóm đối
tượng cần có sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần của Nhà nước và xã hội. Theo số liệu
của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, số tiền ngân sách chi ra cho những hoạt
động này (chỉ tính riêng năm 2000) là 648,8 tỷ đồng và những năm sau đó vẫn tiếp
tục tăng. Riêng hai năm 2000 – 2001 đã đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho gần 800
nghìn người lao động, khoảng 16% số người mắc phải tệ nạn xã hội được tập trung
cải tạo và dạy nghề giúp họ trở lại con đường làm ăn lương thiện.
Với mục tiêu: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội” chúng
ta đã ưu tiên nguồn lực xã hội đầu tư cho phát triển dịch vụ phúc lợi xã hội cơ bản: Y
tế, giáo dục, nước sạch.. do vậy đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân,
trong đó có nhóm người yếu thế đã từng bước được nâng lên. Đi cùng với đầu tư phát
triển phúc lợi xã hội một loạt chính sách hỗ trợ trực tiếp cũng được triển khai thực
hiện như: chính sách cứu trợ đột xuất, thường xuyên, chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn. Cụ thể là một hệ thống văn bản pháp quy đã được xây dựng như:
Pháp lệnh người tàn tật được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 30/7/1998,
Pháp lệnh người cao tuổi được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày
28/4/2000, Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 9/3/2000 của Chính phủ về chính sách
cứu trợ xã hội… Người chết do thiên tai được hỗ trợ tiền thuốc chữa bệnh, hộ gia
đình mất nhà, mất tài sản, phương tiện sản xuất, thiếu đói… đều có chính sách trợ
giúp của Nhà nước. Đối với người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi,

người tàn tật nặng không có nguồn nuôi dưỡng được hưởng trợ cấp cứu trợ xã hội
thường xuyên của xã, phường hoặc được đưa vào nuôi dưỡng tập trung trong các cơ
sở Bảo trợ xã hội. Ngoài ra, họ được hỗ trợ khám chữa bệnh miễn phí, giáo dục,
chỉnh hình phục hồi chức năng, dạy nghề, tạo việc làm… và đặc biệt thường xuyên
nhận được sự chăm sóc của cộng đồng xã hội. Hệ thống chính sách đã thể hiện sự
bình đẳng, công bằng xã hội.
Tuy nhiên, các qui định về cứu trợ xã hội cũng còn có những hạn chế nhất định như:
Số đối tượng được hưởng chính sách cứu trợ còn quá ít, cá biệt vẫn còn có tỉnh chưa
thực hiện trợ cấp cứu trợ xã hội xã, phường hoặc chưa nâng mức trợ cấp theo qui định
tại Nghị định số 07/2000/NĐ-CP. Công tác xây dựng và bảo vệ kế hoạch ngân sách
địa phương cho công tác cứu trợ xã hội còn yếu, nhiều Sở Lao động – Thương binh
và Xã hội không quan tâm đến mục chi ngân sách này. Trình độ chuyên môn, kỹ năng
quản lý của cán bộ còn hạn chế, nhất là đối với số cán bộ cơ sở (cấp huyện, xã). Công
tác quản lý, điều tra thống kê đối tượng đã được quan tâm chỉ đạo, nhưng do thiếu cán
bộ, phương tiện và kinh phí nên làm chưa thường xuyên và đầy đủ. Hệ thống văn bản
hướng dẫn đôi khi còn chậm, nội dung còn có điểm chồng chéo. Công tác thanh tra,
kiểm tra đã được tiến hành nhưng chưa triệt để…
* Ưu đãi xã hội


Là một bộ phận đặc thù trong hệ thống an sinh xã hội Việt Nam. Đối tượng hưởng ưu
đãi xã hội là những người tham gia bảo vệ giải phóng đất nước. Ưu đãi xã hội là sự
đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với những người có công với nước với dân, với
cách mạng (và thành viên của gia đình) nhằm ghi nhận những công lao đóng góp, hy
sinh cao cả của họ. Điều này chẳng những thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, cộng
đồng và toàn xã hội, mà còn nói lên đạo lý của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “ăn
quả nhớ kẻ trồng cây”.
Tóm lại, an sinh xã hội là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta,
giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội đã được nhấn mạnh trong các kỳ
đại hội Đảng, đặc biệt tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001):

“Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm thực hiện
chính sách bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động... Thực hiện các chính sách
xã hội bảo đảm an toàn cho cuộc sống của các thành viên cộng đồng, bao gồm bảo
hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế, cứu trợ xã hội đối
với người gặp rủi ro, bất hạnh, ... thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận dụng toàn
dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa...”. Để triển khai thực hiện chủ trương
này, thời gian qua chúng ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật với mục đích nhằm
tiến tới xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, là “tấm lá chắn” cho mọi
thành viên xã hội, xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ và phát triển bền vững.
* Một số ý kiến đóng góp nhằm xây dựng hệ thống an sinh xã hội Việt Nam để ngày
càng hoàn thiện và đi sâu vào cuộc sống người dân hơn:
Thứ nhất về bảo hiểm xã hội:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống BHXH làm cho nó trở thành trụ cột của mạng lưới
an sinh xã hội. Trước hết, cụ thể hóa Luật BHXH, trong đó tập trung xác định rõ đối
tượng tham gia BHXH bao gồm đối tượng bắt buộc BHXH là người làm công ăn
lương của cả khu vực công và khu vực tư và BHXH tự nguyện cho mọi người dân
theo nguyên tắc có đóng bảo hiểm thì được nhận trợ cấp theo quy định, quyền lợi và
nghĩa vụ, trách nhiệm của người tham gia BHXH, trách nhiệm của tổ chức BHXH,
của các Bộ, ngành liên quan như Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ,
Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư…
- Cần mở rộng đối tượng tham gia BHXH tới mọi người lao động, dù họ tham gia lao
động trong bất cứ ngành nghề nào, thuộc thành phần kinh tế nào, miễn là họ tham gia
đóng góp đầy đủ vào quỹ BHXH như luật định.
- Cần phải qui định loại hình BHXH tự nguyện một cách cụ thể để thu hút mọi người
tham gia BHXH. Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện có thể là nông dân, xã viên
hợp tác xã, lao động tự do… Mức đóng BHXH của các đối tượng này tuỳ thuộc vào
thu nhập của họ. Mỗi người lao động có thể tự lựa chọn các chế độ BHXH tự nguyện


tương tự với các chế độ của loại hình BHXH bắt buộc, ví dụ như chế độ hưu trí, tử

tuất… Tuy nhiên, trong luật cần phải đặc biệt chú ý thế nào là “tự nguyện” để khi họ
tự nguyện tham gia rồi thì phải tham gia liên tục.
- Tiếp tục phát triển BHYT tự nguyện cho nông dân, lao động nông thôn và BHYT
cho người nghèo. Nhà nước cần phải đầu tư và mở rộng hệ thống y tế cộng đồng và
địa phương để cung cấp các dịch vụ y tế cho người dân.
Cần phải quy định thêm về chế độ bảo hiểm thất nghiệp vào các chế độ BHXH. Bảo
hiểm thất nghiệp được quy định rõ trong Công ước 102 của ILO. Đây là một dạng trợ
cấp có liên quan đến nhiều lĩnh vực như chính sách việc làm, chế độ thôi việc. Xung
quanh vấn đề này còn có những ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng bảo hiểm thất
nghiệp là một bộ phận của chính sách việc làm gắn liền với quá trình lao động nên
phải tổ chức riêng. Có ý kiến lại cho rằng đây chỉ là một bộ phận của BHXH thông
qua qui định trong Công ước 102. Sự không thống nhất này xuất phát từ quan niệm về
thất nghiệp, người thất nghiệp chưa được giải quyết thoả đáng. Theo chúng tôi, việc
quy định chế độ bảo hiểm thất nghiệp chỉ nên qui định ở dạng khung chính sách trong
Luật BHXH, để từ đó có những quy định cụ thể bằng những văn bản dưới luật sao
cho phù hợp với đặc thù của chế độ này
- Cần có các biện pháp để bảo tồn và đầu tư tăng trưởng quỹ. Quỹ BHXH phải được
quản lý thống nhất dân chủ và công khai. Để tăng nguồn thu – chi, Quỹ BHXH ngoài
việc mở rộng đối tượng tham gia còn phải thu đúng, thu đủ và xử lý nghiêm những
trường hợp không đóng BHXH hoặc nộp phí BHXH kéo dài.
- Củng cố lại những cơ sở khám chữa bệnh BHYT, đề cao tinh thần trách nhiệm của
đội ngũ thầy thuốc và cán bộ quản lý BHYT nhằm nâng cao chất lượng khám chữa
bệnh nhằm phục vụ cuộc sống ngày một tốt hơn, tiến tới BHYT toàn dân.
Thứ 2 Về ưu đãi xã hội:
- Đảm bảo và không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng
và ban hành chính sách ưu đãi xã hội.
- Pháp điển hoá đầy đủ, đồng bộ pháp luật ưu đãi, tạo ra một văn bản pháp luật mới
có tính kế thừa, thống nhất, hiệu lực pháp lý cao.
- Các chế độ ưu đãi phải gắn với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, với
truyền thống đạo lý, đời sống văn hoá của dân tộc Việt Nam như Nghị quyết Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ “Ưu đãi xã hội phải phù hợp với sự
tăng trưởng, tiến bộ và công bằng xã hội”.
- Chế độ trợ cấp ưu đãi xã hội cần bóc tách ra khỏi chế độ tiền lương của cán bộ công
chức. Trợ cấp ưu đãi qui định ở Pháp lệnh phải phù hợp với qui định tại Hiến pháp và
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc và được cụ thể hoá tại Hội nghị lần thứ VIII của
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX.


- Cần phải xây dựng các quy phạm xác nhận đối tượng, chế độ ưu đãi về trợ cấp, chế
độ ưu đãi ngoài trợ cấp, chế độ khen thưởng, xử lý vi phạm và những hình thức,
phương pháp quản lý Nhà nước trong lĩnh vực người có công.
Thứ 3 Về cứu trợ xã hội:
- Cần phải mở rộng hình thức giúp đỡ đối tượng hưởng trợ cấp cứu trợ thường xuyên
như có chính sách khuyến khích động viên các cá nhân, tổ chức tham gia thực hiện xã
hội hoá công tác cứu trợ xã hội.
- Mức cứu trợ hàng tháng cho các đối tượng còn thấp trong khi trượt giá năm sau cao
hơn năm trước, do vậy cần phải có cách tính để ổn định cuộc sống cho họ.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra.
- Cần phải rà soát, giảm bớt những thủ tục hành chính đối với đối tượng khi được
nhận trợ cấp xã hội.
- Cần phải đẩy mạnh công tác quản lý nắm chắc đối tượng tại cơ sở: lập sổ quản lý
đối tượng tại xã, phường, định kỳ 6 tháng, 1 năm, rà soát danh sách và tổng hợp báo
cáo.
Để đáp ứng yêu cầu của đất nước, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật an sinh xã
hội phải trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu lập pháp đã đạt được cũng
như điều chỉnh các quan hệ mới theo điều kiện thực tế là rất cần thiết. An sinh xã hội
là nhu cầu thiết yếu của con người. Xã hội càng phát triển, đời sống của người dân
nói chung và đối tượng “yếu thế” nói riêng càng được tăng lên. Hiện nay, nền kinh tế
nước ta đã và đang có những bước phát triển vượt bậc, tuy nhiên, tình trạng phân hóa
giàu nghèo, sự bất bình đẳng có nguy cơ gia tăng. Hệ thống an sinh xã hội còn hẹp

(nhất là đối với khu vực phi chính thức), nguồn lực đầu tư cho trợ giúp xã hội còn quá
ít trong đó đối tượng, phạm vi cần được sự bảo trợ của xã hội lại quá lớn. Vì vậy, hệ
thống an sinh xã hội cũng có sự thay đổi theo xu hướng phát triển chung thì mới có
thể phù hợp. Để có được một hệ thống an sinh xã hội phát triển, đủ sức chống đỡ với
các rủi ro xã hội không chỉ là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia mà còn là sự quan
tâm chung của cả cộng đồng quốc tế.
2. Giải quyết bài tập:
- Xác định việc bị thương của Anh Hải trong trường hợp này chính là “tai nạn lao
động” bởi vì căn cứ điều 39 luật bảo hiểm xã hội về điều kiện hưởng chế độ tai nạn
lao động:
Điều 39. Điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động:
Người lao động được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều kiện sau đây
1. Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc;


b) Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu
của người sử dụng lao động;
c) Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và
tuyến đường hợp lý;
Tai nạn của Anh Hải xảy ra ngoài giờ làm việc tuy nhiên vì anh đang thực hiện công
việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động hay để phục vụ cho công việc của công
ty của ngày hôm sau. Mặt khác khoản 2 điều này quy định:
“2. Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn quy định tại khoản 1
Điều này”.
Trong khi đó “anh Hải bị suy giảm 64% sức lao động” vì vậy anh phải được hưởng
chế độ tai nạn lao động là hoàn toàn có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật
hiện hành.
2. áp dụng điều 114, 118 luật BHXH 2006 thì người sử dụng lao động ở cơ quan anh
Hải có trách nhiệm nộp hồ sơ hưởng chế độ tai nạn lao động cho anh Hải cho cơ quan

bảo hiểm xã hội và theo khoản 2 điều 118 thì cơ quan này có trách nhiệm giải quyết
“trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ; trường hợp
không giải quyết thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do”.
Theo điều 114 thì anh Hải phải nộp đủ các hồ sơ cho người sử dụng lao động sau:
1.
2.

3.
4.
5.

Sổ bảo hiểm xã hội.
Biên bản điều tra tai nạn lao động, trường hợp bị tai nạn giao thông được
xác định là tai nạn lao động thì phải có thêm bản sao Biên bản tai nạn
giao thông.
Giấy ra viện sau khi đã điều trị tai nạn lao động.
Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám
định y khoa.
Văn bản đề nghị giải quyết chế độ tai nạn lao động.

3. Giải quyết quyền lợi của anh Hải: Vì anh Hải bị tại nạn lao động và bị suy giảm
64% khả năng lao động vì vậy anh Hải sẽ được nhận trợ cấp hàng tháng theo quy
định của luật bảo hiểm xã hội.
Áp dụng điều 43 luật bảo hiểm xã hội 2006 (điều 22 nghị định 156/2006/NĐ- CP
hướng dẫn luật bảo hiểm xã hội) ta có mức hưởng của anh Hải là:
Điều 43. Trợ cấp hằng tháng


1. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ
cấp hằng tháng.

2. Mức trợ cấp hằng tháng được quy định như sau:
a) Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương tối thiểu
chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu
chung;
b) Ngoài mức trợ cấp quy định tại điểm a khoản này, hằng tháng còn được hưởng
thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở
xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính
thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước
khi nghỉ việc để điều trị.
Như vậy với mức bị suy giảm 64% anh Hải sẽ được hưởng 94% mức lương tối thiểu
chung cộng với khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội theo điểm B
khoản 2 điều 43 luật bảo hiểm xã hội 2006.
“b) Ngoài mức trợ cấp quy định tại điểm a khoản này, hằng tháng còn được hưởng
thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở
xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được tính
thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước
khi nghỉ việc để điều trị”.



×