Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bài dự thi mẫu EM YÊU LỊCH SỬ mới nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 23 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO QUẬN HAI BÀ TRƯNG
TRƯỜNG THCS TRẦN PHÚ
====*****====

BAI DƯTHI
“EM YÊU LỊCH SỬ VIÊÊT NAM”
Họ và tên: ……………………………
Lớp:

............................................

Năm học 2016 - 2017


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
Câu 1. Trong cuốn Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm ghi
lại bài ca dao về 36 phố Hà Nội, có câu như sau :
Rủ nhau đi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Đóng vai một hướng dẫn viên du lịch em hãy giới thiệu về Lịch sử 36
phố phường của Thăng Long - Hà Nội.
-Trả lời:Xin chào các bạn!Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất đến các bạn ,
những người đã thể hiện tình yêu của mình đối với thành phố Hà Nội yêu quý
cuả chúng tôi bằng việc dành thời gian đến tham quan, du lịch Hà Nội.Hôm nay
với vai trò là một công dân của Thủ Đô tôi xin làm hướng dẫn viên để cùng
đồng hành với các bạn trong chuyến du lịch này nhé.
Các bạn thân mến! Thật tự hào khi được giới thiệu với các bạn về thành phố
Hà Nội. Thành phố có bề dày lịch sử ngàn năm văn hiến.Đúng là như vậy đấy các
bạn ạ :Nói đến quá trình lịch sử phát triển của “Thăng Long - Hà Nội” thì không
thể không nhắc đến khu phố cổ Hà nội. Trong cuốn Việt Nam thi văn hợp tuyển
của Dương Quảng Hàm ghi lại bài ca dao về 36 phố Hà Nội, có câu như sau :


Rủ nhau đi khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Nhắc đến Hà Nội có ai không biết đến 36 phố phường Hà Nội với những
con phố tấp nập: Hàng Thiêu, Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Mã… Mỗi một
con phố là một nơi lưu giữ kí ức lịch sử của thủ đô, cũng như lưu giữ kí ức về
những đời người đã sinh sống, làm việc và xây dựng đất nước. Trải qua rất
nhiều năm, phố cổ Hà Nội đã không còn nguyên vẹn như xưa, nhưng đây vẫn là
địa điểm tham quan hàng đầu khi đến với thủ phủ của đất nước để thăm thú
những dấu vết còn lại của một Hà Nội xưa cũ.Điểm đến đầu tên của chúng ta đó
là: Hàng Thêu. Ở Hà Nội thời “ ba mươi sáu phố phường” có đúng hẳn một dãy
phố chuyên về hàng Thêu. Ca dao Hà Nội cũ có câu:
Người đài các kẻ thanh tao
Qua hàng thợ Tiện lại vào hàng Gai,
Hàng Thêu, Hàng Trống, Hàng Hài…
2


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
Phố Thêu đó nay là đoạn cuối hàng Trống, chỗ giáp với phố Lê Thái Tổ.
Cho tới đầu thời Pháp thuộc, đây là nơi tập trung các cửa hàng thêu.
Nhưng trước đấy, vào thời Lê mạt thì trung tâm
nghề thêu ở Hà Nội lại là làng Yên Thái nay là khu
vực các Hàng Nón, Hàng Mành, Yên Thái…Ở chỗ
nhà số 2A phố Yên Thái nay vẫn còn ngôi đình thờ
tổ nghề thêu, trên cổng đình có ghi ba chữ Tú đình
thị (chợ đình thêu). Ngay trước hàng tháng tại đây
có họp chợ bán mua các thứ hàng này. Và hàng
năm, vào tháng 6 âm lịch, bà con phường thêu vẫn
về đây hội họp làm lễ giỗ tổ. Tổ là ông Lê Công
Thái (còn có tên khác là Trần Quốc Khái hoặc Bùi


Nghề thêu xưa…

Công Hành) sống thời Lê Trung Hưng người làng Quất Động nay thuộc huyện
Thường Tín, Hà Nội. Nhưng đó là truyền thuyết theo sử sách nước ta nghề thêu
đã có từ thế kỉ thứ nhất sau Công nguyên. Thời đó nhân dân ta đã dệt được vải
mịn và thêu hoa lá gọi là Bạch Diệp. Năm 1156 Vua nhà Lý đã từng tặng vua
nhà Tống 850 tấm đoạn màu vàng có thêu rồng cuộn. Vậy Lê Công Hành có thể
chỉ là người có công cải tiến kĩ thuật thêu hoặc sáng chế ra những kiểu mẫu mới
và phổ biến cho dân quanh vùng. Ngày trước nghề thêu chủ yếu là làm những
hàng phục vụ các nhà quyền quý, các đền chùa và phường tuồng (mũ mãng,
triều phục, cờ quạt, đối trướng, khăn trầu, áo ngự…). Kĩ thuật thêu thời ấy cũng
đơn giản, bảng mầu chỉ quanh quẩn có năm mầu. Tới đầu thế kỉ thứ hai mươi
mới có thêm các nguyên vật liệu mới (như sa tanh, chỉ xoa tức tơ chỉ châu Âu,
thuốc nhuộm nhiều mầu…) nên nghề thêu phát triển kĩ thuật thêu tinh vi hơn
thêu hàng trắng, thêu nổi trên kim tuyến v.v… Có nhiều mặt hàng mới mẻ đáp
ứng nhu cầu và thị hiếu đương thời: khăn trải giường thêu, những con rồng uốn
khúc vờn mây, chỗ nổi chỗ chìm, hoặc thêu chim phượng xòe cánh miệng ngậm
phong thư, đuôi vắt vẻo. Những mặt gối thêu tứ long ly, hay những bộ tranh tứ
bình: mai, lan, cúc, trúc… Có mặt hàng “đầu hổ” thêu đầu con hổ, đôi mắt tròn
3


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
xoe, mũ và trán độn cao gồ lên, râu ria tua tủa trông thật dữ. Lại có những bức
tranh thêu phong cảnh hoặc cảnh sinh hoạt chợ quê, đình làng, cô gái gẩy đàn,
ông đồ viết câu đố… Nhưng tinh xảo nhất thì phải kể đến loại tranh chân dung.
Đúng là người thợ thêu bằng cây kim và sợi chỉ mà “vẽ” lên chân dung những
con người. Điều này quả là khó, vì phải thêu sao cho giống y như người thật,
sinh động và có “thần sắc”.

Những bức tranh thêu phong cảnh với đề tài mới như: đền Ngọc sơn, cầu
Thê Húc, chùa Thầy, vịnh Hạ Long… Làm nhiều khách trong nước và nước
ngoài khâm phục.

…và nay
Loại tranh này phải dùng tới trên hai chục màu chỉ. Dùng ngọn bút vẽ và
pha trộn mầu cho hợp, cho đẹp đã không phải là dễ, vậy mà ở đây lại dùng có
cây kim bé tí, cứng nhắc mà pha trộn mầu thì thật là tuyệt xảo. Ngoài ra người
thợ thêu ngày nay còn thành công cả những bức thêu chân dung. Một vinh dự
cho ngành thêu Hà Nội là ông Song Hỷ, người được phong danh hiệu nghệ
nhân-đã hoàn thành bức tranh chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh với trên năm
mươi mầu chỉ. Đây là một bức tranh chỉ có thể nói vất vả và tuyệt diệu.
Từ lâu hàng thêu ở Hà Nội đã được trưng bày ở nhiều hội chợ quốc tế. Về
những mặt hàng ấy không những đậm đà mầu sắc dân tộc mà còn đáp ứng
những nhu cầu thẩm mĩ hiện đại. Phố Hàng Gai ngày nay là phố kinh doanh
hàng thêu với nhiều chủng loại áo quần, khăn và tranh.
4


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
-Câu 2: Hãy nêu tên những thắng lợi tiêu biểu của Lực lượng vũ trang Thủ
đô từ khi thành lập đến nay. Cảm nhận của em về một trong những thắng lợi
đó. Hãy kể một câu chuyện (nhân vật hoặc sự kiện) em biết, có liên quan đến
chiến thắng đó.
-Trả lời:
Hà Nội, những ngày đầu sau cách mạng tháng Tám
Từ tháng 3-1946 khi lính Pháp được thay lính Tầu Tưởng vào Hà Nội,
chúng hay giở trò khiêu khích ta và đã bị lực lượng tự vệ thành giáng trả đòn
đích đáng. Lực lượng này đội mũ có phù hiệu sao vàng trên nền vuông (khác với
lính chủ lực và vệ quốc đoàn phù hiệu sao vàng tên nền tròn). Chữ Pháp carê

(carré) là vuông, do vậy lính pháp gọi lực lượng này là “Việt Minh carê”.
Trong thời gian này, việc bảo vệ an ninh trong thành phố, ngoài các đội
công an xung phong thuộc sở công an Bắc Bộ còn có các đội tự vệ, đây là lực
lượng tự vệ vũ trang địa phương Hà Nội.
Thực ra tự vệ Hà Nội lúc đó gồm bốn thành phần: tự vệ chiến đấu, cứu
quốc Hoàng Diệu (gọi là tự vệ chiến đấu Hoàng Diêu), Tự vệ xí nghiệp, Tự vệ
thành Hoàng Diệu và dân quân tự vệ ngoại thành. Các lực lượng tự vệ trên
(nòng cốt là tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu) đều do thành ủy và ủy ban
hành chính thành phố trực tiếp lãnh đạo.
1- Tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu vừa làm nhiệm vụ bảo vệ các cơ quan
lãnh đạo, vừa củng cố tổ chức, làm công tác quần chúng huấn luyện quan sự
và học tập chính trị. Dù chỉ là lực lượng vũ trang địa phương nhưng về tổ
chức biên chế và các mặt sinh hoạt của tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu
đều theo nề nếp một đơn vị vũ trang tập trung. Do thành phần được chọn từ
những đội viên ưu tú của các đoàn thể cứu quốc, từng trải qua hoạt động
trong những ngày tiền khởi nghĩa và tham gia cướp chính quyền, đồng thời
do có sự lãnh đạo tực tiếp của chi bộ Đảng nên tự vệ chiến đấu cứu quốc
Hoàng Diệu phát huy vai trò xung kích đi đầu trong cuộc đấu tranh làm thất
bại âm mưu chống phá của quân Tưởng và bọn Việt Quốc, Việt Cách phản
động.
5


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
2- Cùng với việc xây dựng đội tự vệ chiến đấu, một tổ chức vũ trang tập trung
và thống nhất. Thành phố còn trọng xây dựng một lực vũ trang rộng rãi ở tất
cả các khu phố, trực thuộc ủy ban nhân dân thành phố. Đó là tự vệ thành
Hoàng Diệu (gọi tắt là tự vệ thành), một tổ chức thể hiện rõ đường lối vũ
trang toàn dân của Đảng.
Tự vệ thành gồm chủ yếu là nhân dân lao động, dân nghèo thành thị, học

sinh…Nhiệm vụ chủ yếu của tự vệ thành là phối hợp với công an bảo vệ trật
tự an ninh khu phố. Là lực lượng bán vũ trang nằm trong nhân dân nên tự vệ
thành có điều kiện tham gia và làm nòng cốt trong các hoạt động chính trị-xã
hội ở khu phố. Sự hiện diện của tự vệ thành đã khiến cho bọn phản động phải
kiêng dè, làm cho chúng không dám tùy tiện lộng hành trên các đường phố
Hà Nội.
3- Đồng thời thành phố chủ trương tiếp xúc phát huy vai trò các đội viên tự vệ
trong các xí nghiệp, nhà máy trong thành phố. Các tổ chức tự vệ xí nghiệp ra
đời là lực lượng vũ trang tại chỗ trong các xí nghiệp nhà máy với chức năng
vừa sản xuất vừa bảo vệ xí ngiệp và tham gia cuộc đấu tranh kinh tế ở các cơ
sở sản xuất do người Pháp làm chủ. Tự vệ xí nghiệp đã tự túc được trang bị
cho mình.
Như vậy sau khi giành chính quyền, trên địa bàn thành phố đã hình thành ba
lực lượng tự vệ, đều trưởng thành trong thực tiễn công tác, vừa xây dựng,
củng cố lực lượng, vừa đấu tranh bảo vệ chính quyền.
Để tăng cường sức mạnh chiến đấu, của lực lượng vũ trang Hà Nội, ngày 298-1946 tại quảng trường khu Đấu Xảo (nay là cung văn hóa hữu nghị ViệtXô) đã diễn ra lễ thống nhất ba lực lượng tự vệ Hà Nội với tên gọi chung là
đoàn thanh niên tự vệ Hà Nội.
4- Còn ở ngoại thành, thành phố cũng chủ trương phát triển dân quân tự vệ. Mỗi
xã tổ chức từ một trung đội đến một đại đội dân quân tự vệ. Các trung đội tự
vệ chiến đấu hoạt động tập trung, nòng cốt của các lực lượng vũ trang ngoại
thành cũng được tổ chức trong một số xã ngoại ô, tự vệ ngoại thành tham gia
sản xuất tại địa phương, vừa phối với hợp với trinh sát-công an thành phố
6


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
ngăn chặn hành động phá của bọn phản động, bảo vệ chính quyền cơ sở,
canh gác tuần phòng, đảm vảo an ninh địa phương.
Như vậy tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu chính là hình ản bộ đội địa
phương trong quá trình phát triên của lực lượng vũ trang toàn quốc sau này.

Còn tự vệ thành, tự vệ xí nghiệp và dân quân tự vệ ngoại thành với tính chất
quần chúng vũ tang rộng rãi, chính là công cụ bảo lực của chính quyền cơ sở
chiến đấu tại chỗ, với cái tên chung sau này là đan quân tự vệ, nằm trong lực
lượng hệ thống vũ trang ba thứ quân khi đã hình thành hoàn chỉnh.
Từ tháng 3-1946 khi quân pháp được phép vào Hà Nội, chúng đã gây nhiều
tội ác mới. các chiến sĩ tự vệ luôn kịp thời có mặt ở những nơi quân Pháp và bọn
phản động gây sự, khi cần buộc phải “ra tay” sẵn sàng dũng vũ lực để ngăn chặn
hành động gây rối khiêu khích của chúng, do đó lính Pháp rất sợ những người
Việt Minh đội mũ có sao vuông và dặn nhau hễ gặp “Việt Minh carê” thì nên
tránh.
Cảm nhận của em về chiến thắng của lực lượng vũ trang Hà Nội.
Ngay sau những ngày cách mạng tháng Tám Hà Nội rơi vào tình thế “ Ngàn
cân treo sơi tóc”. Tự vệ thành phố còn non trẻ, vũ khí thô sơ nhưng đã chiến đấu
với tinh thần mưu trí dũng cảm đối với kẻ thù đong hơn tình hình vô cùng phức tạp.
Lực lượng vũ trang là những người công nhân, thanh niên trí thức đã thể hiện
lòng yêu nước của mình bằng những hành động cụ thể từ hướng dẫn quần chúng
đến giữ trật tự an ninh thành phố, đến bảo vệ chính phủ kháng chiến. Họ đã có
mặt ở mọi nơi mọi lúc để ngăn chặn những hành động phá hoại của kẻ thù. Đó
là những con người không sợ hiểm nguy, xả thân vì Tổ quốc bảo vệ thành quả
cách mạng, trong những ngày đầu cách mạng tháng Tám thắng lợi.
Bản thân em rất khâm phục tinh thần, ý chí, nghị lực của lực lượng vũ trang
thành phố-Những người lính Việt Minh đội mũ có sao vuông làm kẻ thù vô cùng
khiếp sợ. Em nguyện sẽ là những thế hệ kế tục truyền thống của lớp cha ông đi
trước.

7


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
Câu 3:Bằng những kiến thức lịch sử chọn lọc, hãy khẳng định quá trình xác

lập và thực thi chủ quyền một cách liên tục của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Savà Trường Sa. Em cần làm gì để góp phần bảo vệ chủ quyền
biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc?
-Trả lời:
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam gồm nhiều đảo đá
san hô rất nhỏ ở giữa Biển Đông.

Hiện hai quần đảo đang là tâm điểm tranh chấp phức tạp giữa một số nước
ven Biển Đông. Về việc giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với lãnh thổ, pháp
luật quốc tế đã hình thành nguyên tắc xác lập chủ quyền là nguyên tắc chiếm
hữu thật sự và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách thật sự, liên tục và hòa
bình. Nguyên tắc này đã được các nước và các cơ quan tài phán quốc tế áp dụng
để giải quyết nhiều vụ tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên thế giới.
Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho
thấy rằng các Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo này hàng
trăm năm qua. Nói chính xác là các Nhà nước Việt Nam trong lịch sử và cho tới
nay đã thực thi chủ quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề
thuộc chủ quyền của bất cứ nước nào. Từ đó Việt Nam đã thực hiện việc xác lập
và thực thi chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
một cách liên tục và hòa bình.
8


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
Các bằng chứng lịch sử mà Việt Nam đã thu thập được rất phong phú, mặc
dù như đã nói, do hoàn cảnh chiến tranh liên tục nên nhiều thư tịch cổ của Việt
Nam đã bị mất mát, thất lạc. Tuy nhiên, những tư liệu còn lại đến nay và chính
sử vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo

bằng cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi.
Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ
Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và
Chính Biên (1844 - 1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875), các Châu bản
nhà Nguyễn (1802-1945)... đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như
là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra
khai thác các quần đảo này. Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng
thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Đỉnh
cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa là vào năm 1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần
đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền. Cũng cần nói thêm là
trong một thời gian khá dài, người Việt Nam luôn coi quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa là một dải đảo dài hàng vạn dặm trên Biển Đông, nên gọi là
Vạn Lý Trường Sa, hay Đại Trường Sa, Bãi Cát Vàng... Trên thực tế, các chúa
Nguyễn cũng như nhà Nguyễn sau này đều có nhiều hành động liên tục cử
người ra cai quản, khai thác các đảo trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để
thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai quần đảo. Các thể lệ tuyển chọn
người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các đội đều được Nhà nước quy định
rõ ràng. Các đội này được duy trì và hoạt động liên tục từ thời chúa Nguyễn
(1558-1783) đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và nhà Nguyễn. Triều đình Nhà
Nguyễn đã cử các tướng Phạm Quang Ảnh (năm 1815), Trương Phúc Sĩ, Phạm
Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật (các năm 1834, 1835, 1836) ra Hoàng Sa khảo
sát, đo đạc các đảo, khảo sát, vẽ bản đồ, xây miếu, dựng bia.
9


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
Sau khi đô hộ Đông Dương, Pháp nhân danh Việt Nam tiếp tục quản lý hai
quần đảo qua việc cử tàu chiến tuần tiễu để đảm bảo an ninh, ngăn chặn buôn

lậu, cho phép người Nhật khai thác phân chim trên đảo, cử tàu De Lanessan ra
nghiên cứu hải dương, địa chất, sinh vật... Từ năm 1930 đến 1932, các tàu chiến
Inconstant, Alerte, La Malicieuse và De Lanessan của hải quân Pháp liên tiếp ra
quần đảo Hoàng Sa. Đầu những năm 30 của thế kỷ 20, Pháp cho quân trú đóng ở
các đảo chính thuộc quần đảo Trường Sa. Các hoạt động này đã được công bố
trong Công báo của Cộng hòa Pháp ngày 26-7-1933. Năm 1933, Toàn quyền
Đông Dương ra Nghị định quy thuộc quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Pháp
cũng tách quần đảo Hoàng Sa ra khỏi tỉnh Nam Nghĩa và đặt vào tỉnh Thừa
Thiên và cho một đơn vị đóng quân ở đó. Sau khi trở lại Đông Dương, Pháp đã
yêu cầu quân Trung Hoa Dân Quốc rút khỏi các đảo mà họ đã chiếm đóng trái
phép năm 1946 và Pháp đã cho quân thay thế quân Trung Quốc, xây dựng lại
trạm khí tượng, đài vô tuyến.
Năm 1951, tại Hội nghị San Francisco (Hoa Kỳ) có một đề nghị bổ sung bản
dự thảo Hòa ước yêu cầu trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Nhưng Hội nghị đã bác bỏ đề nghị này với số phiếu áp đảo là 46
phiếu thuận, 3 phiếu chống và 1 phiếu trắng. Tại Hội nghị, Ngoại trưởng Trần
Văn Hữu dẫn đầu phái đoàn Chính phủ Quốc gia Việt Nam đã tuyên bố khẳng
định chủ quyền lâu đời của người Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa mà không gặp sự phản đối hay bảo lưu của nước nào.
Năm 1956 Pháp chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho Chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và chính quyền này đã cho quân ra tiếp quản, tổ
chức hai quần đảo về mặt hành chính (lập ở mỗi quần đảo một xã thuộc một
huyện ở đất liền), xây các bia chủ quyền, duy trì các trạm khí tượng. Từ những
năm 50 của thế kỷ 20 tình hình hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trở nên
phức tạp hơn. Lợi dụng tình hình rối ren khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo
Hiệp định Genève năm 1954, Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép nhóm
đảo phía đông của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956. Chính quyền VNCH đã
10



Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
kịch liệt phản đối. Năm 1959 quân Trung Quốc giả làm ngư dân đổ bộ lên nhóm
đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa. Quân đội VNCH đã phát hiện ngăn chặn và bắt
giữ 82 "ngư dân” Trung Quốc.
Đối với nhóm đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa, chính quyền VNCH tiếp
tục quản lý cho đến năm 1974. Năm 1974, Trung Quốc dùng không quân, hải
quân chiếm luôn phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền VNCH và
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã kịch liệt
phản đối hành động xâm lược này của Trung Quốc. Năm 1975, chính quyền
VNCH sụp đổ, Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp quản đầy đủ các đảo
do quân đội VNCH cai quản trên Biển Đông. Nhà nước Việt Nam thống nhất
sau đó tiếp tục khẳng định chủ quyền của người Việt Nam trên các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, ban hành nhiều văn bản hành chính nhà nước thành lập
các huyện đảo Hoàng Sa và huyện đảo Trường Sa cũng như hoàn thiện việc
quản lý hành chính trên các quần đảo này. Một sự thật hiển nhiên là cho đến
năm 1988 chưa hề có bất kỳ sự hiện diện nào của Trung Quốc ở quần đảo
Trường Sa. Ngày 14-3-1988, Trung Quân bắt đầu dùng vũ lực chiếm đóng trái
phép một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Dưới ánh sáng của
pháp luật quốc tế, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý để
khẳng định chủ quyền lâu đời và liên tục của mình đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa.
Công ước Luật Biển năm 1982 cho phép các quốc gia ven biển được hưởng
quy chế thềm lục địa để thăm dò và khai thác tài nguyên. Đây là chủ quyền
chuyên biệt, không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm hữu, khai phá hay
tuyên bố minh thị. Mọi sự tùy tiện chiếm cứ của nước ngoài dù có bằng vũ lực
hay không đều bất hợp pháp và vô hiệu lực. Về mặt địa lý, đảo Tri Tôn, quần
đảo Hoàng Sa chỉ cách Quảng Ngãi 135 hải lý và đảo Hoàng Sa (Pattle) chỉ cách
lục địa Việt Nam 160 hải lý. Vì vậy, quần đảo Hoàng Sa nằm trong thềm lục địa
của Việt Nam được quy định bởi Công ước về Luật Biển năm 1982. Về mặt địa
chất, các nghiên cứu khoa học đều cho thấy quần đảo Hoàng Sa là một thành

11


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
phần của Việt Nam. Về địa hình, đáy biển vùng quần đảo Hoàng Sa là một cao
nguyên chìm dưới đáy biển nối tiếp liên tục lục địa Việt Nam. Tại quần đảo
Trường Sa cũng vậy, về mặt địa chất và địa hình đáy biển các đảo Trường Sa là
sự tiếp nối tự nhiên của lục địa Việt Nam từ đất liền ra ngoài biển. Hơn nữa, bãi
Tư Chính và đảo Trường Sa (Spratly) chỉ cách đất liền Việt Nam từ 150 đến 200
hải lý, nằm trong thềm lục địa của Việt Nam.
Một yêu cầu hết sức khách quan đặt ra cho tất cả các nước có hoạt động liên
quan tới Biển Đông là phải tuân thủ pháp luật chung mà cộng đồng quốc tế,
trong đó có các quốc gia ven Biển Đông, đã dày công xây dựng - Công ước Liên
Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 của. Khi vận dụng Công ước để thực thi chủ
quyền và quyền chủ quyền đối với nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của mình, các quốc gia ven Biển Đông có nghĩa vụ tôn trọng chủ
quyền và quyền chủ quyền của các nước khác ven Biển Đông đối với lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ. Trong thời đại văn minh, sử
dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm lãnh thổ nước khác đã bị
pháp luật quốc tế nghiêm cấm. Vũ lực cũng sẽ không phải là cách thức đúng đắn
để giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông. Tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật quốc tế, tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc, tôn trọng các quy
định của Công ước Luật Biển năm 1982, giải quyết tranh chấp bằng các biện
pháp hòa bình, thực hiện đầy đủ các cam kết trong DOC, tiến tới xây dựng Bộ
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), cùng chung sức theo hướng biến Biển
Đông thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác là thể hiện sự hành xử của
những quốc gia văn minh, tôn trọng sự thật lịch sử cũng như thượng tôn pháp
luật quốc tế mà chính mình đã công nhận và ký kết.

12



Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”

Trẻ em đảo Trường Sa Lớn ngày nay
đang trên đường đến lớp học
Chúng em cần làm những việc sau để góp phần bảo vệ chủ quyền biển
đảo thiêng liêng của Tổ Quốc:
Biển, đảo Việt Nam là phần lãnh thổ của đất nước Việt Nam, qua nghìn đời
nó đã luôn gắn chặt với cư dân nước Việt về cả vật chất lẫn tinh thần. Biển, đảo
là máu thịt của Tổ quốc, vì vậy mỗi người dân Việt Nam phải có trách nhiệm
giữ gìn và bảo vệ biển đảo. Đăc biệt là chúng em-những chủ nhân tương lai của
đất nước.
- Trước hết là học sinh sinh viên cần đi đầu trong việc tích cực tuyên truyền,
nâng cao nhận thức cho cộng đồng về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững
biển và hải đảo Việt Nam. Đồng thời tranh thủ các nguồn lực và sự ủng hộ từ
hợp tác quốc tế với các nước bè bạn và các tổ chức quốc tế trên mọi lĩnh vực.
- Tăng cường học tập, nghiên cứu, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý,
bảo vệ và phát triển bền vững biển, đảo.
- Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cộng đồng về khai thác, sử dụng bền
vững tài nguyên và bảo vệ môi trường vùng ven biển, hải đảo.
13


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến kiến thức phòng ngừa, ứng phó, kiểm
soát và khắc phục hậu quả thiên tai, sự cố môi trường biển.
- Xây dựng và quảng bá thương hiệu biển Việt Nam.
- Tích cực tham gia góp phần tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị thế quốc
gia biển và hội nhập quốc tế trong quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển,

đảo.
- Sẵn sàng làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc khi được điều động.
- Sẵn sàng lên đường nhập ngũ, thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân,
tham gia làm nhiệm vụ vì Trường sa, Hoàng sa- vì chủ quyền biển, đảo, vì sự
toàn vẹn và thống nhất lãnh thổ Việt Nam thân yêu.
Nói tóm lại biển đảo Việt Nam là một phần lãnh thỏ thiêng liêng không thể
tách rời của Tổ quốc được cha ông truyền lại.Trách nhiệm của học sinh chúng
em chính là ra giữ toàn vẹn lãnh thổ như lời Bác Hồ năm xưa đã dặn:
“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy
nước”

14


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”

PHỤ LỤC

Đoàn người biểu tình ngày 19 tháng 8 năm 1945 trước cửa Bắc Bộ Phủ

Vệ quốc quân đặt mìn tại chợ Đồng Xuân năm 1946
15


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”

Cảm tử quân chuẩn bị lao bom ba càng vào xe tăng địch trên đường phố Hà Nội
Tháng 12 năm 1946

Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh


16


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”
Cơ sở pháp lí để khẳng định Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam:

An Nam đại quốc họa đồ và Đại Nam thống nhất toàn đồ
( An Nam Đại quốc họa đồ (1838) của Giám mục Jean Louis Taberd (Pháp) vẽ
và xuất bản trong cuốn từ điển La tinh – An Nam năm 1838. Bản đồ vẽ theo
phương pháp hiện đại, chính xác và được chú thích bằng 3 thứ tiếng (La tinh,
Hán, Quốc ngữ). Dọc theo khu vực duyên hải và ngoài khơi An Nam, bản đồ có
ghi tên các cảng, đảo... và ở khoảng giữa vĩ tuyến 16 và 17 độ Bắc, kinh tuyến
111 độ Đông, bản đồ có vẽ cụm đảo nhỏ với dòng chữ "Paracel seu Cát Vàng"
(Paracel hoặc Cát Vàng)
Đại Nam thống nhất toàn đồ do vua Minh Mạng cho vẽ vào năm 1838, có thể
hiện hai địa danh Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa bằng chữ Hán.).

17


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”

(19 Châu bản triều Nguyễn là loại văn bản hành chính của vương triều
Nguyễn (1802-1945). Trên các châu bản này còn lưu lại các dấu tích bút phê của
các vua triều Nguyễn bằng son đỏ. Những tờ châu bản này được trích từ kho
tàng châu bản triều Nguyễn, gồm 734 tập với hàng trăm nghìn trang văn bản
gốc.
Nội dung các châu bản trung bày trong triển lãm này phản ánh quá trình
thực thi chủ quyền của triều đình nhà Nguyễn trên hai quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa. Đây là những bằng chứng sinh động cho thấy các vua triều Nguyễn
luôn quan tâm đến vấn đề thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo này, thông
qua việc liên tục cử người ra hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa để khảo sát,
cắm mốc, đo vẽ bản đồ; thực hiện công tác cứu hộ, cứu nạn đối với thuyền bè
của Việt Nam cũng như thuyền bè của các nước khác gặp nạn trên vùng biển
Hoàng Sa và Trường Sa)

18


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”

Hoàng Sa, Trường Sa trên bản đồ phương Tây

(Trên những tấm bản đồ Việt Nam hoặc khu vực Đông Nam Á xuất bản tại phương
Tây trong các thế kỷ XVI-XVIII, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thường
được miêu tả như “lưỡi dao” dài, kéo dọc suốt ngoài khơi đối diện với bờ biển Việt
Nam. Tên của các đảo và quần đảo được ghi khá rõ trên các bản đồ này.)

Bản đồ Trung Quốc do phương Tây và Trung Quốc vẽ
không có Trường Sa, Hoàng Sa

( Theo tư liệu của Trung Quốc, triển lãm giới thiệu một số bản đồ và 4 tập atlas
khẳng định ranh giới cực Nam của Trung Quốc không vượt quá đảo Hải Nam;
một số tài liệu khác trực tiếp hay gián tiếp xác định các quần đảo giữa biển
Đông không thuộc về Trung Quốc mà thuộc quyền cải quản của An Nam.)
19


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”

Một số hoạt động bảo vệ chủ quyền của Việt Nam
đối với Trường Sa và Hoàng Sa:

Đại tướng Lê Đức Anh (lúc này là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) ở quần đảo
Trường Sa, Việt Nam năm 1988

Các chiến sỹ Hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam
trên đảo Phan Vinh thuộc quần đảo Trường Sa tháng 5-1988
20


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”

Các chiến sĩ đảo Sinh Tồn Đông tuần tra ven đảo

Học sinh ủng hộ Quỹ “Vì Trường Sa thân yêu – Vì tuyến đầu Tổ Quốc”

21


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”

Thanh niên hưởng ứng Quỹ “Vì Trường Sa thân yêu – Vì tuyến đầu Tổ Quốc”

22


Bài thi: “Em yêu lịch sử Việt Nam”

23




×