Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Đề xuất giải pháp quản lý môi trường cho làng nghề thuộc lưu vực sông nhuệ, sông đáy thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 94 trang )

NGUYỄN DANH THƯỞNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
-----------***-------------

NGUYỄN DANH THƯỞNG

QUẢN TRỊ KINH DOANH

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG CHO
LÀNG NGHỀ THUỘC LƯU VỰC SÔNG NHUỆ, SÔNG ĐÁY
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
NGÀNH QUẢN TRỊ KINH DOANH

2009-2011

HÀ NỘI –NĂM 2012


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

MỞ ĐẦU
Thành phố Hà Nội sau khi hợp nhất có diện tích là 3.344,7 km2, dân số trên
6,31 triệu người, trong đó có 88,3% diện tích và trên 63,5% dân số sống ở khu vực
nông thôn. Hà Nội có vị trí và điều kiện thiên nhiên đặc biệt, có nền văn hóa lâu đời,
có nhiều làng nghề sản xuất thủ công truyền thống, mọi người biết tới một Hà Nội


xưa với gốm sứ Bát Tràng, mộc mỹ nghệ Vân Hà, đúc đồng Ngũ Xã, dát quỳ vàng
bạc Kiêu Kỵ…thì sau khi Hà Nội được mở rộng địa giới hành chính mọi người còn
biết đến vùng đất được mệnh danh là “đất trăm nghề”, nơi đã và đang hình thành
nhiều nghề, nhiều làng nghề thủ công truyền thống, mỹ nghệ truyền thống sản xuất ra
nhiều sản phẩm đẹp, mang tính kỹ sảo, nghệ thuật, mỹ thuật cao như: Làng nghề dệt
lụa Vạn Phúc; Dệt kim La Phù; Khảm trai Chuôn Ngọ; Tre đan Ninh Sở: Mây đan
Phú Vinh; Nón lá làng Chuông; Sơn mài Duyên Thái; Thêu Quất Động; Tiện Nhị
Khê; Mộc Chàng Sơn; Điêu khắc Dư Dụ; Sơn tạc tượng Sơn Đồng;... đến nay vẫn tồn
tại và ngày càng phát triển, được nhiều người trong và ngoài nước biết đến. Quá trình
hình thành và phát triển của các làng nghề truyền thống gắn liền với quá trình phát
triển tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Việt nam nói chung và Hà Nội nói riêng.
Trong những năm qua, nghề và làng nghề ở Hà Nội đã có bước phát triển
mới và đạt được những thành tựu nhất định. Trong quá trình phát triển, mặc dù với
đặc điểm như: quy mô sản xuất nhỏ lẻ, trình độ tay nghề chưa cao, trình độ văn hóa
thấp nên tiếp thu kiến thức khoa học còn hạn chế, công cụ lao động giản đơn, năng
suất thấp, chất lượng sản phẩm không cao, nguồn vốn đầu tư là vốn tự có của các hộ
gia đình. Tổ chức sản xuất theo quy mô hộ gia đình là chính, không có sự hợp tác,
liên kết, khả năng cạnh trạnh thấp. Song các nghề và làng nghề truyền thống cũng
đã có vai trò tích cực trong việc tăng tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo
việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp nay không còn đất nông
nghiệp, thu hút vốn nhàn rỗi, tận dụng thời gian và lực lượng lao động, hạn chế di
dân tự do, bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc, góp phần không nhỏ vào việc phát triển
kinh tế – xã hội tại địa phương.
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

1

Viện Kinh tế & Quản lý



Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Cùng với sự phát triển về quy mô, các vấn đề môi trường ở các làng nghề
đang là mối lo ngại cho toàn xã hội. Ở nhiều nơi, tình trạng ô nhiễm môi trường đã
tới mức nghiêm trọng: môi trường vật lý, môi trường sinh thái- cảnh quan bị suy
thoái nặng nề. Các khu vực dân cư, làng xã vừa là nơi sống, vừa là nơi sản xuất với
các nhà xưởng tạm bợ, nguyên vật liệu và các loại chất thải đổ bừa bãi, các nhà ở
mới, cũ và nhà xưởng chen nhau tạo nên một quang cảnh hỗn loạn và ô nhiễm;
nhiều diện tích mặt nước, sông, kênh mương, đất canh tác, đất dự phòng... đang bị
các loại chất thải lấn dần và làm ô nhiễm... Tình trạng phát thải bừa bãi với khối
lượng lớn và thường xuyên đã gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng không nhỏ
đến sức khoẻ cộng đồng. ở nhiều làng nghề, các nhà ở phải thường xuyên đóng cửa
để giảm tác động của bụi, tiếng ồn, hơi hoá chất và các khí độc (làng sắt thép, đồ
gỗ, sơn, giấy, nhựa...); các công trình công cộng như trường học, trạm xá, nhà trẻ...
đều nằm trong khu vực ô nhiễm nặng...Rõ ràng, các vấn đề môi trường ở các làng
nghề đang là yêu cầu cấp bách hiện nay và rất cần có những biện pháp quản lý và
xử lý thích hợp. Đây chính là một trong những nguồn gây ô nhiễm môi trường trầm
trọng cho hệ thống sông Nhuệ - sông Đáy.
Nhằm góp phần giảm thiểu tác động gây ô nhiễm môi trường đến lưu vực
sông Nhuệ - sông Đáy địa phận Hà Nội, được sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình của
TS-Nguyễn Việt Hòa, em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài với nội dung: “Đề xuất
giải pháp quản lý môi trường cho làng nghề thuộc lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy
thành phố Hà Nội”.
Mục tiêu đề tài:
- Đánh giá thực trạng về phát triển làng nghề và môi trường làng nghề thuộc
lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy địa bàn Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp quản lý môi trường cho làng nghề thuộc lưu vực sông

Nhuệ, sông Đáy địa bàn Hà Nội, nếu các giải pháp được triển khai áp dụng đồng bộ
thì đây là những giải pháp hiệu quả và kinh tế thiết thực đối với việc giải quyết môi
trường làng nghề thuộc lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy địa bàn Hà Nội, góp phần
phát triển bền vững các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn thành phố.
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

2

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Nội dung đề tài:
- Tổ chức thu thập thông tin làng nghề và môi trường làng nghề thuộc lưu vực
sông Nhuệ, sông Đáy địa bàn Hà Nội.
- Đánh giá thực trạng về phát triển làng nghề và môi trường làng nghề thuộc
lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy địa bàn Hà Nội trên các lĩnh vực: số lượng, quy mô
làng nghề, trình độ thiết bị, công nghệ, hiện trạng về môi trường không khí, môi
trường nước, về chất thải rắn. Thực trạng và những tồn tại trong quản lý môi trường
làng nghề. Xu thế phát triển làng nghề và xu thế môi trường làng nghề thuộc lưu
vực sông Nhuệ, sông Đáy địa bàn Hà Nội.
- Đề xuất giải pháp quản lý môi trường cho làng nghề thuộc lưu vực sông
Nhuệ, sông Đáy địa bàn Hà Nội.
Phạm vi: Luận văn nghiên cứu, mô tả thực trạng môi trường của các làng
nghề thuộc lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy địa bàn Hà Nội và nguyên nhân chính gây
nên ô nhiễm môi trường lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy. Thông qua đó đưa ra các
giải pháp quản lý để khắc phục, cải thiện môi trường làng nghề thuộc lưu vực sông

Nhuệ, Sông Đáy địa bàn Hà Nội. Các số liệu minh họa trong luận văn có thời gian
từ năm 2006 đến năm 2010 mang tính xác thực và có trích dẫn nguồn số liệu.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được triển khai nghiên cứu với các
phương pháp tra cứu, tổng hợp tài liệu, số liệu và kế thừa sử dụng kết quả nghiên
cứu khác của Sở Công thương thành phố Hà Nội.
Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo và các phụ lục luận văn
được trình bày gồm 3 chương:
Chương 1: Làng nghề và môi trường làng nghề.
Chương 2: Thực trạng môi trường và quản lý môi trường ở làng nghề thuộc lưu
vực sông Nhuệ, sông Đáy thành phố Hà Nội.
Chương 3: Đề xuất giải pháp quản lý môi trường làng nghề thuộc lưu vực sông
Nhuệ, sông Đáy thành phố Hà Nội.

Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

3

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

CHƯƠNG 1
LÀNG NGHỀ VÀ MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ
1. Lịch sử phát triển, khái niệm và vai trò làng nghề Việt Nam
1.1. Lịch sử phát triển làng nghề Việt Nam
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm

trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam.
Những nghề thủ công này được người dân tranh thủ làm lúc nông nhàn. Theo thời
gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của nó, mang lại lợi ích thiết
thực như: các đồ dùng bằng mây, tre, lụa... phục vụ sinh hoạt; đồ sắt, đồ đồng phục
vụ sản xuất. Từ chỗ một vài nhà trong làng làm, nhiều gia đình khác cũng học làm
theo, nghề từ đó mà lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều làng gần nhau.
Các nghề thủ công phát triển theo từng làng và luôn gắn bó với người nông dân, trở
thành nghề phụ không thể thiếu được bên cạnh nghề nông. Ngành nghề nông thôn
giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam,
không chỉ làm tăng thu nhập cho nông dân mà còn tạo nên những sản phẩm độc đáo
mang đậm dấu ấn bản sắc văn hóa đặc trưng cho mỗi vùng, miền và được lưu giữ từ
đời này sang đời khác. Dù nhiều làng nghề đã bị mai một theo thời gian, nhưng hiện
nay Việt Nam còn có gần 2.000 làng nghề thuộc các nhóm nghề chính như: sơn
mài, gốm sứ, thêu ren, mây tre đan, cói, dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá...nhiều làng
nghề có lịch sử phát triển hàng trăm năm như: làng nghề dệt lụa Vạn Phúc (Hà Nội)
đã có trên 1700 năm lịch sử, làng đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) có hơn 900 năm
phát triển, làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) trải qua gần 600 năm tồn tại. Các
làng nghề thường tập trung chủ yếu ở các vùng châu thổ sông lớn như châu thổ
sông Hồng, tại Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định,....
1.1.2. Các khái niệm làng nghề
* Làng nghề: Là một hoặc nhiều cụm dân cư ấp, thôn, ấp, bản làng, buôn,
phun sóc, hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các hoạt
động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau.

Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

4

Viện Kinh tế & Quản lý



Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Tiêu chí để được công nhận làng nghề dựa theo Quy hoạch phát triển nghề
và làng nghề Hà Nội đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030 như sau:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành
nghề nông thôn.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm
đề nghị công nhận.
- Chấp hành tốt chính sách pháp luật của nhà nước.
* Làng nghề truyền thống: Là làng nghề có nghề truyền thống được hình
thành từ lâu đời. Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất 1
nghề truyền thống theo quy định tại thông tư số 116/2006/TT-BNN của Bộ nông
nghiệp và phát triển nông thôn ngày 18 tháng 12 năm 2006. Đối với những làng
chưa đạt tối thiểu 30% tổng số hộ và 2 năm sản xuất kinh doanh làng nghề ổn định
nhưng có ít nhất 1 nghề truyền thống được công nhận theo quy định của thông tư
116/2006/ TT - BNN thì cũng được công nhận làng nghề truyền thống.
Tiêu chuẩn làng nghề truyền thống ở Hà Nội dựa theo Quyết định số 85/2009
QĐ-UBND ngày 2/7/2009 của UBND Thành phố Hà Nội như sau:
- Về thời gian: Là làng có nghề được hình thành trên 50 năm tính đến ngày
làng được đề nghị xét danh hiệu làng nghề truyền thống.
- Về kinh tế: Có giá trị sản xuất từ ngành nghề nông thôn của làng chiếm tỷ
trọng từ 50% trở lên so với tổng giá trị sản xuất của làng.
- Về sử dụng lao động: Có tổi thiểu 30% số hộ trên địa bàn tham gia hoạt
động ngành nghề nông thôn.
- Bảo đảm vệ sinh môi trường và an toàn lao động theo các quy định hiện
hành.
- Chấp hành tốt đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà

nước, các quy định của Thành phố và địa phương.
- Sản phẩm làm ra phải mang bản sắc văn hoá dân tộc, phải gắn với tên tuổi
của làng.

Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

5

Viện Kinh tế & Quản lý

Formatted: Vietnamese
Deleted: như sau:(Theo
Deleted: )


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

- Đối với những làng nghề chưa đáp ứng tiêu chuẩn của môi trường theo quy
định tại điểm 4 vẫn được xem xét công nhận danh hiệu làng nghề truyền thống khi
đã có các đề án, dự án nghiên cứu đánh giá tác động môi trường và đề ra các biện
pháp xử lý khắc phục ô nhiễm môi trường.
* Làng nghề mới: Là làng nghề được hình thành cùng với sự phát triển của
nền kinh tế, chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những điều kiện
nhất định để hình thành và phát triển.
* Nghề truyền thống: Là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra sản phẩm
độc đáo có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy
cơ bị mai một, thất truyền. Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 3
tiêu chí sau:

- Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm công
nhận.
- Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc.
- Nghề gắn với tên tuổi của 1 hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi làng nghề.
* Làng có nghề: Là làng được hình thành cùng với sự phát triển của nền
kinh tế chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những điều kiện thuận
lợi để phát triển. Trong đó làng có số hộ, số lao động sản xuất công nghiệp tiểu thủ
công nghiệp ít nhất từ 10% trở lên.
1.1.3. Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế - xã hội
a. Chủ trương phát triển làng nghề
Thời gian qua, xác định vai trò quan trọng của làng nghề, ngành nghề nông
thôn, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung chỉ đạo và ban hành nhiều chính sách như
Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 của Chính phủ về chính sách phát
triển ngành nghề nông thôn, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giải quyết
việc làm tại chỗ, nâng cao chất lượng cuộc sống và thu nhập của người dân, tăng
cường hoạt động xuất khẩu.

Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

6

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Ngoài ra, tại Nghị định số 01/2008/NĐ -CP ngày 03/01/2008 quy định chức

năng, nhiệm vụ của Bộ NN&PTNT, Chính phủ giao bộ NN&PTNT thực hiện chức
năng quản lý nhà nước lĩnh vực ngành nghề nông thôn. Trên cơ sở đó, Bộ
NN&PTNT đã xây dựng, ban hành một số văn bản nhằm chỉ đạo thúc đẩy phát triển
làng nghề. Có thể kể tới Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 hướng
dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 66/2006/NĐ-CP; Chỉ thị số
28/2007/CT-BNN ngày 18/4/2007 ngày 18/4/2007 về việc đẩy mạnh thực hiện quy
hoạch phát triển ngành nghề nông thôn và phòng chống ô nhiễm môi trường làng
nghề...
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2006-2015 của Bộ
NN&PTNT là thực hiện “Mỗi làng một nghề”, với mục tiêu khôi phục và phát triển
làng nghề nông thôn để tạo việc làm, tạo thu nhập từ phi nông nghiệp với các hoạt
động như: hỗ trợ phát triển làng nghề nông thôn, khuyến khích các hộ gia đình, tư
nhân, HTX, doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư phát triển các ngành nghề tiểu thủ
công nghiệp đa dạng; Đào tạo nghề hỗ trợ chuyển lao động nông nghiệp sang phi
nông nghiệp; Xây dựng cơ chế quản lý chất thải làng nghề.
b. Làng nghề với sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn
Điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một yếu tố cực kỳ quan trọng hỗ trợ phát
triển các làng nghề. Khả năng tiếp cận thông tin, điện, nước sạch, giao thông và
những yếu tố khác về cơ sở vật chất là rất cần thiết đối với sự tăng trưởng và phát
triển của các làng nghề. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt sẽ góp phần thực hiện
mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, tạo việc làm, giảm nghèo ở
nông thôn thông qua việc phát triển các ngành nghề tại các làng nghề. Ngược lại, sự
phát triển kinh tế của các làng nghề cũng góp phần đổi mới bộ mặt nông thôn, cải
thiện và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại đây. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở những
nơi tập trung nhiều làng nghề như khu vực Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và
Đông Nam Bộ, nhìn chung phát triển khá tốt do các làng nghề phần lớn được hình
thành, phát triển ở những nơi tiếp cận thuận lợi mạng lưới đường quốc lộ, tỉnh lộ,

Học viên: Nguyễn Danh Thưởng


7

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

cùng sự hỗ trợ của các chính sách từ chính quyền tỉnh/thành phố nhằm đẩy mạnh
phát triển làng nghề.
c. Làng nghề và xoá đói giảm nghèo
Sự phát triển làng nghề trong những năm gần đây đã và đang góp phần đáng
kể trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương, cải thiện và nâng cao đời sống
của người dân làng nghề.
Tại các làng nghề, đại bộ phận dân cư làm nghề thủ công nhưng vẫn tham
gia sản xuất nông nghiệp ở một mức độ nhất định. Tại nhiều làng nghề, trong cơ cấu
kinh tế địa phương, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt từ 60-80% và ngành
nông nghiệp chỉ đạt 20-40%. Trong những năm gần đây, số hộ và cơ sở ngành nghề
ở nông thôn đang ngày một tăng lên với tốc độ tăng bình quân từ 8,8-8,9%/năm,
kim ngạch xuất khẩu từ các làng nghề không ngừng gia tăng. Chính vì vậy có thể
thấy làng nghề đóng vai trò rất quan trọng đối với việc xoá đói giảm nghèo, trực
tiếp giải quyết việc làm cho người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần tăng thu
nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
Trên thực tế, quy mô làng nghề nhìn chung thường nhỏ, chưa thực hiện cơ
chế thu hút lao động có tay nghề cao, đối với các làng nghề sản xuất theo thời vụ thì
thường chỉ sản xuất vào lúc nông nhàn. Tuy nhiên, hiện nay ở những vùng sản xuất
lớn, lao động trong các làng nghề làm việc hầu như quanh năm, với quy mô phát
triển ngày càng lớn.
Hiện nay, tại các làng nghề, trung bình mỗi cơ sở sản xuất tư nhân chuyên

làm nghề tạo việc làm cho khoảng 27 lao động thường xuyên và 8-10 lao động thời
vụ; các hộ cá thể tạo nghề cho 4-6 lao động thường xuyên và 2-5 lao động thời vụ.
Đặc biệt ở làng nghề dệt, thêu ren, mây tre đan thì mỗi cơ sở có thể thu hút 200-250
lao động.
Mức thu nhập của người lao động ngành nghề cao cấp cao gấp từ 3 đến 4 lần
so với thu nhập của người lao động thuần nông. Điều này cũng khiến số hộ gia đình
chuyển từ sản xuất thuần nông sang sản xuất công nghiệp và chuyên làm nghề ngày
càng tăng.
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

8

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

d. Làng nghề truyền thống và hoạt động phát triển du lịch
Lợi ích của việc phát triển làng nghề không chỉ là ở kinh tế, giải quyết việc
làm cho lao động địa phương mà còn góp phần bảo tồn được giá trị văn hoá lâu dài.
Điểm chung của nhiều làng nghề là thường nằm trên trục giao thông đường bộ hay
đường sông. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các điểm/tuyến du lịch lữ
hành. Ngoài những lợi thế như cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý, nét văn hoá đặc
sắc, các làng nghề còn có sức hút đặc biệt bởi mỗi làng lại gắn với một vùng văn
hoá hay một hệ thống di tích lịch sử. Bên cạnh đó khách quan còn được tận mắt
theo dõi quá trình sản xuất ra các sản phẩm, thậm chí là tham gia thực hành vào một
khâu sản xuất nào đó, chính điều này tạo nên sức hấp dẫn của du lịch làng nghề.
Nhận thức được tiềm năng phát triển du lịch tại làng nghề sẽ góp phần gia

tăng tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp/dịch vụ ở địa phương, đồng thời tăng
thêm cơ hội cho các cơ sở sản xuất thông qua các hoạt động giới thiệu và bán sản
phẩm truyền thống, nâng cao đời sống người dân thông qua các dịch vụ phụ trợ...
1.1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề
Theo nhiều nghiên cứu, sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của các làng nghề
trong suốt chiều dài lịch sử đã chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố kinh tế - xã
hội. Dưới đây là một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề:
Một là, sự biến động của nhu cầu thị trường. Sự tồn tại và phát triển của
các làng nghề phụ thuộc rất lớn vào khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng,
phong phú thường xuyến biến đổi của thị trường. Sự thay đổi của thị trường tạo
định hướng phát triển cho làng nghề. Sản phẩm của làng nghề muốn tồn tại và phát
triển thì nó phải phù hợp với nhu cầu xã hội và có khả năng tiêu thụ lớn.
Hai là, chính sách của Nhà nước. Hệ thống chính sách vĩ mô của Nhà nước
có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển hay suy vong của các làng nghề. Thời kỳ
trước đổi mới, chúng ta chỉ tập trung vào phát triển kinh tế quốc doanh, do dó các
làng nghề theo nghĩa là đơn vị kinh tế độc lập đã chuyển thành các hợp tác xã
(HTX) đã không phát triển được. Khi chính sách mở cửa và hội nhập diễn ra, các
sản phẩm của làng nghề có cơ hội phát triển nhất là hàng thủ công mỹ nghệ. Tuy
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

9

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

nhiên, đây cũng là dịp các hàng nước ngoài có điều kiện tràn vào thị trường trong

nước, khiến cho các sản phẩm của làng nghề khó cạnh tranh, làm hạn chế làng nghề
phát triển.
Ba là, cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng, trước hết là giao thông, điện, cấp và
thoát nước, bưu chính viễn thông…, có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành, tồn tại
và phát triển của làng nghề, trong đó giao thông vận tải là yếu tố quan trọng nhất.
Cơ sở hạ tầng có được cải thiện thì năng suất lao động, sức cạnh tranh của sản phẩm
mới tăng.
Bốn là, trình độ kỹ thuật và công nghệ. Trình độ kỹ thuật và công nghệ sản
xuất có ảnh hưởng rất quan trọng đến bất kỳ ngành nghề, sản phẩm nào. Nó ảnh
hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, chất lượng và giá thành sản phẩm, đến năng
lực canh tranh của các sản phẩm hàng hóa trên thị trường và cuối cùng quyết định
đến sự tồn tại hay suy vong của một cơ sở sản xuất, một ngành nghề nào đó.
Năm là, vốn cho sản xuất phát triển sản xuất – kinh doanh. Vốn là yếu tố,
là nguồn lực quan trọng đối với bất kỳ quá trình sản xuất kinh doanh nào. Việc phát
triển làng nghề không nằm ngoài sự ảnh hưởng này. Đặc biệt khi trong điều kiện
của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn đã khác trước, đòi
hỏi các hộ sản xuất kinh doanh phải có lượng vốn khá lớn để đầu tư vào cải tiến
công nghệ và kỹ thuật, nhằm nâng cao năng suất và khả năng cạnh tranh của sản
phẩm.
Sáu là, yếu tố nguyên vật liệu. Cũng giống như bất kỳ quá trình sản xuất
công nghiệp nào, yếu tố nguyên vật liệu cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất
của làng nghề. Khối lượng, chủng loại, phẩm cấp và khoảng cách từ cơ sở sản xuất
tới nơi có nguồn nguyên liệu có ảnh hưởng tới chất lượng và giá cả thành phẩm của
đơn vị sản xuất.
Bảy là yếu tố truyền thống. Yếu tố truyền thống vừa có tác dụng hai mặt,
vừa tích cực vừa tiêu cực đối với sự phát triển của làng nghề. Đối với các sản phẩm
của làng nghề truyền thống đòi hỏi phải duy trì yếu tố truyền thống với những quy
ước và ràng buộc trong luật nghề. Song, đôi khi yếu tố truyền thống lại làm cản trở
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng


10

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

sự phát triển của nền kinh tế nói chung, và các làng nghề nói riêng. Cái khó nhất là
làm sao vừa đưa vào được những tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại vừa duy trì
được yếu tố truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc.
Mặc dù ngành nghề thủ công Việt Nam trong những năm qua đã chuyển biến
tích cực rõ rệt đặc biệt sau khi Quyết định 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của
Thủ tướng Chính phủ về một số chích sách khuyến khích phát triển ngành nghề
nông thôn được ban hành, song để sản phẩm của ngành nghề có khả năng thâm
nhập vào một số thị trường khó tính như Mỹ, Nhật và EU, việc chấn hưng phát triển
làng nghề còn có nhiều tồn tại nhất định.
Như đã trình bày ở trên, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát
triển làng nghề. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân bao gồm cả chủ quan và khách
quan, các làng nghề chưa được phục hồi đẩy đủ, còn nhiều hạn chế trong hoạt động
vì vậy chưa phát huy hết được vai trò của làng nghề trong việc nâng cao đời sống
của nhân dân, trong việc thúc đẩy quá trình hình thành kinh tế thị trường và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn.
Dự án “phương pháp điều tra lập bản đồ ngành nghề thủ công” do JICA và
Bộ NN &PTNT năm 2006 tiến hành đã xác định các vấn đề nghiêm trọng tồn tại
trong làng nghề nông thôn hiện nay: vốn, thông tin thị trường, và công nghệ.
Chính vì các yếu tố hạn chế đó mà chất lượng sản phẩm còn kém, không
đồng đều. Muốn sản phẩm được xuất khẩu thì sản phẩm cần phải có thương hiệu,
thiết kế và chất lượng của sản phẩm phải được coi trọng. Hiện giờ, năng lực thiết kế

mẫu của đội ngũ thợ còn hạn chế, hiểu biết về bản sắc văn hóa truyền thống chưa
sâu. Hạn chế về công nghệ sản xuất và phát triển tự phát của nhiều làng nghề đã làm
nhiều làng nghề ô nhiễm môi trường nặng nề. Việc xuất hiện nhóm nghề tái chế
chất thải ở các địa phương đã làm tăng mức độ gây ô nhiễm môi trường.
1.1.5. Kinh nghiệm phát triển làng nghề tại một số nước châu Á
Hiện nay, tại một số nước Châu Á, việc phát triển bền vững làng nghề đang
được xem như là một trong những giải pháp phát triển bền vững kinh tế-xã hội. Bởi
lẽ, đây chính là nơi tạo thêm việc làm phi nông nghiệp cho người lao động trên địa
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

11

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

bàn, đặc biệt là người nghèo thiếu hoặc không có đất. Từ đó, họ có thể nâng cao thu
nhập, cải thiện cuộc sống, giúp xoá đói giảm nghèo trong khu vực nông thôn. Tuy
nhiên, quá trình thực hiện của mỗi nước khác nhau theo đặc điểm kinh tế của từng
nước.
a. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc là nước có nhiều nghề truyền thống phát triển. Từ xa xưa, quốc
gia này đã thực sự nổi tiếng với các sản phẩm của nghề dệt, nghề gốm, nghề giấy…,
song giá trị sản xuất không đạt hiệu quả cao. Đến năm 1978, Trung Quốc thực hiện
cải cách và mở cửa, mở ra thời kỳ mới với những chuyển biến mạnh mẽ trong công
cuộc CNH nông thôn. Chính từ đây, việc phát triển nghề thủ công truyền thống và
làng nghề truyền thống được quan tâm hơn dưới hình thức phát triển các xí nghiệp

hương trấn (XNHT). Các XNHT không chỉ tập trung sản xuất thủ công nghiệp và
chế biến nông sản như trước đây, mà đã phát triển thành các ngành: chế biến nông
sản, công nghiệp và thủ công nghiệp, các nghề thủ công truyền thống, giao thông
vận tải và dịch vụ thương nghiệp. Đây là một hình thức mới của CN hóa nông thôn,
nó chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, thay đổi bộ mặt nông thôn,
thúc đẩy cải cách kinh tế Trung Quốc tiến lên thị trường hóa.
Chính phủ Trung Quốc đã ban hành nhiều chính sách và giải pháp mà đã
thực hiện thành công nhằm hỗ trợ cho làng nghề truyền thống duy trì và phát triển:
chính sách thuế, chính sách cho vay đối với các XNHT, chính sách xuất khẩu, chính
sách kích cầu, chính sách bảo hộ hàng nội địa, hạn chế việc di chuyển lao động giữa
các vùng cũng như từ nông thôn ra thành thị, thực hiện đổi mới công nghệ và áp
dụng kỹ thuật tiên tiến.
Với việc giải quyết 12 triệu lao động dư thừa từ nông thôn mỗi năm, tốc độ
tăng trưởng 22-30% năm, XNHT đã khẳng định vai trò quan trọng của mình trong
quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc.
b. Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan cũng có một nét chung là có nhiều ngành nghề thủ công nghiệp
truyền thống được hình thành và phát triển từ lâu. Cũng như Trung Quốc, chính phủ
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

12

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Thái Lan cũng đã ban hành các chính sách và biện pháp cụ thể về tín dụng nhằm

bảo đảm phát triển các nghề phi nông nghiệp và nghề truyền thống ở nông thôn.
Đặc biệt, năm 1999, sau khi đi thăm quan tại Nhật Bản, chính phủ Thái Lan đã học
tập kinh nghiệm và phát động chương trình “One Tambon, One Product” (Tiếng
Thái Tambon nghĩa là “làng”), tạm dịch là “Mỗi làng, một sản phẩm”. Chương trình
này chính thức được hoạt động vào tháng 10 năm 2001. Trong chương trình này,
chính phủ Thái Lan hỗ trợ mỗi làng làm một sản phẩm tiêu biểu, đặc trưng và có
chất lượng cao, chủ yếu hỗ trợ ở khâu tiếp thị, xúc tiến bán hàng, tập huấn và
chuyển giao công nghệ cho nông dân. Chính phủ Thái Lan cho biết, chỉ trong 4
tháng đầu năm 2002, chương trình này đã đem lại 3,66 tỷ Baht (84,2 triệu USD) lợi
nhuận cho nông dân. Năm 2003, các làng tham gia chương trình “ mỗi làng một sản
phẩm” đã đạt mức 30,8 tỷ Baht, tăng 13% so với năm 2002. Nhờ phong trào này mà
giờ đây nhiều sản phẩm của Thái Lan được nhiều người biết đến.
c. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Nhật Bản là một trong những nước có nền công nghiệp phát triển vào loại
bậc nhất thế giới. Nhật Bản cũng là nước đầu tiên ở Châu Á từ một nước nông
nghiệp lạc hậu thực hiện quá trình công nghiệp hoá thành công. Cho đến nay ở Nhật
Bản có 867 nghề thủ công truyền thống được duy trì và phát triển. Người Nhật coi
đây là một kho tàng quý báu của dân tộc. Để duy trì và phát triển làng nghề truyền
thống, Nghị viện Nhật Bản năm 1974 đã ban hành Luật phát triển làng nghề thủ
công truyền thống. Được sự hỗ trợ của chính phủ, phong trào “mỗi làng một sản
phẩm” được khai sinh tại quận Oita vào năm 1979 với ý tưởng làm sống lại các
ngành nghề thủ công truyền thống, Có hai khẩu hiệu nổi tiếng là: “Nghĩ về tổng thể,
hành động ở địa phương” và “Độc lập và sáng tạo”. Nhờ phong trào, một số sản
phẩm truyền thống của Oita trở thành nổi tiếng không chỉ trong Nhật Bản, mà còn
cả trên thị trường nhiều nước.
Một giải pháp rất quan trọng khác đã được thực hiện là thành lập Hiệp hội
khôi phục và phát triển ngành nghề truyền thống (gọi tắt là Hiệp hội Nghề truyền
thống). Nhiệm vụ của Hiệp hội là khôi phục và chấn hưng ngành sản xuất hàng thủ
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng


13

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

công mỹ nghệ truyền thống trong cả nước, đồng thời làm cho các tầng lớp nhân dân
hiểu đúng và rõ về hàng công nghệ truyền thống.

1.2. Môi trường làng nghề Việt Nam
1.2.1. Phân loại làng nghề
Có nhiều cách phân loại làng nghề như: Phân loại theo làng nghề truyền
thống và làng nghề mới; Phân loại theo quy mô sản xuất, theo quy trình công nghệ;
Phân loại theo ngành nghề sản xuất, theo loại hình sản phẩm; Mỗi cách phân loại
khác nhau có đặc thù riêng, phục vụ cho mục đích riêng khác nhau. Khi quan tâm
đến vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề và tìm giải pháp để khắc phục ô nhiễm
môi trường làng nghề, thì nên sử dụng cách phân loại làng nghề theo ngành nghề
sản xuất và loại hình sản phẩm là phù hợp hơn cả. Thực tế cho thấy, mỗi ngành
nghề, mỗi sản phẩm đều có những yêu cầu khác nhau về nguyên liệu, nhiên liệu,
quy trình sản xuất, chất thải và đặc trưng nguồn chất thải khác nhau, nên tác động
đến môi trường cũng khác nhau. Dựa trên yếu tố tương đồng về ngành nghề sản
xuất, đặc trưng sản phẩm có thể phân chia hoạt động làng nghề ở Việt Nam ra làm 6
nhóm ngành chính với những đặc điểm riêng như sau:
- Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm: Phần lớn các làng nghề chế
biến lương thực, thực phẩm ở nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng là các làng
nghề thủ công truyền thống nổi tiếng với các các sản phẩm như nấu rượu, làm bánh
đa nem, đậu phụ, làm miến dong, làm bún, bánh đậu xanh, bánh gai,… với các

nguyên liệu chính là gạo, ngô, khoai, sắn, đỗ,…được cung cấp từ nền sản xuất nông
nghiệp Việt Nam.
- Làng nghề ươm tơ, dệt vải, may đồ da: Nhóm nghề này bao gồm: dệt
nhuộm, may, tơ tằm, may đồ da,.. với các sản phẩm như tơ tằm, vải dệt nhuộm, thêu
ren trên vải, giày dép da, túi da,…Có những sản phẩm không những chỉ có giá trị
kinh tế mà còn mang cả giá trị nghệ thuật cao. Nhóm này tập trung chủ yếu là dệt
nhuộm, nhiều làng có từ lâu đời với sản phẩm mang đậm nét địa phương như dệt
lụa Vạn Phúc. Quy trình sản xuất sản phẩm truyền thống chất lượng cao không thay

Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

14

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

đổi nhiều, có nhiều lao động tay nghề cao, lao động nghề đã trở thành lao động
chính.
- Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: Làng nghề thuộc
nhóm này cũng được hình thành từ hàng trăm năm nay, tập trung ở vùng có khả
năng cung cấp nguyên liệu cơ bản cho hoạt động xây dựng. Lao động gần như thủ
công hoàn toàn, quy trình công nghệ thô sơ, tỷ lệ cơ khí hóa thấp, không có sự thay
đổi lớn.
- Làng nghề tái chế phế liệu: Chủ yếu là các làng nghề mới hình thành, số
lượng ít nhưng lại phát triển nhanh về quy mô và loại hình, gắn chặt với các hoạt
động tái chế chất thải kim loại, giấy, nhựa. Các làng nghề chế tạo cơ khí và đúc kim

loại cũng được xếp vào nhóm này vì các làng nghề này chủ yếu sản xuất từ nguyên
liệu là sắt vụn tái chế. Đa số các làng nghề loại này phân bố khu vực phía Bắc, công
nghệ sản xuất đã từng bước được cơ khí hóa.
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ, thêu ren: Nhóm này chiếm tỷ trọng lớn
đến hơn 40% trong tổng số các làng nghề ở Việt Nam, có truyền thống lâu đời, sản
phẩm có giá trị cao, mang đậm nét đặc điểm văn hóa của vùng miền địa phương,
dân tộc. Quy trình sản xuất hầu như không thay đổi, lao động thủ công đòi hỏi tay
nghề cao, chuyên môn hóa, tỉ mỉ và sáng tạo. Nhóm làng nghề này bao gồm các
làng nghề: gốm, sành sứ thủy tinh mỹ nghệ, chạm khắc đá, chạm mạ bạc, sản xuất
may tre đan, sơn mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren,…
- Nhóm làng nghề khác: Bao gồm các làng nghề còn lại không thuộc các
nhóm làng nghề nêu trên. Nhóm này bao gồm các làng nghề như: chế tạo nông cụ
thô sơ (như cày, bừa, cuốc, xẻng, liềm), mộc gia dụng, đóng thuyền, đan vó lưới,
làm quạt giấy, dây thừng, làm lưỡi câu,…Các làng nghề thuộc loại này cũng thường
xuất hiện từ lâu, sản phẩm phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của
địa phương. Lao động phần lớn là thủ công với số lượng và chất lượng tương đối ổn
định.

Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

15

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

1.2.2. Đặc điểm của ô nhiễm môi trường tại làng nghề

Bên cạnh mặt tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại các làng nghề
cũng đã gây ảnh hưởng ô nhiễm đến môi trường, làm suy thoái môi trường và tác
động trực tiếp đến sức khỏe người dân. Với những đặc thù riêng và những tồn tại
trong phát triển làng nghề, hiện trạng môi trường làng nghề mang một số đặc điểm
sau:
- Ô nhiễm môi trường làng nghề là hình thái ô nhiễm tập trung trên phạm vi
một khu vực như: thôn, làng, xã ở nông thôn. Khu vực này lại là tập hợp của nhiều
hình thái ô nhiễm dạng điểm được tạo ra từ những cơ sở sản xuất nhỏ. Ô nhiễm này
ảnh hưởng trực tiếp đến không gian liền kề là khu sinh hoạt dân cư.
- Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt động
sản xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm và tác động trực tiếp tới môi trường
nước, không khí, đất trong khu vực dân sinh. Tùy theo tính chất của từng loại làng
nghề mà loại chất thải gây ô nhiễm môi trường cũng khác nhau.
- Ô nhiễm môi trường làng nghề ảnh hưởng rõ rệt tới sức khỏe người lao
động, dân cư làng nghề và một số khu vực xung quanh.
- Ô nhiễm môi trường làng nghề đã ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái
và đã dẫn tới những xung đột môi trường tại địa phương có làng nghề.
- Môi trường không khí tại làng nghề
Ô nhiễm môi trường không khí tại các làng nghề có nguồn gốc chủ yếu từ
các nguồn sau:
- Sử dụng nhiên liệu để cấp nhiệt.
- Sử dụng hóa chất, vật tư trong công nghệ gây phát sinh ô nhiễm.
- Các chất khí, hơi và bụi ô nhiễm phát sinh trong quá trình sản xuất.
Than là nhiên liệu chính được sử dụng phổ biến làm nguồn nhiên liệu ở các
làng nghề. Khí thải do đốt than chứa nhiều thành phần gây ô nhiễm môi trường
không khí như: CO2, CO, SO2, NOx, bụi, chất hữu cơ bay hơi. Theo quy định chung
của thế giới, hệ số ô nhiễm khi đốt nhiên liệu được thể hiện trong bảng 1.1.

Học viên: Nguyễn Danh Thưởng


16

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

Bảng 1.1. Hệ số ô nhiễm do đốt nhiên liệu (kg/tấn)
Than
- Nhiệt trị: 7.050 lcal/kg
- C = 64,5%
- S = 0,5 - 0,6%
9,10

Bụi

Dầu FO
- Nhiệt trị: 10.000 kcal/kg
- C = 85,7%
- S = 1,0%
0,71

CO

0,30

2,19


SO2

10,72

20,12

NO2

8,74

9,62

THC

0,055

0,791

(Nguồn: WHO - 1993)
Trên cơ sở hệ số ô nhiễm do đốt nhiên liệu, và nhu cầu sử dụng nhiên liệu
của các làng nghề có thể tính được tải lượng ô nhiễm.
Sản xuất vật liệu xây dựng và sản xuất gốm sứ, chế biến nông sản thực phẩm
và dệt nhuộm là những nhóm ngành sản xuất có đòi hỏi nhu cầu nhiều liệu cao. Do
vậy ô nhiễm không khí chủ yếu tập trung ở các làng nghề sản xuất vật liệu xây
dựng, gốm, sứ, chế biến nông sản thực phẩm.
Tiêu chuẩn sử dụng để so sánh, đánh giá chất lượng không khí của làng nghề
là TCVN 5937-2005 - Tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh.
- Đặc trưng nước thải ở các làng nghề:
Khối lượng và đặc trưng nước thải sản xuất ở các làng nghề phụ thuộc chủ
yếu vào công nghệ và nguyên liệu dùng trong sản xuất. Ô nhiễm hữu cơ thường

nặng nề nhất ở các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm và sản xuất chế biến
gỗ, mây tre đan bởi nước thải của các làng nghề này thường có hàm lượng chất hữu
cơ rất cao, dễ bị phân hủy. Nước thải không được xử lý chảy trực tiếp vào cống rãnh
ao hồ, hàm lượng các chất hữu cơ trong nước thải quá lớn vượt khả năng phân hủy,
đồng hóa của các vi sinh vật cũng như các loài động thực vật thủy sinh gây hiện
tượng phú dưỡng, ô nhiễm môi trường nước đã tác động xấu tới các thủy vực. Nước
thải dệt nhuộm có độ màu lớn. Một số ngành tái chế như tái chế kim loại, đúc đồng,
nhôm, cơ khí, mạ,… nhu cầu nước không cao, nhưng thành phần nước thải rất phức
tạp vì bị ô nhiễm bởi các hóa chất, axit, muối kim loại, xianua, các kim loại nặng
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

17

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

như Hg, Pb, Cr, Zn, Cu,…Các chỉ tiêu đặc trưng chung trong dòng thải đối với một
số loại hình làng nghề được thể hiện trong bảng 1.2.
Bảng 1.2. Các chỉ tiêu đặc trưng trong nước thải một số làng nghề
TT

Loại hình làng nghề

Nước thải

1


Chế biến nông sản thực phẩm

SS, BOD5, COD, N, Coliform

2

Ươm tơ, dệt vải, đồ da

3

Tái chế giấy

pH, COD, độ màu, N, kim loại nặng,
Cr6+ (đối với da)
pH, SS, BOD5, COD, N, P, độ màu

4

Tái chế kim loại màu

5

Tái chế nhựa

6

Sơn mài, gỗ mỹ nghệ

SS, COD, dầu mỡ, CN-, kim loại nặng

(Cr6+, Zn2+,…)
SS, BOD5, COD, N, P, NH4+, độ
màu, dầu mỡ
SS, BOD5, COD, N, độ màu, dầu mỡ

7

SX vật liệu xây dựng

SS, COD

(Nguồn: - Trung tâm Kỹ thuật Môi trường Đô thị và Khu công nghiệp, năm 2007)
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Khoa học và Công nghệ môi trường,
trường Đại học Bách khoa Hà Nội, lượng nước dùng trung bình để sản xuất một số
sản phẩm của làng nghề như bảng1.3.
Bảng 1.3.Nhu cầu nước trung bình để sản xuất một số sản phẩm làng nghề
Tinh
Tái chế
Sản
Tinh
Bánh
Tái chế
bột
Da Vải lụa
chất
Rượu
phẩm
bột sắn
bún
giấy

dong
dẻo
(tấn)
Nhu cầu
20-25
50-60 10-15 150
450
8,2
118,9 12,5-15
nước
3
(m )
Tiêu chuẩn được sử dụng để so sánh, đánh giá nước thải sản xuất của làng
nghề là TCVN 5945-2005 mức B-Tiêu chuẩn thải đối với nước thải công nghiệp đổ
vào các thủy vực không sử dụng cho sinh hoạt.
1.2.3. Trình độ công nghệ các làng nghề
Đối với lĩnh vực sản xuất của các nghề trong làng nghề, có nhiều đặc trưng
riêng trong công nghệ sản xuất hàng hoá. Có thể chia ra làm 2 loại sau:

Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

18

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội


- Đối với ngành nghề thủ công truyền thống như: mây tre đan, làm nón, gỗ
mỹ nghệ, công đoạn sản xuất chính vẫn phải làm bằng tay, không thể áp dụng máy
móc cơ giới toàn bộ cho quy trình sản xuất, nhất là những sản phẩm mang tính mỹ
thuật cao, nhiều công đoạn được trực tiếp hình thành từ bàn tay khéo léo của các
thợ. Đó là những chi tiết quyết định giá trị của sản phẩm và nó kết tinh trong sản
phẩm những tinh hoa của người thợ thủ công và sắc thái riêng của từng làng nghề
truyền thống và đây chính là yếu tố phân biệt giữa sản phẩm thủ công và các sản
phẩm sản xuất theo kiểu công nghiệp. Các sản phẩm thủ công vì thế mang những
nét riêng biệt, không giống với bất cứ sản phẩm nào cùng loại.
- Đối với những công đoạn sản xuất có sự tham gia của máy móc: Trong quy
trình sản xuất của các làng nghề, nhiều công đoạn không phụ thuộc nhiều vào độ kỹ
xảo của hai bàn tay nên đã dùng máy móc thay cho sức người. Các công đoạn sản
xuất vốn sử dụng lao động cơ bắp trước đây như xay nghiền bột ở làng nghề chế
biến nông sản thực phẩm ; khoan, bào, cưa, xẻ ở làng nghề chế biến lâm sản ; kéo
bễ quạt lò ở các làng nghề cơ kim khí ... nay đã thay thế bằng máy móc chạy điện,
năng suất lao động được nâng cao.
Trong những năm qua, nhiều cơ sở nghề và làng nghề đã tập trung đầu tư
vào đổi mới quy trình công nghệ, thay thế nhiều công đoạn sản xuất thủ công bằng
sản xuất máy, tốc độ công nghiệp hoá diễn ra rất nhanh tại các cơ sở sản xuất trên
quy mô lớn. Năng suất lao động, chất lượng một số sản phẩm của làng nghề đã nâng
cao đáng kể. Tại làng may Cổ Nhuế, các máy móc hiện đại đã chiếm đến 80% tổng
số máy móc trong làng nghề.
Nguồn gốc máy móc của các cơ sở thủ công rất đa dạng, có loại của nước
ngoài, có loại sản xuất trong nước, có loại do thợ ở địa phương tự trang, tự chế.
Điều tra cho thấy các loại máy móc đơn giản, sản xuất kiểu thủ công chiếm một số
lượng lớn đáng kể (trên 70% tổng số máy móc, trang thiết bị). Con số khiêm tốn
3,2% số máy móc hiện đại tập trung chủ yếu tại các làng có nghề dệt, may, gốm sứ.
Nhiều làng nghề rất có nhu cầu đổi mới thiết bị công nghệ, nhưng do hầu hết là các
hộ sản xuất nhỏ lẻ nên không thể tự mình đầu tư một số lượng lớn vốn cho cải thiện
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng


19

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

máy móc. Mặt khác, các cơ sở sản xuất nghề và làng nghề đều rất kém về trong việc
tiếp xúc thông tin về hàng hoá, máy móc. Do vậy họ rất khó khăn trong việc tìm các
đối tác bán hàng tin cậy và mua các máy móc phù hợp với điều kiện sản xuất. Đa số
máy móc được nhập về các làng nghề đều không rõ nguồn gốc nơi sản xuất, phải
mua qua tay nhiều lần.
Việc đầu tư vốn cho đổi mới công nghệ sản xuất của các làng nghề còn bất
cập. Các ngân hàng hầu hết không duyệt cho vay để nghiên cứu đổi mới công nghệ
mà chủ yếu cho vay vốn lưu động. Trong khi đó, các hộ sản xuất lại không tự huy
động được nguồn vốn lớn cho đổi mới công nghệ, do đó các cơ sở còn đầu tư theo
kiểu chắp vá, khi có tiền dôi ra họ lại mua hoặc thay thế may móc đối với từng công
đoạn sản xuất. Việc mua các dây truyền sản xuất hiện đại chỉ có ở những đơn vị sản
xuất lớn.

1.3. Quản lý nhà nước về phát triển làng nghề
1.3.1. Một số vấn đề đang đặt ra đối với làng nghề
Thực tế cũng cho thấy, hiện vẫn còn rất nhiều vấn đề đang đặt ra để làng
nghề thực sự phát triển, cụ thể là:
a. Công tác quy hoạch làng nghề
Theo đánh giá của nhiều bộ, ngành và nhiều địa phương, các làng nghề của
nước ta hiện còn phát triển mang nặng tính tự phát, manh mún. Nhiều địa phương

chưa xây dựng được chiến lược phát triển làng nghề. Công tác quy hoạch (bao gồm
cả quy hoạch tổng thể có tính định hướng và quy hoạch cụ thể các cụm công nghiệp
làng nghề) còn thiếu và chưa phù hợp với điều kiện và tiềm năng phát triển của từng
vùng, địa phương. Có nơi tuy đã xây dựng được quy hoạch nhưng chưa triển khai
thực hiện đồng bộ, không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành liên quan.
Việc đầu tư cho xây dựng cụm công nghiệp làng nghề còn nhiều yếu kém, nhất là
trong các khâu về giao thông, cấp thoát nước, thông tin, xử lý chất thải. Ngoài ra,
các chính sách ưu đãi cho cụm công nghiệp làng nghề cũng chưa hình thành rõ
ràng, nhất quán.

Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

20

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

b. Trình độ công nghệ của làng nghề
Điều tra cho thấy, 70% số làng nghề hoạt động thiếu công nghệ hoặc đang sử
dụng những công nghệ lạc hậu, chủ yếu là thủ công truyền thống. Việc đổi mới
công nghệ trong các làng nghề hiện đang rất chậm làm hạn chế nhiều đến khả năng
cạnh tranh của sản phẩm vì năng suất thấp, chi phí sản xuất cao, khó tạo ra được
những mẫu mã đòi hỏi sự tinh vi và kỹ xảo. Để làm được điều này, cần tăng cường
đầu tư vào đổi mới công nghệ, nhưng nếu để từng nhóm gia đình làm sẽ là điều khó
khăn, nên Nhà nước cần đứng ra chỉ đạo thông qua việc định hướng những hoạt
động nghiên cứu của các trung tâm khoa học, trường đại học và hỗ trợ đầu tư cho

hoạt động này.
c. Công tác đào tạo nghề cho lao động làng nghề
Cùng với việc nâng cao trình độ công nghệ sản xuất của làng nghề, vấn đề
đào tạo nghề cũng được đặt ra vì việc truyền nghề hiện nay mới chủ yếu theo cách
thức truyền nghề trực tiếp, ít có đào tạo cơ bản theo trường lớp, chất lượng đào tạo
cũng chưa cao. Để sử dụng được công nghệ hiện đại, lại kế thừa được những kinh
nghiệm quý báu của các nghệ nhân thì rất cần có sự đào tạo có tổ chức. Điều này
nên được thực hiện phối hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, ngành giáo
dục và chính quyền của các địa phương, kết hợp với các viện, trường. Trong đó,
trước hết lựa chọn những ngành nghề phù hợp với nhu cầu, xây dựng chương trình
đào tạo toàn diện và chuyên sâu đối với từng nghề cụ thể. Trong các chương trình
đào tạo, nên gắn nội dung môn học với việc để người học được đi tham quan các
làng nghề của địa phương khác.
d. Thị trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề
Đây là một công việc rất khó khăn phức tạp mà từng hộ gia đình khó thể tự
làm một cách hiệu quả. Thực tế hiện nay tiêu thụ sản phẩm của làng nghề chủ yếu
chỉ thông qua các tổ chức trung gian và tư thương, làm giảm thu nhập cuối cùng của
người sản xuất. Đó mới chỉ nói đến tiêu thụ trong nước, còn bán hàng xuất khẩu thì
nhiệm vụ này càng trở lên khó khăn hơn vì phải tìm được đối tác thích hợp, phải am
hiểu các kỹ thuật ký kết hợp đồng, tuân thủ nghiêm túc những điều đã cam kết giữa
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

21

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội


các bên... Một tình trạng rất phổ biến trong các làng nghề là nhiều khi người sản
xuất không xác định rõ sẽ bán cho ai, với giá nào là phù hợp vì họ hoàn toàn không
tiếp cận được với thị trường, thiếu các thông tin, nên rất dễ bị gặp phải tình trạng ép
cấp, ép giá hoặc cạnh tranh không lành mạnh..., làm ảnh hưởng đến hoạt động tiếp
tục đầu tư cho các chu kỳ sản xuất sau của họ.
e. Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề, cụm công nghiệp làng nghề
Đây là yêu cầu cấp thiết hiện nay cần được giải quyết kịp thời để đảm bảo
cho làng nghề phát triển bền vững. Muốn thế, cần tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận
thức của các hộ gia đình sản xuất trong làng nghề, nhận thức của các ngành, các
cấp, đặc biệt cán bộ chủ chốt ở cấp huyện, xã về vấn đề này. Đồng thời, tổ chức các
lớp tập huấn nhằm tăng cường năng lực quản lý, cũng như hiểu biết về luật pháp,
các tiêu chuẩn môi trường và cách thức bảo vệ môi trường. Đề ra các chính sách
liên quan đến môi trường một cách hợp lý và phải có tính hiệu lực cao. Nhà nước và
chính quyền địa phương còn nên giúp đỡ, tạo điều kiện để các làng nghề làm tốt
công tác này. Đối với các cụm công nghiệp làng nghề, các hoạt động xử lý chất thải
môi trường nên thực hiện một cách tập trung để nâng cao hiệu quả và tiết kiệm hơn
chi phí.
1.3.2. Một số chính sách Nhà nước về phát triển và quản lý làng nghề
Một số chính sách của Nhà nước đã định hướng rõ nét về việc phát triển làng
nghề cụ thể là:
+ Quyết định 68/2002/QĐ-TTg ngày 4/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5
BCH Trung ương Đảng Khoá IX đã nêu: “Về phát triển công nghiệp ở nông thôn và
công nghiệp phục vụ nông nghiệp, bao gồm: phát triển ngành nghề nông thôn; phát
triển các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ hoặc cần nhiều lao động (sản xuất vật
liệu xây dựng, khai thác mỏ, chế biến nông lâm thuỷ sản, dệt may, da giày, cơ khí
lắp ráp sửa chữa...); sắp xếp, bố trí nâng cao năng lực công nghiệp cơ khí, hoá chất
phục vụ nông nghiệp”.


Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

22

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

+ Nghị quyết 15-NQ/TW ngày 18/3/2002 của Ban chấp hành TW Đảng khoá
IX về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 đã nêu :
“Mục tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả và bền
vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành
tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây
dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển ngày
càng hiện đại”
+ Nghị định số 134/2004/NĐ-CP ngày 09/6/2004 về việc khuyến khích phát
triển công nghiệp nông thôn với những nội dung chủ yếu là hướng dẫn, hỗ trợ tổ
chức, cá nhân khởi sự doanh nghiệp, tìm kiếm mặt bằng sản xuất, huy động vốn, xin
ưu đãi đầu tư, nâng cao năng lực quản lý, hợp lý hoá sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm, đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới
và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, quản lý chất lượng sản phẩm, bảo vệ
môi trường, đào tạo nghề, truyền nghề, cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường,
tham gia triển lãm, hội chợ, giới thiệu sản phẩm, tham gia các hiệp hội ngành nghề
và xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật.
+ Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 của Chính phủ về phát triển

ngành nghề nông thôn đã nêu: “Ủy ban nhân dân các cấp căn cứ quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất và quy hoạch tổng thể, định hướng phát triển ngành nghề nông
thôn đã được phê duyệt, lập quy hoạch xây dựng làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề
phù hợp yêu cầu phát triển sản xuất, bảo vệ môi trường, gắn sản xuất với tiêu thụ,
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt”.
+ Chỉ thị 24/2005/CT-TTg ngày 28/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc
“tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TW 5 (Khoá IX) về đẩy mạnh CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn” đã nêu: Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương phối hợp với các Bộ, ngành rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội (giao thông, thủy lợi, điện, đường, trường học, trạm y tế, chợ,
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

23

Viện Kinh tế & Quản lý


Luận văn Thạc sỹ khoa học

Đại học Bách khoa Hà Nội

bưu chính, viễn thông...) phù hợp với quy hoạch ngành và quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội, quy hoạch kế hoạch sử dụng đất của địa phương để có sự quản
lý thống nhất đồng bộ trên địa bàn. Coi trọng việc hình thành trung tâm tư vấn hỗ
trợ nông nghiệp (thị trường, giá cả, thành lập doanh nghiệp nông nghiệp, xúc tiến
thương mại,...). Rà soát, bổ sung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhất là đất nông
nghiệp, công nghiệp dịch vụ nông thôn, cụm công nghiệp và làng nghề nông thôn”.
+ Chỉ thị số 28/2007/CT-BNN ngày 18/4/2007 của Bộ NN& PTNT về đẩy
mạnh thực hiện quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn và phòng chống ô
nhiễm môi trường làng nghề đã nêu: “Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích phát triển

mạnh các ngành công nghiệp ở nông thôn, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm,
thuỷ sản và các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ, cần nhiều lao động như sản xuất
vật liệu xây dựng, công nghiệp khai thác mỏ, dệt may, da giày, cơ khí lắp ráp, sửa
chữa...để thu hút và thực hiện phân công lao động ngay trên địa bàn. Hình thành các
khu công nghiệp ở nông thôn, gắn kết ngay từ đầu lợi ích kinh tế giữa người sản
xuất nguyên liệu với các nhà máy chế biến công nghiệp.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong việc cấp đất, hướng dẫn, khuyến
khích và hỗ trợ các cơ sở ngành nghề nông thôn sử dụng máy móc, công cụ cải tiến,
thực hiện cơ khí hoá các khâu sản xuất, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường; hỗ trợ, khuyến khích các thành
phần kinh tế phát triển nhiều loại hình dịch vụ ở nông thôn, trước hết là các dịch vụ
kỹ thuật, tín dụng, thương mại, đời sống... để tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho
nông dân.”
+ Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005 là cơ sở pháp lý cao nhất. Luật đã dành
hẳn một điều quy định cụ thể về vấn đề này (Điều 38)
Trong bối cảnh biến động của nền kinh tế toàn cầu nói chung, khi giá cả các
yếu tố đầu vào (vật tư, nguyên liệu, lao động, lãi suất tiền vay....) rất khó kiểm soát
thì sự hỗ trợ của Chính phủ là hết sức cần thiết. Hiện tại, bên cạnh quyết định
132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ được ban hành từ
năm 2000, bên cạnh đó là các chính sách khuyến công, chương trình bảo tồn nghề,
Học viên: Nguyễn Danh Thưởng

24

Viện Kinh tế & Quản lý


×