Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
ĐÀO VĂN DUY

------------------------------

ĐÀO VĂN DUY

QUẢN TRỊ KINH DOANH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ
THU THUẾ ĐỐI VỚI KHU VỰC THU THUẾ NGOÀI
QUỐC DOANH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN TRỊ KINH DOANH
KHÓA 2010A

Hà Nội – Năm 2013


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của
Nhà nước và là một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước đó.
Do vậy, thuế là một khoản đóng góp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý


cao, là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước mà trong đó thu thuế đối
với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng cao trong Ngân sách
Nhà nước. Phải quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
như thế nào? Đó là một câu hỏi cấp bách đặt ra cần có những giải pháp để
thực hiện.
Trong những năm qua, thực hiện thực hiện đổi mới nền kinh tế theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
đã đưa nền kinh tế nước ta đi vào ổn định và phát triển. Các thành phần kinh
tế ngoài quốc doanh hình thành và phát triển góp phần quan trọng vào việc
thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế, xã hội do Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam đề ra.
Nền kinh tế Việt nam không nằm ngoài sự chi phối của qui luật khách
quan của một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường.
Có thể phân chia nền kinh tế thành hai khu vực. Kinh tế trong nước và kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó khu vực kinh tế trong nước lại chia thành
hai khu vực là khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh.
Với định hướng phát triển và xu thế hội nhập của nước ta hiện nay thì
việc quản lý thu thuế hết sức phức tạp và gặp không ít khó khăn, vừa đảm bảo
nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, vừa phải phù hợp đảm bảo cho phát triển
sản xuất của các thành phần kinh tế.
Cũng như những vấn đề chung trong việc quản lý thu thuế của cả nước,
chuyên đề này đóng góp cho ngành thuế tỉnh Quảng Ninh một số giải pháp

Luận văn thạc sĩ

1

Ngành Quản trị kinh doanh



Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế nói chung và thu thuế ngoài quốc
doanh nói riêng, đảm bảo thực hiện tốt pháp luật thuế và tăng thu ngân sách
địa phương nhằm phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ninh theo kịp sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh và của đất nước.
Trong phạm vi của luận văn này chỉ đề cập đến các giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh, mà hẹp hơn là đối với 2
thành phần kinh tế là tư bản tư nhân và kinh tế cá thể tiểu chủ, cụ thể là khu
vực kinh tế này bao gồm các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các hộ kinh
doanh cá thể hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp.
Lý do tác giả chọn đề tài này là do khu vực kinh tế có phạm vi rộng,
nguồn thu chiếm tỷ trọng lớn cho Ngân sách Nhà nước.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước và thuế là một
trong những công cụ rất quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Chính sách thuế của Nhà nước luôn có quan hệ chặt chẽ đến việc giải quyết
lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong xã hội, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp
đến các vấn đề vĩ mô như : tiết kiệm, đầu tư, tăng trưởng kinh tế. Việc hoàn
thiện chính sách thuế sao cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội là sự
quan tâm hàng đầu của Nhà nước.
Cùng với sự phát triển của đất nước, hệ thống thuế Việt Nam ngày càng
đổi mới hoàn thiện, phù hợp với nền kinh tế thị trường và hội nhập với thế
giới.
Việc đổi mới chính sách thuế của Nhà nước ta trong thời gian vừa qua
góp phần không nhỏ trong việc khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài, thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế, tạo
nguồn thu lớn cho ngân sách, góp phần hoàn thiện quản lý và điều tiết vĩ mô

nền kinh tế. Bên cạnh mặt tích cực của chính sách thuế hiện hành, việc thực
thi pháp luật thuế còn nhiều phức tạp và khó khăn trong việc quản lý về lĩnh
vực thuế. Tình trạng vi phạm pháp luật thuế còn phổ biến ở tất cả các thành
phần kinh tế hiện nay như: trốn thuế, lợi dụng việc hoàn thuế để “rút lõi” ngân
quỹ Nhà nước…

Luận văn thạc sĩ

2

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

Nước ta đang đổi mới theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá và
đang tiến dần đến việc hội nhập với thế giới; các thành phần kinh tế đang phát
triển nhanh và đa dạng, do đó nhiều chính sách thuế nhanh lạc hậu và tạo
nhiều kẽ hở. Vậy cần phải tiếp tục đổi mới và điều chỉnh các chính sách thuế
cho phù hợp là rất cần thiết.
Trong những năm qua, chúng ta đã có những tiến bộ trong việc cải cách
hệ thống thuế theo hướng tạo hành lang pháp luật trong chính sách thuế, quản
lý thuế, nâng cao trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện
nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, đồng thời từng bước điều chỉnh các sắc thuế
phù hợp với lộ tình hội nhập quốc tế”.
Cùng với những vấn đề chung trong việc quản lý thu thuế của nước ta
thì tỉnh Quảng Ninh cũng có nhiều vấn đề trong việc quản lý thu thuế trên địa
bàn nhất là việc quản lý thu thuế ngoài quốc doanh, tình trạng vi phạm pháp

luật thuế đã làm ảnh hưởng đến ngân sách địa phương và việc đầu tư cơ sở hạ
tầng nhằm phát triển kinh tế của Tỉnh.
2. Mục đích nghiên cứu
Tổng quan làm rõ những vấn đề lý luận chung về thuế, phân tích đánh
giá tình hình thực tế về công tác quản lý thu thuế trên địa bàn Tỉnh Quảng
Ninh, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu
thuế ngoài quốc doanh của địa phương góp phần thúc đẩy kinh tế của Tỉnh
phát triển.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nội dung của chuyên đề chủ yếu nghiên cứu áp
dụng một số cơ chế chính sách thuế vào thực tiễn và công tác quản lý thuế ở
cấp địa phương trên địa bàn Tỉnh Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu: Quản lý thu thuế trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
trong 3 năm gần đây.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nội dung và mục tiêu nghiên cứu đề tài, luận văn đã sử
dụng các phương pháp như: phương pháp điều khảo sát, phương pháp thống

Luận văn thạc sĩ

3

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

kê, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và một số phương pháp có

liên quan khác.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ thêm các lý luận cơ bản về thuế và
làm rõ vai trò của thuế đối với nền kinh tế trong cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước. Luận văn đã nêu lên thực trạng, đánh giá phân tích thực
trạng về quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh. Trên cơ sở đó luận văn đã nêu ra các giả pháp và kiến
nghị có tính khả thi nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, luận văn gồm có 3 chương
nội dung chính:
Chương 1: Cơ sở lý thuết về công tác quản lý thu thuế.
Chương 2: Phân tích thực trạng quản lý thu thuế đối với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quản lý thu thuế đối với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Luận văn thạc sĩ

4

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

Chương 1

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU THUẾ

1.1. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
1.1.1. Sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
Trong quá trình phát triển Nhà nước không thể không quan tâm đến sự
tồn tại và phát triển tất yếu khách quan của các thành phần kinh tế khác trong
đó có các thành phần kinh tế của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Nước ta
có tiềm lực kinh tế còn chưa mạnh, cơ sở vật chất còn nghèo nàn không đồng
nhất giữa các ngành các vùng, trình độ quản lý kinh tế còn thấp kém. Mâu
thuẫn giữa nhu cầu cải tiến đời sống nhân dân với khả năng của sức sản xuất
đang hết sức gay gắt, sự lựa chọn có phát triển kinh tế nhiều thành phần trong
đó có kinh tế ngoài quốc doanh hay không có tính chất quyết định. Tuy nhiên
chấp nhận sự tồn tại của kinh tế ngoài quốc doanh là để quan hệ sản xuất tồn
tại phục vụ cho các mục đích phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự phát triển của
các lực lượng sản xuất, tăng nhanh năng xuất lao động, tăng trưởng kinh tế.
Do đó sự tồn tại khách quan của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong thời
từng thời kỳ đã được khẳng định và nó tiếp tục phát triển trong nền kinh tế thị
trường, kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế không thể thiếu được
và đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Hiện nay
nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, một số
định kiến xã hội trước đây đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vẫn còn
khá nặng nề. Song từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, môi trường kinh
doanh đã bước đầu được cải thiện, các loại giấy phép bất hợp lý đã được xoá
bỏ, nhiều doanh ngiệp đã phát huy được tính chủ động sáng tạo, tận dụng
được hết năng lực vốn có và tăng vốn đầu tư, mở rộng địa bàn để phát triển
sản xuất, kinh doanh...
Vậy trong quá trình phát triển của đất nước phải khẳng định sự tồn tại

Luận văn thạc sĩ


5

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

tất yếu khách quan của kinh tế ngoài quốc doanh và xu hướng nền kinh tế này
phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước.
1.1.2. Vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong nền kinh
tế
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bao gồm các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh (Công ty TNHH, công ty Cổ phần, công ty Hợp danh, doanh
nghiệp tư nhân) và các hộ cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong
nền kinh tế thị trường, kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế không
thể thiếu và đóng vai trò ngày càng mạnh mẽ, tương xứng với tiềm năng và
đóng góp xứng đáng vào sự tồn tại vào sự phát triển nền kinh tế thị trường đòi
hỏi Nhà nước phải có các chính sách, điều kiện thuận lợi để khu vực này phát
huy được vai trò của mình trong tình hình kinh tế hiện nay.
1.1.2.1. Góp phần làm tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế
Nước ta là nước có nền kinh tế đang trên đà phát triển, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần do vậy mục tiêu phát triển kinh tế là hàng đầu.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực có nhiều đặc điểm thuận lợi cho
quá trình làm tăng của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
như là: khu vực thu hút nhiều lao động, đối tượng hoạt động rộng tạo thuận
lợi cho việc phát triển kinh tế ở mọi nơi trong nước rút ngắn khoảng cách về
thu nhập giữa thành thị và nông thôn, đồng thời góp phần khai thác những

tiềm năng to lớn của nền kinh tế như tài nguyên, sức lao động, thị trường... mà
vẫn chưa được khai thác một cách hiệu quả. Bên cạnh đó do đặc thù rất linh
hoạt, nhanh nhậy trong sản xuất để thu lợi nhuận cao nhất nên khu vực này có
khả năng phát huy nội lực, mở rộng sản xuất kinh doanh phù hợp với nhu cầu
của thị trường. Vậy khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực có vai trò
hết sức quan trọng đồng thời là khu vực góp phần vào việc thực hiện các chỉ
tiêu về tăng trưởng kinh tế do Nhà nước đề ra.

Luận văn thạc sĩ

6

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

1.1.2.2. Góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động
Nước ta là nước có dân số hơn 85 triệu dân, do đó đối tượng lao động là
rất lớn. Vấn đề thất nghiệp được đặt ra cần được giải quyết. Trong khi khu
vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn đòi
hỏi lao động phải có văn hóa, trình độ kỹ thuật nhất định thì mới có thể làm
việc trong khu vực trên dẫn đến một khối lượng lớn lao động đang ở tuổi lao
động không thể làm việc ở trong hai khu vực này. Vậy điều đáng nói ở đây là
so với 2 khu vực trên thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vai trò thu hút
nhiều thành phần lao động, từ những lao động có trình độ cao đến những lao
động thủ công, từ những hợp đồng ngắn hạn đến những hợp đồng dài hạn,
theo mùa vụ hoặc theo thời gian nhất định... Do đó khu vực này góp phần giải

quyết thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh tế.
1.1.2.3. Tạo cho ngân sách có nguồn thu ổn định và ngày càng tăng
Trước hết phải khẳng định các khoản nộp ngân sách của khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh mới đúng bản chất là “thuế”. Vì khác với các doanh
nghiệp Nhà nước, Nhà nước không phải chủ sở hữu tư liệu sản xuất, Nhà
nước thu thuế của khu vực này mà không phải đầu tư trực tiếp vào khu vực
này. Nguồn thu từ khu vực này rất lớn ngày càng tăng và được dùng chủ yếu
để đầu tư vào các ngành nghề kinh tế mũi nhọn, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ
trợ các ngành kinh tế yếu kém...đồng thời khu vực này còn tham gia đóng góp
tài chính cho đất nước nhiều hơn nữa thông qua các hoạt động tự nguyện
hưởng ứng các phong trào do Nhà nước, đoàn thể phát động như ủng hộ đồng
bào bị lũ lụt, gia đình thương binh, liệt sĩ, xây dựng trường học, đường xá
đóng góp vào các quỹ an ninh, đền ơn đáp nghĩa....Vậy khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh có vai trò điều hoà thu nhập và đóng góp vào ngân sách Nhà nước
rất lớn.
1.1.2.4. Góp phần tăng vốn đầu tư cho xã hội
Khu vực này tạo ra một thị trường vốn tín dụng lớn và hứa hẹn nhiều

Luận văn thạc sĩ

7

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

tiềm năng cho sự phát triển của các ngân hàng ở nước ta do sự đổi mới kinh

tế, nhờ chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nên khu vực ngoài quốc
doanh đã hình thành và huy động một lượng vốn đầu tư lớn cho xã hội. Đây
là một nguồn vốn quan trọng, song khai thác chưa hiệu quả. Bên cạnh đó khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh càng phát triển thì nhu cầu về vốn ngày càng
gia tăng và có mối quan hệ mật thiết với các ngân hàng, đóng góp vào sự lớn
mạnh của hệ thống ngân hàng trong công tác huy động vốn.
1.1.2.5. Các tác dụng khác
- Khu vực ngoài quốc doanh phát triển thoả mãn một phần nhu cầu tiêu
dùng xã hội, giúp cho Nhà nước trong điều kiện vốn còn hạn hẹp, có thể tập
trung đầu tư vào những ngành nghề mũi nhọn, có tác dụng đến toàn bộ nền
kinh tế và đời sống xã hội, tránh đầu tư phân tán, dàn trải...Thực tiễn cho thấy
có khu vực này nhiều ngành nghề, mặt hàng và lĩnh vực kinh doanh Nhà nước
không cần phải đầu tư hoặc chỉ đầu tư có hạn còn về cơ bản khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh đã đảm đương các chức năng bán lẻ các mặt hàng tiêu dùng
và tổ chức các dịch vụ tiêu dùng cho xã hội, đặc biệt ở địa bàn nông thôn và
miền núi.
- Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển góp phần thúc
đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa, tạo ra sự cạnh tranh sống
động trên thị trường, thúc đẩy kinh tế Nhà nước hoàn thiện hạch toán kinh
doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm. Trước đây trong điều kiện chỉ có kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác,
sản phẩm hàng hóa dù sản xuất ra với bất kỳ chất lượng nào, giá cả ra sao đều
được tiêu thụ. Nhưng từ khi có kinh tế ngoài quốc doanh với đặc điểm tư hữu
cao, khu vực này rất linh hoạt năng động với tinh thần trách nhiệm rất cao
trong sản xuất, tìm kiếm thị trường đồng thời luôn tập trung cao độ tinh thần
làm việc, phát huy mọi khả năng sẵn có của mình. Để cạnh tranh với khu vực
ngoài quốc doanh thì buộc khu vực kinh tế quốc doanh phải cải tiến hàng hoá

Luận văn thạc sĩ


8

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

sản xuất ra nếu không sẽ không được thị trường chấp nhận. Bên cạnh sự
cạnh tranh đó thì nếu hai khu vực này không còn hợp tác, thúc đẩy nhau để
sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện với chất lượng cao hơn. Vậy hợp tác và
cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của hai khu vực kinh tế
này.
- Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hình thành và phát triển còn tác
động cả vào cơ chế quản lý làm thay đổi phương thức quản lý sản xuất kinh
doanh, thay đổi tác phong, lề lối làm việc của cán bộ công chức Nhà nước,
của người lao động.
Trước hết đối với các cơ quan quản lý và cán bộ công chức Nhà nước,
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cơ chế quản lý tập trung bao cấp
không còn thích hợp nữa vì Nhà nước không thể ra lệnh cho các đơn vị kinh
tế ngoài quốc doanh phải sản xuất cái gì, phải bán theo giá qui định, mà cho
qui luật giá trị, do thị trường do nhu cầu xã hội quyết định. Với khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh các cơ quan quản lý, công chức Nhà nước không thể can
thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Đây chính là những tiền đề
đặt ra cần phải đổi mới cơ chế quản lý và phải luôn hoàn thiện cơ chế quản lý
của nền kinh tế thị trường.
Phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng có tác động và làm
thay đổi ý thức, tác phong làm việc của công chức các cơ quan quản lý Nhà
nước. Vì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh toàn bộ vốn và tài sản thuộc sở

hữu tư nhân, họ có quyền quyết định phương án sản xuất kinh doanh và chỉ
chịu sự quản lý của Nhà nước thông qua pháp luật. Cán bộ công chức Nhà
nước không có quyền can thiệp vào công việc kinh doanh của họ. Quan hệ
giữa đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh và công chức Nhà nước là quan hệ bình
đẳng trước pháp luật.
Đối với người lao động và những người quản lý sản xuất kinh doanh,
câu hỏi đặt ra là làm sao thu được lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy phải cải tiến

Luận văn thạc sĩ

9

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

sản xuất, kinh doanh, nâng cao trình độ chuyên môn để sản xuất ra hàng hoá
chất lượng cao, giá thành hạ.
Quan hệ giữa người bán hàng dịch vụ và người mua hàng dịch vụ được
thay đổi từ quan niệm “bán như cho” thời bao cấp bằng quan niệm coi “khách
hàng là thượng đế”.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển tác động cả vào các cơ
quan quản lý trong việc hoạch định chính sách và cải cách hành chính.
Vậy chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó vai trò của
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn và phản
ánh đúng qui luật khách quan của thời kỳ qua độ. Chính sách này được nhân
dân hưởng ứng rộng rãi và đã đi nhanh vào cuộc sống chính sách ấy đã góp

phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế, khơi dậy được nhiều
tiềm năng va sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo
việc làm và sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy sự hình thành và phát triển nền
kinh tế hàng hoá, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường. Ngoài ra góp
phần vào phát triển và tăng trưởng kinh tế ngoài quốc doanh có sự tham giam
tích cực của các cơ quan quản lý trong việc hoạch định chính sách và cải cách
hành chính đồng thời Nhà nước đã ban hành 51 luật, pháp lệnh và các Nghị
định, quyết định, chỉ thị của Chính phủ điều chỉnh và quản lý mọi hoạt động
kinh tế xã hội của đất nước nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát
triển và lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội.
Sự cần thiết khách quan phải có các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh(DNNQD):
Sự hình thành các DNNQD ở nước ta gắn liền với sự xuất hiện của nền
kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã làm xuất hiện ngày càng nhiều hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Đây là tiền đề cho sự ra đời tất yếu của
DNNQD.

Luận văn thạc sĩ

10

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

Chuyển sang kinh tế thị trường, đời sống của nhân dân không ngừng
được cải thiện, sự tích luỹ của nhân dân ngày càng tăng cao. Đối với Nhà

nước, muốn thu hút vốn cho công cuộc CNH-HĐH thì tất yếu phải xây dựng
nên các mô hình kinh doanh đa dạng để mọi ngưòi dân có thể tham gia sản
xuất kinh doanh trong nền kinh tế.
Trong quá trình mở cửa nền kinh tế, sự tồn tại của các DNNQD trở nên
tất yếu bởi đây là hình thức doanh nghiệp phù hợp với các hoạt động hợp tác
đầu tư với những nhà đầu tư nước ngoài, là “ chiếc cầu nối” quan trọng cho sự
hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
Vai trò của DNNQD
Là nhân tố chủ yếu thúc đẩy sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước không công nhận thị trường, giá cả,
cũng không chấp nhận cạnh tranh, do đó không có yêu cầu nâng cao hiệu quả
và sức cạnh tranh của sản phẩm. Ngày nay, khi chấp nhận nền kinh tế thị
trường với nhiều thành phần kinh tế, nhất là trước yêu cầu hội nhập, cạnh
tranh là điều không thể tránh khỏi thì nhân tố thúc đẩy cạnh tranh đương
nhiên thuộc về doanh nghiệp tư nhân, có sự tham gia của doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
Là khu vực góp phần ngày càng quan trọng vào sự tăng trưởng của tổng
sản phẩm trong nước (GDP). Cho đến nay, mặc dù vẫn chịu nhiều rào cản,
nhiều đối xử bất công và nhũng nhiễu của công chức tiêu cực, kinh tế dân
doanh đã trở thành lực lượng chủ công trong nhịp độ tăng trưởng của nền
kinh tế, trong tất cả các ngành, từ nông nghiệp đến công nghiệp, từ thương
nghiệp nội địa đến xuất nhập khẩu. Vị trí của kinh tế dân doanh mỗi năm
được tăng lên trong đầu tư phát triển cũng như trong tăng trưởng đã trở thành
xu thế tất yếu của nền kinh tế Việt Nam, không chỉ hiện nay mà có ý nghĩa
quyết định cả trong tương lai.

Luận văn thạc sĩ

11


Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

Là lực lượng chủ yếu thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế
từ nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế phát triển đa dạng, cả công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy công nghiệp hoá- hiện đại hoá, theo yêu cầu
của thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể khẳng định rằng, nếu chỉ
đơn thuần dựa vào đầu tư của Nhà nước, không dựa vào lực lượng của kinh tế
dân doanh thì chắc chắn không thể thực hiện được yêu cầu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng thị trường.
Là nơi đảm bảo đại đa số chỗ làm việc cho người lao động, là lực lượng
to lớn nhất trong các hoạt động xã hội, từ thiện, xoá đói giảm nghèo, giảm bớt
chênh lệch giàu nghèo trong xã hội. Trên thực tế, nơi giải quyết việc làm chủ
yếu và quyết định nhất cho số người đến tuổi lao động dôi dư từ các doanh
nghiệp nhà nước được sắp xếp lại vẫn phải dựa vào kinh tế dân doanh.
Cũng chính khu vực kinh tế dân doanh là nơi đang hình thành một lớp
người mới, một tầng lớp xã hội mới, đó là doanh nhân. Đó chính là những
người lính xung kích thời bình được xã hội công nhận. Họ có đủ dũng cảm
đưa tài sản, vốn liếng ra kinh doanh trong một môi trường chưa đủ thông
thoáng, còn nhiều rủi ro; khá nhiều người trong họ đang trở thành nhà quản lý
tài năng, nắm được tri thức hiện đại về quản lý và công nghệ để bảo đảm và
không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của từng sản phẩm hàng hoá cũng như
hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp dân doanh trong sóng gió của
kinh tế thị trường.
1.1.3. Quan điểm về phát triển kinh tế ngoài quốc doanh và các
chính sách kinh tế của Nhà nước

Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là cần thiết và không
thể thiếu được vì nó dẫn dắt thị trường phát triển theo hướng tích cực và khắc
phục, sửa chữa những già mà cơ chế thị trường chưa đạt được cũng như hậu
quả mà nó gây ra để phát triển nền kinh tế một cách tốt nhất.
1.1.3.1. Quan điểm về phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

Luận văn thạc sĩ

12

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

Nước ta hiện nay có các thành phần kinh tế sau:
+ Kinh tế tư bản Nhà nước.
+ Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
+ Kinh tế tư bản tư nhân.
+ Kinh tế Nhà nước.
+ Kinh tế Hợp tác.
a. Thành phần kinh tế Nhà nước: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ
sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuấtchủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà
toàn bộ số vốn thuộc về Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm phần khống
chế. Kinh tế quốc doanh hiện nay vẫn giữ vững vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế nước ta, được hình thành do Nhà nước đầu tư xây dựng các cơ sở kinh
tế trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, ngoài ra còn
được hình thành bằng con đường quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân.

b. Thành phần kinh tế cá thể: là thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất và lao động của bản thân người sản xuất.
Đặc điểm cơ bản của thành phần kinh tế này là tư liệu sản xuất và sức
lao động được kết hợp trực tiếp bởi cùng một chủ thể. Mặc dù người sản xuất
được tự do sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn chịu tác động trực tiếp của các
thành phần kinh tế khác và của thị trường. Trong suốt thời kỳ quá độ, đặc biệt
chặng đường đầu, thành phần kinh tế cá thể có vai trò rất quan trọng trong
việc sản xuất dịch vụ, tư liệu sinh hoạt phục vụ đời sống và sản xuất. Kinh tế
cá thể tồn tại độc lập, có thể liên doanh liên kết với các đơn vị kinh tế của các
thành phần kinh tế khác bằng nhiều hình thức, hoặc tham gia hợp tác xã tự
nguyện nếu người lao động thấy cần thiết.
c. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân: là thành phần kinh tế dựa trên
chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa và bóc lột lao động làm thuê, mặc dù không
còn nguyên nghĩa như xã hội cũ. Nó tồn tại trong những ngành có lợi trong

Luận văn thạc sĩ

13

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

quốc kế dân sinh, được Nhà nước khuyến khích, kiểm soát và hướng theo con
đường kinh tế tư bản Nhà nước.
Thành phần này bao gồm các đơn vị kinh tế phần lớn vốn của tư nhân
(cả trong và ngoài nước) đầu tư, hoạt động dưới hình thức xí nghiệp tư doanh,

hoặc công ty cổ phần được luật pháp qui định. Thành phần này có ưu điểm
mạnh về vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý. Nó có vai
trò to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết việc làm, tăng
thu nhập kinh tế quốc dân, nâng cao đời sống.
d. Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước: là thành phần kinh tế mà chủ
thể của nó là tư bản Nhà nước cùng góp vốn để hoạt động sản xuất kinh
doanh; gồm các đơn vị kinh tế ở các ngành, các lĩnh vực dưới các hình thức
công ty hợp doanh, gia công, thuê tài sản...Có thể khẳng định rằng trong thời
kỳ quá độ, đây là hình thức kinh tế trung gian thích hợp nhất để chuyển từ sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta.
e. Thành phần kinh tế tập thể: là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập
thể, gồm các đơn vị kinh tế do những người lao động tự nguyện góp vốn, góp
sức kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi.
Hợp tác xã là hình thức chủ yếu của nền kinh tế tập thể, bao gồm hợp tác xã
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, tín dụng.
Những loại hình hợp tác xã trên được hình thành với qui mô và mức độ
khác nhau phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, yêu cầu của sản
xuất và đời sống. Xu hướng vận động và phát triển của kinh tế tập thể theo
hướng hình thành những cơ sở, tổ hợp kinh tế công nông nghiệp để đi lên sản
xuất lớn.
Các thành phần kinh tế cơ bản trên tồn tại trên cơ sở ba loại sở hữu chủ
yếu: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Ngoài ra, còn có
những hình thức tổ chức kinh tế hoạt động không thuộc thành phần kinh tế

Luận văn thạc sĩ

14

Ngành Quản trị kinh doanh



Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

nào như hình thức kinh tế hỗn hợp nhiều loại sở hữu công ty, xí nghiệp cổ
phần, liên doanh, liên kết hai bên và nhiều bên giữa các chủ thể, giữa
các thành phần kinh tế trong và ngoài nước.
Trên giác độ nghiên cứu, có thể phân chia khu vực kinh tế trong nước
thành hai khu vực nhỏ hơn: khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh cho phù hợp với những thuật ngữ đang được sử dụng phổ
biến trong nhiều văn bản của Nhà nước và trong các cuộc hội thảo.
Điểm khác biệt căn bản giữa thành phần kinh tế quốc doanh và thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh là tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Kinh tế quốc doanh dựa trên sở hữu của Nhà nước, kinh tế ngoài quốc
doanh dựa trên sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp giữa tư nhân
với tập thể hay giữa các tư nhân với nhau. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế ngoài quốc doanh giữ vai trò mở đuờng cho sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
1.1.3.2. Các chính sách kinh tế của Nhà nước để phát triển kinh tế ngoài
quốc doanh
Quán triệt đường lối đổi mới kinh tế, Nhà nước đã nhanh chóng cụ thể
hóa thành những chính sách cụ thể và luật hoá để thực hiện. Trước hết cần
phải được thể chế thành điều luật trong hiến pháp, điều 15 Hiến pháp
năm 1992 đã qui định “Nhà nước phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”.
Về kinh tế ngoài quốc doanh, điều 21 Hiến pháp năm1992 qui định:

“kinh tế ngoài quốc doanh được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh,
được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về qui mô hoạt động trong

Luận văn thạc sĩ

15

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh”. Mục đích chính sách kinh tế
của Nhà nước là làm cho dân giàu, nước mạnh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính sách kinh tế của Nhà nước còn
nhằm giải phóng năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành
phần kinh tế thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bằng các qui định của Hiến pháp, Nhà nước và xã hội đã chính thức
thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, nếu chỉ
công nhận khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại thôi thì chưa đủ mà cần
phải định hướng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển theo đúng
đường lối của Đảng, đúng mục đích đã định ra không để kinh tế ngoài quốc
doanh phát triển tự phát, chệch hướng. Vì vậy cần tiếp tục thể chế đường lối
của Đảng, Hiến pháp thành những chính sách cụ thể. Trong những năm qua
Nhà nước đã nghiên cứu, ban hành các chính sách cụ thể tạo hành lang pháp
lý cho kinh tế ngoài quốc doanh phát triển, đồng thời liên tục chỉnh lý cho các
chính sách thật phù hợp với đời sống thực tiễn, khơi dậy mọi tiềm năng của
khu vực kinh tế này. Trong các chính sách đó đáng chú ý là:

- Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 được Quốc hội khoá XI thông
qua ngày 29 tháng 11 năm 2005. Luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm
2006 qui định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của Công. Luật
doanh nghiệp mới có nhiều sửa đổi bổ xung cho phù hợp với thực tiễn cuộc
sống, tạo môi trường thoáng cho doanh nghiệp thành lập và hoạt động nên tuy
mới chỉ sau một vài năm đã phát huy những tác dụng to lớn.
- Nghị định của Chính phủ về cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh
công thương nghiệp dịch vụ: qui định về đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý
và hoạt động của cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh có vốn thấp hơn vốn
pháp định để thành lập doanh nghiệp. Theo Nghị định này mọi cá nhân, nhóm
cá nhân có nguyện vọng sản xuất kinh doanh chỉ thực hiện thủ tục khai báo
đơn giản, cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm phải cấp đăng ký kinh

Luận văn thạc sĩ

16

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

doanh, nếu cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh những ngành nghề không
thuộc loại cấm.
- Ban hành các Luật thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu
thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp... được áp dụng thống nhất cho các
thành phần kinh tế.
Để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành

phần theo cơ chế thị trường, Nhà nước đã có chính sách thuế thống nhất để
tạo điều kiện cạnh tranh công bằng và bình đẳng. Do đó việc ban hành các
luật thuế áp dụng chung cho mọi cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế là kịp thời và cần thiết. Về nguyên tắc chung, hệ thống chính
sách thuế mới đã đảm bảo sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khuyến khích sản
xuất phát triển, hướng dẫn tiêu dùng hợp lý.
- Ban hành luật khuyến khích đầu tư trong nước, thể hiện cụ thể về chủ
trương của Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi
người dân bỏ vốn sản xuất kinh doanh. Trong luật khuyến khích đầu tư trong
nước cũng ban hành luôn các danh mục ngành nghề, danh mục các địa bàn
khuyến khích đầu tư và chính sách ưu đãi cụ thể đối với từng ngành nghề và
từng địa bàn. Trong đó đặc biệt là các chính sách ưu đãi miễn giảm thuế được
các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh quan tâm và hoan
nghênh.
Ngoài ra các chính sách về tín dụng như áp dụng chung một mức lãi
suất, chính sách về xuất nhập khẩu qui định mọi cơ sở sản xuất kinh doanh
thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tham gia trực tiếp xuất nhập khẩu,
chính sách về lao động qui định mọi công dân đến tuổi lao động ở mọi hình
thức, mọi thành phần kinh tế đều có quyền lợi ngang nhau, chính sách về tiền
lương cũng được ban hành mới và sửa đổi, bổ xung cho phù hợp với chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đồng thời Nhà nước
cũng chỉ đạo mạnh mẽ việc cải tiến thủ tục hành chính tạo môi trường sản

Luận văn thạc sĩ

17

Ngành Quản trị kinh doanh



Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

xuất kinh doanh, môi trường đầu tư lành mạnh, thông thoáng đã góp phần
quyết định cho sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
1.1.4. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tác động đến
quản lý thu thuế
- Các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh dựa
trên quan hệ sở hữu tư nhân, toàn bộ vốn, tài sản... đều thuộc sở hữu tư nhân.
Trong hầu hết trường hợp chủ sở hữu là người quản lý và ra quyết định kinh
doanh và chịu toàn bộ trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Mục tiêu lớn nhất
của tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là lợi nhuận. Vì vậy các doanh
nghiệp rất nhanh nhậy trong tìm hiểu đầu tư và đầu tư có thể sẵn sàng bằng
bất cứ giá nào để kiếm được thật nhiều lợi nhuận với những phương án kinh
doanh rất táo bạo và mạo hiểm. Đôi khi để đạt được mục đích họ có thể xem
thường pháp luật kể cả trốn thuế... gây hậu quả cho xã hội.
- Đối tượng kinh doanh lớn, kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực nhưng về
mặt qui mô còn nhiều hạn chế, một số hoạt động ở lĩnh vực sản xuất do trình
độ công nghệ lạc hậu nên năng suất lao động thấp... Đối tượng kinh doanh
vừa lớn lại trải trên diện rộng ở khắp các địa phương trong cả nước làm cho
việc quản lý đối tượng thêm phức tạp.
- Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có số đông người lao động là trình
độ văn hoá thấp dẫn đến trình độ quản lý, trình độ công nghệ thấp trong số
những người lao động ở khu vực này có cả những người già, cán bộ công
nhân viên nghỉ hưu, nghỉ mất sức hoặc không có công việc làm phải kinh
doanh để kiếm sống... Do đó việc tuyên truyền giải thích chính sách gặp
nhiều vấn đề khó khăn, công tác quản lý có nhiều trở ngại do hạn chế về khả
năng ngoại ngữ, thiếu thông tin về thị trường... vì vậy khó ứng phó được với
tác động của thị trường bên ngoài.

- Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có ý thức chấp hành pháp luật rất
kém. Tình trạng kinh doanh không có giấy phép hay vi phạm điều lệ đăng ký

Luận văn thạc sĩ

18

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

kinh doanh tương đối phổ biến. Đa số doanh nghiệp có sử dụng lao động vi
phạm chế độ sử dụng lao động như không đóng bảo hiểm xã hội... Cũng
tương tự như trên có 1 bộ phận không nhỏ số hộ kinh doanh không xin cấp
mã số thuế, không đăng ký nộp thuế đối với các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh cũng có tình trạng tương tự, nhiều doanh nghiệp xin thành lập nhưng
không hoạt động, còn tình trạng lập sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ không
đúng thực tế nhằm mục đích trốn thuế diễn ra phổ biến.
- Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có mô hình tổ chức quản lý và
kinh doanh gọn nhẹ, năng động và nhậy bén, là khu vực chiếm phần đông
trong nền kinh tế song qui mô nhỏ do vốn ít, cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, linh
hoạt, dễ dàng thích ứng nhanh với sự biến động của thị trường và sự tiến bộ
không ngừng khoa học kỹ thuật, đồng thời trong các doanh nghiệp số lượng
lao động ít và thường đảm nhận chức vụ theo kiểu đa năng giúp cho chi phí
nhân công thấp tạo lợi thế cạnh tranh về giá và sản phẩm cung cấp cho thị
trường trong nước nhưng do qui mô quá nhỏ bé dẫn đến khó cạnh tranh được
trên thị trường quốc tế.

Hiến phát năm 1992 quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ
giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
Chế độ kinh tế được thể chế hóa tại Chương II, theo đó, Nhà nước phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng.
Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những
ngành và lĩnh vực then chốt, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo

Luận văn thạc sĩ

19

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

đảm sản xuất, kinh doanh có kiệu quả. Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân
được gọi là hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh
nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi
cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển. Trên cơ
sở đó, hành lang pháp lý cho hoạt động doanh nghiệp dần được bổ sung hoàn
thiện, sự ra đời của Luật Công ty số 47/LCT/HĐNN8 và Luật Doanh nghiệp

tư nhân số 48/LCT/HĐNN năm 1991, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1994
và 2004, đặc biệt Luật Doanh nghiệp số 13/1999/QH10 ngày 12/06/1999 đi
vào cuộc sống đã tạo cơ sở nền tảng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của khối doanh nghiệp khu vực
tư nhân. Sự ra đời của Luật Doanh Nghiệp năm 2000 là một bước tiến dài,
hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp. Qua đó, tiêu chí
bảo vệ quyền công dân trong việc thành lập và điều hành hoạt động kinh
doanh tư nhân mà không có sự can thiệp của chính phủ cùng với sự đơn giản
hóa thủ tục hành chính rõ rệt. Cơ chế “đăng ký trước, kiểm tra sau” (cơ chế
hậu kiểm) đã tác động mạnh tới toàn nền kinh tế. Các chính sách phát triển
kinh tế tư nhân được quy định bởi Luật Doanh Nghiệp đã được cải thiện qua
từng giai đoạn, khơi dậy tin thần doanh nhân, huy động nguồn lực trong nước,
tạo sân chơi bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp. Kết quả là ngày
càng nhiều doanh nghiệp thành lập mới và đi vào hoạt động. Tiếp theo Luật
Doanh nghiệp 1999, Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực vào ngày 1/1/2006
đánh dấu một bước tiến mạnh mẽ trong việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh
doanh, xoá bỏ cơ bản các rào cản đăng ký gia nhập thị trường đối với doanh
nghiệp.
Luật Doanh nghiệp ra đời và đi vào thực tiễn đã tạo môi trường thông
thoáng cho hoạt động kinh doanh, tạo bước đột phá về cải cách hành chính,
nâng cao đáng kể tính nhất quán, tính thống nhất, minh bạch và bình đẳng của
khuôn khổ pháp luật về kinh doanh ở nước ta. Bằng việc đơn giản hoá thủ tục

Luận văn thạc sĩ

20

Ngành Quản trị kinh doanh



Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

thành lập doanh nghiệp, bãi bỏ hàng trăm giấy phép và quy định pháp luật
không còn phù hợp về điều kiện kinh doanh. Tiếp theo đó, hàng loạt văn bản
hướng dẫn thi hành Luật được ban hành, sửa đổi, hoàn thiện nhằm phù hợp
với tình hình thực tiễn nền kinh tế và đi vào cuộc sống đã cải thiện đáng kể
môi trường pháp lý cho mọi loại hình doanh nghiệp tham gia thị trường, thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng và
phát triển vượt bậc của khối doanh nghiệp kinh tế tư nhân.
Khung pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp đặc biệt là khu vực tư
nhân đã từng bước hoàn thiện theo hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường,
góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội và nâng cao vai trò của
các doanh nghiệp khối kinh tế tư nhân trong nền kinh tế; đồng thời phát huy
các nguồn nội lực, khơi dậy ý thức lập nghiệp cho người dân, tạo thêm nhiều
cơ hội cho doanh nghiệp, doanh nhân lựa chọn hình thức kinh doanh, lĩnh
vực, ngành nghề kinh doanh, làm phong phú thêm sản phẩm hàng hóa, dịch
vụ phục vụ nhu cầu xã hội, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động.
Đến nay, hệ thống văn bản pháp lý về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ, nhất là giai đoạn từ năm
2006 đến nay. Bên cạnh đó, chất lượng của hệ thống văn bản pháp lý về hoạt
động doanh nghiệp cũng được nâng cao, tiếp cận với thông lệ quốc tế, đáp
ứng từng bước yêu cầu hội nhập.
Sự bùng nổ khối kinh tế tư nhân và kinh doanh hộ gia đình
Hai mươi năm qua, doanh nghiệp khu vực tư nhân đã có sự phát triển
vượt bậc cả về qui mô và số lượng, tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho nền
kinh tế. Theo đó, tổng tài sản, vốn đăng ký, lợi nhuận và doanh thu xuất khẩu
không ngừng tăng, đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Sự bùng nổ
của khối kinh tế tư nhân và kinh doanh hộ gia đình đã đóng góp tuyệt vời cho

tăng trường kinh tế và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.

Luận văn thạc sĩ

21

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

Số lượng DN khu vực tư nhân trong nước đăng ký hoạt động tăng
trưởng nhanh, tăng khoảng 15 lần sau 9 năm (2011 so với 2002). Cho đến hết
năm 2011, số doanh nghiệp khu vực tư nhân thực tế đang hoạt động là
196.779 doanh nghiệp, chiếm 95,7% tổng số doanh nghiệp, gấp 5,6 lần năm
2002 và tốc độ tăng số lượng doanh nghiệp bình quân hàng năm là 24,1%.
Cùng với sự gia tăng về số lượng, quy mô vốn bình quân trên một doanh
nghiệp cũng tăng lên nhanh chóng, tăng từ 962 triệu đồng/doanh nghiệp vào
năm 2002 lên 3,14 tỷ đồng/doanh nghiệp vào năm 2009 (gấp khoảng 3,2 lần),
năm 2010 là 8,1 tỷ/doanh nghiệp, năm 2011 là 8,7 tỷ/doanh nghiệp. Tính
chung cả giai đoạn 2002-2011, quy mô vốn đăng ký trung bình một doanh
nghiệp tăng gấp 9 lần.
1.2. Nội dung quản lý thu thuế đối với khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh
1.2.1. Sự ra đời và phát triển của thuế
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra
đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại của Nhà nước.
Mỗi Nhà nước ở mỗi giai đoạn lịch sử có bản chất, chức năng và nhiệm vụ cụ

thể khác nhau. Nhưng để duy trì sự tồn tại của mình, Nhà nước cần có những
nguồn tài chính để chi tiêu, trước hết chi tiêu để duy trì và củng cố bộ máy cai
trị từ trung ương đến địa phương thuộc phạm vi lãnh thổ mà Nhà nước đó cai
quản, chi cho các công việc thuộc chức năng của Nhà nước như: quốc phòng,
an ninh, chi cho xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng, chi cho các vấn đề
về phúc lợi công cộng, về sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài.
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, Nhà nước thường sử
dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng
quyền lực Nhà nước bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó hình thức góp
tiền, tài sản của dân và hình thức vay của dân là hình thức không mang tính
ổn định, lâu dài, thường được Nhà nước sử dụng có giới hạn trong một số

Luận văn thạc sĩ

22

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội

Viện Kinh tế & Quản lý

trường hợp đặc biệt. Để đáp ứng chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng
quyền lực chính trị để qui định các khoản đóng góp bắt buộc cho Nhà nước
đối với các thể nhân trong xã hội nhằm đảm bảo điều kiện vật chất duy trì sự
tồn tại và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Đây chính là hình
thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài chính cho Nhà nước.
Hình thức Nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân đóng góp để
đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình - đó chính là thuế.

Thuế có thể được thu bằng tiền, bằng hiện vật hoặc bằng ngày công lao
động. Với sự mở rộng không ngừng chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và sự
phát triển mạnh mẽ kinh tế hàng hóa - tiền tệ; hệ thống thuế của các quốc gia
đã không ngừng phát triển và thuế thu bằng tiền trở thành hình thức thu phổ
biến.
Như vậy có thể khẳng định Nhà nước và thuế là hai phạm trù gắn bó
hữu cơ với nhau. Nhà nước tồn tại tất yếu phải có thuế để đảm bảo điều kiện
vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của mình. Đồng thời, sự phát triển hệ
thống thuế của các quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển chức năng nhiệm
vụ của Nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hóa -tiền tệ.
Về quan hệ giữa Nhà nước và thuế, Mác đã viết: “Thuế là cơ sở kinh tế
của bộ máy Nhà nước, là thủ đoạn cơ bản để kho bạc thu được tiền hay sản
vật mà người dân phải đóng góp để dùng vào mọi chi tiêu của Nhà nước”.
Ăng ghen cũng đã viết: “Để duy trì quyền lực công cộng cần phải có sự đóng
góp của công dân cho Nhà nước, đó là thuế”.
Như vậy, thuế luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Nhà nước,
bản chất của Nhà nước qui định bản chất giai cấp của thuế.
Trong thời chiếm hữu nô lệ, thuế là công cụ tạo nguồn cho thu Ngân
sách Nhà nước để nuôi bộ máy Nhà nước của mình.
Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ của Ngân sách
Nhà nước mà còn là một công cụ điều chỉnh một bộ phận của cải từ các chủ

Luận văn thạc sĩ

23

Ngành Quản trị kinh doanh


Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội


Viện Kinh tế & Quản lý

thể kinh tế khác nhau tập trung thành quỹ tiền tệ nằm trong tay Nhà nước qua
việc điều tiết một phần thu nhập dân cư, điều chỉnh các hành vi kinh tế của
dân cư, điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô theo định hướng Nhà nước; và thuế là
công cụ góp phần thực hiện công bằng xã hội, thu thuế từ người có thu nhập
cao để tạo nguồn lực cung cấp phúc lợi cho người có thu nhập thấp.
Khái niệm về thuế
Thuế gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Nhà nước và là một công cụ
quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng, nhiệm
vụ của mình. Tùy thuộc vào bản chất của Nhà nước và cách thức Nhà nước sử
dụng, các nhà kinh tế có quan điểm về thuế khác nhau.
Từ quan điểm của các nhà triết học, nhà kinh tế có thể đưa ra những
đặc điểm cơ bản của thuế như sau:
- Thuế là một khoản thu không bồi hoàn, không có tính hoàn trả trực
tiếp. Nộp thuế cho Nhà nước không có nghĩa là cho Nhà nước mượn tiền hay
gửi tiền vào Ngân sách Nhà nước hoặc là mua một dịch vụ công. Nộp thuế là
một nghĩa vụ cơ bản nhất của công dân.
- Thuế là một khoản thu mang tính bắt buộc, để đảm bảo tập trung thuế
trên phạm vi toàn xã hội. Chính phủ phải sử dụng hệ thống pháp luật để ban
hành các sắc thuế, vì vậy thuế thường được qui định dưới dạng văn bản luật
hay pháp lệnh. Cho nên trốn thuế hay gian lận thuế đều bị coi là những hành
vi phạm pháp và phải chịu xử phạt về hành chính hoặc hình sự.
- Các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế
đã được pháp luật qui định.
Từ những đặc trưng của thuế nêu trên chúng ta có thể đưa ra một định
nghĩa tổng quát về thuế như sau:
Thuế là hình thức đóng góp theo nghĩa vụ do Luật qui định cho các tổ
chức và cá nhân trong xã hội nộp cho Nhà nước bằng một phần thu nhập của

mình nhằm tập trung một bộ phận quyền lực, của cải xã hội vào Ngân sách

Luận văn thạc sĩ

24

Ngành Quản trị kinh doanh


×