Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

VAN MINH LUONG HA CO DAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.88 KB, 16 trang )

Văn minh Lưỡng Hà cổ đại
Nội dung
I - Tổng quan về Lưỡng Hà cổ đại
1. Địa lý và cư dân
2. Các quốc gia Lưỡng Hà cổ đại
Nhà nước của người Xume
Accat
Vương triều của Ua
Cổ Babilon
Tân Babilon và Ba tư
II - Những thành tựu chủ yếu của nền văn minh Lưỡng Hà
1. Chữ viết
2. Văn học
3. Tôn giáo
4. Luật pháp
5. Kiến trúc và điêu khắc
6. Khoa học tự nhiên
Toán học Thiên văn học Y học
I - Tổng quan về Lưỡng Hà cổ đại
1. Địa lý và cư dân
Lưỡng Hà (Mésopotamie) nghĩa là miền giữa hai sông, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp
mêđốt là ở giữa và pôtamốt là sông. Hai sông đó là sông Tigrơ ở phía Đông và ơphrát ở
phía Tây. Cả hai sông này đều bắt nguồn từ miền rừng núi Acmênia chảy qua lãnh thổ
nướ Irắc ngày nay rồi đổ ra vịnh Ba Tư (Pécxích).
Về mùa xuân, tuyết ở cao nguyên Acmênia tan làm nước ở hai sông Tigrơ và ơphrát
dâng cao gây nên lũ lụt làm ngập cả một vùng rộng lớn. Nhưng chính nhờ nước lụt, đất
đai ở đây không ngừng được bồi đắp và trở nên màu mỡ. Lượng phù sa ở đây nhiều đến
nỗi, qua mấy nghìn năm, cả một vùng biển rộng lớn ở cửa sông này đã trở thành đồng
bằng, bờ biển của vịnh Ba Tư phải lùi xa gần 200km. Cũng vì vậy, hai dòng sông Tigrơ
và ơphrát vốn đổ ra biển bằng hai cửa sông khác nhau đã nhập lại thành một dòng trước
khi ra biển. Chính nhờ có đất đai phì nhiêu như vậy nên cũng như Ai Cập cổ đại, khi


công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ, kinh tế ở đây vẫn có điều kiện phát triển; do đó
đã sớm bước vào xã hội văn minh.
Trong khi Lưỡng Hà là một vùng màu mỡ thuận lợi cho cuộc sống của con người như
vậy thì về địa hình, Lưỡng Hà là một vùng hoàn toàn để ngỏ ở mọi phía, không có
những biên giới hiểm trở bảo vệ, vì vậy trong mấy ngàn năm lịch sử, vùng này đã trở
thành nơi tranh giành của nhiều tộc người khác nhau, dẫn đến sự hưng vong của nhiều
quốc gia hùng mạnh một thời.
Về tài nguyên, Lưỡng Hà hiếm đá quý và kim loại, nhưng lại có một loại đất sét rất tốt,
vì vậy đất sét đã trở thành vật liệu chủ yếu của ngành kiến trúc, chất liệu để viết, thậm
chí đất sét còn được đưa vào các truyện huyền thoại.
Cư dân xưa nhất ở Lưỡng Hà là người Xume. Họ từ Trung á di cư đến miền Nam
Lưỡng Hà vào khoảng thiên kỷ IV TCN. Tại đây, họ đã lập nên nhiều thành bang như
Ua, Êridu, Lagát, Urúc v.v...
Đến thiên kỷ III TCN, người Accát thuộc tộc Xêmit từ vùng thảo nguyên Xyri đến định
cư ở miền Trung Lưỡng Hà. Tại đây họ đã lập nên quốc gia Accát nổi tiếng một thời.
Cuối thiên kỷ III TCN, người Amôrít, một chi nhánh của người Xêmít cũng từ phía Tây
tràn vào Lưỡng Hà. Chính họ đã thành lập quốc gia Babilon nổi tiếng nhất trong lịch sử
Lưỡng Hà cổ đại.
Ngoài ra còn có nhiều tộc người khác ở vùng lân cận cũng tràn vào Lưỡng Hà. Các tộc
người trước sau tới Lưỡng Hà lại đồng hóa với nhau làm cho thành phần cư dân ở đây
hết sức phức tạp.
Về đầu trang
2. Các quốc gia ở Lưỡng Hà cổ đại
• Những nhà nước của người Xume
Vào khoảng đầu thiên kỷ III TCN, ở miền Nam Lưỡng Hà, nơi cư trú của người Xume,
do sự phát triển của lực lượng sản xuất, do sự phân hóa giàu nghèo, đã xuất hiện nhiều
nhà nước nhỏ lấy một thành thị làm trung tâm gọi là những thành bang. Giữa các thành
bang ấy thường diễn ra những cuộc đấu tranh để tranh giành đất đai và nguồn nước.
Đến giữa thiên kỷ III, trong số các thành bang ở miền Nam Lưỡng Hà, nổi bật nhất là
Lagát, nhưng sau đó không lâu, thành bang Umma ở phía Bắc đã đánh bại Lagát. Tiếp

đó, Umma còn chinh phục được nhiều thành bang khác và thống nhất miền Nam Lưỡng
Hà (cũng gọi là vùng Xume).
• Accat
Thành bang Accat do một chi nhánh người Xêmit thành lập ở phía Bắc vùng Xume.
Đến thời vua Xacgôn (2369-2314 TCN), Accat trở thành một quốc gia hùng mạnh.
Xacgôn đã tấn công và chinh phục được toàn bộ vùng Xume và như vậy lần đầu tiên đã
thống nhất cả vùng Lưỡng Hà. Tiếp đó, Accat còn chiếm được các khu vực xung quanh
thành lập một quốc gia lớn mạnh ở Tây á. Xacgôn tự xưng là: "vua của bốn phương".
Tuy vậy, sự hùng mạnh của Accat cũng không duy trì được lâu. Đến cuối thế kỷ XXIII
TCN, Accat bị người Guti ở Đông Bắc chinh phục và thống trị trong một thời gian khá
dài.
• Vương triều III của Ua (2132-2024 TCN)
Sau khi người Guti bị đánh đuổi, quyền thống trị ở Lưỡng Hà chuyển sang tay vương
triều III của Ua, một thành bang cổ xưa của Xume. Phạm vi thống trị của vương triều
này cũng rất rộng. Ua đã ban bố một bộ luật mà ngày nay đã phát hiện được một số
đoạn. Đó là bộ luật cổ nhất trong lịch sử thế giới. Như vậy, dưới thời vương triều III,
Ua đã trở thành một nước lớn mạnh ở Lưỡng Hà, nhưng đến cuối thế kỷ XXI TCN thì
bị suy yếu và bị liên quân của Elam (một bộ tộc ở phía Đông) và Mari (một thành bang
ở phía Bắc) đánh bại.
• Cổ Babilon
Babilon là một thành phố do người Amôrit thành lập ở trung tâm Lưỡng Hà. Trong thời
kỳ đầu, Babilon còn tương đối yếu, nhưng đến nửa đầu thế kỷ XVIII TCN, dưới thời
vua Hammurabi (1792-1750 TCN), Babilon trở thành quốc gia hùng mạnh nổi tiếng
nhất trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại. Hammurabi đã lần lượt đánh bại các thành bang
xung quanh, thống nhất được hầu hết vùng Lưỡng Hà. Trên cơ sở đó, ông đã xây dựng
bộ máy nhà nước chuyên chế tập quyền trung ương. Đặc biệt, ông đã ban hành một bộ
luật gọi là bộ luật Hammurabi. Đây là một bộ luật cổ được giữ lại tương đối nguyên
ven.
Đến thời Babilon, kinh tế Lưỡng Hà có những tiến bộ rất đáng kể. Công cụ đồng thau
được dùng phổ biến, sắt cũng đã xuất hiện nhưng còn tương đối hiếm. Cư dân Lưỡng

Hà đã biết sử dụng cày có lưỡi đồng thau do bò kéo. Hơn nữa, họ còn biết sử dụng loại
cày có lắp bộ phận gieo hạt.
Như vậy dưới thời Hammurabi, Babilon không những được ổn định về chính trị mà
kinh tế và văn hóa cũng rất phát triển. Nhưng sau khi Hammurabi chết, Babilon bị suy
yếu dần. Trong vòng 1000 năm, tình hình Babilon rất rối ren, đồng thời nhiều lần bị
ngoại tộc tấn công và thống trị. Đến năm 732 TCN, Babilon bị một quốc gia hùng mạnh
ở phía Bắc là Atxiri xâm chiếm, đến năm 729 TCN thì trở thành một bộ phận của
Atxiri.
• Tân Babilon và Ba Tư
Từ giữa thế kỷ VII TCN, Atxiri bắt đầu suy yếu. Nhân tình hình ấy, năm 626 TCN, một
viên tướng người Canđê, một chi nhánh của tộc Xêmit tên là Nabôpôlaxa, người được
cử làm Tổng đốc của Atxiri ở miền Nam Lưỡng Hà đã tuyên bố Babilon độc lập. Để
phân biệt với cổ Babilon, quốc gia này được gọi là Tân Babilon.
Ngay sau đó, Tân Babilon liên minh với nước Mêđi ở phía Đông Bắc cùng tấn công
Atxiri. Năm 605, Atxiri diệt vong. Đất đai của Atxiri bị chia làm hai phần: nửa phía Bắc
thuộc về Mêđi, nửa phía Nam thuộc về Babilon. Để tăng thêm tình hữu nghị giữa hai
nước đồng minh, Nabôpôlaxa đã hỏi công chúa Mêđi cho con trai của mình là
Nabusôđênôxo. Năm 604 TCN, Nabôpôlaxa chết, Nabuxôđônôxo lên nối ngôi. Đây là
thời kỳ cường thịnh nhất của Tân Babilon. Chính Nabusôđônôxo đã ra lệnh xây vườn
hoa trên không nổi tiếng.
Năm 562 TCN, Nabusôđônôxo chết. Từ đó tình hình nội bộ Tân Babilon không được
ổn định. Trong khi đó, ở Iran bắt đầu xuất hiện nước Ba Tư hùng mạnh. Năm 550 TCN,
Ba Tư đánh bại Mêđi, Babilon cũng trở thành mục tiêu chinh phục của Ba Tư. Năm 538
TCN, quân Ba Tư tấn công và chiếm được thành Babilon. Tân Babilon cũng trở thành
một bộ phận của đế quốc Ba Tư.
Năm 328 TCN, đế quốc Ba Tư bị Alêchxăngđrơ Makêđônia tiêu diệt. Cả Tây á bị nhập
vào đế quốc Makêđônia. Sau khi Alêchxăngđrơ chết, đế quốc Makêđônia bị phân chia,
Babilon nằm trong vương quốc của Xêlơcut, một tướng của Alêchxăngđrơ.
Về đầu trang
II - Những thành tựu chủ yếu của văn minh Lưỡng Hà cổ

đại
1. Chữ viết
Chữ viết của Lưỡng Hà đầu tiên do người Xume sáng tạo vào cuối thiên kỷ IV TCN.
Trong thời kỳ đầu, chữ viết của Lưỡng Hà cũng là chữ tượng hình. Ví dụ, muốn viết các
chữ chim, cá, lúa, nước thì vẽ hình con chim, con cá, bông lúa, làn sóng. Dần dần, các
hình vẽ được đơn giản hóa tức là không phải vẽ toàn bộ sự vật mà chỉ vẽ một bộ phận
tiêu biểu mà thôi. Ví dụ chữ trời chỉ vẽ một ngôi sao, chữ bò mộng chỉ vẽ cái đầu bò với
hai sừng dài.
Trên cơ sở tượng hình, để biểu thị các khái niệm, động tác... người ta phải dùng phương
pháp biểu ý. Ví dụ, muốn viết chữ khóc thì vẽ con mắt và nước, đẻ thì vẽ chim và trứng,
bò rừng thì vẽ bò và núi. Lúc đầu hình cái cày vừa có nghĩa là cái cày, lại có nghĩa là
người cày. Để phân biệt, bên cạnh hình cái cày thêm hình gỗ thì có nghĩa là cái cày, bên
cạnh hình cái cày có thêm hình người thì có nghĩa là người cày.
Người ta còn dùng hình vẽ để mượn âm thanh. Ví dụ, muốn viết âm xum thì vẽ bó
hành, vì bó hành có âm là xum. Các hình vẽ chỉ âm tiết còn kết hợp với một số hình
khác để phân biệt các khái niêm. Ví dụ, hình bàn chân kết hợp với âm tiết NA là "đi",
hình bàn chân kết hợp với ân BA là "đứng", chữ hài thanh còn dùng để biểu đạt nhiều
loại từ khác như giới từ, phó từ... Nhờ có chữ hài thanh, số chữ tượng hình càng ngày
càng ít đi. Lúc đầu có khoảng 2000 chữ, nhưng đến thời Lagát (thế kỷ XXIX TCN) chỉ
còn lại khoảng 600 chữ.
Chất liệu dùng để viết là các tấm đất sét còn ướt và những cái que vót nhọn. Viết trên
đất sét chỉ thích hợp với những nét thẳng và ngắn; vì vậy những nét dài được thay bằng
nhiều nét ngắn và nét cong thì thay bằng nét thẳng. Ví dụ, cái đầu bò được viết thành
một hình tam giác đỉnh chúc xuống dưới, phía trên có hai đoạn thẳng biểu thị hai cái
sừng. Đồng thời, do dùng que viết trên đất sét nên chỗ mới ấn vào thì nét to, chỗ rút bút
ra thì nét nhỏ, do đó các nét đều giống hình cái nêm. Do sự bố trí khác nhau của các nét
ấy mà tạo thành các chữ khác nhau. Loại chữ này được gọi là chữ tiết hình tức là chữ
hình nêm.
Tổng số chữ tiết hình không đến 600 chữ, trong đó thường dùng chỉ có 300 chữ, nhưng
mỗi chữ thường có vài nghĩa.

Chữ tiết hình cũng do người Xume phát minh, về sau, người Accat, người Babilon,
người Atxiri và các tộc khác ở Tây á cũng dùng chữ tiết hình để viết ngôn ngữ của
mình. Đến khoảng năm 1500 TCN, chữ tiết hình thành văn tự ngoại giao quốc tế, ngay
Ai Cập khi ký điều ước hoặc các văn kiện ngoại giao cũng dùng loại chữ này.
Về sau người Phênixi và người Ba Tư đã cải tiến chữ tiết hình thành vần chữ cái. Tuy
vậy, ở Lưỡng Hà, các tăng lữ, các quan tòa và các nhà chiêm tinh vẫn dùng chữ tiết
hình đến trước, sau công nguyên mới bị chữ phiên âm hoàn toàn thay thế.
Lúc đầu chữ tiết hình được viết từ trên xuống dưới và từ phải sang trái. Về sau, vì viết
như thế có một điều bất tiện là khi viết đến dòng thứ hai thì tay xóa mất dòng thứ nhất
vừa viết. Vì vậy, người ta đổi thành cách viết từ trái sang phải theo hàng ngang, đồng
thời mỗi chữ cũng quay 90 độ. Sau khi viết xong quay tấm đất sét lại thì vẫn thành viết từ
trên xuống dưới và từ phải sang trái. Nếu sách gồm nhiều trang thì mỗi tấm phải có tên
sách và số trang, đồng thời đầu trang sau phải nhắc lại dòng cuối cùng của trang trước.
Sau khi viết xong, muốn bảo tồn lâu dài thì cho vào lửa nung. Loại "giấy" này có ưu
điểm là không bị mục nát, mối mọt, không bị cháy, nhưng lại có nhược điểm là dễ vỡ và
quá nặng. Một quyển sách 50 trang thì phải nặng đến 50kg. Ngày nay ở Ninivơ, kinh đô
của Atxiri ngày xưa đã phát hiện được trên 20.000 tấm đất sét như vậy, kể cả ở các nơi
khác đã phát hiện được mấy trăm ngàn tấm.
Từ cuối thế kỷ thứ XVIII, một học giả Đan mạch tên là Cacxten Nibua bắt đầu nghiên
cứu cách đọc chữ tiết hình trên một minh văn do một thương nhân Ý đưa từ Ba Tư về
châu Âu nhưng chưa thành công.
Năm 1802, một giáo viên trung học người Đức tên là Grôtêphen. (Grotefend) đã đọc
được hai đoạn minh văn.
Grôtephen đã chọn hai đoạn minh văn có đặc điểm là trong đó có những cụm từ giống
nhau. Ông đoán đó là tên Hoàng đế, tiếp đến là danh hiệu, tiếp đến là tên cha và tên
triều đại. Kết hợp với việc tra tên các vua Ba Tư trong lịch sử, Grôtêphen đã đọc được:
+ Đoạn 1: Xecxet, hoàng đế vĩ đại, hoàng đế trong các hoàng đế, con trai của hoàng đế
Đariút, Akêmênit.
+ Đoạn 2: Đariút, hoàng đế vĩ đại, hoàng đế trong các hoàng đế, con trai của Hixtapơ,
Akêmênit.

Grôtêphen đã đọc được 12 chữ trong bảng vần chữ cái của Ba Tư, về sau được chứng
minh là 9 chữ trong số đó hoàn toàn chính xác. Như vậy, Grôtêphen đã đặt cơ sở cho
việc đọc chữ tiết hình.
Năm 1835, nhà du lịch người Anh Rolinxơn (Rawlinson) phát hiện được một bản minh
văn khác trên vách đá, cao 4m, dài 20m gồm 400 hàng. Ông đã bỏ ra mấy năm để chép
bản minh văn ấy. Việc đọc chữ tiết hình được tiến triển thêm một bước.
Năm 1857, bốn độc giả đã độc lập nghiên cứu nhưng đã cùng đọc được một đoạn minh
văn chữ tiết hình Atxiri. Vì vậy năm này được coi là năm khai sinh môn Atxiri học. Từ
đó cả kho tàng tư liệu của khu vực Lưỡng Hà thuộc các lĩnh vực văn học, lịch sử, pháp
luật, kinh tế, khoa học... được dịch ra ngôn ngữ hiện đại.
Về đầu trang

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×